Họa Quốc Tập 2
|
|
“Cạch” một tiếng, cửa phòng bật mở, một bóng người che khuất ánh đèn, xuất hiện trong tầm mắt. Mái tóc trắng như tuyết, thân hình cao gầy yểu điệu, nàng ta ngước mắt, ánh sao cũng phải kém sắc, nàng ta nhếch môi vạn vật cũng phải nhạt màu. Nàng ta chính là đệ nhất mỹ nhân của bốn nước – Hy Hòa. Trước sự xuất hiện của Hy Hòa, Chiêu Doãn đương nhiên vô cùng chấn động, nhảy khỏi ghế lần nữa: “Hy Hòa, nàng sao có thể…”. “Sao ta có thể đến đây?”. Hy Hòa cười rạng rỡ, bước vào cửa, sau đó đóng cửa lại: “Đương nhiên trong vở kịch lớn đêm nay, là một trong những vai chính ta không thể không đến”. “Nàng không phải… bị điên sao?”. Chiêu Doãn nhìn nàng ta với vẻ khó mà tin nổi, chỉ trong một canh giờ trước, Hy Hòa còn giương đôi mắt mờ mịt với biểu cảm của đứa trẻ con dụi vào lòng y uống thuốc, nhưng phút này, nàng ta lại thong thả, cực kỳ phong nhã bước vào, thần sắc bình thản, nụ cười lay động lòng người, đúng là tuyệt thế. Biểu cảm của Chiêu Doãn trong nháy mắt biến thành phẫn nộ: “Nàng khi quân! Nàng dám giả điên lừa trẫm! Nàng, nàng, nàng và nàng ta liên thủ…”. Khương Trầm Ngư thở dài một tiếng khe khẽ: “Hoàng thượng, hoàng thượng sai rồi”. “Trẫm sai cái gì? Lẽ nào bây giờ Hy Hòa vẫn đang bị điên?”. “Đúng là phu nhân bây giờ không điên. Nhưng trước đó, nàng ta điên thật…”. Khương Trầm Ngư vẫn chưa nói tiếp, Hy Hòa đã đi qua, nhẹ nhàng đặt tay lên vai nàng, mỉm cười nói: “Không cần giải thích, thật thật giả giả, là điên là ngốc, đối với ta bây giờ mà nói căn bản không còn quan trọng nữa. Ta chỉ muốn nghe… chân tướng của Cơ gia”. Một câu nhẹ nhàng lại mang trở lại sự thâm trầm nghiêm trang vốn có của căn phòng. Trong đáy mắt Chiêu Doãn lóe lên một tia dị sắc, sau đó y chầm chậm, thâm hiểm nở một nụ cười: “Không thể có chân tướng. Nàng không nói ra được đâu”. Y chỉ Khương Trầm Ngư trước tiên, rồi sau đó chỉ Hy Hòa: “Còn nàng cũng không nghe thấy gì hết”. Khương Trầm Ngư và Hy Hòa đều im lặng nhìn y. “Còn đợi cái gì nữa? Điền Cửu!”. Chiêu Doãn sầm mặt xuống. Thế nhưng, căn phòng vẫn lặng phắc như tờ, ngoài ánh nến thi thoảng cháy bùng lên, phát ra tiếng xèo xèo ra, không còn gì khác. Chiêu Doãn hoảng hốt: “Điền Cửu? Điền Cửu? Điền…”. “Đừng gọi nữa, không có ai đến đâu. Điền Cửu không đến, La Hoành không đến, thị vệ bên ngoài cũng không vào đâu”. Khương Trầm Ngư lạnh nhạt nói. Chiêu Doãn run giọng: “Nàng, nàng đưa Điền Cửu đi đâu rồi”. “Điền Cửu đi thăm người thân”. “Cái gì? Thăm người thân nào?”. “Lẽ nào hoàng thượng không biết, Điền Cửu còn có một người anh em. Anh em ruột. Hơn nữa người anh em ruột này của hắn vừa khéo cũng thành ám vệ, cuối cùng còn được hoàng thượng cấp cho thần thiếp: Chiêu Doãn sắc mặt âm u nói: “Ý nàng nói Sư Tẩu?”. Khương Trầm Ngư vỗ tay: “Hoàng thượng có trí nhớ thật tốt, vẫn nhớ ra tên của hắn”. “Không phải hắn chết rồi sao?”. Khương Trầm Ngư cười tươi rói: “Hoàng thượng thật là tin thần thiếp, thần thiếp nói thế nào thì tin thế ấy sao?”. “Nhưng rõ ràng ta đã nhận được mật báo Sư Tẩu đã chết…”. Khương Trầm Ngư thu lại nụ cười, nghiêm mặt nói: “Đó là thiếp cố ý sắp đặt”. “Cái gì?”. “Sư Tẩu vì cứu thiếp đã thành tàn tật, người như hắn nếu có về cung thì kết cục chỉ có cái chết, bởi quá vô dụng lại biết quá nhiều bí mật. Vì thế, thiếp cầu xin sư huynh cố ý tạo cho hắn dáng vẻ bị trọng thương không thể cứu chữa, lừa hết thảy mọi người, đưa hắn đến một nơi an toàn để tĩnh dưỡng”. Khương Trầm Ngư nói đến đây, lại cười: “Mà một canh giờ trước, thiếp sai người vờ như vô tình để lộ địa điểm đó cho Điền Cửu biết, cho nên bây giờ hắn có lẽ đã đến thăm người thân duy nhất trên cõi đời này của mình rồi”. “Nói nhăng nói cuội! Người thân cái gì chứ! Ám vệ không có người thân! Họ chỉ có người thân duy nhất chính là trẫm!”. Chiêu Doãn nhảy dựng lên. “Đó là hoàng thượng tưởng vậy thôi”. Khương Trầm Ngư phản bác kịch liệt, sự thất vọng trong mắt lại càng sâu đậm hơn: “Chính vì hoàng thượng chưa bao giờ nghĩ cho người khác, nên nghĩ người khác cũng máu lạnh vô tình như hoàng thượng, đến tình cảm anh em máu chảy ruột mềm cũng chẳng màng, thậm chí trái lại còn sát hại chính ca ca có chung huyết mạch với mình!”. Chiêu Doãn bị đả kích nặng nề, hai chân mềm nhũn, toàn thân tê liệt ngã xuống ghế. Ánh mắt y đờ đẫn nhìn về phía xa, miệng lẩm nhẩm một câu: “Ca ca?”. “Đúng thế. Ca ca. Cơ Anh, chính là ca ca của hoàng thượng”. Tiếng sấm đùng đoàng như thể đặc biệt vang lên để hưởng ứng câu nói này, tiếp theo đó là cơn mưa như trút nước giữa đêm cuối thu lạnh lẽo. Nước mắt Hy Hòa cũng cùng lúc lăn xuống, thân hình yếu mềm lảo đảo rồi loạng choạng ngồi phịch xuống chiếc giường gấm. Có lẽ, người duy nhất có thể trấn tĩnh chỉ có Khương Trầm Ngư, nhưng ngón tay đang cuộn trong tay áo của nàng cũng không chịu nghe lời mà run lên bần bật. Sau cùng, điều nàng đang nói chính là bí mật lớn nhất của Bích quốc, liên quan rộng lớn, can hệ nặng nề, có thể nói là chưa từng có từ xưa tới nay. Một khi bị tiết lộ hậu quả khó mà tưởng tượng nổi. Trong tiếng mưa rào rào, giọng nói của nàng giống như một đóa hoa quẩn quanh dưới đáy nước đã nhiều năm, giãy giụa, xoáy tròn, cuối cùng ngoi lên khỏi mặt nước: “Rất lâu rất lâu về trước, đã lưu truyền một bí mật như thế này về gia tộc Cơ thị – Cơ gia có ‘Liên thành bích’ và ‘Tứ quốc phổ’, hai vật này có thể giúp gia tộc vĩnh viễn chiếm vị trí đứng đầu trên triều đường, đứng ở vị thế bất bại. Nhưng rất lâu rất lâu rồi, không ai có thể nhìn thấy hai vật này. Cha ta từ khi trở thành hữu tướng đã luôn tìm kiếm hai vật này hòng lật đổ Cơ thị, nhưng lãng phí biết bao tài lực nhân lực mà vẫn không thu hoạch được gì. Đến năm Đồ Bích thứ tư, ông cảm thấy vạn sự đã chuẩn bị đầy đủ, không thể nhẫn nại thêm, bắt đầu… xuống tay đối với Cơ Anh”. Trong phòng im lặng như tờ, hai người đang lắng nghe cố nhiên đều im lặng, còn người nói thì tâm thân đều tan nát. Có lúc, Khương Trầm Ngư cảm thấy mình đã không còn ở trên nhân thế từ lâu, hiện giờ người đang điều khiển cái xác của nàng là một người nào khác. Nếu không, làm sao giải thích được nàng có thể kể về câu chuyện đáng sợ như thế một cách bình tĩnh đến vậy? Bình tĩnh đến mức như đã chết rồi. “Một mặt cha thiếp âm thầm mua chuộc trọng thần trong triều, đặc biệt là Hàn lâm bát trí, thực sự tốn tâm cơ để bọn họ ra mặt chỉ trích Cơ Anh, một mặt khác lại cùng Vệ Ngọc Hành giăng bẫy chờ Cơ Anh chui đầu vào rọ. Cuối cùng, ông đã thành công, dùng cái cách rất hạ lưu nhưng rất trực tiếp, rất hiệu quả, giết chết danh thần một đời. Mà điều khiến thiếp kinh ngạc là tại sao hoàng thượng lại dung túng cho ông ta làm chuyện này! Dung túng cho ông ta chặt đứt cánh tay mạnh nhất của mình! Cơ Anh chẳng phải là thần tử được sủng ái nhất, được tín nhiệm nhất của hoàng thượng sao?”. Khương Trầm Ngư nói đến đây, ánh mắt từ trên người Chiêu Doãn chuyển đến người Hy Hòa đang nằm sóng soài trên giường mà không nói nổi lời nào: “Bây giờ thiếp lại biết được một chuyện, đó chính là Hy Hòa phu nhân từng là tình nhân của Cơ Anh. Hy Hòa bị hoàng thượng cố ý cướp đi trên tay Cơ Anh giống như năm đó đã từng cưỡng ép thiếp vào cung vậy”. Hy Hòa gượng cười, nhưng khóe môi chưa nhếch lên đã biến thành một tiếng thở dài không thành tiếng. “Tại sao? Tại sao hoàng thượng một mặt trọng dụng Cơ Anh, một mặt lại đi cướp nữ nhân của chàng? Tại sao Cơ Anh rõ ràng có thể nói là không thể thiếu đối với Bích quốc, nhưng hoàng thượng lại đồng ý cho giết chàng? Trong suốt một thời gian dài, chuỗi câu hỏi này đã khiến thiếp mất ăn mất ngủ, suy nghĩ muôn vàn. May mà… thiếp không phải chờ đợi lâu, rất mau chong, ông trời đã cho thiếp câu trả lời. Chính là tối thái hậu qua đời…”. “Thái hậu? Là thái hậu nói cho nàng biết?”. Trong phút chốc, Chiêu Doãn kích động hẳn lên. “Trước khi thái hậu từ trần, chỉ có một mình thiếp ở cạnh giường, bà đã nhận nhầm thiếp thành một người khác, người có tên là Lang Gia. Mà vị Lang Gia này chính là mẫu thân của Cơ Anh”. Ầm ầm, lại một tia sét nữa đánh xuống, khiến khung cửa sổ sáng bừng lên. Khương Trầm Ngư nhìn Hy Hòa, nhẹ nhàng nói: “Ngày hai mươi chín tháng ba năm Đồ Bích thứ ba, phu nhân còn ấn tượng với ngày này chứ?”. Hy Hòa dường như bị gợi nhớ đến ký ức gì rất đáng sợ, toàn thân run lẩy bẩy, trong phút chốc hơi thở trở nên dồn dập. Trên gương mặt Khương Trầm Ngư nổi lên một sự thương xót khó diễn tả thành lời: “Chắc chắn phu nhân có ấn tượng. Bởi vì ngày hôm đó, phu nhân ở trong rừng hạnh, đợi Cơ Anh suốt một đêm. Mà chàng không đến”. “Tại… tại sao ngươi lại biết?”. Giọng nói của Hy Hòa nghèn nghẹt, mỗi tiếng đều phải lách qua kẽ răng để phát ra. “Sở dĩ chàng không đến, là vì… chàng bị người ta bán đứng, không thể đến được”. Khương Trầm Ngư cắn chặt môi, chậm rãi nói: “Mà tất cả việc này đều bắt đầu từ ngày mùng mười tháng hai, ngày mẫu thân của công tử qua đời…”. Ầm ầm đùng đùng, sấm vang chớp giật, ánh sáng lóe lên chiếu xuyên qua giấy dán cửa sổ, tựa như đến tường vách cũng bị xé nát. Cũng đưa câu chuyện quay về mùng mười tháng hai của năm Đồ Bích thứ ba. Đêm đó, Lang Gia bệnh nặng, tất cả người của Cơ thị đều tụ tập trong nhà để đợi tin tức, nhưng bà không gặp một ai, chỉ gọi mình Cơ Anh vào trong… Cơ Anh vào trong gian tẩm thất, bên trong chỉ thắp một cây đèn duy nhất, khắp phòng nồng mùi thuốc, dù tính tình chàng luôn trầm ổn hướng nội, cũng không nén nổi khóe mắt cay cay. Đang định thắp đèn, Lang Gia trên giường bệnh lên tiếng: “Đừng, đừng thắp đèn… ta sợ sáng”. Cơ Anh liền dừng tay, đi đến bên giường, nắm lấy đôi tay khô gầy của mẫu thân, khẽ gọi một tiếng: “Mẹ”. “Anh Nhi… con đến rồi”. “Vâng, mẹ, con đã từ Hoa Hà trở về”. Mười ngày trước, chàng bị Chiêu Doãn phái đi sửa đê phòng lũ, vừa đến Hoa Hà liền nhận được tin xấu, lại vội vã trở về, vì thế người đầy bụi bặm, mặt cũng chưa rửa, áo quần cũng chưa kịp thay, cực kỳ tiều tụy. Nhưng Lang Gia nhìn chàng giống như nhìn thứ mình yêu quý nhất trên đời, giơ hai tay ra ôm lấy mặt chàng, gọi một cách tràn đầy tình cảm: “Anh Nhi… của mẹ, Anh Nhi ngoan…”. “Mẹ, con ở đây, con vẫn luôn ở đây”. “Con đồng ý với mẹ một chuyện”. “Mười việc, trăm việc, con đều đồng ý”. Nhận được sự đảm bảo của con trai, Lang Gia mỉm cười, trong nụ cười ấy chất chứa rất nhiều nỗi tiếc nuối và xót xa khó diễn tả thành lời: “Con có biết tại sao ta muốn con dốc hết sức lực phò tá Chiêu Doãn không?”. Cơ Anh ngây người, đáp: “Là vì… y lấy tỉ tỉ”. Lang Gia lắc đầu. Cơ Anh lại nói: “Là vì y là hoàng đế tốt”. Lang Gia khẽ thở dài: “Là vì… nó là đệ đệ của con”. Ầm ầm, mưa rơi như trút nước, mặc ý rửa sạch vạn vật trên thế gian. Rèm mi Cơ Anh nhướng lên rồi lại cụp xuống, rồi lại nhướng lên, trong con ngươi bấy giờ mới biểu lộ một chút bóng dáng của sự chấn động ngạc nhiên. Lang Gia nhìn những biến hóa biểu cảm rất nhỏ đó, hài lòng gật đầu: “Rất tốt, quả nhiên con đã học được cách xử sự dù núi Thái Sơn có sụp trước mặt cũng không biến sắc… Mẹ rất hài lòng”. Cơ Anh im lặng một lúc lâu rồi mới nói: “Con… có thể hỏi… tại sao không?”. “Đương nhiên có thể, vì ta nhất định sẽ nói cho con. Bởi vì… Đồ Bích… vốn là thiên hạ của Cơ gia chúng ta!”. Ầm ầm. Ánh nến yếu ớt chiếu sáng Lang Gia đang trong cơn nguy kịch, năm tháng đã ăn mòn hết sạch, ăn mòn triệt để nhan sắc và sức khỏe của bà, nhưng lại bù đắp cho bà một đôi mắt trí tuệ.
|
Lang Gia, con gái của Chung thượng thư, thời thiếu nữ đẹp nhất kinh đô được gả làm vợ của Lộc Đỉnh hầu Cơ tịch, phu thê tình thâm, bên nhau trọn đời. Nếu dùng tộc phả để ghi chép về người này, có thể chỉ có một câu như vậy, nhưng đối với toàn thể Cơ gia mà nói, bà mới là công thần thực sự. Khi bà được gả cho Cơ Tịch, Cơ Tịch chẳng qua chỉ là một hầu gia hữu danh vô thực, không có gì xuất chúng, nội bộ gia tộc Cơ thị hỗn loạn, đấu đá lẫn nhau. Địa vị đệ nhất sĩ tộc vốn có cũng dần dần bị tranh giành, bị ba tộc Khương, Tiết, Vương thay thế. Sau khi bước chân vào Cơ gia, bà đã dùng mười năm với chính sách cứng rắn để trị gia mới khiến Cơ gia phân tán tập trung trở lại, cuối cùng đã đạt được thế cân bằng tứ đại sĩ gia. Vì thế, mọi người trong tộc đều phục tùng mình bà, một lòng bội phục vị chủ mẫu của gia tộc này. Đến nay, tính mạng bà nguy kịch, tất cả mọi người đều đến thăm hỏi, đợi lời trăn trối lúc lâm chung của bà, mà không màng tới chủ nhân thực sự là Cơ Tịch. Từ nhỏ, Cơ Anh đã được mẹ dạy dỗ, tuy được bà dạy là phải độc lập tự chủ, phàm chuyện gì cũng phải tự mình quyết định, nhưng đối với mẫu thân, vẫn là bảo gì nghe nấy. Cũng vì thế, cho dù mẫu thân nói gì đi nữa, chàng cũng không ngạc nhiên. Cho nên, khi Lang Gia nói ra một câu nói đủ để khiến triều dã xáo động, cực kỳ đại nghịch bất đạo đó, Cơ Anh cũng chỉ ánh mắt hơi lóe lên, đầu mày khẽ chau, nhìn bà chăm chú. “Lúc còn nhỏ chắc chắn con đã từng nghe đến chuyện Liên thành bích và Tứ quốc phổ”. “Vâng’. “Thế thì, con cảm thấy Cơ gia chúng ta thật sự có hai vật này không?”. Cơ Anh lắc đầu. “Trên thực tế, chúng ta có”. Mắt Cơ Anh trong tích tắc mở rất to. “Thái Tổ hoàng đế Quý Vũ khi dựng nước đã cùng ông tổ của chúng ta kết nghĩa huynh đệ, vì thế cho phép Cơ gia đời đời hưởng tước hầu, nhưng sự thực còn hơn cả như thế – Thái Tổ vô sinh, không có con nối dõi, một người xuất thân từ lều cỏ cuối cùng làm nên nghiệp bá như ông cũng không còn người thân thích nào khác. Cho nên, sau khi bàn bạc với ông tổ của con đã bồng một đứa trẻ vừa mới chào đời ở Cơ gia đi, đứa trẻ đó trở thành Tuệ đế sau này. Tuy chuyện này giữ bí mật với bên ngoài, nhưng khi Thái Tổ lâm chung đã kể lại chân tướng cho Tuệ đế, từ đó về sau, Tuệ đế trọng dụng thần tử họ Cơ khiến cho Cơ gia một thời vẻ vang không ai sánh kịp”. Trong tiếng sấm, bà Lang Gia chậm rãi kể, giọng nói tuy yếu ớt, nhưng ngữ điệu vẫn trầm ổn, cực kỳ có sức thuyết phục. “Trước lúc băng hà, Tuệ đế cũng truyền lại bí mật này cho Hiếu đế. Hiếu đế lại truyền lại cho Đàn đế. Đàn đế truyền lại cho tiên đế. Vì thế, hoàng tộc vẫn luôn biết rõ bí mật này. Cái gọi là Liên thành bích kỳ thực để chỉ huyết mạch hoàng gia, chỉ cần Bích quốc vẫn còn thì không có chuyện Cơ thị chúng ta diệt vong. Nhưng, tiên đế… lại phản bội lại lời hứa”. Nói tới đây, bà Lang Gia cười lạnh lùng, nụ cười cực kỳ tàn khốc. “Bởi vì, ngài quá thích cô con gái của Vương gia đó, thích đến độ quên mất mình vốn họ Cơ!”. Sau khi Hành Xu đăng cơ, định niên hiệu là Gia Bình. Năm Gia Bình thứ sáu, con gái út của Vương thị là Trăn Cơ vào cung, vốn chỉ là một tiểu mỹ nhân. Nhưng Hành Xu lại một lòng say đắm nàng ta, ân sủng hết mực, từng bước từng bước từ một mỹ nhân được phong lên làm quý nhân, rồi lại phong làm hoàng hậu vào năm Gia Bình thứ chín, Vương thị sinh hạ được một hoàng tử, chính là thái tử Chiêu Thuyên sau này. “Khi Vương thị đắc sủng, cả Vương gia đều phất lên đặc biệt là Vương phụ, nắm trong tay đến bảy phần quyền lực của Bích quốc, bắt đầu tiến hành chèn ép Cơ gia. Cha con nhu nhược, không có chủ ý, khi suy sụp nhất ngoài cái phong hiệu hầu gia ra, không có bất cứ thực quyền nào. Mắt ta nhìn thấy Cơ thị sa sút, cảm thấy không thể tiếp tục như thế nữa. Vì thế, chọn một người từ Cơ gia để đưa lên ngôi vị người thừa kế, trở thành một việc vô cùng cấp thiết. Khi đó ta vừa hay mang thai con, cho nên dự định ban đầu của ta là đưa con vào cung, nhưng chẳng ngờ con vừa chào đời đã mang bệnh tim, suýt nữa thì chết yểu. Đại phu nói nếu không thể điều dưỡng cẩn thận, thì không sống được đến ba tuổi. Ta nhất thời mềm lòng, không nỡ đưa con đi, huống hồ dưới sự chuyên quyền của Vương thị, nếu trong cung có hoàng tử khác ra đời, chắc chắn hoàng tử đó sẽ phải chịu khổ. Như thế, ta lại đợi thêm một năm nữa. Năm Gia Bình thứ mười một, ta có Chiêu Doãn”. Cơ Anh không kìm được hỏi: “Cho nên mẹ tiến hành ép buộc tiên đế, để ngài không thể không nhận đứa con này?”. “Không phải. Sao mẹ dám uy hiếp tiên đế? Mẹ chỉ mua chuộc một thái giám ở bên cạnh ngài, sắp xếp để tiên đế có một cuộc gặp gỡ mỹ nhân nghe hát bên hồ mà thôi. Nhưng khi đó tất cả tâm tư của Hành Xu đều dồn vào Trăn phi, tuy đã lâm hạnh cung nữ đó, nhưng quay đầu là quên. Có điều cũng không sao, mười năm sau, mẹ nhắc ngài nhớ ra. Vì thế, ta đã hứa với Vân phi không được sủng ái khi đó, cũng tức là thái hậu hiện nay, chỉ cần bà nhận nuôi Doãn Nhi, bà sẽ là hoàng hậu kế nhiệm. Ta sắp xếp tất cả ổn thỏa, rồi đợi Doãn Nhi ra đời, nhưng thương thay nó vừa mới ra đời, mẹ còn chưa kịp ôm nó được lâu, đã phải vội vã đưa nó vào hoàng cung, chịu hơn mười năm khổ ải…”. Lang Gia nói đến đây, nước mắt lã chã: “Ta có lỗi với nó… nhưng ta cũng không còn cách nào khác. Nhà ta khi ấy, chẳng có lấy một người có thể rạng rỡ tổ tông, văn không thành võ không tựu, khoa cử thi trượt cũng đành, ra ngoài đánh trận, bình định phản loạn cũng đều là Vương gia đi… Cho nên, con bài duy nhất trong tay ta chỉ có chút huyết mạch đó của Tuệ đế, ta chỉ có thể dùng cách này”. Lòng Cơ Anh buồn bã, nhưng trên mặt vẫn bình tĩnh như cũ, giơ tay vuốt mái tóc của mẫu thân, động tác cực kỳ dịu dàng. Bà Lang Gia nắm chặt tay chàng, mỉm cười vui vẻ: “May mà, sau này con dần lớn lên. Mẹ đã dùng hết tâm huyết để bồi dưỡng dạy dỗ con, còn con cũng hoàn toàn không phụ sự kỳ vọng của mẹ, còn xuất sắc hơn cả sự tưởng tượng của mẹ, người làm mẹ như mẹ, thật sự, thật sự… cảm thấy tự hào vì con. Nhưng, con càng xuất sắc càng nhận được nhiều lời khen thì mẹ lại càng thấy áy náy với Doãn Nhi. Vì sợ Vương gia phát giác, cho nên trong suốt mười năm đó, mẹ không giúp đỡ nó dù chỉ một lần, mà mười năm sau khi thời cơ chín muồi, mẹ chỉ thị cho thái giám đưa nó đến trước mặt Hành Xu, nghe nói đến chữ nó cũng không biết, trái tim của mẹ giống như bị vô số lưỡi dao cứa nát, đau đến mức không thể đau hơn… Cho nên, Anh Nhi, mẹ muốn con đồng ý với mẹ một việc duy nhất chính là: Đời này của con, cho dù xảy ra chuyện gì, cho dù thế sự có biến đổi ra sao, con đều phải bảo vệ đệ đệ của con. Phải toàn tâm toàn ý giúp đỡ nó, phò tá nó, bù đắp hết thảy những gì mẹ và Cơ gia nợ nó!”. Bà Lang Gia chăm chăm nhìn đứa con trai được bên ngoài gọi là Bạch Trạch chuyển thế, văn tài võ công kiến thức mưu trí cái gì cũng siêu phàm thoát tục, hiếu thuận khiêm cung chưa bao giờ trái lời bà, dù cho đáp án đã nằm trong dự liệu, nhưng vẫn vô cùng nghiêm túc hỏi: “Con… có thể đồng ý không?”. Đúng thế. Là cái đêm mưa bão của bao nhiêu năm về trước. Chàng ân cần chăm sóc bên giường của mẫu thân, nhìn bà hơi thở yếu ớt, sinh mệnh dần tàn, đau lòng khôn tả, mà trước lúc lâm chung, những lời bà nói với chàng giống như một mũi dao nhọn cắt lìa gân cốt, giống như máu thịt lần nữa nhào nặn, trong nháy mắt, trời đất sụp đổ, vạn kiếp bất phục. Chiêu Doãn… lại là… đệ đệ của chàng… đệ đệ ruột… Mà cái gọi là Liên thành bích lại không phải tiền tài vàng bạc châu báu, mà là huyết mạch hoàng gia… Nếu không phải chàng là người trong cuộc buộc phải biết chân tướng, nếu không dù cho có suy nghĩ hoang đường ly kì đến thế nào, e rằng cũng không ngờ tới, trên đời lại có chuyện như thế này… Đối mặt với mẫu thân đang hấp hối, đối mặt với bí mật liên quan đến toàn gia tộc thậm chí toàn quốc gia, Cơ Anh… Chàng chỉ có thể lựa chọn khuất phục. “Hài nhi… nhớ kỹ lời mẫu thân dạy, trọn cuộc đời con, phải toàn tâm toàn ý phù tá hoàng thượng, cúc cung tận tụy, đến chết mới thôi”. “Tốt”. Bà Lang Gia sau khi nhận được lời câu trả lời khẳng định, hơi tàn đó cũng từ từ tan đi. Cơ Anh bỗng nhớ ra một chuyện, nắm chặt tay bà gấp gáp hỏi: “Đợi đã, mẹ ơi! Hoàng thượng là đệ đệ của con, làm sao đệ đệ của con có thể lấy tỉ tỉ làm vợ”. “Tỉ tỉ của con… đã…”. Con ngươi của bà Lang Gia bắt đầu mờ đục, câu tiếp theo, đã không thể nghe ra nổi “… rồi”. “Cái gì? Mẹ? Mẹ nói cái gì? Tỉ tỉ làm sao? Rốt cuộc tỉ tỉ làm sao? Mẹ! Mẹ tỉnh lại đi! Mẹ tỉnh lại đi! Mẹ! Mẹ!…”. Cơ Anh trước sau luôn ghi nhớ lời dạy không thể hiện tình cảm ra mặt cuối cùng cũng đã sụp đổ, khẩn thiết ôm chặt mẫu thân, muốn biết thêm vài điều từ bà, nhưng tất cả đã quá muộn rồi, bàn tay bà Lang Gia đã buông thõng, hơi thở đã ngừng lại. Ngày mùng mười tháng hai, mưa to, chủ mẫu Cơ thị Lang Gia qua đời. “Cơ Hốt làm sao?”. Hy Hòa nghe đến đây cũng không kìm nổi thất kinh, từ trên giường nhảy dựng lên. “Cơ Hốt làm sao à…”. Khương Trầm Ngư kể lại đến đây, quay đầu lại nhìn Chiêu Doãn một cái: “Thiếp nghĩ, hoàng thượng mới là người biết rõ nhất. Đúng không? Hoàng thượng”. Chiêu Doãn khi nghe Khương Trầm Ngư thuật lại lời trăn trối của bà Lang Gia trước lúc lâm chung thì không nói một lời, dường như toàn thân đang tê liệt, bấy giờ nghe thấy Khương Trầm Ngư hỏi cũng chỉ lạnh lùng cười: “Không phải cái gì nàng cũng biết sao? Hà tất phải để ta nói”. “Được. Thế thì để thiếp nói. Nếu như thiếp nói sai, xin hoàng thượng cải chính”. Chiêu Doãn hừ lạnh một tiếng. Khương Trầm Ngư quay sang Hy Hòa: “Phu nhân, phu nhân đã từng gặp Cơ Hốt chưa?”. Hy Hòa lắc đầu: “Khi ta quen biết Tiểu Hồng… Cơ Anh, Cơ Hốt đã xuất giá rồi”. “Thế còn sau khi phu nhân vào cung thì sao?”. Hy Hòa mỉm cười châm biếm trả lời: “Sau khi vào cung, đến bản thân ta còn chẳng buồn nhìn, huống hồ là gặp gỡ người khác”. Câu nói này tuy rất mỉa mai, nhưng đúng là sự thực. Từ sau khi vào cung, Hy Hòa cả ngày ca hát tìm vui, sống mơ mơ màng màng, e là đến bản thân mình cũng đã lãng quên. “Giống như phu nhân, ta cũng chưa từng gặp Cơ Hốt”. Khương Trầm Ngư lại chuyển ánh mắt sang phía Chiêu Doãn: “Vị phi tần nổi danh thiên hạ này trước sau luôn sống trong lời đồn thổi của người khác, ta đã điều tra, kết quả là không có một ai trong cung này thực sự đã gặp nàng ta. Hoàng thượng, hoàng thượng nói xem có lạ hay không? Một hoàng phi, nhưng chưa có ai từng gặp. Một hoàng phi lại có thể không cần thỉnh an thái hậu, không tham kiến hoàng hậu. Cho dù Cơ gia bọn họ quyền thế lớn đến đâu đi chăng nữa, hành vi như thế chẳng phải cũng quá là kỳ lạ sao?”. Chiêu Doãn mặt không biểu cảm nhìn xuống đất, căn bản không có bất kỳ phản ứng nào. Khương Trầm Ngư lại cười nhạt: “Thế nên thiếp đã phái người bắt đầu điều tra kể từ khi nàng ta vào cung. Cơ Hốt là trưởng nữ của Cơ gia, tướng mạo bình thường, nhưng trời sinh thông tuệ là một tài nữ giỏi văn chương. Bài ‘Quốc sắc thiên hương phú’ đó, thiếp cũng đọc rồi, đúng là một tuyệt tác khiến người ta kinh ngạc mà hồn xiêu phách tán, cũng khó trách hoàng thượng vừa đọc là đã si mê, lập tức đến Cơ phủ cầu thân. Nhưng bây giờ nhìn lại, trái lại nó giống như một màn kịch hơn, để một hoàng tử thân không chỗ dựa, xuất thân hèn kém, có thể có được quyền thế một cách nhanh nhất, còn gì nhanh hơn là lấy con gái của một đại thần? Từ sau khi gả cho hoàng thượng, Cơ Hốt chưa từng lộ diện trước mặt người ngoài. Thậm chí… ngày hai mươi lăm tháng chín, đến lễ tang của Kỳ Úc hầu, nàng ta là tỉ tỉ ruột, là người thân thiết nhất trên đời của Kỳ Úc hầu, nhưng cũng không có mặt”. “Đúng thế, tại sao vậy?”. Hy Hòa không nén được truy vấn. “Tại sao ư… thiếp cũng không biết tại sao. Không có cách nào khác, người đã không đến thì thiếp chỉ có thể đi tìm người. Nhưng thiếp không dám đến Đoan Tắc cung, thứ nhất không có thuyền, thứ hai quá lộ liễu, trong cung tai mắt như rừng, ngộ nhỡ bị hoàng thượng biết được thì chẳng phải công sức trước đây của thiếp đều đổ xuống sông xuống biển sao? Cho nên, thiếp đành phải nhờ Tiết Thái thay thiếp đến Cơ gia một chuyến, tới khuê phòng của Cơ Hốt đã từng ở, mang về một số thi cảo của nàng ta cho thiếp. Đọc xong số đó, thiếp kinh ngạc phát hiện, bài ‘Trường Ương ca’ được nói là Cơ Hốt cuồng thảo viết ra sau khi uống say vào ngày mùng hai tháng tám, lạc khoản lại là vào năm Gia Bình thứ hai mươi sáu”.
|
“Ý của ngươi là bài văn đó nàng ta viết từ năm năm trước?”. “Đúng thế”. “Sao, sao có thể… như thế?”. Hy Hòa sửng sốt. “Tài danh của Cơ Hốt trở nên khó ai bì kịp là do nó đi kèm với truyền kỳ hoàn mỹ không gì sánh kịp. Nhưng trên thực tế, nếu nói đến thiên hạ đệ nhất thì thực sự còn có nhiều người tài hơn nàng ta. Nàng ta giỏi ở chỗ có thể khiến một đế vương khuynh đảo vì mình. Sở trường mạnh nhất của người đời là a dua, hoàng thượng đã nói hay, thì bọn họ có thể không nói hay sao? Cho nên, phàm những bản thảo thơ văn của nàng ta lưu truyền ra ngoài, đều được tranh nhau sao chép. Nhưng nghiên cứu kỹ thì số bản thảo thơ văn lưu truyền ra ngoài của nàng ta không quá nhiều, tổng cộng cũng không đến mười bài. Trước khi xuất giá, ngoại trừ ‘Quốc sắc thiên hương phú’ thì không có bài nào khác. Nhưng những thi cảo mà Tiết Thái mang về đã chứng minh một sự thực. Những bài văn lưu truyền ra ngoài sau khi nàng ta kết hôn đó, đều được viết trước lúc xuất giá. Cũng tức là sau khi xuất giá, nàng ta không còn viết gì nữa. Kết hợp với những hiện tượng kỳ lạ kể trên, thiếp rút ra một kết luận”. Khương Trầm Ngư hít một hơi thật sâu, chậm rãi nói ra đáp án: “Cơ Hốt đã chết rồi”. Hy Hòa kinh ngạc kêu lên: “Cái gì?”. “Cơ Hốt là tỉ tỉ ruột của hoàng thượng, nàng ta không thể thực sự được gả cho hoàng thượng, hơn nữa, nếu Vệ Ngọc Hành không nói dối hắn và Cơ Hốt vốn là một đôi. Cơ gia vì muốn giành lại sự huy hoàng trong quá khứ, để tác thành cho vị đế vương mới lên ngôi, cho nên đã hy sinh con gái của mình”. Ầm ầm. Mưa gió bên ngoài cửa sổ cứ thỏa sức trút xuống, như thể không có ngày mai, những hạt mưa to như hạt đậu gõ lên giấy dán cửa mỏng manh, khiến người ta cảm thấy khoảnh khắc tiếp theo nó sẽ xé rách giấy mà chui vào. Đêm lạnh thấu xương như thế, còn ba người trong phòng im lặng hồi lâu. Đột nhiên, một tràng cười khẽ vang lên, sau đó biến thành cười lạnh, cười giễu cợt, cuối cùng thành cười lớn. Khương Trầm Ngư và Hy Hòa cùng ngước mắt nhìn sang, thì thấy Chiêu Doãn ngồi bên cạnh bàn cười đến mức ngũ quan méo mó, cực kỳ đáng sợ. Hy Hòa không kìm được hỏi: “Hoàng thượng cười cái gì?”. “Ta cười các nàng một kẻ thì ngu xuẩn vô tri, một kẻ thì tự coi mình là đúng, cho nên diễn ra màn kịch ép vua thoái vị vụng về hoang đường, thật là nực cười, nực cười”. Hy Hòa mặt hơi biến sắc, có chút hoản loạn: “Hoàng thượng nói gì?”. Chiêu Doãn căn bản không buồn nhìn nàng ta, mà trừng mắt nhìn chòng chọc vào Khương Trầm Ngư, cười nham hiểm, nói: “Cơ Hốt đã chết à? Không ngờ nàng có thể nghĩ ra tình tiết hoang đường quái gở như thế, thật là nực cười. Thực sự coi tất cả người trong cung đều là người chết? Thực sự coi người trong thiên hạ đều chết cả phải không?”. Khương Trầm Ngư không hề rối trí, thần sắc vẫn trấn tĩnh như cũ, ánh mắt sáng ngời, lạnh nhạt mở miệng: “Thế thì hoàng thượng cho thiếp biết, Cơ Hốt đang ở đâu?”. “Tại sao ta phải cho nàng biết? Nếu nàng có bản lĩnh thì tự đi điều tra đi! Nàng không phải rất lợi hại sao? Đến bí mật Liên thành bích cũng moi ra được, thế thì Tứ quốc…”. Chiêu Doãn đột ngột ngậm miệng lại. Nhưng Khương Trầm Ngư không bỏ qua câu lỡ miệng trong thoáng chốc này của y, lập tức hỏi: “Tứ quốc phổ? Lẽ nào Cơ Hốt có liên quan đến Tứ quốc phổ?”. Chiêu Doãn im lặng. Khương Trầm Ngư chăm chú nhìn ánh nến đang nhảy nhót, im lặng thất thần một lúc, sau đó mới than nhẹ một tiếng, nói: “Thiếp rõ rồi”. Hy Hòa nhìn Chiêu Doãn rồi lại nhìn nàng: “Rõ cái gì?”. “Ta có một điều nghi ngờ vẫn chưa được giải đáp, bây giờ, cuối cùng đã rõ rồi”. Khương Trầm Ngư vừa nói vừa liếc nhìn Chiêu Doãn, nhếch môi mỉm cười: “Đa tạ hoàng thượng đã nhắc nhở”. Mặt Chiêu Doãn trở nên cực kỳ khó coi. Hy Hòa hỏi tiếp: “Rốt cuộc ngươi hiểu ra cái gì?”. Khương Trầm Ngư đứng thẳng dậy, lấy ánh nến tươi sáng làm phông nền, lấy mưa gió bên ngoài cửa sổ làm nhạc đệm, giương cao tay áo và làn váy như vàng ngọc sóng sánh, cười rạng rỡ: “Ta hiểu ra được một sự thực: Nếu Liên thành bích có thể là một người, vậy thì Tứ quốc phổ tại sao nhất định phải là sách?”. Câu nói cuối cùng, vang vọng trong tẩm cung trống trải của hoàng hậu, rồi một ánh chớp xẹt qua, chiếu sáng khuôn mặt Chiêu Doãn đã hoàn toàn trắng bệch. “Khi cha ta mua chuộc Hàn lâm bát trí lại không biết bí mật Cơ Anh và hoàng thượng là anh em ruột. Vì ông chỉ có thể vu cho Cơ thị tham ô gây họa cho nước và thu thập một đống chứng cứ quốc khố tiền tài không biết đi đâu mất, ông tưởng dựa vào những chứng cứ hùng hồn đó để lung lạc hoàng thượng. Nhưng sự thực có phải như thế không?”. Đáy mắt Khương Trầm Ngư sáng lấp lánh, giọng nói bỗng chốc cũng trở nên đau buồn. “Khi Tiết Thái được phái đi cứu nạn Giang Đô, vì tiền hắn có thể nói là nghĩ đến nát óc, mục tiêu ban đầu của hắn không chỉ là lừa Quan Đông Sơn mà là lấy tiền từ Cơ gia về. Thế nhưng, sự thực là Cơ gia không có tiền. Không chỉ như thế, họ cũng không có quyền. Chẳng phải là rất bất ngờ sao? Rõ ràng hai tộc Vương, Tiết đã tiêu vong, Khương gia thu mình chờ thời cơ, một mình Cơ thị phô bày sự xuất chúng, bọn họ sao lại không tiền không quyền? Sao có thể như vậy? Sau một phen điều tra triệt để mới biết, hóa ra tất cả đều là công tử cố ý làm. Chàng không giống với bà Lang Gia, Lang Gia vì muốn phục hưng Cơ gia nên đã không từ một thủ đoạn nào, thậm chí dung túng cho người trong gia tộc lạm quyền bẻ cong vương pháp, cuối cùng tuy khiến cho Cơ gia lần nữa huy hoàng, nhưng nội bộ thì muôn vàn thối nát, dơ bẩn hết đỗi. Còn công tử kể từ sau khi tiếp quản Cơ gia, bắt đầu từng bước chỉnh đốn môn hộ, bởi vì chàng làm rất tốt, rất hiệu quả, nên bề ngoài nhìn như sóng êm biển lặng, không có ai cảm nhận được, nhưng đến khi mọi người phát hiện ra thì đã lần lượt bị tước bỏ quan chức, đánh mất quyền lực. Đây chính là Cơ Anh”. Chiêu Doãn phát ra một tiếng cười “hừ”. Khương Trầm Ngư vẫn luôn nhìn chăm chú vào mắt y, nhẹ nhàng nói: “Hoàng thượng, hoàng thượng nói mình cực kỳ cảm động trước việc thiếp cắt đứt với gia tộc, đó là vì hoàng thượng đã tìm thấy bóng dáng của mình trên người thiếp. Vào cái ngày mà hoàng thượng dung túng cho cha thiếp loại trừ Cơ Anh, đồng nghĩa với việc hoàng thượng cũng triệt để cắt đứt với Cơ gia”. “Tại sao ta không thể cắt đứt với bọn họ?”. Trong ánh mắt Chiêu Doãn hiện lên sự căm hận tột độ, khóe mắt giật giật, nói: “Chỉ dựa vào dòng máu Cơ gia chảy trong cơ thể ta sao? Thật nực cười! Lang Gia thật là một chủ mẫu vĩ đại, vì gia tộc lại hy sinh con trai mình! Mười năm! Ta sống suốt mười năm khổ cực trong căn nhà nhỏ hoang tàn bên cạnh hồ Phượng Thê! Cơm không đủ no áo không đủ mặc, chịu đủ mọi tủi nhục! Là ai đã biến ta thành như thế, là ai đã an bài vận mệnh của ta trước cả khi ta ra đời? Được, họ đã đẩy ta lên ngôi báu cửu ngũ chí tôn, thì cũng chính họ phải chịu hậu quả này. Họ cho rằng ta sẽ biết ơn, sẽ báo đáp họ? Nằm mơ! Trước kia ta chưa đủ lông cánh, cho nên phải dựa vào Cơ Anh, nhưng bây giờ khác rồi, thiên hạ đều là của ta! Quyền thế cũng đều là của ta! Những khổ sở mà ta phải chịu, ta đều trả lại từng chút từng chút một! Chỉ một gia tộc cỏn con có là gì? Ca ca vốn dĩ phải đi con đường của ta nhưng vì may mắn mà tránh được có là gì? Tất cả có là gì? Có là gì?”. Là nhiều năm về trước, một ngọn đèn cô lẻ chiếu sáng trong mật thất, chiếu sáng người đó gương mặt cuồng dại xông đến trước mặt chàng gào lên, nợ ta, nợ ta, đời này kiếp này ngươi đều nợ ta! Khương Trầm Ngư nhìn Chiêu Doãn gào thét, cũng không khuyên can, mà chỉ lạnh nhạt đứng nhìn. Chiêu Doãn… năm đó không phải cũng nói với Cơ Anh những lời giống thế này sao? Khi y quyết ý cướp Hy Hòa, khi Cơ Anh biết tin đã xông vào hoàng cung tìm y đối chất, cũng chính những lời này của y cuối cùng đã khiến Cơ Anh lòng như tro tàn? Người và người, quả nhiên là… không giống nhau. Có công tử như thế này. Cũng có đế vương như thế này. Khương Trầm Ngư không nhịn được mỉm cười chua chát, thấp giọng nói: “Đúng thế. Là vì quá đau khổ, là vì quá trầm trọng, cũng là vì quan điểm khác nhau, đạo chẳng cùng đường… Chúng ta đều vì những nguyên nhân như thế này như thế kia mà vứt bỏ gia tộc, chỉ có công tử, rõ ràng rất coi thường hành vi tư lợi làm rối loạn kỷ cương, rất ghét thói xấu tham tiền háo sắc, nhưng vì những người đó đều là người thân, cho nên, chàng lặng lẽ gánh chịu, kiên trì, không từ bỏ, mà dùng phương thức nhu hòa nhất của bản thân đề thay đổi gia tộc… Đây chính là điểm khác biệt giữa hoàng thượng, thiếp và công tử”. Khóe mắt Chiêu Doãn co giật, giống như bị câu nói cuối cùng đâm trúng. “Cơ gia không tham ô, thế thì tiền trong quốc khố đi đâu?”. Khương Trầm Ngư chuyển chủ đề: “Ngày hai mươi mốt tháng chín, ở hồ Phượng Thê thiếp bỗng nhìn thấy một chiếc thuyền chèo từ trong Đoan Tắc cung ra, trên thuyền có hai người, một là Suy Ông Ngôn Duệ danh tiếng lẫy lừng”. “Cái gì? Ông Lão cũng tới hoàng cung”. Hy Hòa ngạc nhiên. “Khi ấy ta cảm thấy rất kỳ quái, tại sao Ngôn Duệ lại không kèn không trống vào cung? Tại sao sau khi vào cung Ngôn Duệ không tìm người quen cũ là phu nhân mà lại đến Đoan Tắc cung? Tại sao Ngôn Duệ sớm không về muộn không về lại trở về đúng ngày làm lễ cho công tử… Ta nghĩ kiểu gì cũng không ra. Bây giờ ngẫm lại, khi đó ta quá chú ý đến Ngôn Duệ, nhưng lại bỏ qua một việc khác gần ngay trong gang tấc, đó là người thứ hai”. “Người thứ hai?”. “Đúng thế. Khi đó trên chiếc thuyền nhỏ còn có người thứ hai. Nhưng vì khi ấy người đó đang chèo thuyền, thân hình lại nhỏ thó dung mạo bình thường, cho nên ta cứ tưởng là cung nữ của Đoan Tắc cung, nên không để tâm, bây giờ mới biết, ta đã cực kỳ sai lầm, người đó chính là Cơ Hốt”. Khương Trầm Ngư quay sang Chiêu Doãn nói: “Thiếp nói có đúng không? Hoàng thượng”. Chiêu Doãn cười lạnh lùng, không thừa nhận cũng chẳng phủ nhận. Khương Trầm Ngư lại nói tiếp: “Đúng như những gì ta nói, nếu Liên thành bích có thể là một người, tại sao Tứ quốc phổ nhất định phải là sách? Số tiền trong quốc khố đó đi đâu? Số ám vệ giống như Điền Cửu bên cạnh hoàng thượng không ít, là ai đã thay hoàng thượng huấn luyện tử sĩ? Là ai giăng mạng lưới tình báo khắp nơi, để chuyện phát sinh vào ngày mười chín tháng chín ở Giang Đô, hai ngày sau đã được truyền đến đế đô? Xâu chuỗi tất cả những điều này với nhau, một câu trả lời đã trở nên vô cùng rõ ràng…”. Hy Hòa giọng run run nói tiếp: “Là Cơ Hốt… Cơ Hốt là Tứ quốc phổ?”. “Nói chính xác là Ngôn Duệ. Cơ Hốt có lẽ là đệ tử của ông ta, cũng có thể là tình nhân của ông ta… Điều này bây giờ vẫn chưa thể khẳng định”. Chiêu Doãn cười lạnh nói: “Sao? Trên đời này còn có chuyện mà hoàng hậu chưa thể khẳng định ư? Hoàng hậu không phải điều gì cũng biết sao?”. Khương Trầm Ngư không bị y khích bác, vẫn rất bình tĩnh trả lời: “Chỉ cần cho thiếp thêm một chút thời gian, thiếp nhất định có thể tra ra”. Lại một lần nữa Chiêu Doãn ngậm miệng.
|
Bộ thứ sáu: Nữ đế
Lòng người, khi yếu mềm thì yếu mềm đến thế,
Khi cứng rắn lại cứng rắn đến vậy.
Ta đã không còn là ta ban đầu,
Ta là ai?
Ai là ta?
Ai đến nói cho một vị đế vương – Ta là cái gì?
Hồi thứ mười chín: Tân vương
Tháng ba, hoa xuân rực rỡ. Muôn vàn cỏ cây đua nhau khoe sắc trong vườn hoa, đặc biệt là hoa lê, đóa đóa trắng thơm như tuyết, tô điểm cho cảnh trí tĩnh mịch thoát tục, phô bày ý xuân ngời ngời căng tràn sức sống. Tiếng đàn từ trong một nhã xá đẹp đẽ phía xa như nước chảy mây trôi vang vọng tới. Nam tử đi sau Hoài Cẩn dừng bước, chăm chú lắng nghe giây lát, tấm tắc khen ngợi: “Hay cho một khúc ‘Khúc kính thông u’[1], thật là hợp thời hợp cảnh”. [1] Nghĩa là con đường ngoằn ngoèo yên tĩnh. Hoài Cẩn nhoẻn cười: “Bệ hạ thích là được rồi. Mời đi theo nô tì”. Nói rồi dẫn vị khách đến trước nhã xá. Tiếng đàn đó dường như cũng biết có khách nên ngừng lại. Hoài Cẩn đẩy cửa phòng, cúi mình nói: “Nô tì chỉ đưa đến đây, mời bệ hạ tự mình vào trong”. Nam tử nhấc chân bước qua bậu cửa, cửa phòng lập tức khẽ khàng được khép lại từ bên ngoài. Bên trong là một sảnh nhỏ vuông vắn, một tấm bình phong bằng đá ngăn gian ngoài và gian trong. Sảnh ngoài đặt một chiếc bàn bằng gỗ đàn hương, bên trên có bày một cây đàn, nhưng người đánh đàn đã không còn ngồi đó. Trên bệ cửa sổ, hai bồn hoa nhài đang nở rộ, khiến toàn bộ căn phòng tràn ngập hương hoa thanh mát. Ngoài ra không còn vật gì khác. Bày biện không thể đơn giản hơn, nhưng đâu đâu cũng toát lên cá tính tao nhã tự nhiên của chủ nhân. Cho dù là người thô tục hơn nữa, khi bước vào đây e rằng cũng đều trở nên giữ kẽ, huống hồ người đến lúc này vốn là một nhã khách. Vì thế, chàng không nói gì mà bước đến bên cây đàn, ngồi xuống, cũng tấu một khúc. Tiếng đàn dìu dặt mênh mang, lãng đãng như gió mát, giai điệu nhẹ nhàng, cùng với ánh dương bên ngoài cửa sổ, thật là thích ý. Bản nhạc đã dứt, người ở phòng trong vẫn chưa lên tiếng đáp lại, khách đến đã tự vỗ tay nói: “Không ngờ ba năm nay ta không đàn, mà vẫn không quên bài ‘Dương xuân bạch tuyết’ này đàn như thế nào, không tồi, không tồi”. Từ gian trong truyền ra một tiếng cười nhẹ, tiếp đó, một giọng nói thanh thoát dịu dàng vang lên: “Đây cũng là lần đầu tiên ta nghe thấy một bản nhạc đàn sai hơn mười âm trở lên, nhưng cũng không đến nỗi quá khó nghe”. Người khách cười hì hì: “Là đàn tốt. Chẳng trách nàng coi thường cây Lôi Ngã cầm của Chương Hoa. Có cây đàn Lục Y thiên hạ độc nhất vô nhị này, đúng là không cần cây danh cầm nào khác”. Ngừng lại một lát, chàng gọi tên đối phương: “Tiểu Ngu, đã lâu không gặp”. Người sau bức bình phong im lặng một lát rồi mới trả lời: “Cách xưng hô này của bệ hạ, thật là khiến người ta hoài niệm… Cách biệt từ độ ở Trình quốc, dễ chừng đã hơn nửa năm không gặp, Nghi vương vẫn khỏe chứ?”. Nam tử bên đàn ngước mắt lên, ánh mắt như nước, như lửa, như ánh sáng quét qua lưu ly, như mưa rơi trên mái hiên, như hết thảy những thứ linh động trên đời, có một sức mê hoặc câu hồn đoạt phách, người đó không phải ai khác, chính là quân vương của Nghi quốc – Hách Dịch. Mà nữ tử được gọi là Tiểu Ngu đó không cần nói cũng biết chính là Khương Trầm Ngư. Hách Dịch nhìn chăm chú vào bức bình phong chạm khắc cành hoa phù dung, ánh nhìn lại như xuyên thủng mặt đá để nhìn thấy người bên trong, biểu cảm có chút mơ màng, lại có chút vui mừng, nhẹ nhàng nói: “Nói một cách chính xác là tám tháng lẻ ba ngày, tổng cộng là hai trăm bốn mươi sáu ngày”. Khương Trầm Ngư phía trong ngẩn người ra, bỗng chốc không nói gì nữa. Lần này nàng đặc biệt hẹn Hách Dịch tới với mục đích là trả nợ. Tuy trước khi rời Trình quốc, ba cây pháo hoa Hách Dịch tặng đều bị nàng dùng hết, nhưng khi gặp khó khăn, người đầu tiên nàng nhớ đến có thể xin giúp đỡ vẫn là chàng. Từ phút biết tin Cơ Anh chết, nàng đã quyết tâm nhất định phải điều tra ra chân tướng: Tại sao phụ thân phải giết Cơ Anh, tại sao Chiêu Doãn lại ngầm cho phép hành vi này? Vì thế, sau khi về cung, một mặt nàng đối phó với Chiêu Doãn, tiếp tục đóng vai Thục phi ngoan ngoãn nghe lời, một mặt lại ngầm điều tra chân tướng… Hết thảy những việc này đều cần đến tiền. Khi nàng đoạn tuyệt với Khương Trọng, căn bản không thể sử dụng nhân lực và tiền bạc của Khương gia. Vì thế, trong lúc nguy cấp nàng liền nhớ tới Hách Dịch. Nàng và Hách Dịch liên lạc với nhau thông qua Tiết Thái, thỏa thuận với chàng: Chàng cấp cho nàng tất cả phí tổn của những việc này, sau khi xong việc, nàng sẽ phải trả gấp đôi. Đến nay, đại quyền trong tay, thiên hạ mới an định là lúc nàng nên trả nợ. Thế nhưng, rõ ràng là làm việc công, nhưng vì một câu nói này của Hách Dịch mà ý nghĩa đã hoàn toàn thay đổi. Khương Trầm Ngư ngồi sau bình phong, trong lòng không phải không rõ: Sở dĩ Hách Dịch hào phóng cho nàng mượn tiền, không phải vì món lợi nhuận gấp đôi đó, mà bản thân mình năm đó rõ ràng đã từ chối tâm ý của chàng, nhưng sau cùng vẫn bất đắc dĩ phải mở miệng nhờ chàng giúp. Có những chuyện, một khi đã mắc míu, thì không thể hoàn toàn cắt đứt được. Nàng hiểu rõ điểm này hơn ai hết, nhưng vẫn phạm vào cấm kỵ. Nợ tiền có thể trả, nhưng nợ tình… biết trả thế nào cho hết đây? Chính trong lúc nàng ngổn ngang trăm mối suy tư, Hách Dịch phá tan bầu không khí bối rối gượng gạo bằng một tiếng cười sang sảng, sau đó đẩy cây cổ cầm ra, vuốt tóc mai, nói: “Nhiều ngày nay, ta đếm từng ngày, nhớ nhung từng ngày, lòng nghĩ không biết đến bao giờ nàng có thể trả tiền, rốt cuộc có thể trả nổi hay không? Đếm đến mức ta bạc mấy sợi tóc rồi…”. Khương Trầm Ngư biết chàng đang nói dối, nhưng vẫn không nhịn được bị chọc cười: “Bệ hạ thật không hổ là thương nhân”. “Cho nên những gì ta đầu tư vào luôn luôn chỉ có thể là thương vụ hái ra tiền”. Hách Dịch nói đến đây, mắt lộ vẻ tán thưởng, khẽ than: “Còn nàng, có thể nói là khoản đầu tư thành công nhất trong bao năm qua của ta”. “Là tiền của bệ hạ tốt”. Câu này không phải là nói chơi. Nếu không phải nhờ khoản tiền khổng lồ do Hách Dịch cung cấp đó, cái khác không nói, chỉ riêng đại thái giám La Hoành và Thất tử của Bách Ngôn đường nàng đã không thể mua chuộc được. Sau khi nàng đầu độc Chiêu Doãn có thể thuận lợi bình định tất cả như thế, La Hoành và bọn Thất tử có công rất lớn. Hách Dịch hiển nhiên cũng biết những việc này, vì thế, trong ánh mắt nhìn về bình phong chất chứa vài phần cảm khái: “La Hoành ở bên cạnh Bích vương chín năm, có thể nói là thuộc hạ được tín nhiệm nhất của Chiêu Doãn, mà đến ông ta nàng cũng có thể lôi kéo về phe mình, đó tuyệt đối không phải chuyện có nhiều tiền là có thể làm được”. Khương Trầm Ngư cười nhạt: “La Hoành là một hoạn quan, đã được thăng cao đến cực đỉnh, không thể thăng chức thêm nữa, mà lão là nhân vật quan trọng bên cạnh hoàng thượng, thường ngày căn bản cũng không thiếu hối lộ. Cho nên, số tiền bình thường đương nhiên không có tác dụng. Nhưng phàm là người ai cũng có nhược điểm, thuở còn trẻ gia cảnh lão nghèo túng, bất đắc dĩ mới phải vào cung tịnh thân làm nô tài, không có con cái nối dõi là nỗi nuối tiếc lớn nhất của đời lão”. “Mà nàng tìm được mối tình đầu lão từng ngưỡng mộ thời thiếu niên, chồng của người tình đó đã chết, để lại mẹ góa con côi không chỗ dựa. Nàng cho La Hoành một mái nhà. Chiêu Doãn tuyệt đối không thể tưởng tượng nổi thần tử mà hắn coi trọng như vậy lại phản bội lại hắn vì một nữ tử và một đứa con không chung huyết thống”. Khương Trầm Ngư thong thả nói: “Có lúc lòng người rất dễ được thỏa mãn. Núi vàng núi bạc cũng không bằng một người có thể ở bên cạnh để nói chuyện. Không phải sao?”. Hách Dịch dường như bị câu nói này khơi dậy biết bao cảm xúc, ánh mắt sáng lấp lánh, thần sắc phức tạp. Để che giấu cảm xúc ấy, chàng đưa tay lên miệng hắng giọng vài tiếng, chuyển chủ đề khác: “Thế Thất tử thì sao? Từ sau khi Chiêu Doãn nổi giận bí mật xử tử Hàn lâm bát trí, để chọn ra những ‘quân sư’ mới cũng có thể coi là đã phí nhiều công sức. Bảy người này hắn đều điều tra kỹ lưỡng, cực kỳ yên tâm mới thu nạp vào Bách Ngôn đường, sao nàng có thể mua chuộc họ được?”. “Ta không mua chuộc toàn bộ. Ta chỉ mua chuộc ba người trong bọn họ, bốn người còn lại chủ động tìm đến ta”. Hách Dịch bật cười ha ha: “Đúng thế. Muốn mua chuộc một người có lẽ còn khó, nhưng muốn mua chuộc một tập thể, lại chỉ cần dùng một chiêu chia rẽ nội bộ là xong”. “Vì con người rất sợ cô độc. Một khi đã quen với việc hợp tác có tổ chức có phân công, thì sẽ nảy sinh tâm lý ỷ lại. Khi họ phát hiện mình bị cô lập, lập tức sẽ cảm thấy sợ hãi. Dưới sự khống chế của cảm giác sợ hãi đó, để duy trì sự cân bằng vốn có, họ sẽ mù quáng làm theo. Thất tử đều là nhân tài hàng đầu, ta tin rằng để huấn luyện họ Chiêu Doãn đã tốn rất nhiều tâm huyết. Nhưng kết quả của việc huấn luyện nghiêm khắc chính là dẫn đến việc họ quen nghe theo mệnh lệnh và sự sắp đặt của chủ nhân, một khi không có chủ nhân chỉ đạo liền bị mất phương hướng”. “Cho nên, một khi Chiêu Doãn bị lật đổ, họ sẽ tan đàn xẻ nghé. Đánh vào từng người một sau đó thu phục hắn”. Hách Dịch nghe đến đây, không nhịn được vỗ tay khen: “Nàng quả nhiên là trưởng thành rồi. Tiểu Ngu mà ta gặp ở Trình quốc năm đó, tuy rằng thông tuệ, nhưng không có chiều sâu và tâm cơ như thế này”. “Ngài có tin rằng người ta có thể bạc đầu chỉ trong một đêm, cũng có thể trưởng thành chỉ trong một đêm không?”. Ánh mắt Hách Dịch lay động: “Hy Hòa bạc đầu trong một đêm… giờ sao rồi?”. “Nàng ta đã không còn tri giác, tuy vẫn còn sống, nhưng không thể cử động, không thể suy nghĩ, giống như ngủ vĩnh viễn”. Hách Dịch thở dài: “Mỹ nhân nghiêng nước nghiêng thành lại có kết cục này, thật là… Có điều nàng ta cũng rất giỏi, có thể giả vờ điên che mắt nàng và Chiêu Doãn, còn lừa hai người thành công”. “Khi một người quyết tâm làm một việc gì đó sẽ luôn có kỳ tích. Nhưng ta cảm thấy, sở dĩ Chiêu Doãn không phát giác ra, ngoài Hy Hòa giả điên rất giống ra, còn có một điểm là vì Chiêu Doãn thực sự… thích nàng ta. Quan tâm tất loạn. Một người đối với người mình thích sẽ luôn phòng bị ít đi một chút”. “Ta muốn hỏi nàng một câu, nàng phải trả lời thành thực”. Giọng Hách Dịch trở nên nghiêm túc. “Xin bệ hạ cứ hỏi”. “Nói thế nào thì Chiêu Doãn cũng là chồng của nàng. Nàng đối với hắn ta như thế, nàng không hối hận sao?”. Khương Trầm Ngư nhìn xuống đất trầm tư rất lâu, lâu đến mức Hách Dịch cũng bắt đầu hối hận vì đã hỏi câu này, bèn không nhịn được nói: “Thôi, nàng có thể không trả lời…”. Nàng bỗng nói: “Thực ra Chiêu Doãn đối với ta rất tốt”. Vì nhớ đến chuyện cũ, nên trong giọng nói của Khương Trầm Ngư chứa đựng rất nhiều tình cảm phức tạp, những tình cảm đó đan xen giao thoa lẫn nhau, không phân ra nổi nàng thấy cảm kích nhiều hơn hay là áy náy nhiều hơn. “Tuy hắn cưới ta vào cung là trái với ý nguyện của ta, nhưng ngoài điểm đó ra, hắn đối với ta cũng không thể coi là tệ. Trong lòng ta có người khác, không muốn làm hoàng phi, hắn cũng đồng ý, cho ta làm mưu sĩ của hắn, còn sai ta đi sứ Trình quốc để ta được mở mang nhận thức. Sau khi về cung, còn cho ta tiếp tục ở bên cạnh hắn để học tập, cuối cùng, thậm chí còn phong ta làm hoàng hậu… Có lẽ hắn đối với Cơ Anh, đối với Hy Hòa, đối với rất nhiều người đều mắc nợ, nhưng đối với ta… Cho nên, những ngày qua, ngày nào ta cũng mơ thấy ác mộng, trong mơ, hắn biến thành một đứa trẻ bé xíu, áo quần rách rưới, gầy nhẳng xanh xao, hắn khóc lóc hỏi ta – Tại sao? Tại sao hắn đối với ta tốt như thế, ta lại lấy oán báo ơn? Ta làm như thế, có khác gì hắn đối với Cơ Anh? Ta… ta…”. Khương Trầm Ngư nói đến đây, tay nắm chặt vạt áo, toàn thân bắt đầu run rẩy. “Tiểu Ngu?”. Hách Dịch đứng dậy theo bản năng, định bước vào trong, nhưng đi đến cạnh bình phong lại dừng bước, chần chừ một lúc rồi nhẹ nhàng đặt tay lên bình phong, dịu dàng nói: “Nàng có muốn nghe xem, ta nhìn nhận như thế nào về chuyện này không?”. Khương Trầm Ngư ngẩng đầu: “Hả?”. “Ta cảm thấy sở dĩ Chiêu Doãn đối với nàng không tệ là có hai nguyên nhân. Thứ nhất, nàng và hắn tạm thời không có xung đột về mặt lợi ích; thứ hai, tính cách nàng mềm mỏng, hiểu tâm ý người khác, hắn không lý do gì để không đối tốt với nàng. Nếu như hai điểm này không đủ để nàng thấy giải tỏa, vẫn còn điểm thứ ba – Đó chính là…”. Giọng Hách Dịch bỗng chốc trở nên nghiêm túc: “Hắn đối với nàng, căn bản không thể coi là tử tế”. “Hả?”. Khương Trầm Ngư kinh ngạc. “Trầm Ngư, nàng tâm địa lương thiện, phàm việc gì cũng luôn nghĩ cho người khác trước, cũng luôn nghĩ đến mặt tốt của người khác. Tại sao nàng không thử nghĩ, vì cớ gì Chiêu Doãn lại đồng ý cho nàng làm mưu sĩ của hắn? Lẽ nào không phải vì vừa hay nàng hội tụ đầy đủ tài năng cực kỳ xuất sắc về phương diện này, mà tài năng đó hắn có thể sử dụng? Chuyến đi Trình quốc không phải nhẹ nhàng, ba hoàng tử tranh đoạt ngai vị, còn có thêm một công chúa lạnh lùng vô tình, nàng suýt chút nữa mất mạng, không phải sao? Nếu nàng chết lúc đó, nàng còn thấy cảm kích hắn sao? Tại sao hắn phong cho nàng làm hoàng hậu… Thứ nhất, hắn đã đá được Cơ gia, nếu không muốn trừ bỏ nốt Khương gia, thì chỉ có cách thu phục trước đã, dù thế nào thế lực của cha nàng cũng không thể xem thường. Thứ hai, nàng đoạn tuyệt với Khương Trọng, cho thấy nàng sẽ không bị Khương Trọng lợi dụng, hắn có thể yên tâm phong nàng làm hậu, vì chí ít nàng sẽ không liên thủ với Khương Trọng để đối phó hắn; thứ ba, Cơ Hốt đã thành đồ bỏ đi, Hy Hòa phu nhân bị điên, tỉ tỉ của nàng lại không được hắn ưa thích, ngoài nàng ra, trong cung đâu còn ai khác để phong hậu nữa. Mà một quốc gia, trong một thời gian dài không có hoàng hậu, là chuyện không hợp với lễ pháp. Vậy thì, ngoài phong nàng làm hậu, hắn còn có lựa chọn nào tốt hơn đâu?”. Không thể không nói Hách Dịch không hổ là thương nhân thành công nhất trong lịch sử, tài ăn nói cực kỳ lợi hại, khi đàm phán cũng như khi an ủi người khác đều như thế. Khương Trầm Ngư vốn đang chìm đắm trong nỗi day dứt và tự trách bản thân, trong phút chốc đã thanh thản hơn rất nhiều, lập tức cảm kích nói: “Bệ hạ thật biết ăn nói…”.
|
“Điều ta nói là sự thực. Đó chẳng qua là một mặt mà nàng không nhìn thấy mà thôi”. Hách Dịch chăm chú nhìn tấm bình phong, từ tốn nói: “Có điều, đến nay ta có thể xác thực một chuyện, tên tiểu tử Chiêu Doãn đó rốt cuộc đã làm được một chuyện tốt…”. Khương Trầm Ngư hiếu kỳ: “Chuyện gì?”. Hách Dịch bỗng nhếch môi cười, vẻ mặt bắt đầu trở nên thiếu nghiêm túc, khôi phục lại dáng vẻ như lần đầu nàng gặp: “Đó chính là… Chiêu Doãn, hắn… chưa động vào nàng. Đúng không?”. Khương Trầm Ngư tuyệt đối không thể ngờ chàng lại nói đến chuyện này, mặt liền đỏ bừng lên, theo bản năng muốn giận dữ quát chàng vô lễ, Hách Dịch đã vòng qua bình phong, bước vào bên trong… “Tiểu Ngu…”. “Ngài!”. Bốn mắt nhìn nhau, hai người đều ngơ ngẩn. Với Khương Trầm Ngư, cố nhiên là kinh ngạc vì chàng không đếm xỉa đến lễ pháp mà xông vào. Còn với Hách Dịch lại là vì nói đúng ra, đây là lần đầu tiên chàng nhìn thấy diện mạo thực sự của Khương Trầm Ngư. Không có vết bớt màu đỏ trên mặt, cũng không ăn vận điểm trang giản dị như dược nữ. Khương Trầm Ngư lúc này mặc áo tím phối với một chiếc váy dài màu xanh nhạt có nhiều nếp gấp, kết những hạt ngọc màu xanh biếc, cổ áo và gấu váy đều thêu hoa lê màu trắng nhỏ li ti, thật là băng tư ngọc cốt, sực nức hương thơm. Nàng vốn có dung mạo tuyệt mỹ, tư thái cao quý tao nhã, giờ hai gò má ửng hồng lại càng mê đắm lòng người. Nhất thời, Hách Dịch nhìn ngơ ngẩn cả người. Khương Trầm Ngư thấy chàng phản ứng như vậy, lại càng xấu hổ, không kìm được gắt khẽ: “Nhìn cái gì?”. “Nhìn nàng”. “Ta, ta có gì đáng nhìn!”. Hách Dịch khẽ thở dài, giọng mơ màng như nói mê: “Trong mộng gặp nàng trăm nghìn lần, nhưng bây giờ mới biết, hóa ra nàng trông như thế này”. “Ngài…”. Khương Trầm Ngư vừa xấu hổ vì chàng to gan thẳng thắn, lại vừa cảm động vì chàng vẫn luôn nặng tình, nhất thời, không biết phải trả lời ra sao, cuối cùng đành quay mặt nhìn sang chỗ khác: “Xin bệ hạ tự trọng”. Hách Dịch chấn động, sắc mơ màng nơi đáy mắt cũng mau chóng tan đi, khi nhìn nàng, ánh mắt đã thêm mấy phần bi ai: “Nàng cho rằng… ta thật sự sẽ làm gì nàng sao?”. Trái tim Khương Trầm Ngư run rẩy: “Bệ hạ?”. “Trên thế gian này, người ta không thể nào đối phó được nhất chính là nàng”. Hách Dịch nói đoạn cất tiếng cười khổ: “Nàng gặp nạn, ta chỉ có thể cứu; nàng muốn dầm mưa, ta chỉ có thể đi cùng; nàng nói nàng là sư muội của Giang Vãn Y, ta chỉ có thể tin theo; nàng nói nàng là phi tử của Bích quốc, ta chỉ có thể trơ mắt nhìn… Tiểu Ngu, một kẻ luôn bó tay trước nàng như ta, có thể làm gì nàng cơ chứ?”. Nói rồi chàng quay người bước ra gian ngoài. Trái tim Khương Trầm Ngư thắt lại, tựa như có một phần nào đó của bản thân cũng đi theo chàng ra ngoài, sau đó rơi độp xuống đất, vỡ thành mảnh vụn. “Bệ hạ, Trầm Ngư lỡ lời, xin bệ hạ lượng thứ!”. Hách Dịch dường như không nghe thấy lời xin lỗi của nàng, bỗng nói: “Ta phải đi rồi”. “Bệ hạ, ta… ta vẫn chưa trả tiền cho ngài…”. “Ta không cần tiền”. Trong lúc nói, Hách Dịch đã đi đến định đưa tay mở cửa. Khương Trầm Ngư không kiềm chế được nữa, vội vàng lao ra đè lên bàn tay đang mở cửa của chàng: “Bệ hạ…”. Nàng không thể nói hết câu vì Hách Dịch trở tay, ấn nàng lên cửa, sau đó, thân hình ấm áp ập tới ôm lấy nàng. Nàng ngẩng đầu là nhìn thấy ánh mắt sáng rỡ có thần, như lửa rực cháy chốn đồng hoang của chàng. Cúi đầu là nhiệt độ cuồn cuộn không dứt từ cơ thể chàng truyền sang và hơi thở đầy nam tính của chàng. Ánh mắt Khương Trầm Ngư đầy hoảng loạn, vừa căng thẳng vừa khó xử, nhưng nàng không thể cựa quậy, chỉ có thể trơ mắt nhìn Hách Dịch gần ngay gang tấc. Hách Dịch một tay nắm vai nàng, tay còn lại chầm chậm sờ lên gò má nàng, động tác run run nhưng dịu dàng, giọng nói đê mê mà buồn bã: “Khương, Trầm, Ngư… hóa ra, nàng ở đây…”. “Bệ hạ?”. “Bao nhiêu năm qua, trẫm đã gặp vô số nữ tử. Không phải là không có người xinh đẹp hơn nàng, thông minh hơn nàng, lương thiện hơn nàng, kiên cường hơn nàng… nhưng tại sao? Tại sao chỉ có nàng lại khiến trẫm khó quên như thế? Tựa như ông trời biết trẫm muốn gì, sau đó ghép từng chi tiết mà trẫm thích lại với nhau, tạo ra một mình nàng. Thế giới rộng lớn, biển người mênh mông, trẫm tìm kiếm lâu như thế, hóa ra… nàng ở nơi đây”. Khương Trầm Ngư chỉ cảm thấy bờ môi khô khốc, không nói ra lời. Mà gương mặt Hách Dịch trong khoảng cách gần như thế, càng nhìn càng mê hoặc, đồng tử sâu thẳm, tựa như muốn hút trọn linh hồn người ta vào trong đó, e rằng trên đời này không có bất cứ một nữ tử nào, khi đối mặt với một nam tử như thế này, mà không bị đắm chìm? Huống hồ lời chàng nói, từng câu từng chữ từng âm điệu, đều mang một sức mạnh to lớn chấn động tâm can: “Thế nhưng… tại sao nàng lại có thể là Khương Trầm Ngư? Con gái út của Khương thị hữu tướng Bích quốc, từng là hôn thê của Kỳ Úc hầu, phi tử của quân vương Bích quốc… mỗi một thân phận đều kéo nàng ra xa ta hơn, giống như đóa tuyết liên trên núi cao, có thể ngắm từ xa mà không thể lại gần, có thể chạm tới nhưng không thể có được… khiến trẫm… khó chịu, khó chịu biết bao”. Ánh sáng xuyên qua từng ô nhỏ trên cửa lọt vào trong, kéo dài bóng hai người trên mặt đất, quấn quít lấy nhau, tựa như một mối ràng buộc mà số phận đã sắp đặt từ lâu, được viết ngoằn ngoèo trên trang giấy duyên phận. “Khi nàng dùng hết toàn bộ ba cây pháo hoa trẫm tặng cho nàng, trẫm tuy không nỡ nhưng đồng thời cũng thấy nhẹ nhõm, trong lòng nghĩ như thế cũng tốt, cắt đứt triệt để như thế cũng đỡ phải ngày ngày nhớ nhung mòn mỏi. Thế nhưng tại sao? Nàng nói cho trẫm biết, tại sao nữ tử tên Tiểu Ngu ấy lại giống như khảm sâu trong tâm trí của trẫm, trong từng khoảnh khắc mỗi sớm thức dậy mỗi tối đi ngủ, mỗi cái ngước mắt, khom lưng, bốn mùa trôi qua, tóc trắng đã mọc đó, hình ảnh người ấy ùa về, khiến trẫm không thể kháng cự, cũng không thể trốn tránh?”. Ngón tay của Hách Dịch vì quá kích động mà nắm chặt hơn một chút, cơn đau từ trên bả vai truyền tới, dần dần lan ra khắp cơ thể, Khương Trầm Ngư không thể cử động, không thể không thể nói. “Trẫm không biết tại sao phải hết lần này đến lần khác tới Bích quốc, tự lừa mình dối người nói là đến Bích quốc để làm ăn; trẫm cũng không biết tại sao lại ghét Bích vương chưa từng gặp mặt đến như thế, trong lúc đố kỵ nhất, trẫm đã hận không thể lập tức xuất binh, đánh chiếm Bích quốc… Mà sau này, trẫm lại biết người trong lòng nàng, hóa ra không phải là Chiêu Doãn mà là Cơ Anh. Cho nên, khi tin Cơ Anh đã chết truyền tới, trong lòng trẫm ngoài sự thương tiếc còn có một chút mừng trộm. Rồi sau đó, khoảnh khắc nhận được lá thư xin viện trợ của nàng, khi trẫm vui mừng xé phong thư, bàn tay trẫm run lên… Khương, Trầm, Ngư, trên đời này không phải người nào trẫm cũng chịu giúp đỡ; không phải thương vụ nào trẫm cũng chịu làm; không phải cuộc giao dịch nào trẫm cũng lo lắng; cũng không phải món nợ nào, trẫm cũng đích thân đi đòi!”. Ngón tay chàng hơi thả lỏng, buông nàng ra, sau đó, thân hình đang áp lên người nàng cũng tách ra. Không khí trong trẻo đột ngột xộc vào mũi, sức mạnh đè nén nàng đã biến mất, nhưng Khương Trầm Ngư vẫn áp sát trên cửa như cũ, không thể nhúc nhích. Nàng chỉ có thể mở to mắt, thẫn thờ nhìn chàng, không thể cử động, không thể nghĩ, không thể nói. Hách Dịch hít một hơi thật sâu, giọng nói đã bình tĩnh trở lại: “Nàng nghe cho rõ đây, trẫm không cần tiền. Lần sau, nếu nàng muốn trẫm đến đòi nợ, nhớ cho kỹ phải chuẩn bị thứ mà trẫm muốn”. Nói đoạn nhẹ nhàng kéo nàng sang một bên rồi mở cửa bước ra ngoài. Hai chân Khương Trầm Ngư mềm nhũn, men theo cánh cửa trượt xuống mặt đất. Cảm giác run rẩy lúc ấy mới bắt đầu dâng lên từ hai chân, rồi nhanh chóng tràn ra khắp cơ thể, nàng bó gối run lên bần bật. Hoài Cẩn vẫn luôn đứng canh bên ngoài nhìn theo chiếc bóng dần khuất của Hách Dịch, rồi quay đầu nhìn Khương Trầm Ngư trong nhà, rất ý nhị không hỏi gì cả, chỉ lấy một chiếc áo khoác nhẹ nhàng đắp lên người nàng, dịu dàng bảo: “Nương nương, chúng ta nên về cung thôi”. Khương Trầm Ngư gật đầu một cách gượng gạo. Hoài Cẩn dìu nàng đứng dậy rời khỏi nhã xá. Xe ngựa chờ sẵn ngoài khu nhà, vì chuyến này bí mật ra khỏi cung nên họ đi bằng xe ngựa của Tiết Thái. Hai người lên xe, phu xe là Chu Long thúc ngựa, xe đi như bay về hoàng cung. Về đến cung, Khương Trầm Ngư vừa mới bước xuống xe đã nhìn thấy trong tay Tiết Thái ôm một đống hồ sơ lớn, giống như đang đi ngang qua, lại giống như chờ đợi đã lâu, hắn trừng đôi mắt to đen láy của mình lên, trợn mắt nhìn nàng bằng một ánh mắt kỳ lạ. Khương Trầm Ngư cố gắng nén những suy nghĩ rối bời quẩn quanh nơi đáy tim mãi không chịu tan kia xuống, giơ tay lên sờ mái tóc của mình nói: “Sao vậy?”. Tiết Thái trừng mắt với nàng một cái rồi quay người, mở miệng nói: “Thất tử đang đợi trong phòng”. Dừng một lát, lại thêm một câu: “Nương nương về muộn quá!”. Khi Khương Trầm Ngư bước vào trong Bách Ngôn đường, bất ngờ phát hiện ngoài Thất tử và Tiết Thái ra còn một người nữa. Người đó thít một chiếc khăn vuông, mặc một chiếc áo bào màu xám đơn giản, im lặng ngồi trong một góc, vì thế, thoạt nhìn Khương Trầm Ngư không nhận ra là ai, nhìn lại lần nữa mới sửng sốt kêu lên: “Di Phi?”. Văn sĩ trước mặt giản dị không thể giản dị hơn, nho nhã không thể nho nhã hơn này lại là tam hoàng tử Trình quốc suốt ngày mặc trang phục hoa hòe hoa sói, lời nói cử chỉ phóng túng cợt nhả đó. Khương Trầm Ngư gần như không dám tin vào mắt mình. Mà nàng càng không dám tin là gã lại xuất hiện trong hoàng cung của Bích quốc, trong thư phòng của chính mình! “Ai, ai đưa hắn đến đây?”. Kỳ thực lời vừa phát ra khỏi miệng, nàng đã biết đáp án. Ngoài Tiết Thái ra, ai dám chưa được sự đồng ý của nàng mà đã đưa gã vào cung? Còn Tiết Thái quả nhiên không phụ sự kỳ vọng của nàng, chớp mắt một cái, lạnh lùng đáp: “Ta”. “Ngươi…”. Khương Trầm Ngư căn bản không biết làm thế nào khác, đành quay người nhìn sang Di Phi: “Ngươi dám ngang nhiên xuất hiện ở đây?”. Di Phi cười hi hi, đứng dậy hành lễ, lại khôi phục điệu bộ giảo trá mà nàng quen thuộc, lắc đầu ngoẹo cổ nói: “Tiểu vương phải cải chính với nương nương ba điểm. Thứ nhất, cái gọi là ngang nhiên, hồi bẩm nương nương, tiểu vương lén lút vào cung, có thể nói ngoài những người ở đây, không đến mười người biết hôm nay tiểu vương có mặt tại hoàng cung Bích quốc, cho nên nương nương có thể yên tâm”. Khương Trầm Ngư lạnh lừng hừ một tiếng. “Thứ hai, tiểu vương không có chuyện gì là dám hay không dám làm. Bích vương đã dám xuống tay với Kỳ Úc hầu sau đó lại gán tội danh đó cho tiểu vương, để chứng tỏ sự thanh bạch của mình, đương nhiên tiểu vương chỉ có thể tới đây đòi lại công bằng”. Tiếng hừ lạnh lùng của Khương Trầm Ngư chuyển thành tiếng thở dài. Ngày đó ở Hồi thành, một mặt Vệ Ngọc Hành giăng bẫy hãm hại Cơ Anh, một mặt đổ tội cho Di Phi, nhưngDi Phi há lại là nhân vật đơn giản như thế? Khi Vệ Ngọc Hành xong việc dẫn quan binh đến phòng gã ở, gã đã biến mất từ lâu rồi. Có điều như thế cũng chẳng sao, chúng liền nghĩ ra cái cớ “Trình tam hoàng tử hại chết Kỳ Úc hầu, sau đó sợ tội bỏ trốn” báo lên triều đình, vì thế, bách tính đều coi Di Phi là hung thủ đại gian đại ác, sau này Chiêu Doãn cũng giả vờ giả vịt giáng chỉ truy nã Di Phi, nhưng vì trước sau không tìm thấy người, lại thêm Khương Trầm Ngư nắm quyền, việc này dần dần cũng bị bỏ qua. Nhưng không ngờ, nhân vật mất tích thần bí này lại xuất hiện trở lại, hơn nữa vào tận hoàng cung Bích quốc như tự tìm cái chết, lần này gã định giở trò gì đây? Có điều, tuy trong lòng muôn vàn thắc mắc, nhưng vì “Di Phi do Tiết Thái đưa đến”, cho nên tự nhiên nàng thấy an tâm, cũng không sợ hãi là mấy. Mà lúc này, Di Phi lại nói tiếp: “Thứ ba, tiểu vương nghĩ đi nghĩ lại, cũng chỉ có thể đến đây. Yên và Nghi đều là nước đồng minh của con tiện nhân đó, nếu tiểu vương xuất hiện trong đất của họ, không đến ngày thứ ba, có lẽ đã bị bắt giải về Trình quốc rồi. Chỉ có Bích quốc luôn công bố với bên ngoài là không đội trời chung với tiểu vương, vẫn được an toàn một chút, đây gọi là nơi nguy hiểm nhất chính là nơi an toàn nhất. Hơn nữa người nắm quyền Bích quốc hiện nay là hoàng hậu… dù sao chúng ta cũng có quen biết, hoàng hậu nhất định sẽ không nỡ để kẻ thanh bạch vô tội như tiểu vương chịu oan uổng đi tìm cái chết phải không?”. Vừa nói gã vừa làm bộ như một chú chim nhỏ sán lại gần nép vào người Khương Trầm Ngư. Khương Trầm Ngư đang muốn tránh thì một cánh tay giơ ra tóm lấy đai lưng của Di Phi, kéo một cái, chiếc đai tụt ra. Chủ nhân của cánh tay ấy là Tiết Thái, hắn lạnh lùng nói một câu: “Quần sắp tụt rồi”. Di Phi khua chân múa tay loạn xạ một hồi cuối cùng mới kéo quần cười khổ nói: “Ta biết chúng ta tình cảm thắm thiết nhưng cũng đâu nhất thiết cứ hễ gặp mặt là thẳng thắn chân thành thế này?”. Khương Trầm Ngư cười phì một tiếng, hơi quay mặt đi chỗ khác. Tiết Thái đưa trả đai lưng cho Di Phi: “Bớt nói nhảm đi, ngồi xuống, đợi đấy rồi ký tên”. “Ký tên cái gì?”. Khương Trầm Ngư tò mò.
|