Họa Quốc Tập 2
|
|
Người áo vàng sẫm vội trình một cuộn giấy lên trước mặt nàng. Khương Trầm Ngư giở ra đọc, hóa ra là một bản khế ước, bên trong viết là trong thời kỳ đặc biệt, Bích quốc tạm thời thu nhận Trình tam hoàng tử, ngày sau khi Di Phi phục quốc, sẽ phải cắt bao nhiêu bao nhiêu đất cho Bích quốc, còn phải tiến cống bao nhiêu bao nhiêu tiền bạc… từng điều từng điều một, tổng cộng là hai mươi bảy điều. Sự hà khắc của điều kiện khiến Khương Trầm Ngư cảm thấy chấn động kinh ngạc: “Điều ước mất quyền lợi nhục quốc thể như thế này mà ngươi cũng ký?”. Di Phi để lộ biểu cảm như thể tìm thấy cọng rơm cứu mạng, mặt xị xuống, đáng thương nhìn nàng nói: “Cho nên cầu xin nương nương nể giao tình của chúng ta bớt đi cho một chút…”. Khương Trầm Ngư bình tĩnh gấp bản khế ước lại, bình tĩnh đưa trả cho người áo vàng sẫm, bình tĩnh nói: “Thêm mười điều nữa”. Khương Trầm Ngư vừa cười vừa quay về tẩm cung. Nàng vừa đi vừa nghĩ đến biểu cảm của Di Phi ban nãy là lại không nhịn được cười, đến nỗi mà sau đó, Tiết Thái đi sau nàng cuối cùng không kìm được cau mày nói: “Cho dù nương nương có được thêm ba thị bạc đề cử ti[2] cũng không cần hí ha hí hửng thế chứ?”. [2] Đề cử ti là chức quan quản lý một lĩnh vực nào đó trong thời cổ. Thị bạc là cách gọi các thuyền bè buôn bán trong và ngoài nước, ở đây có ý nhắc đến điều khoản có lợi cho Bích quốc khi ký bản khế ước với Di Phi, Bích quốc sẽ có quyền kiểm soát, quản lý các thuyền buôn với Trình quốc. Khương Trầm Ngư quay đầu liếc xéo hắn một cái, thu lại nụ cười, nói: “Ta còn chưa truy cứu ngươi chuyện tiền trảm hậu tấu, dám tự ý quyết định rước tên Di Phi đó vào cửa, ngươi lại dám chê trách ta trước à?”. Khóe mắt của Tiết Thái bắt đầu co giật. Khương Trầm Ngư nhìn hắn: “Sao? Không còn lời gì để nói à?”. Tiết Thái cắn răng nói: “Ta muốn nói nhưng người nào đó lại biến mất từ sáng sớm tinh mơ, đi xử lý cái gọi là chuyện ‘quan trọng’ nào đó, cho đến lúc nãy mới về, ta làm gì có cơ hội mà báo trước?”. “Di Phi không thể hôm nay mới đến đế đô, ngươi đã liên hệ với hắn từ lâu, tại sao không nói trước cho ta?”. Tiết Thái lộ vẻ lạnh nhạt, hai tay chắp sau lưng, thong thả nói: “Trước khi nắm chắc một việc, liệu nương nương có đi tuyên truyền ra ngoài không?”. Hai người trừng mắt gườm gườm nhìn nhau một lúc lâu, cuối cùng vẫn là Khương Trầm Ngư nhìn đi nơi khác trước: “Ai gia không thèm chấp nhóc con”. Phản ứng của Tiết Thái là nở một nụ cười châm chọc. Bỗng Khương Trầm Ngư nghiêng đầu sang hỏi: “Ngươi dự định sắp xếp Di Phi như thế nào? Không thể giấu hắn trong cung được?”. Tiết Thái chậm rãi trả lời: “Hàn lâm vốn là bát trí”. “Rồi sao?”. “Đến nay Bách Ngôn đường lại chỉ còn có Thất tử. Ban đầu hoàng thượng sờ dĩ chọn bảy người, là vì nương nương cũng được coi là một người trong bát trí”. “Rồi sao?”. “Bây giờ nương nương thành hoàng hậu, đương nhiên không thể giống như bọn họ được. Cho nên, Thất tử vẫn không hoàn chỉnh”. “Rồi sao?”. Cuối cùng Tiết Thái không vòng vo nữa, nhìn thẳng vào mắt nàng, nói ra câu mấu chốt của vấn đề: “Di Phi có thể làm hoa tử[3]”. [3] Hoa tử tức người mặc áo hoa (bát trí mỗi người mặc một màu áo) Khương Trầm Ngư cười phì thành tiếng: “Hoa tử… ha ha ha, chỉ có ngươi mới nghĩ ra, ha ha ha…”. Tiết Thái không cười, gương mặt đầy vẻ nghiêm túc nhìn nàng. Khương Trầm Ngư cười mãi, nói: “Hóa ra ngươi cũng thích số tám, phàm việc gì đều phải ghép cho đủ. Đúng rồi, nghe nói sinh nhật của ngươi vào mùng tám tháng tám, cho nên bây giờ đã đủ tám tuổi rồi?”. Mặt Tiết Thái liền sầm xuống, giọng điệu cực kỳ cứng cỏi đáp lại: “Ta không thích số tám”. Tuy trước đó hắn cũng chau mày chau mặt, nhưng ít nhiều cũng ra vẻ cố ý đối chọi với Khương Trầm Ngư, bây giờ vẻ mặt hắn biến đổi như vậy, Khương Trầm Ngư lập tức nhận ra rằng hắn thực sự giận dữ. Tuy không biết vì sao hắn bỗng nhiên nổi giận nhưng Khương Trầm Ngư cũng không cười nữa, nghiêm mặt nói: “Nên tận dụng mọi khả năng của mọi vật, ngươi nói rất đúng. Có điều, hắn trước sau gì vẫn là người Trình quốc, nhiều chuyện nội bộ của chúng ta, vẫn không thể để hắn biết được. Như thế này đi, hắn rảnh rỗi thì để hắn điều tra tung tích của Cơ Hốt đi”. Tiết Thái im lặng nhìn nàng một lúc, sau đó khom người nói: “Tuân chỉ”. Tâm trạng Khương Trầm Ngư vốn dĩ khó khăn lắm mới vui vẻ lên một chút, nhưng vì nói đến Cơ Hốt nên nặng nề trở lại. Bốn tháng rồi. Từ khi đoạt quyền từ tay Chiêu Doãn nàng đã tìm tung tích của Cơ Hốt ở khắp nơi, nhưng Cơ Hốt giống như bốc hơi giữa biển người, không thể tìm nổi chút manh mối nào. Có lúc, Khương Trầm Ngư không kìm được hoài nghi có lẽ mình đã bị Chiêu Doãn dắt mũi, chân tướng sự thực đúng là người đó đã chết như suy đoán trước đây của nàng, nhưng sau đó theo lời chứng của Thôi quản gia, nữ tử chèo thuyền mà nàng thấy bên hồ Phượng Thê đó, dung mạo dáng vẻ quả thực là Cơ Hốt. Cơ Hốt đi đâu? Ngày nào chưa tìm thấy người ấy thì ngày đó nàng chưa thể yên tâm. Để tránh Di Phi, vị hoàng tử chưa bao giờ chịu yên phận gây chuyện trong khoảng thời gian này, một mặt cố nhiên là phải trông chừng thật kỹ, không để gã xảy ra chuyện gì không hay; một mặt cũng không thể để gã nhàn rỗi quá, phải kiếm việc cho gã làm. Hy vọng gã có thể dùng cái đầu kỳ lạ cổ quái khác biệt với người khác của mình nghĩ ra vài chủ ý hay ho, biết đâu lại có thể tìm thấy Cơ Hốt thật. Khương Trầm Ngư vừa đau đầu suy nghĩ, vừa vô thức bước đi, đến khi nàng nghĩ thông mọi điều, ngước đầu lên. Sao nàng lại đến nơi này? Chỗ nàng đang đứng chính là góc Tây Bắc, nơi hẻo lánh nhất của hoàng cung, cũng chính là đầu nguồn của hồ Phượng Thê, Chiêu Doãn lớn lên ở nơi này, bên hồ còn lưu giữ lại một căn nhà nhỏ rách nát. Bây giờ, nó đã đổi chủ nhân mới. Ánh nắng ngày xuân tươi sáng rực rỡ, tịch dương đỏ chói chiếu xuống khiến mặt hồ hồng rực lên. Trên mảnh đất vốn hoang vu, nay lại trồng các loại hoa tươi theo hàng lối, những cành hoa đung đưa nhè nhẹ trong gió, đẹp như tranh vẽ. Một người ngồi trên chiếc xe lăn bằng gỗ, đang tưới nước cho hoa, một người khác đứng đằng sau hắn, thi thoảng lại giúp một tay. Cảnh tượng này lọt vào trong mắt Khương Trầm Ngư, càng ấm áp thêm vài phần. Nàng đi tới, khẽ gọi: “Sư Tẩu”. Người tưới nước quay đầu lại, đúng là Sư Tẩu. Còn người đứng đằng sau hắn lại là Điền Cửu. Sư Tẩu nhìn thấy nàng liền bỏ bình nước xuống, đẩy xe lăn tới, dù chỉ còn lại một cánh tay, nhưng động tác vẫn rất linh hoạt. Trái lại Điền Cửu phía sau lưng hắn, vẻ mặt cứng đơ, im lặng hành lễ rồi quay người đi vào trong nhà. Sư Tẩu lộ vẻ vui mừng, nói: “Sao chủ nhân lại tới đây?”. “Những ngày qua ngươi sống ở đây vẫn ổn chứ?”. “Vâng”. Sư Tẩu nhìn những đóa hoa tươi xung quanh bằng cặp mắt tràn đầy tình cảm: “Hôm nay lại có hai cây tường vi mới nở hoa”. “Thế… ca ca ngươi, hắn có ổn không?”. Khương Trầm Ngư đưa mắt nhìn về phía căn nhà. Sư Tẩu nhận ra suy nghĩ thật sự của nàng, cười cười: “Ca ca… vẫn không thể tiếp nhận chủ nhân, có điều, thuộc hạ nghĩ ca ca sớm muộn sẽ có ngày nghĩ thông thôi. Bởi vì chủ nhân đã cho chúng ta cuộc sống mới. Có thể trồng hoa hóng gió, chuyện trò cùng huynh trưởng, cuộc sống như thế, thuộc hạ đến nghĩ cũng chưa từng dám nghĩ. Ca ca cũng vậy”. Khương Trầm Ngư thầm thở dài trong lòng. Tuy y thuật cao minh của Giang Vãn Y có thể giữ được tính mạng cho Sư Tẩu, nhưng hai chân và một cánh tay bị chặt đứt và một con mắt bị móc của hắn, vĩnh viễn không thể lấy lại được. Bây giờ mở một góc nhỏ như thế này trong hoàng cung cho hắn ở, ngoài mục đích cảm ơn hắn ra, còn có một nguyên nhân khác, đó là kiềm chế Điền Cửu. Ngày đó khi nàng dùng Sư Tẩu để dụ Điền Cửu đi, khi Điền Cửu trở lại phát hiện Chiêu Doãn đã biến thành phế nhân, biểu cảm trên gương mặt của hắn lúc đó, nàng vĩnh viễn không thể quên… Điền Cửu không ra tay với nàng để báo thù cho Chiêu Doãn, nàng đã vô cùng cảm kích hắn rồi, nào có khát vọng xa xỉ là hắn có thể quay đầu về dưới trướng của mình? Kỳ thực… trong lòng nàng cũng không phải là không thấy đáng tiếc… Nghe Chu Long nói, võ công của Điền Cửu thậm chí còn cao hơn hắn, hơn nữa luận về mưu trí tài tình đều cực kỳ xuất sắc, nếu có thể thu phục, tất sẽ như hổ mọc thêm cánh. Thế nhưng… nhân sinh xưa nay chưa bao giờ hoàn mỹ, chẳng phải thế sao? Như bây giờ cũng tốt rồi. Khương Trầm Ngư lắc đầu, gạt cảm xúc tiếc nuối hụt hẫng đó sang một bên, bước tới chăm chú thưởng thức những bông hoa Sư Tẩu trồng: “Đẹp quá…”. “Đúng thế, chỉ cần đối đãi tốt với chúng, chúng sẽ tặng cho ta phong cảnh tươi đẹp nhất. Còn khi ta ngắm chúng sẽ cảm thấy hết thảy khổ đau tan đi như mây khói, biến thành những chuyện cũ gió thoảng mây trôi”. Khương Trầm Ngư chăm chú nhìn Sư Tẩu, ý thức một cách vô cùng rõ ràng rằng người trước mặt này và ám vệ cùng nàng đi sứ Trình quốc kia, đã là hai người hoàn toàn khác nhau. Sư Tẩu khi đó, trong đầu chỉ có nhiệm vụ, ngoài mệnh lệnh ra, vạn vật đều không tồn tại trong mắt hắn, nhưng Sư Tẩu của hiện tại, nhìn thấy trời xanh, hồ biếc và các đóa hoa muôn hồng ngàn tía, thế giới chém giết thập tử nhất sinh đó đã hoàn toàn lùi xa. Nàng tự hỏi lòng mình, nếu đổi lại là mình liệu có chịu dùng đôi chân, cánh tay và một con mắt để đánh đổi lấy cuộc sống yên bình như thế này không? Trong lòng Khương Trầm Ngư mãi lâu sau vẫn không có câu trả lời. Nàng rốt cuộc vẫn không phải là Sư Tẩu. Sư Tẩu không cha không mẹ, ngoài ca ca ra không còn người thân thích nào khác. Cho nên, buông bỏ thế giới này đối với hắn mà nói không phải là mất mát, mà trái lại là có được. Nhưng nàng thì sao? Thứ níu giữ nàng thực sự là… quá nhiều quá nhiều… “Chủ nhân? Dường như chủ nhân rất mệt, chủ nhân không ngủ được ư?”. Sư Tẩu bỗng nhiên hỏi như vậy. Khương Trầm Ngư vô thức giơ tay lên sờ mặt mình: “Rõ thế à?”. “Vâng”. Sư Tẩu đẩy xe lăn về phía hồ Phượng Thê một đoạn, nhìn chăm chú nơi trời nước giao nhau đó, thong thả nói: “Chủ nhân, chủ nhân biết cảm nhận lớn nhất của thuộc hạ về những ngày này là gì không?”. “Là gì?”. “Cảm nhận lớn nhất của thuộc hạ là: Hóa ra, trên thế giới này có nhiều chuyện vui vẻ như thế. Ngắm một đóa hoa nở, ngắm mưa rơi, ngắm mặt trời mọc mặt trời lặn, ngắm bầy cá bơi tung tăng dưới nước… Nếu chúng ta không sinh ra làm người thì không thể lĩnh ngộ được những thứ đẹp đẽ này, cho nên, những kẻ đã được trời cao ban cho ân sủng này nên cười nhiều một chút”. Sư Tẩu nói đến đây, xoay xe lăn về phía Khương Trầm Ngư, nói với một giọng chân thành không gì sánh được: “Chủ nhân nên cười nhiều một chút”. Khương Trầm Ngư mấp máy khóe môi, có chút khó khăn, nhưng lại cười rất chân thành. Nàng vừa cười, Sư Tẩu liền cười theo: “Chẳng phải rất dễ sao?”. Khương Trầm Ngư ngẩng lên đón cơn gió từ mặt hồ thổi tới, nhắm mắt lại hít một hơi thật sâu, rồi lại từ từ thở ra, sau đó mở mắt, lại cười một lần nữa. Không khí ngột ngạt trước đây dường như cũng biến mất theo hai nụ cười này, chỉ còn lưu lại cảm giác vui vẻ khi đứng trước phong cảnh đẹp đẽ này. “Sư Tẩu, ta biết ban nãy tại sao chân của ta tự động đưa ta đến nơi này rồi…”. Sư Tẩu nhìn nàng, dùng một con mắt nhìn nàng, dùng một con mắt vốn đen tối nhất nhưng giờ lại sáng tỏ nhất thế giới này nhìn nàng, cuối cùng mỉm cười: “Sau này nếu chủ nhân có chuyện gì không vui, xin cứ đến đây. Thuộc hạ đã không thể giúp chủ nhân được gì, nhưng nơi này của thuộc hạ có rất nhiều hoa đẹp, còn có một đôi tai nguyên vẹn nữa”. Mắt Khương Trầm Ngư bỗng chốc ướt nhòa. Sư Tẩu, ám vệ Chiêu Doãn tùy tiện ban cho nàng ngày đó, ở Trình quốc, họ đã cùng gặp kiếp nạn sinh tử, để bảo vệ nàng, hắn đã trở thành tàn phế, nhưng bây giờ, hắn ngồi ở đó, vẻ mặt dịu dàng hiền hòa, giọng nói bình thản, tuy yếu ớt, nhưng cũng vô cùng mạnh mẽ. Hắn lại trở thành bến cảng tâm hồn ấm áp và thanh thản nhất của nàng. Duyên phận như thế này, ai có thể ngờ đến được? Thế sự an bài, quả nhiên có sự kỳ diệu định mệnh…
|
Hồi thứ hai mươi: Tân tướng
Trên thế gian này có một cụm từ, gọi là “Thiên đạo nhân sự”. Thiên đạo nhân sự không thể trái lại, tức là phải thuận theo đại thế. Nhìn lại quá khứ, chẳng qua cũng chỉ là một câu thành ngữ bình thường, hiểu nó rồi liền gác qua một bên. Có rất nhiều rất nhiều câu thành ngữ trên đời, nhưng trong đờỉ một con người có thể thực sự trải nghiệm, kỳ thực lại rất ít rất ít. Nhưng khi Khương Trầm Ngư đọc được sớ từ quan đề tên “Khương Trọng” đó, thứ đầu tiên bật ra trong đầu là cụm từ – thiên đạo nhân sự. Sau khi Họa Nguyệt thuận lợi sinh hạ Tân Dã, mẹ tròn con vuông, lại có một việc khó đã từng làm khó nàng từ lâu bỗng tự động được giải quyết, không còn tồn tại nữa. Nhưng so với Họa Nguyệt, trên thực tế, Khương Trọng mới là vướng mắc của nàng. Bởi vì, đối với Khương Họa Nguyệt, Khương Trầm Ngư chỉ có thương xót và trân trọng, cho dù Họa Nguyệt có đố kỵ nàng, oán hận nàng đến đâu, đó đều là tình cảm của một mình Họa Nguyệt, Khương Trọng lại không giống vậy. Đối với phụ thân sinh ra nàng nuôi nấng nàng dạy dỗ nàng, dốc vô số tâm huyết cũng gửi gắm rất nhiều hy vọng vào nàng, tình cảm của Khương Trầm Ngư cực kỳ phức tạp. Một mặt, nàng chán ghét nhân cách của ông, chính là “đạo bất đồng bất tương vi mưu”[1], Khương Trầm Ngư nàng không thể mù quáng nghe theo, tức đã định họ không thể là người đi chung đường. [1] Nghĩa là quan điểm không giống nhau không thể hợp tác. Nhưng mặt khác, cốt nhục chí thân, rốt cuộc không thể nói cắt đứt là cắt đứt, nói mỗi người một ngả là có thể mỗi người một ngả được. Vì thế, xử lý cha của mình như thế nào đã trở thành việc khiến nàng đau đầu nhất. Tuy nàng cũng từng nói hết thảy đều làm theo phép công, nhưng sự thực khi bắt tay vào, lại vô cùng khó khăn, huống hồ có một số chuyện không phải xảy ra rồi thì có thể bỏ qua hoàn toàn, ví dụ như Đỗ Quyên. Chuyện ở Hồi thành kết thúc, tuy Khương Trọng đã tìm được một cơ hội để triệu Vệ Ngọc Hành về đế đô và Đỗ Quyên cũng cùng hắn quay về, nhưng Khương Trọng vẫn không nhận đứa con gái này, thân phận của Đỗ Quyên vẫn không được thừa nhận. Khương Trầm Ngư vỗn dĩ còn phiền não vì chuyện này, nhưng khi nàng đến Vệ phủ thăm Đỗ Quyên, lại phát hiện đương sự là Đỗ Quyên trái lại nghĩ rất thoáng, lý do là “Chuyện đau khổ như thế, thêm một người biết là thêm một người chịu tội. Tỉ đã rất bất hạnh rồi, nhưng chí ít tỉ còn có thể giúp mẫu thân, người bị che mắt bịt tai, không hề có lỗi lầm gì trong chuyện này có thể tránh được sự đau khổ này. Cho nên, tỉ không thể nhận tổ quy tông được, tỉ cũng không muốn nhận tổ quy tông”. “Thế sau này tỉ định thế nào? Lẽ nào cứ sống thế này?”. Đôi mắt không có chút ánh sáng của Đỗ Quyên chiếu thẳng nàng, cuối cùng mỉm cười: “Tỉ sẽ không ngừng báo thù. Tỉ ở đây, không đi đâu cả, sau đó, tìm từng cơ hội có thể để lật đổ Khương Trọng. Cho dù không báo được thù, tỉ cũng phải căm ghét ông ta, để ông ta cắn rứt, để ông ta đau đầu, để ông ta lúc nào cũng nhớ – ông ta đã từng làm bao nhiêu chuyện bỉ ổi như thế”. Đó chính là lựa chọn của Đỗ Quyên. Khương Trầm Ngư cảm thấy kỳ thực Đỗ Quyên không nói thực lòng, nhưng hỏi thêm cũng không ra được nguyên cớ, nên đành từ bỏ. Có lẽ, so với bản thân nàng, tình cảm Đỗ Quyên dành cho phụ thân còn phức tạp hơn nhiều. Bây giờ, Khương Trầm Ngư ngồi dưới đèn, cầm quyển tấu sớ này, đọc rất lâu rất lâu, cuối cùng ngẩng đầu, hạ lệnh: “Tuyên hữu tướng”. La Hoành lập tức đi ra tuyên chỉ: “Hoàng hậu tuyên hữu tướng yết kiến”. Lát sau, Khương Trọng chậm rãi đi vào thư phòng: “Lão thần tham kiến hoàng hậu, thiên tuế thiên tuế thiên thiên tuế”. “Thừa tướng có thể nói rõ lý do từ quan không?”. Khương Trầm Ngư đưa quyển tấu sớ lại cho ông. Khương Trọng không đưa tay ra nhận, vẫn khom lưng nói: “Tất cả đều đã nói trong tấu sớ”. “Thừa tướng đang tuổi tráng niên, lại là lúc cống hiến tốt nhất cho đất nước, sao có thể nói là chán ghét phân tranh, xin được quy ẩn chứ?”. Khương Trọng ngẩng đầu chăm chú nhìn nàng, lúc sau, nhẹ nhàng mỉm cười: “Hoàng hậu đang hoài nghi lão thần? Hoàng hậu cảm thấy lão thần đang lùi để tiến? Hoặc là có mưu đồ khác?”. Khương Trầm Ngư không nói gì, chỉ là ánh mắt trở nên sâu thẳm. Khương Trọng ngưng cười, trên gương mặt hiện vẻ cô đơn, thở dài một tiếng: “Hoàng hậu, có thể cho người bên cạnh lui ra hết không?”. Khương Trầm Ngư im lặng một lát, hạ lệnh: “Ta và hữu tướng có chuyện cần bàn, các ngươi lui hết cả đi”. Cung nhân vâng dạ lui ra. Thư phòng rộng lớn, trong nháy mắt đã trở nên lạnh lẽo. Ánh sáng của cung đăng cũng không còn sáng rỡ như bình thường, nhìn chỉ cảm thấy âm u tối tăm. Mà trong bóng tối trùng trùng ấy, tấm thân cao gầy của Khương Trọng nhìn hơi còng xuống, nhìn kỹ lại, tóc mai cũng đã bạc đi không ít. Phụ thân già rồi… Khương Trầm Ngư bỗng phát hiện ra, trong khoảng thời gian nàng đối xử lạnh nhạt với ông, phụ thân đã mau chóng già đi, mới chưa đầy một năm, mà dường như đã già đi mười tuổi. “Trầm Ngư…”. Trong lúc nàng im lặng dò xét, Khương Trọng từ tốn nói: “Mẫu thân của con, bà ấy… sắp không ổn rồi”. “Cái gì?”. Khương Trầm Ngư chấn động đến mức lập tức đứng bật dậy. “Con đừng vội, ngồi xuống, từ từ nghe ta nói”. Khương Trầm Ngư lại chầm chậm ngồi xuống, một cánh tay không kìm được ôm ngực, cảm thấy trái tim của mình, không chịu nghe lời, đập lên điên cuồng. “Mẫu thân con vốn không khỏe mạnh. Từ năm ngoái, thường xuyên cảm thấy đau đầu, nhưng nghỉ ngơi một lúc là khỏi, vì thế không quá bận tâm. Nhưng tháng trước, bệnh đau đầu của bà ấy lại tái phát, rồi rơi vào trạng thái hôn mê, ta đã mời danh y ở kinh thành đến chữa trị cho bà ấy, họ đều nói bệnh đau đầu của bà ấy rất nghiêm trọng, cần phải uống thuốc gây mê, lại dùng dao sắc mổ đầu ra lấy máu đọng bên trong ra mới có thể chữa khỏi. Nhưng cách này cực kỳ mạo hiểm, nếu có chút sai sót là chết ngay tức khắc. Cho nên, mẫu thân con sao có thể chịu chữa trị”. “Sự việc nghiêm trọng như thế, tại sao giờ cha mới nói”. Khương Trầm Ngư lại đứng bật dậy lần nữa. Khương Trọng cười cười, trong nụ cười ấy chứa đựng sự chua xót, sự bối rối, sự ngậm ngùi, còn có cả bao dung: “Con nắm quyền chưa lâu, căn cơ chưa ổn định, một ngày phải xử lý trăm việc, mẫu thân sợ con phân tâm, cho nên, không chịu cho ta nói với con”. Lại là… lỗi của mình ư? Khoảng thời gian này, nàng có quá nhiều việc, quá nhiều quyết sách, quá nhiều hành động… nhưng, nhiều việc như vậy, nhiều quyết sách như vậy, nhiều hành động như vậy đều không liên quan đến mẫu thân. Hay nói cách khác, nàng chỉ để ý đến bản thân để ý đến tỉ tỉ để ý đến người trong lòng thậm chí để ý đến thiên hạ, nhưng lại bỏ sót mẫu thân của mình. Trời ơi… trời ơi… trời ơi… cú sốc này quả thực không nhỏ, khiến cho toàn thân Khương Trầm Ngư run lên bần bật, buộc nàng phải bấu chặt vào thư án mới có thể chống đỡ cơ thể gắng gượng mà đứng được. Mắt Khương Trọng loang loáng ánh lệ, ông thấp giọng nói: “Trầm Ngư, cha con đích thực không phải là người tốt, cả đời mê đắm quyền thế, vì lợi ích của cả gia tộc mà hy sinh cả con gái dứt ruột đẻ ra, nhưng., ta thật sự… yêu mẫu thân của con. Quyền thế có thể nói quan trọng hơn tất cả mọi thứ của ta; nhưng mẫu thân của con… lại là sinh mệnh của ta. Con có thể hiểu không?”. Khương Trầm Ngư ra sức lắc đầu nguầy nguậy. Đúng thế, cả đời của phụ thân làm sai rất nhiều rất nhiều việc, nhưng duy chỉ đối với mẫu thân là chung thủy nặng tình. “Cho nên… chúng ta đều sai rồi, chẳng phải sao? Nếu sớm biết mẫu thân con gặp đại hạn, cùng lắm chỉ có thể sống thêm ba năm, trước đây ta huấn luyện tử sĩ, triệt hạ đối thủ, tranh đoạt lợi ích để làm gì? Tốn bao thời gian để làm những chuyện vô dụng đó, mà không ở nhà với bà ấy, còn nổi giận với con gái của mình, khiến mẫu thân con kẹt ở giữa khó xử, bạc thêm bao nhiêu tóc…”. Nước mắt Khương Trầm Ngư bỗng chốc lăn trào, xấu hổ bưng mặt. “Cho nên, ta quyết định từ bỏ tất cả, ba năm còn lại đều ở bên cạnh mẫu thân con. Bình sinh chuyện bà ấy tiếc nuối nhất chính là vì thân phận nên không được ra ngoài, không thể ngao du danh sơn trong thiên hạ, nếm hết mỹ thực của nhân gian. Ta quyết định trong ba năm này sẽ bù đắp hết những điều bà ấy nuối tiếc”. Khương Trầm Ngư run giọng nói: “Phụ thân… cha muốn đi xa?”. “Ừ”. “Cha… muốn đưa mẫu thân cùng đi? Đi liền ba năm?”. Khương Trầm Ngư cuống lên: “Phụ thân đưa mẫu thân đi, thế con, con phải làm thế nào?”. “Chúng ta thỉnh thoảng sẽ về thăm các con”. “Nhưng…”. Khương Trọng ngắt lời nàng: “Trầm Ngư, con… không còn là một đứa trẻ nữa”. Khương Trầm Ngư chấn động. Khương Trọng chăm chú nhìn nàng, giọng nói dịu dàng mà đau buồn: “Trên người con mặc phượng bào của hoàng hậu; trên bàn con bày ngọc tỉ của Bích quốc… Con không còn là một đứa trẻ nữa”. “Cho nên, con không có quyền ở bên cạnh mẫu thân phải không?”. Khương Trầm Ngư giàn giụa nước mắt hỏi. “Trầm Ngư, hãy để mẫu thân con vui vẻ một chút đi. Bà ấy đã bên cạnh con mười lăm năm rồi, chẳng phải sao?”. Trái tim Khương Trầm Ngư chìm xuống. Cùng với đó là cảm giác bi thương sâu thăm thẳm ùa đến, là cảm giác chán ghét quen thuộc – chán ghét bản thân mình – Nàng… lại bắt đầu ích kỷ rồi. Vĩnh viễn chỉ nghĩ đến cảm giác của bản thân, cho nên, khi phụ thân nói muốn đưa mẫu thân đi du ngoạn, phản ứng đầu tiên chính là không được, như thế chẳng phải mình không được gặp mẫu thân sao, nhưng không hề đứng ở lập trường của mẫu thân mà suy nghĩ: Bà mong muốn có thể ngao du sơn thủy, mong muốn suốt cả một đời… Đến phụ thân, người chỉ chăm chăm đến quyền thế đến mức có thể hy sinh con gái của mình, không quan tâm đến hạnh phúc của cốt nhục, cũng bằng lòng từ bỏ quyền lực mà ông khổ tâm lăn lộn một đời mới có được vì mẫu thân, lẽ nào mình, kẻ được gọi là đứa con ngoan nhất, hiếu thuận nhất, chưa từng khiến mẫu thân phải nổi giận dù chỉ một lần, còn không bằng phụ thân sao?
|
Khương Trầm Ngư cắn chặt môi, nhìn phụ thân đứng cách nàng một trượng, không biết nói gì, chỉ cầm chiếc ấn ngọc tỉ trên thư án lên, chậm rãi, nặng nề, đóng lên trên tấu chương. Bụi trần lắng đọng. Vương ấn đỏ thắm. Mùa thu năm Đồ Bích thứ sáu, hữu tướng cáo lão, từ quan về quê. Hoàng hậu khóc phê chuẩn. Ngày hôm sau, tân tướng được lập, là Băng Ly công tử – Tiết Thái. “Thư sinh gần đây rất không chịu an phận”. Trong Bách Ngôn đường, người áo xanh lục phe phẩy quạt thong thả nói. Sáu người còn lại vừa nghe thấy đều bật cười, cười rất kỳ lạ. Khương Trầm Ngư đang phê duyệt tấu chương nghe tiếng ngẩng đầu, không hiểu, hỏi: “Có chuyện gì?”. Người áo xanh lục cuối cùng đã gây được sự chú ý của hoàng hậu, liền vội vàng gấp quạt lại hồi bẩm: “Hoàng hậu nương nương có biết vì sao mấy ngày nay Tiết tướng đều không đến tham gia nghị sự với chúng ta không?”. Y nói thế, Khương Trầm Ngư mới nhớ ra. Tiết Thái đã bảy ngày liền không đến thư phòng, mỗi ngày chỉ vội vàng đến buổi chầu sớm, sau đó biến mất tăm mất tích, mà hôm nay lại càng quá đáng, đến chầu sớm cũng không xuất hiện. “Hắn đang bận gì à? Có liên quan gì với thư sinh không chịu an phận? “. “Hồi bẩm nương nương, là như thế này”. Người áo vàng sẫm đáp: “Tiết tướng tuy thành danh từ sớm, bốn bể đều hay, nhưng trước đây trong nhà xảy ra biến cố lớn, sau lại bị biếm thành nô lệ. Đến nay được khôi phục quan tịch, nhưng tuổi hãy còn quá nhỏ đã làm thừa tướng dưới một người trên vạn người, dân gian nghị luận xôn xao, có hai thư sinh là Ngô Thuần và Trần Long công khai phản đối, dựng sân khấu trên phố phê phán chính sự, kích động bách tính, càng làm càng loạn, đến nay ngày ngày đều có hơn trăm người tụ tập đến nghe”. Đầu mày của Khương Trầm Ngư hơi nhíu lại; “Lại có chuyện này à? Tại sao không thông báo cho ta sớm?”. “À, cái này…”. Giọng người áo vàng sẫm nhỏ dần đi: “Là Tiết tướng nói hoàng hậu bộn bề công việc, không được đem chuyện vặt này đến quấy nhiễu nương nương, tướng gia sẽ tự mình xử lý ổn thỏa…”. “Thế hắn có xử lý ổn thỏa không?”. Lời vừa thốt ra, bảy người nhìn nhau, rồi lại cười kỳ quặc như trước. Bọn họ phản ứng như vậy, chắc chắn là sự tình đã được giải quyết, nếu không thần tình sẽ không nhẹ nhõm sảng khoái như thế. Khương Trầm Ngư thấy vậy trong lòng đã hiểu, nhưng mặt lại sầm xuống: “Hắn nói thế nào thì làm thế ấy, rốt cuộc hắn là chủ tử của các ngươi, hay ta là chủ tử của các ngươi?”. Thất tử vội vàng lũ lượt đứng dậy khỏi ghế quỳ xuống, đồng thanh nói: “Hoàng hậu xin thứ tội!”. Khương Trầm Ngư cảnh cáo xong, thấy thế liền thôi: “Đứng dậy đi. Nói cho ai gia nghe, rốt cuộc là chuyện gì? Hoa Tử, ngươi nói đi”. Đối tượng bị gọi tên vốn luôn ngồi trên ghế, ngủ gật gà gật gù, bị gọi đột ngột, cả người giật bắn, cực kỳ hoang mang đứng dậy: “A? Cái gì?”. Khương Trầm Ngư không nhịn được, bật cười một tiếng. Thấy nàng cười, bọn Thất tử cũng trút được tảng đá đè trong lòng, cùng cười ầm lên. Di Phi thấy mọi người cười, càng không hiểu, nhìn mọi người với vẻ cực kỳ nhếch nhác lẫn vô tội, thử thăm dò hỏi một câu: “Đến giờ ăn cơm rồi à?”. Cả sảnh đường cười vang. Khương Trầm Ngư mỉm cười nói: “Được rồi, ngươi ngồi xuống đã. Tử Tử (người áo tím), ngươi giỏi ăn nói nhất, ngươi kể đi”. “Vâng”. Người áo tím khom lưng hành lễ, cũng không rề rà: “Sau khi Tiết tướng hay chuyện, liền cải trang trà trộn vào giữa đám người nghe bọn Ngô Thuần, Trần Long đó nói một buổi. Ngày hôm sau, khi Ngô Thuần, Trần Long vừa mới dựng sân khấu định nói chuyện tiếp, thì mười hai thiết kỵ đột ngột xuất hiện, tất cả đều mặc áo trắng, hơn nữa, trên dây cương ngựa đều thêu đồ đằng Bạch Trạch. Bách tính xung quanh nhìn thấy cảnh tượng này, vừa kinh ngạc vừa sợ hãi, lũ lượt tản ra quỳ vái. Mười hai thiết kỵ đến trước sân khấu, xếp hàng như cánh quạt xòe ra, đi sau họ, chính là Tiết tướng đang cưỡi trên con Hãn Huyết bào mã”. “Lớn tiếng phủ đầu, chiêu ra oai này quả không tồi”. Khương Trầm Ngư cười, tên tiểu tử Tiết Thái lại dám đem đồ đằng của công tử đi giễu khắp nơi, thật là ngày càng vô sỉ! Có điều, Bạch Trạch có địa vị rất cao trong lòng dân chúng Bích quốc, dùng nó để ra mắt, hiệu quả đúng thực rất tốt. Nàng hỏi tiếp: “Sau đó thì sao?”. “Tiết tướng quét mắt nhìn sân khấu của bọn Ngô Thuần Trần Long một lượt, cười lạnh lùng, rút một quyển trục từ trong lòng ra, thúc ngựa đi đến trước một tửu lâu bên đường, vỗ cổ ngựa một cái tung thân bay lên, mở quyển trục kia ra, treo lên trên tấm biển hiệu, rồi nhẹ nhàng hạ xuống, đứng vững trên mặt đất. Động tác như nước chảy mây trôi, tư thế linh động, chân tay nhanh nhạy, khiến người ta phải tấm tắc khen hay…”. Người áo tím còn định tán thưởng tiếp, Khương Trầm Ngư dở khóc dở cười nói: “Đủ rồi đủ rồi, ai gia khen ngươi giỏi ăn nói, ngươi lại thêm một tràng mỹ từ bóng bẩy, đâu phải bảo ngươi thuyết thư… Mau vào vấn đề chính đi!”. “Vâng vâng vâng. Vi thần lỡ lời. Vi thần xin sửa”. Người áo tím cười cười khổ não: “Tất cả mọi người có mặt ngẩng đầu lên nhìn, chỉ thấy trên quyển trục đó viết bốn chữ lớn ‘Đỉnh phanh thuyết thang’”. “Gì?”. Khương Trầm Ngư kinh ngạc, sau đó lại thở dài: “Lẽ nào hắn muốn làm vậy thật?”. “Tiết tướng treo xong quyển trục đó, quay người lại, lạnh lùng quét mắt nhìn một lượt, cao giọng nói: “Xưa Doãn tướng dùng cái vạc cái thớt nấu ăn cho vua Thang, lấy việc nấu ăn, ngũ vị để phân tích cục diện thiên hạ và đạo làm chính trị. Thang vương nhờ thế mà biết được ông có tài kinh thiên vĩ địa, xóa bỏ thân phận nô lệ, cất nhắc làm hữu tướng, từ đó khai sáng nên thịnh thế phồn hoa của triều Thương. Tiết Thái bất tài, mượn điển cố của cổ nhân, để làm chuyện ngày nay: Tại đây dựng lôi đài, trong bảy ngày, cho dù là ai, chỉ cần người đó cảm thấy có thực lực hơn ta, có thể làm thừa tướng của Bích quốc, đến đây khiêu chiến với ta, đánh bại ta, ta nguyện dâng tướng vị cho người đó, quyết không nuốt lời!”. Khương Trầm Ngư nghe những lời này, trong lòng không biết là buồn cười hay là chấn động. Tiết Thái năm sáu tuổi đã dám nói với Yên vương “Yên là ngọc trong các nước, còn ta là ngọc trong loài người, hai thứ hợp nhau, có gì không thỏa đáng”. Tiết Thái năm bảy tuổi đã dám quát sủng phi của hoàng đế “Chim sẻ nhỏ nhoi, sao dám cản phượng giá”; Tiết Thái của hôm nay lại công khai tiếp nhận thư sinh thách đấu và dựng lôi đài trên phố, tự ví mình với Y Doãn… cho dù trải qua bao nhiêu trắc trở, Băng Ly vẫn là Băng Ly, ngạo cốt vẫn còn, không hề thay đổi một chút nào… Người áo tím nói đến đây, mặt lộ vẻ khâm phục, cảm khái nói: “Hành động lần này của Tiết tướng mau chóng lan truyền ra ngoài, văn nhân các vùng lũ lượt đến đế đô, có người to gan thật sự lên thách đấu. Tiết tướng tuổi còn nhỏ nhưng kiến thức sâu rộng, trí nhớ tuyệt đỉnh, giỏi hùng biện, khẩu chiến nho sinh, đối diện với lời cật vấn của nhiều người vẫn ung dung ứng đối, thong thả đáp lời, khiến cho mọi người ai nếu đều thất sắc, đặc biệt là hai người Ngô Thuần Trần Long, đến phút cuối, phải hổ thẹn nói: “Cho dù ngươi tài hoa cái thế, kinh lược ngút trời thì sao? Chớ quên, cha ngươi và gia gia ngươi đều là nghịch thần! Là phản tặc! Là loạn thần tặc tử phạm thượng làm loạn! Là tội nhân thiên cổ mưu đồ lật đổ giang sơn Bích quốc! Ngươi thân là con cháu của họ, lại có thể đảm nhiệm chức thừa tướng của Bích quốc, há chẳng phải là cổ vũ người trong thiên hạ đều có thể thả sức tạo phản sao? Dẫu cho tạo phản không thành, con cháu của mình cũng vẫn có thể làm quan. Để mặc cho ngươi làm tướng, thì luật pháp thiên thu để vào đâu? Thể diện của hoàng tộc để vào đâu? Giang sơn xã tắc để vào đâu?”. Tràng chất vấn này đến Khương Trầm Ngư nghe xong mặt cũng biến sắc. Chiêu này quả thực quá độc, phơi bày ra chuyện cũ, lại dùng hai chữ “tạo phản” để chèn ép. Phải biết rằng đế vương từ thiên cổ đều kỵ nhất là tạo phản, không thể khoan dung nhất cũng là tạo phản, vì thế, đối với hậu quả của việc mưu nghịch làm loạn, cũng là cánh cáo kẻ khác: Kẻ làm phản, tru di cửu tộc, tất phải chết! Thế mới có thể cảnh cáo thiên hạ, phải ngoan ngoãn nghe lời, không được ngông cuồng dấy lòng mưu phản. Có điều… tuy nàng kinh ngạc, nhưng không cảm thấy lo lắng. Bởi vì, nếu là Tiết Thái, chắc chắn có thể giải quyết vấn đề khó này… Trong lòng nàng đầy tin tưởng như thế. Quả nhiên, câu tiếp theo của người áo tím đã chứng thực điểm này: “Tiết tướng nghe xong, mặt không đổi sắc, lạnh lùng cười nói: ‘Việc sai lầm cha ta và gia gia ta làm, có liên can gì đến ta?’. Trần Long nói: ‘Lẽ nào ngươi không biết cha nợ con trả sao?’. Tiết tướng nói: ‘Nếu ngươi đã nói như thế, vậy thì tổ tiên của các ngươi cũng tạo phản, các ngươi sao có mặt mũi mà sống trên đời này?’“. Khương Trầm Ngư cả kinh: “Cái gì? Bọn họ cũng là con cái của phản tặc sao?”. “Hồi bẩm nương nương, lời này của Tiết tướng vừa nói ra, hết thảy người nghe đều ngạc nhiên, phản ứng đều giống như nương nương. Mà tên Trần Long đó lập tức nhảy dựng lên, giận dữ đùng đùng nói: ‘Ngươi nói bậy! Tổ tiên ta ba đời đều là người đọc sách thanh bạch, làm gì có tạo phản? Đừng có ngậm máu phun người!’. Tiết tướng cười lạnh nói: ‘Tổ tiên ba đời không có? Thế thì mười đời? Hai mươi đời thì sao? Đừng quên Trần Thắng Ngô Quảng năm xưa, Đại Tần chính là diệt vong trong tay bọn họ’”. Khương Trầm Ngư nhắm mắt – Nàng biết ngay mà… đến Trần Thắng Ngô Quảng cũng lôi ra được… “Trần Long nghe đoạn càng nổi giận: ‘Cái, cái gì? Trần Thắng Ngô Quảng với, với với bọn ta có liên quan gì?’. Tiết tướng đáp: ‘Các ngươi cùng họ, truy ngược lên nghìn đời, tất là cùng gốc rễ mà ra’. Trần Long nói: ‘Cho dù, dù là tổ tiên của bọn ta, họ họ đều là thay trời hành đạo! Tần Nhị Thế thi hành bạo chính, hình phạt hà khắc, khiến muôn dân không được yên ổn…’. Tiết tướng ngắt lời hắn: ‘Ồ? Lúc này lại không đếm xỉa gì đến luật pháp thiên thu, thể diện hoàng tộc với giang sơn xã tắc nữa sao?’. Trần Long nói: ‘Ngươi, ngươi, ngươi…’”. Trần thuật đến đây, Khương Trầm Ngư thở dài khe khẽ: “Tử Tử, ngươi cứ nói một mạch là được, không cần bắt chước cả điệu bộ nói lắp của họ đâu”. Cả Bách Ngôn đường lại vang lên một trận cười. Có lẽ bình thường họ đã quen với việc chế nhạo nhau, cho nên người áo tím tuy lúng túng, nhưng không thấy xấu hổ, vẫn cười vui vẻ như trước, nói: “Vâng. Vi thần xin sửa. Tóm lại bọn Trần Long nói không lại Tiết tướng, tức muốn chết, cuối cùng Tiết tướng nhìn đám đông một lượt, chậm rãi nói: ‘Trải qua nghìn năm, triều đại nào chẳng có phản thần, chẳng sinh nghịch tử, họ làm sai thì họ phải chịu phạt, nhưng vì thế mà tước đoạt công lao của con cháu họ, thì thực quá nực cười! Không sai, cha ta ông ta làm chuyện sai trái, nhưng rốt cuộc vì sao mà họ sai, trong lòng mọi người đều rõ. Trong triều đình, có thiên tử sao thần tử vậy, nếu phải nói Tiết gia nhà ta có tội, Tiết tộc nhà ta nợ Bích quốc, thế thì, để ta làm tướng quốc, há chẳng phải chính là cách chuộc tội tốt nhất sao? Nếu các ngươi cho rằng Tiết Thái ta năng lực không đủ, không thể làm tướng quốc, thì hãy dùng sự thực để chứng minh điểm này, chớ viện lý do nông cạn như xuất thân, tuổi tác gì đó, ta tuyệt đối không phục! Bảy ngày đã hết, các người đã thua. Nhưng ta biết các ngươi vẫn không phục, không sao cả, ta lại cho các ngươi thêm một cơ hội, ngày này hàng năm, ta đều đến đây dựng lôi đài, người trong thiên hạ đều có thể đến thử. Nhưng, chỉ là bảy ngày. Bất cứ thời gian bất cứ địa điểm khác nếu ta nghe thấy có người bàn láo chuyện triều chính, bôi nhọ danh dự của ta, chém!’. Tiếng chém cuối cùng chắc nịch đanh thép, lầu trên lầu dưới, không có ai dám ho he nữa, đều lặng ngắt như tờ”. Khương Trầm Ngư tưởng tượng khung cảnh khi đó, không kìm được nói: “Giá như ta cũng có mặt thì hay biết mấy, thật muốn xem phong thái áp đảo quần hùng của Tiết Thái khi ấy”. Người áo tím thở dài nói: “Trong Thất tử chỉ có vi thần hôm qua đích thân đi, nhìn thấy cảnh tượng quan trọng nhất đó, thật sự là cảm thấy… triều ta có thể có Tiết tướng, đúng là ông trời ban phúc”. Khương Trầm Ngư nhớ ra một vấn đề: “Đợi đã! Ngươi nói hôm qua đích thân ngươi đi xem, cũng tức là thời hạn bảy ngày đến ngày hôm qua đã kết thúc. Vậy tại sao hôm nay Tiết Thái không đến?”. Người áo xanh lục ở bên cạnh cười “phì” một tiếng, những người khác lại nở nụ cười kỳ quặc.
|
Nghe đến đây, Khương Trầm Ngư đã hiểu ra, bọn họ cười, không phải vì Tiết Thái khẩu chiến thắng bọn nho sinh, mà là đã phát sinh chuyện khác, hơn nữa, hẳn là chuyện này khiến Tiết Thái gặp xui xẻo. Nghĩ đến đây, không khỏi càng lúc càng tò mò: “Mau nói! Hắn làm sao?”. Người áo tím nói: “Hồi bẩm nương nương, là như thế này, khi dựng sân khấu Tiết tướng quy định là từ giờ Ngọ đến giờ Tuất. Ngày hôm qua đến giờ Tuất, vốn dĩ tất cả đã kết thúc, bọn Trần Long cũng á khẩu không biết nói gì, thì một tên ngọc diện thư sinh đột nhiên ôm một cây đàn tiến vào tửu lâu, ngang nhiên đòi thi đàn với Tiết tướng”. “Cái gì?”. Khương Trầm Ngư ngẩn ra một lúc, nhớ ra một vấn đề: Tiết Thái có biết chơi đàn không? Tuy Tiết Thái là thần đồng, văn võ song toàn, nhưng cũng không phải cái gì cũng tinh thông, ví như chơi đàn, nàng chưa bao giờ nhìn thấy hắn chơi. “Tiết tướng ngài… không biết chơi đàn”. Người áo tím nói ra đáp án. Quả nhiên là thế… Khương Trầm Ngư đã lờ mờ đoán ra vì sao mọi người lại cười như thế. “Vì vậy, thư sinh đó nói thi gảy đàn với ngài, không chỉ Tiết tướng ngẩn ra, mà những người xung quanh nghe thấy đều sững người. Tiết tướng chau mày nói; ‘Ngươi nói cái gì?’. Thư sinh đáp: ‘Ta muốn thi đánh đàn với ngài. Thừa tướng không phải nói, trong bảy ngày này bất luận là ai cũng có thể đến khiêu chiến ngài hay sao? Ta chính là đến khiêu chiến cầm nghệ của thừa tướng’”. Di Phi sau khi bị gọi dậy không còn gật gù nữa, vẫn đứng bên cạnh, nghe đến đây, mắt đảo một vòng, “ồ” lên một tiếng, cười trộm nói: “Hay, hay, cái này hay! Đường đường là thừa tướng Bích quốc mà đến đàn cũng không biết gảy, đúng là quá mất phong nhã…”. Khương Trầm Ngư lườm gã một cái: “Thứ lý lẽ ngụy biện này mà ngươi cũng nói ra được à? Ai gia muốn có một thừa tướng có thể xử lý chính sự chứ không cần một nhạc sư”. Người áo tím nói: “Trên thực tế, khi ấy mọi người đều nghĩ như thế, đều cảm thấy thư sinh đó thật kỳ quặc, lại nghĩ ra được yêu cầu vớ vẩn như thế, chắc chắn Tiết tướng không biết chơi đàn, nhưng Tiết tướng nhìn thư sinh đó một cái, cười lạnh nói: ‘Được’”. “Hắn đồng ý à?”. Điều này thực sự khiến Khương Trầm Ngư bất ngờ. “Vâng. Tiết tướng nhận lời, không chỉ như thế, ngài còn nói: ‘Ta biết trong lòng ngươi đang nghĩ gì, nếu ta không nhận lời ngươi, ngươi chắc chắn sẽ rêu rao với bên ngoài là lôi đài mà ta dựng có lỗ hổng, quy định thi đấu có lỗ hổng, cũng chỉ là hình thức, nếu có thi cũng không chính xác, từ đó mà tiến một bước xóa sạch toàn bộ thành tích huy hoàng trong bảy ngày qua của ta, đúng không?’. Thư sinh đó mỉm cười, không thừa nhận cũng chẳng phủ nhận. Tiết tướng tiếp tục nói: ‘Cho nên, ta tuyệt đối không để ngươi được thỏa nguyện. Ngươi muốn thi đàn à? Đến đây! Thi thì thi!’”. Khương Trầm Ngư tuy biết sau cùng chắc chắn Tiết Thái sẽ thắng nhưng nghe đến đây, trong lòng cũng không khỏi lo lắng. “Không phải hắn không biết chơi đàn sao?”. “Hồi bẩm nương nương, Tiết tướng đích thực là không biết chơi đàn, đối phương chắc chắn cũng đã tìm hiểu về điểm này, cho nên mới dám đến khiêu khích không hề e sợ như thế. Thế là, thư sinh đó ngồi xuống, đặt cây cổ cầm xuống nói: ‘Trước tiên phải nói cho rõ, kỹ thuật đánh đàn, cao thấp khác biệt nếu như rất lớn, tự nhiên sẽ dễ phán đoán, nhưng nếu trình độ ngang ngang nhau, thì sẽ khó mà đoán định. Ta và ngươi phải phân giới hạn rõ ràng như thế nào?’. Tiết tướng đáp: ‘Ngươi nói đi’. Thư sinh nói: ‘Được. Ý của ta là, có mặt ở đây tổng cộng bảy mươi chín người, chúng ta đàn ra sao, hãy để bảy mươi chín người này chấm điểm, cuối cùng ai được ủng hộ nhiều nhất, người đó thắng. Thế nào?’. Tiết tướng nói: ‘Được’”. Khương Trầm Ngư thở dài: “Thật là làm khó hắn rồi. Thế mà cũng nhận lời. Ai chẳng biết những người đi xem đó, kỳ thực đều là những người muốn nhìn thấy hắn thua cuộc, cho dù hắn có thể đàn hay như thư sinh kia, e là mọi người cũng mang tâm lý xấu xa muốn coi trò hay nên vẫn bỏ phiếu cho hắn thua thôi”. “Vâng, vi thần cũng nghĩ như vậy, vì thế vi thần đứng bên nhìn mà lo lắng hết đỗi, thần tiến lên phía trước khuyên can, trái lại Tiết tướng căn bản không để ý đến thần, bước tới ngồi đối diện với thư sinh, nói: ‘Ở đây không có đàn, ta dùng đàn của ngươi có được không?’. Thư sinh nói: ‘Được’. Tiết tướng nói: ‘Thế thì ngươi là khách, ngươi đàn trước’. Thư sinh đồng ý, liền bắt đầu gảy đàn…”. “Chắc hắn đàn rất giỏi”. Khương Trầm Ngư đoán. Người áo tím lại lắc đầu. “Sao? Lẽ nào hắn đàn cũng dở?”. Người áo tím vẫn lắc đầu. Khương Trầm Ngư đang cảm thấy kỳ quái, thì người áo tím đã nói rõ chân tướng: “Kỳ thực thì… căn bản hắn không đàn nổi. Hắn vừa mới gảy hai âm, dây đàn đã đứt. Cho nên, hắn đành phải thay dây đàn, nhưng gảy thêm được mấy âm, dây đàn lại đứt. Hắn lại thay dây, dây đàn lại đứt nữa… Tóm lại hắn cứ đàn được ba bốn tiếng, lại bị đứt một dây, cuối cùng, hắn đập bàn đứng dậy quát: ‘Tiết Thái, ngươi giở trò gì với đàn của ta phải không?’. Tiết tướng nói: ‘Đây là đàn của ngươi, dây cũng là ngươi tự tay mang theo’. Thư sinh nói: ‘Nhưng lúc ta gảy đàn ngươi lén lút dùng nội lực làm đứt dây đàn, đúng không?’. Tiết tướng mỉm cười: ‘Tỉ thí thôi mà. Nếu ngươi không phục, khi ta gảy đàn ngươi cũng thoải mái làm đứt dây đàn của ta’. Thư sinh giận dữ nói: ‘Ta không biết võ công!’. Tiết tướng nói: ‘Rất tốt, ta cũng không biết chơi đàn’. Thư sinh nói: ‘Thế thì ngươi thua rồi!’. Tiết tướng nói: ‘Dựa vào cái gì? Cầm nghệ đến đàn cũng không đàn nổi của ngươi cũng có thể coi là thắng sao?’. Thư sinh nói: ‘Đó là vì ngươi đứng bên cạnh phá hoại!’. Tiết tướng nói: ‘Ta có thể khiến ngươi không đàn nổi, thì ta thắng’. Thư sinh kêu lên: ‘Thế mà gọi là thắng à?’. Tiết tướng bỗng nói thật chậm, từng tiếng từng tiếng rành rọt: ‘Đây chính là chiến thắng của sức mạnh’. Thư sinh sững ra, không nói gì nữa”. Khương Trầm Ngư nhắc lại: “Chiến thắng của sức mạnh?”. “Vâng. Tiết tướng nói: ‘Trên thế giới này có rất nhiều kỹ nghệ, duy chỉ có sức mạnh là có thể trấn áp tất cả. Cầm nghệ của ngươi có cao hơn nữa, nhưng ta có thể khiến ngươi không đàn nổi, đây chính là biểu hiện của việc ta vượt trội hơn ngươi’. Nói đến đây, ngài xoay người, nhìn mọi người, cất cao giọng nói: ‘Các ngươi nghe rõ cho ta, những người khác muốn lợi dụng kiếm chác, muốn xuyên tạc lời ta, thì cũng phóng ngựa đến hết cả đây, nhưng trước khi đến, các ngươi phải chuẩn bị tâm lý cho tốt – Có lẽ các ngươi có thể thắng ta về một kỹ năng nào đó, nhưng, nếu võ công không thể thắng ta, đều là vô ích. Nếu võ công hơn ra, chớ quên sau lưng ta còn có mười hai thiết kỵ, ba vạn binh mã, quyền hành cả nước, các ngươi cứ khiêu chiến thử xem!’. Thư sinh thét lên: ‘Thế thi đấu còn gì là công bằng?’. Tiết tướng nhìn hắn khinh miệt, lạnh lùng cười: ‘Quyền thế cũng là một loại thực lực. Nếu ngươi không có thực lực vượt hơn ta, dựa vào cái gì mà đòi thay thế ta?’”. Khương Trầm Ngư ngẫm nghĩ câu “Quyền thế cũng là một loại thực lực”, không khỏi có phần ngây ngốc. Tiết Thái… Tiết Thái… xuất sắc như thế, kiêu ngạo như thế, lại bá đạo như thế! Có lúc không khỏi hoài nghi hắn có thực sự là con người không? Một đứa trẻ tám tuổi, sao có thể có trí tuệ như thế? Hơn nữa, ngoài trí tuệ ra, hắn còn xuất thân cao quý, vì thế đã bồi dưỡng nên tính cách cao ngạo ngút trời, cậy tài khinh người, ngoài tính cách ra, hắn lại trải qua chuyển biến lớn kinh thiên động địa của đời người – từ trời cao rớt xuống bùn lầy, lại từ bùn lầy trở lại trời cao như thế, khiến hắn ngoài ngạo mạn, còn rèn luyện được tính thận trọng và chu toàn hơn người thường. Hành vi nhìn có vẻ như huênh hoang to gan, được ăn cả ngã về không của hắn vừa hay là biểu hiện của việc hắn chuẩn bị đầy đủ, không hề sơ sót. Người bình thường, cho dù có được khả năng bẩm sinh như hắn cũng không thể có tính cách như hắn; cho dù có tính cách giống như hắn, cũng không thể có cảnh ngộ giống hắn… Hàng loạt các loại yếu tố này đã tạo thành thái độ ngang ngược coi thường hết thảy của hắn lúc này, mà thái độ ngang ngược ấy chính là điều không thể thiếu của một người làm chính trị thành công. Có lẽ bản thân thật sự may mắn, may mà hắn đứng về phía nàng. Nếu có một đối thủ như thế này, thực sự quá đáng sợ…
|
Hồi thứ hai mươi mốt: Gấm rách
Trung thu năm Đồ Bích thứ sáu chầm chậm đến trong cảnh tượng bừng bừng khí thế. Trưa ngày mười bốn tháng Tám, khi Khương Trầm Ngư đang đút cho Chiêu Doãn ăn, La Hoành thông báo: “Nương nương, quý nhân cầu kiến”. Khương Trầm Ngư đặt chén cháo thuốc xuống, vừa ra lệnh cho người hầu buông rèm, Khương Họa Nguyệt liền theo sau cung nữ dẫn đường bước vào bên trong: “Thần thiếp tham kiến hoàng hậu”. “Tỉ tỉ chớ đa lễ, mau mời ngồi. Người đâu, dọn chỗ”. Khương Trầm Ngư bước ra, mời Họa Nguyệt ngồi xuống bên bàn ở sảnh ngoài, nhìn tỉ tỉ hai má phinh phính, không kìm được vui mừng nói: “Sau khi sinh tỉ tỉ hồi phục khá nhanh, khí sắc nhìn tốt lắm”. “Từ sau khi ta nghe lời muội, không uống loại thuốc đó nữa, liền cảm thấy cơ thể mình mỗi ngày một khỏe hơn”. Khương Họa Nguyệt vừa nói, vừa cố tình liếc vào màn trướng ở gian trong một cái, mới nói: “Ta vừa nhận được một lá thư, hóa ra mẫu thân và phụ thân đang trên đường về kinh, nếu không có gì thay đổi, khoảng giờ Thân ngày mai là đến nhà. Cho nên ta đến hỏi muội, ngày mai có muốn về nhà một chuyến không?”. “Đương nhiên muốn. Muội cũng nhận được thư, đang chuẩn bị đi kiếm tỉ tỉ để bàn việc này. Vừa khéo tỉ tỉ tới đây”. Từ khi nhận được thư của mẫu thân, biết hiện nay bà vẫn khỏe, Khương Trầm Ngư rất vui, vì thế liền sắp xếp chuyện về nhà thăm người thân, cứ nghĩ đến ngày mai là có thể gặp mẫu thân, trong lòng nàng khó có thể bình tĩnh được. Lúc này, ngoài cửa truyền đến tiếng tranh cãi, Khương Họa Nguyệt vội nói: “A, là vú nuôi của ta”. Khương Trầm Ngư hạ lệnh: “Cho vú nuôi vào”. Một nữ tử có dáng vẻ vú nuôi ôm một đứa trẻ đang khóc oa oa đi vào trong. Khương Họa Nguyệt tiến lên phía trước đón đứa trẻ: “Tân Nhi, sao thế con? Không phải bảo con ngoan ngoãn ở nhà chờ mẹ sao? Sao lại khóc thế?”. Vú nuôi lo lắng nói: “Lão nô cũng không biết có chuyện gì, thái tử điện hạ đột nhiên khóc toáng lên, không sao dỗ được, đành phải đưa đến tìm nương nương”. Khương Trầm Ngư đứng bên cạnh nhìn đứa trẻ đó trắng trẻo bụ bẫm, rất đáng yêu, không kìm được nói: “Có thể cho muội bế một chút không?”. “Đương nhiên”. Khương Họa Nguyệt quay người đưa đứa trẻ qua. Khương Trầm Ngư cẩn thận đón lấy, khẽ đu đưa, đứa trẻ nín khóc, nhìn nàng một cái, miệng nhệch ra, lại khóc òa. “Ô ô, ngoan, đừng khóc đừng khóc, hoàng di ở đây… tỉ tỉ, có phải nó đói không?”. “Không đâu, nó vừa mới ăn mà”. Khương Họa Nguyệt thấy nàng bế cũng không có tác dụng, bèn đón lấy Tân Dã, dịu dàng dỗ một lát, nói: “Muội muội, ta có một thỉnh cầu hơi quá đáng…”. “Tỉ tỉ cứ nói”. Ánh mắt Khương Họa Nguyệt hướng về phía gian trong, nói: “Là thế này, từ khi Tân Nhi ra đời còn chưa được gặp hoàng thượng. Muội có thể để nó gặp phụ thân được không? Tỉ biết bây giờ hoàng thượng đang hôn mê bất tỉnh, vốn không nên đưa ra yêu cầu kiểu này, nhưng…”. Khương Trầm Ngư hơi do dự, nhưng nhìn thấy Tân Dã khóc không thôi, lại mềm lòng bèn gật đầu nói: “Được, tới đây nào”. Nói đoạn, đứng dậy dẫn đường. Hai người cùng đi vào gian trong, Khương Trầm Ngư ra hiệu cho cung nữ kéo rèm lên, rèm kéo lên rồi, khuôn mặt say ngủ bình thản của Chiêu Doãn xuất hiện trong tầm mắt Khương Họa Nguyệt. Y nằm ở đó, mái tóc, gương mặt đều vô cùng sạch sẽ, nhìn cũng biết là được chăm sóc rất cẩn thận. Thấy nét mặt y hiền hòa, nhẹ nhõm, thật khó mà tưởng tượng, người này đã nằm ngủ suốt một năm ròng. Nhớ đến cảnh ân ái ngày xưa, mắt Khương Họa Nguyệt hoe đỏ, cúi đầu nói với đứa con trong lòng: “Tân Nhi, đừng khóc nữa, nhìn này, đây là phụ vương của con. Phụ vương con đang ngủ, ngủ rất lâu rất lâu, cho nên không thể nói chuyện với Tân Nhi, nhưng không sao, đợi con lớn hơn chút nữa, phụ vương con sẽ tỉnh, đến lúc đó sẽ dẫn con đi chơi ở rất nhiều nơi… được không?”. Vừa nói vừa bế Tân Dã đến sát mặt Chiêu Doãn. Đứa trẻ dường nghe hiểu lời nàng ta, bỗng ngừng khóc, giương đôi mắt to đen trắng rõ ràng, nhìn chăm chăm vào Chiêu Doãn nằm trên giường. Khương Họa Nguyệt nhìn thấy nó có phản ứng, không kìm được vui mừng nói: “Muội muội xem kìa, đúng là có tác dụng. Tân Nhi nín rồi đó!”. Khương Trầm Ngư đứng bên cạnh nhìn thấy sự thần kỳ ấy, trong lòng không khỏi ngậm ngùi, huyết thống quả nhiên là thứ rất kỳ diệu, một đứa trẻ nhỏ như vậy, lẽ nào cũng cảm nhận được hơi hướm của phụ thân mà trở nên bình tĩnh hơn? Khương Họa Nguyệt vỗ nhè nhẹ vào Tân Dã nói: “Tân Nhi ngoan, phải hay ăn chóng lớn khỏe mạnh, để có thể nói chuyện với phụ vương nhé. Phụ vương thích Tân Nhi nhất, ngoan nhé…”. Mắt Tân Dã nhìn Chiêu Doãn không chớp một lúc, bỗng nhệch miệng khóc nức nở. Khương Họa Nguyệt hoảng lên: “Ôi ôi sao thế? Đừng khóc đừng khóc… được rồi, ta nên đưa nó về cung thì hơn, có lẽ đến chỗ quen thuộc nó sẽ đỡ hơn..”. Vừa nói vừa vội vàng đi ra ngoài. Chính lúc này một vật nặng loảng xoảng rơi xuống đất. Khương Trầm Ngư quay đầu, hóa ra là một cung nữ đứng hầu bên cạnh đánh rơi chậu rửa mặt kê cạnh giường. Cung nữ tự biết đã gây ra họa, cuống quýt quỳ xuống nói bằng vẻ mặt cực kỳ hoảng sợ: “Nương nương! Hoàng thượng… hoàng thượng…”. “Hoàng thượng sao?”. Khương Trầm Ngư thuận theo ánh mắt của nàng ta nhìn qua, liền phát hiện trên mặt Chiêu Doãn, hai hàng lệ trong vắt từ từ chảy xuống. Y… tỉnh rồi! Khoảnh khắc đó, một nỗi lo sợ vô bờ bến cuộn trào từ chân lên đỉnh đầu, Khương Trầm Ngư gần như kinh sợ đến suýt kêu lên, nhưng cuối cùng nàng đã khống chế được bản thân, trợn trừng mắt nhìn hàng lệ chậm rãi lăn trên gò má Chiêu Doãn rơi xuống gối. Còn các bộ phận khác của Chiêu Doãn vẫn bất động như cũ. Nàng tiến lên một bước, nắm tay y bắt đầu bắt mạch, chỉ cảm thấy mạch tượng lúc nhanh lúc chậm cực kỳ kỳ quái, với trình độ của bản thân không thể nhìn ra nguyên nhân, bèn trầm giọng nói: “Truyền thái y!”. Đám cung nữ vội vàng đi gọi người. Khương Họa Nguyệt bên cạnh lo lắng nói: “Muội muội, hoàng thượng sắp tỉnh phải không?”. “Không biết”. “Nhưng hoàng thượng chảy nước mắt kìa, hoàng thượng có phản ứng!”. “Không biết”. “Hoàng thượng? Hoàng thượng?”. Khương Họa Nguyệt không kìm được tiến lên mấy bước, đưa tay vuốt ve mặt Chiêu Doãn: “Hoàng thượng? Hoàng thượng có cảm thấy không? Thiếp là Họa Nguyệt… Thiếp đưa thái tử đến thăm người, nó tên là Tân Dã, vừa tròn bảy tháng tuổi, vẫn còn chưa biết nói…”. Tân Dã khóc oa oa, Khương Họa Nguyệt lòng tràn đầy hy vọng và Chiêu Doãn nằm trên giường tuy chảy nước mắt song vẫn không tỉnh, hình thành nên một cảnh tượng kỳ lạ. Khương Trầm Ngư nhìn cảnh tượng ấy, chỉ cảm thấy mình giống như một người ngoài cuộc, cách một tầng lụa cúi nhìn xuống mọi người. Nhưng trên thực tế, bất cứ cử động nào của Chiêu Doãn, là sống hay là chết đều có thể khiến nàng tan xương nát thịt. Khương Trầm Ngư hít một hơi thật sâu, trầm giọng nói mệnh lệnh thứ hai: “Truyền Tiết tướng”. Lại một toán cung nhân vâng dạ rồi rời đi. Không lâu sau, Giang Hoài dẫn theo hai thái y hốt hoảng chạy đến, đang định hành lễ, Khương Trầm Ngư liền nói: “Đừng quỳ, mau xem hoàng thượng sao rồi?”. Bọn Giang Hoài vội vàng vào khám, nhưng đang định bấm ngón tay bắt mạch cho Chiêu Doãn, thì trên mặt đã lộ một biểu cảm vô cùng cổ quái, sững sờ. Khương Họa Nguyệt thúc giục: “Thái y? Sao thế?”. Giang Hoài loạng chà loạng choạng lùi ra sau nửa bước, quỳ sụp xuống, run rẩy nói: “Vi thần đến trễ một bước, hoàng thượng đã… đã… băng hà rồi…”. Khương Trầm Ngư chỉ cảm thấy tai mình “bùng” một tiếng, câu tiếp theo không còn nghe thấy nữa, đồng thời, tầm nhìn của nàng cũng tối sầm, loáng thoáng nghe thấy có người kinh sợ hét: “Nương nương! Nương nương sao vậy?”. Nhưng bóng tối vô bờ bến bao trùm đất trời đã ụp xuống, nàng đột ngột mất đi tri giác. Trong bóng tối, rất nhiều giọng nói mông lung bồng bềnh trôi nổi. “Nương nương? Nương nương…”. “Muội muội? Muội muội…”. “Trầm Ngư? Trầm Ngư…”. Nhưng mà, không có thứ nàng muốn, hay nói cách khác, không có thứ nàng mong chờ. Nàng đang muốn điều gì? Rốt cuộc muốn điều gì? “Tiểu thư của Khương gia?”. Là cái này sao? Là cái này sao? “Trời không còn sớm nữa, Anh đưa tiểu thư về phủ nhé”. Là ai? Là ai?
|