Họa Quốc Tập 2
|
|
Khương Trầm Ngư nắm tay y chặt hơn, ngữ khí nghiêm trang hơn: “Ca ca! Muội không nói giỡn đâu! Huynh đồng ý với muội, phải làm được, không được có một chút sơ suất nào, nếu không, không chỉ huynh, cả Khương gia đều bị liên lụy, sẽ thành Tiết thị thứ hai!”. Nét mặt vốn dĩ không chú tâm của Khương Hiếu Thành đã biến thành chấn động, há hốc mồm, chân tay thừa thãi đứng như trời trồng hồi lâu, cuối cùng mới khẽ nói: “Nghiêm trọng thế à?”. Khương Trầm Ngư gật đầu: “Rất nghiêm trọng”. “Thế… bây giờ xin hoàng thượng hủy thánh chỉ, vẫn còn kịp chứ?”. Khương Trầm Ngư lắc đầu. Khương Hiếu Thành cực kỳ thất vọng, lại ngồi xuống đất, im lặng một lúc rồi buồn bã nói: “Hóa ra hoàng đế không có tiền… Tên tiểu tử, bảo sao đột nhiên lại nhớ ra đề bạt nhân tài như ta, hóa ra là không có ý tử tế. Tên tiểu tử hoàng đế đó đúng là nham hiểm, năm đó đối với Tiết Hoài như thế, bây giờ lại đối phó…”. “Ca ca!”. “Được rồi, không nói nữa… cứ tưởng là được đi tiêu tiền, còn vui mừng vì cuối cùng cũng có thể ra khỏi kinh thành một chuyến…”. Khương Hiếu Thành bực bội lẩm bẩm mấy câu xong đột nhiên quay đầu nghiêm túc hỏi: “Muội nói xem tại sao hoàng đế lại không có tiền? Thế tiền đi đâu rồi? Tháng tư tịch biên Tiết gia, lúc đó chẳng phải là sung công được ba triệu lạng sao? Sao mới nửa năm mà đã hết sạch rồi? Triều định chúng ta đâu có tham quan… A! Lẽ nào là cha dùng hết vào việc huấn luyện bọn tử sĩ gì đó?”. Khương Trầm Ngư nhìn y bằng một ánh mắt thương hại, nói nhỏ: “Không phải cha?”. “Thế là ai?”. Khương Hiếu Thành bắt đầu động não cái đầu không thông minh hơn heo là bao của y: “A! Đó chính là Hy Hòa phu nhân! Chắc chắn là ả! Ngày ngày xa hoa vô độ…”. Khương Trầm Ngư kêu khổ trong lòng, nhưng ngoài miệng chỉ nói: “Ca ca, huynh ăn nói bớt cay nghiệt đi, Hy Hòa phu nhân bị điên rồi”. “Đúng đúng đúng, không nói ả không nói ả, mạo phạm người đẹp, không dám không dám… ôi, nghĩ không ra”. Khương Trầm Ngư cụp mắt xuống, thấp giọng thì thào: “Là Cơ gia!”. “Cơ gia?”. Khương Hiếu Thành nhướng mày: “Muội đang nói đùa à? Cơ Anh nổi tiếng thanh liêm, môn khách của ngài còn phải tự cày cấy làm ruộng mới đủ ăn…”. “Không phải Cơ Anh, mà là Cơ gia”. Khương Trầm Ngư nhấn mạnh: “Toàn bộ Cơ gia”. Khương Hiếu Thành gãi đầu: “Ý của muội là hầu gia không tham ô, nhưng người thân thích của ngài tham ô? Nếu so sánh với nhà chúng ta, cha không tham, muội không tham, nhưng ta tham, cho nên toàn bộ đều do ta nuốt hết?”. Khương Trầm Ngư gật đầu. Khương Hiếu Thành lại há miệng ngây người một lát: “Thế thì che giấu giỏi thật… Không đúng, không đúng… muội muội! Chuyện này không đúng! Cơ gia chẳng phải có Liên thành bích trong truyền thuyết sao, không sợ thiếu tiền!”. “Liên thành bích gì cơ?”. Thấy muội muội không biết chuyện, Khương Hiếu Thành lại nổi máu nam tử hán lên, y ưỡn ngực, hóp bụng, đang định kể lể một lượt, bỗng nghe bên ngoài vang lên một tiếng gọi chói tai: “Khương đại ngốc, chàng lăn ra đây cho thiếp!”. Khương Hiếu Thành nhất thời sợ hãi đến mức run lẩy bẩy, tiếng đập cửa dồn dập, tiếng thét như quỷ khóc, và hai chữ “đại ngốc” không hề để cho gã chút sĩ diện đó, đã nói rõ người đến không phải ai khác, mà chính là người vợ kết tóc se tơ kiêm hổ cái nhà y – Lý thị. Y mở cửa sổ định nhảy ra ngoài. Khương Trầm Ngư từ tốn nói: “Ca ca, đây là lầu ba”. Khương Hiếu Thành vội vàng rụt một chân đang giẫm lên bậu cửa sổ xuống, lo lắng đến mức mồ hôi vã ra như tắm: “Làm sao đây làm sao đây? Sao nàng ta lại tới? Làm sao đây, làm sao đây?”. “Để muội thay ca ca xoa dịu đại tẩu”. Khương Hiếu Thành mừng rỡ ra mặt: “Thật à?”. “Nhưng như đã nói trước đó, chuyện Giang Đô lần này…”. Khương Trầm Ngư còn chưa nói hết lời, Khương Hiếu Thành đã gật đầu lia lịa nói: “Đều nghe muội, đều nghe muội cái gì cũng nghe muội hết! Muội bảo ta làm sao thì ta làm vậy, ta còn đợi muội cứu mạng đây, muội muội tốt của ta!”. “Giao kèo xong”. Khương Trầm Ngư đứng dậy, đi tới mở cửa phòng ra, dịu dàng nói: “Bọn muội ở đây”. Lý thị dẫn đầu một toán gia đinh khí thế hung hăng chuẩn bị xông vào bắt gian nhìn thấy người sau cánh cửa còn chưa kịp kinh ngạc đã bị Khương Trầm Ngư tóm cổ tay lôi vào trong. Sau đó, cửa phòng đóng lại, nhốt toàn bộ gia đinh ở bên ngoài. Bởi vì chỉ có một mình Lý thị nhìn thấy Khương Trầm Ngư nên đám gia đinh bên ngoài cửa đều không rõ bên trong xảy ra chuyện gì, đang định tiến vào thì nghe Lý thị ở trong quát một câu: “Các ngươi không được vào trong”. Mọi người liền vội vã dừng bước. Cứ như thế đứng khoảng nửa tuần trà ở ngoài cửa, cánh cửa phòng lại mở ra, Lý thị chậm rãi bước ra ngoài. Nếu như nói khi vào phòng Lý thị như cuồng phong bạo vũ; thì khi ra Lý thị lại thành gió mát ngày lành. Chỉ thấy nàng ta vén tóc mai, cười híp cả mắt nói: “Không có chuyện gì, về thôi”. Một tiểu a hoàn không hiểu chuyện, vẫn ngây ngây ngô ngô hỏi: “Thiếu phu nhân? Đại thiếu gia đâu?”. “Thiếu gia cái gì mà thiếu gia”. Lý thị mắng té tát: “Không nhìn xem đây là đâu hả? Thiếu gia nhà các ngươi đến đây sao? Ngu như heo, còn không mau theo ta về, để tránh bị mất mặt!”. Nói rồi, uốn éo bước lên kiệu. Tiểu a hoàn bị mắng không dám mở miệng cãi, vội vàng đi theo kiệu, một đám người rầm rầm rộ rộ rời khỏi Hồng Tụ lâu. Sau khi chuyện này đồn ra ngoài bị đầu đường cuối ngõ cười nói bàn luận một dạo, đương nhiên mỗi người nói một phách, càng ngày càng xa sự thực. Còn khi Điền Cửu đem câu chuyện thực sự bên trong bẩm báo lên Chiêu Doãn, Chiêu Doãn chỉ cười nhạt, vừa dùng bút son phê một chữ “chuẩn y” lên tấu chương, vừa nói: “Trẫm vốn muốn có hiệu quả này. Khương gia nếu không nỡ bỏ thằng con trai bảo bối này, thì cần phải cân nhắc thật kỹ chuyện ở Giang Đô lần này, nên tự cứu mình như thế nào”. Điền Cửu muốn nói gì đó nhưng lại ngừng lại. Chiêu Doãn nhíu mày nói: “Có gì cứ nói đi”. “Vâng. Hoàng thượng cảm thấy Thục phi nương nương sẽ có cách giải quyết việc này chứ?”. “Nàng ấy có”. “Ngộ nhỡ nương nương thất bại thì sao? Chuyện Giang Đô suy cho cùng cũng không phải trò đùa, một khi thất bại, hậu quả thật không thể tưởng tượng nổi…”. Chiêu Doãn khe khẽ thở dài một tiếng, đặt cây bút và tấu chương trong tay xuống nói: “Theo Điền Cửu người Bích quốc hiện nay, hai gia tộc có sức ảnh hưởng nhất là gia tộc nào”. Điền Cửu có vẻ hơi trầm ngâm: “Hai nhà Khương, Cơ”. “Thế thì, người có sức ảnh hưởng nhất trong hai tộc này là ai?”. “Khương gia đương nhiên là hữu tướng Khương Trọng, còn Cơ gia…”. Điền Cửu lắc đầu nói: “Cơ gia lại khác, con cháu Cơ thị mỗi người đảm nhiệm một phương diện, nhiều kẻ xuất sắc, nhưng chính vì cả nhà đều giỏi giang, cho nên ngược lại không nghĩ được ngoài Cơ Anh ra, còn có ai có thể áp chế quần hùng thống lĩnh đại cục…”. Chiêu Doãn lắc đầu, cười cười nhìn Điền Cửu nói: “Sai rồi”. “Sai ạ?”. Điền Cửu ngạc nhiên: “Xin hoàng thượng chỉ bảo”. “Đến nay hai tộc Khương, Cơ chỉ còn lại hai người này”. Chiêu Doãn nâng bút, khoanh hai vòng tròn trên một danh sách dày chi chít chữ, mà hai cái tên bị khuyên trúng chính là Khương Trầm Ngư, Tiết Thái. “Muội muốn huynh vứt bỏ thành kiến đối với Tiết Thái, chuyến đi Giang Đô lần này, cho dù hắn nói gì, làm gì, đều phải dốc toàn lực phối hợp với hắn. Bởi vì, hiện nay chỉ có hắn mới có thể lấy được tiền từ Cơ gia. Huynh muốn lấy được đủ tiền để giải quyết vấn đề thì phải đối tốt với hắn một chút”. Đây là lời khuyên chân thành cuối cùng Khương Trầm Ngư nói với Khương Hiếu Thành trong cái đêm ở Hồng Tụ lâu đó. Nhưng nàng không ngờ rằng, trong chuyến đi Giang Đô này, ca ca của mình đã hoàn toàn biến thành tay sai của Tiết Thái, tận tâm hầu hạ, mức độ ân cần còn vượt xa so với kế hoạch của nàng… Đó là chuyện về sau, tạm thời không bàn đến. Ngày mười hai tháng chín, Tiết Thái và Khương Hiếu Thành phụng ý chỉ của hoàng đế đến Giang Đô trước muôn và cặp mắt của mọi người. Sau khi họ đi, hàng ngày Khương Trầm Ngư ngoài việc cùng Chiêu Doãn lên triều, thì chiều nào nàng cũng đến Bảo Hoa cung thăm Hy Hòa. So với trước đây Hy Hòa khá lên rất nhiều, nhiều lúc Khương Trầm Ngư đọc sách ở đó, còn nàng ta yên lặng chơi một mình. Có lúc thấy Khương Trầm Ngư viết chữ, thì quấn lấy nàng đòi vẽ tranh. Khương Trầm Ngư sai người chuẩn bị màu vẽ cho nàng ta, nhưng nàng ta lại không muốn, mà đòi hồ dán với keo giấy, nhìn thấy thứ gì liền cắt thứ đó, thành ra màu, giấy các loại chất thành một mớ hỗn loạn, sau cùng lại lấy hồ dán giấy, chơi rất vui vẻ. Lần đầu tiên Khương Trầm Ngư nhìn thấy cách vẽ tranh mới mẻ như thế, có lúc không kìm được đến chơi cùng nàng ta. Thỉnh thoảng nàng phải đến ngự thư phòng vào buổi tối nghe Chiêu Doãn và các đại thần tâm phúc nghị sự. Bách Ngôn đường lần lượt có thêm người mới, tính cả Khương Trầm Ngư tổng cộng là tám người. Bảy người kia đều là những kẻ khôn ngoan khéo léo, không hề tỏ ra kinh ngạc trước sự tồn tại đặc biệt của nàng, cứ thản nhiên tự tại khi ở cùng nàng. Cùng lúc, phụ thân nàng cũng bị Chiêu Doãn triệu đến thư phòng để hỏi chuyện, nàng đứng cách một bức tường nhìn ông nghị chính, giống như một người xa lạ. Không lâu sau, ngày sắc phong đã được định là ngày mùng một tháng mười một. Vì đất nước có nạn hạn hán nên hết thảy nghi thức đều đơn giản, nhưng phong hậu vẫn là một việc lớn, nên trong một thời gian ngắn, vô số việc chồng chất, bận rộn đến mức nàng bù đầu nhức óc. Đêm nay, nàng xử lý công chuyện trong Bảo Hoa cung, Hy Hòa ngồi bên cạnh yên lặng vẽ tranh, vào khoảng giờ Tuất, Phật âm từ bên ngoài vọng vào, du dương êm ái, cực kỳ rung động lòng người. Hy Hòa ngẩng đầu lắng tai nghe một lúc, bỗng quẳng chiếc bút đi, bắt đầu khóc. Khương Trầm Ngư không hiểu chuyện gì xảy ra, sai cung nữ đi hỏi, không lâu sau, cung nữ quay về bẩm báo: “Nương nương, là từ trong Đoan Tắc cung vọng ra, nghe nói là Cơ quý tần đang làm lễ cầu siêu cho Kỳ Úc hầu”. Cuốn sổ trong tay Khương Trầm Ngư bỗng chốc rơi xuống đất, nàng ngây ra nhìn bàn tay mình, hai tay trống không, không thể chắp lại được. Thứ âm nhạc mà Cơ Hốt chọn dùng hoàn toàn khác với những gì nàng đã từng được nghe, không hề mang âm hưởng bi ai, ngược lại còn có ý vị phóng khoáng đến siêu phàm thoát tục. Nhưng lọt vào tai, trong lòng càng đau đớn hơn. Khương Trầm Ngư nghe mãi nghe mãi, không nhịn nổi đi khỏi cung, men theo tiếng nhạc lần về phía trước, cuối cùng đã đến trước hồ Phượng Thê. Nhìn từ xa, Đoan Tắc cung thần bí đẹp đẽ ở chính giữa hồ, một dấu chấm màu trắng muốt tựa như một vầng trăng sáng treo lơ lửng giữa bầu trời đêm. Mà tiếng nhạc linh hoạt kỳ ảo lại bay vút lên từ nơi đó, được hơi nước trên mặt hồ bao phủ, được gió thu trong không trung thổi qua, càng có vẻ liên miên xa xôi. Phật nói, con người ta sau khi chết đi, ngoài những linh hồn lập tức thăng thiên, những vong hồn khác đều phải đợi bảy bảy bốn mươi chín ngày mới có thể quyết định đầu thai luân hồi. Vì thế, trong bảy bảy bốn mươi chín ngày đó, phải siêu độ cho vong hồn, để khi tái sinh làm người sẽ được đầu thai vào nhà nào tốt một chút. Cơ Hốt cầu siêu cho Cơ Anh cũng xuất phát từ lòng yêu thương đệ đệ, hy vọng kiếp sau chàng có thể bình an, khỏe mạnh trường thọ. Nhưng tại sao lại mang đến cho nàng nỗi đau xé gan xé phổi như thế, giống như sắp cắt đi một phần linh hồn như thế? Công tử… sắp đi… rồi. Lăng địa[2] của chàng cũng đã chọn xong, dưới núi Ngũ Tùng ở ngoại ô phía Đông, sau bốn mươi chín ngày sẽ nhập thổ an táng. Còn linh hồn của chàng sau khi được cầu siêu, có thể sẽ luân hồi chuyển thế, thực sự cắt đứt với kiếp này… Từ khi về cung đến nay, liên tiếp xảy ra hai, ba chuyện lớn, khiến nàng bận bù đầu không có thời gian rảnh rỗi để thương xuân sầu thu, tự oán tự trách. [2] Lăng địa: Nơi xây lăng mộ. Nàng vốn tưởng mình đã quên rồi, nàng vốn nghĩ mình đã chuẩn bị tốt rồi, trong cái đêm khắc cốt ghi tâm mùng một tháng tám đó, nàng những tưởng hết thảy trước mắt của mình đã cạn rồi, nhưng mà… giờ này phút này, nghe thấy Phật âm như tiên nhạc đó, nhìn thấy Đoan Tắc cung giữa hồ đó, mắt nàng lại cay xè, cảm xúc đau thương giống như sương đêm từ từ dâng lên, tầng tầng lớp lớp nhấn chìm cả thể xác và tâm hồn nàng trong đó. Công tử… chàng có hận ta không? Là cha và anh rể ta liên thủ, dùng thủ đoạn bì ổi nhất hại chết chàng. Còn ta, ta biết tất cả, nhưng lại bó tay trước tất cả, thậm chí không có cách gì báo thù cho chàng… chàng có hận ta không? Công tử nhất định không hận ta đâu. Nhưng bản thân ta… không có cách nào… không có cách nào tha thứ cho chính mình! Khương Trầm Ngư cắn chặt môi, trước mắt bỗng nhòa đi. Từ cái đêm đoạn tuyệt với phụ thân, hai mắt nhỏ lệ máu đó, thi thoảng lại xuất hiện tình trạng mắt bị nhòe trong thời gian ngắn như thế này, nàng tự mình tra cứu y thư, cũng mời Giang Hoài khám, đều nói là do tâm tư ưu phiền tạo thành, chỉ cần nghỉ ngơi hợp lý, giữ cảm xúc cân bằng, là có thể không chữa mà khỏi. Nhưng cảnh này tình này, làm sao nàng có thể giữ cho cảm xúc cân bằng đây?
|
Hồi thứ mười bảy: Tân hậu
“Tiết công tử quả nhiên không hổ là Băng Ly công tử được Yên vương ngự ban, kiến thức khác hẳn người bình thường”. “Đúng thế đúng thế, sinh nhật công tử lên sáu, tiểu nhân có may mắn nhận được một tấm thiệp, còn đến quý phủ thăm hỏi, không biết công tử có còn ấn tượng không…”. Tiết Thái nghe những lời tâng bốc thật thật giả giả này, chỉ mỉm cười nhàn nhạt, bỗng quay sang mỹ nhân đang tiếp Khương Hiếu Thành uống rượu ở bàn bên cạnh nói: “Chiếc vòng của vị cô nương đây đẹp quá…”. Câu nói này khiến cho tất cả mọi người có mặt đều đổ dồn ánh mắt lên người mỹ nhân. Mỹ nhân nhận được sự chú ý, càng cảm thấy vui vẻ, mỉm cười xinh đẹp, nói: “Tiểu công tử nhãn lực thực tốt. Chiếc vòng này…”. Nói đoạn đánh mắt sang nhìn Quan Đông Sơn, che miệng cười: “Đây là bảo bối gia truyền, nghe nói là ngọc Băng Hoa Phù Dung chính tông, giá trị khuynh thành đó”. Tiết Thái: “Có thể cho tại hạ mượn xem một chút không?”. Mỹ nhân rất sảng khoái, vui vẻ tháo vòng đưa cho Tiết Thái. Tiết Thái cầm lên xem kỹ một lượt, đưa trả lại cho nàng ta, trên mặt có chút cổ quái. Mỹ nhân không kìm được hỏi: “Tiểu công tử như vậy là có ý gì? Chiếc vòng này có gì lạ à?”. Tiết Thái than nhẹ rằng: “Cái gọi là báu vật gia truyền, quý ở tâm ý. Có tâm là tốt rồi, hà tất phải để ý ở giá trị thực sự của nó”. Kỳ thực hắn không nói không sai, nói như vậy, mỹ nhân đương nhiên không chịu bỏ qua, liền truy hỏi: “Công tử có gì xin cứ nói thẳng, chiếc vòng này lẽ nào không phải là ngọc Băng Hoa Phù Dung?”. Tiết Thái trầm giọng đáp: “Mọi người đều biết, loại ngọc này do Dương quý phi đặt tên, tín vật định tình Đường Minh Hoàng tặng cho Dương thị năm xưa chính là loại ngọc này, tên thưở nhỏ của quý phi là Phù Dung, lại thêm hoa văn của nó giống như băng rạn, cho nên người đời sau đặt tên là Băng Hoa Phù Dung. Loại ngọc này có màu sắc vô cùng hiếm gặp, loại màu tím hồng này là phần được hình thành ở giữa suối, đeo lâu ngày có thể dưỡng nhan trắng da, cho nên lại càng trân quý lạ thường”. Mọi người gật đầu lia lịa. “Cũng vì thế, kẻ làm giả chúng vô cùng nhiều, tay nghề tinh xảo, thậm chí có thể lấy giả đổi thật”. “Ý của công tử là chiếc vòng của ta là đồ giả?”. “Là giả hay thật, nhìn cái là biết…”. Tiết Thái nói đoạn, đảo mắt nhìn quanh, nói với một mỹ nhân khác: “Có thể cho tại hạ mượn chiếc vòng của cô nương một lát không?”. Mỹ nhân đó liền vội vàng tháo chiếc vòng của mình đưa cho hắn, đó là một chiếc vòng bằng bạch ngọc. Hai chiếc vòng chồng lên nhau, màu trắng hồng lại càng đẹp mắt. Tiết Thái chồng hai chiếc vòng lên nhau xong bắt đầu cọ xát chúng, một lúc sau lại đem hai chiếc vòng đưa cho mỹ nhân thứ nhất: “Ngửi xem”. Mỹ nhân thứ nhất hít nhẹ một cái, kinh ngạc kêu lên: “Đây là mùi gì?”. “Mùi của đá nhân tạo”. Tiết Thái giải thích: “Mùi này toát ra từ chiếc vòng của cô nương, điều này cho thấy, chiếc vòng của cô ta là thật, còn của cô nương là giả”. Mỹ nhân đột nhiên phù dung thất sắc, quay đầu nhìn sang Quan Đông Sơn, Quan Đông Sơn vội vã ngoảnh sang chỗ khác làm bộ nói chuyện với người khác, khiến mỹ nhân vừa tức vừa thẹn, lập tức ném chiếc vòng đó đi, khóc òa lên rồi chạy mất. Cả sảnh đường cười ầm lên. Mà thái độ của mọi người ở đó lập tức khác hẳn đi. Tuy Tiết Thái và Khương Hiếu Thành cùng là khâm sai đến Giang Đô lần này, những kẻ quyền quý kia lại chủ yếu nịnh bợ Khương Hiếu Thành, khi giáp mặt với Tiết Thái, luôn có ít nhiều gượng gạo bối rối. Tiết tộc diệt vong, đến nay người nhà họ Tiết có thể nói chỉ còn lại hai người, phế hậu trong lãnh cung Tiết Mính và quan khâm sai nhưng thực chất vẫn là nô lệ Tiết Thái. Mọi người không dám quá thân thiết với hắn, cũng là lẽ thường tình của con người. Nhưng hắn giở chiêu này, mọi người thán phục trong lòng, cũng không còn kiêng dè nhiều, lần lượt tiến lên bày tỏ sự ngưỡng mộ và mời hắn về nhà làm khách. Tiết Thái không từ chối một ai, gật đầu đồng ý hết. Đêm đó, hắn và Khương Hiếu Thành ở lại phủ đệ của thành chủ, nhân tiện tham quan thư phòng của Quan Đông Sơn một chút, khi Quan Đông Sơn bày những bức thư họa sưu tầm nhiều năm ra, hắn chỉ mỉm cười không nói, cũng không phát biểu bất cứ suy nghĩ gì. Ngày thứ hai, đi đến làm khách ở các nhà quyền quý nổi tiếng cũng vậy. Ngày thứ ba, vẫn như thế. Thực ra mọi người mời hắn, ngoài việc bợ đỡ lấy lòng ra, còn có mục đích muốn hắn dùng tuệ nhãn để giám định đồ quý nhà mình. Nhưng hắn nhìn tới nhìn lui, vẫn không phát biểu ý kiến, thật khiến người ta buồn bực. Cuối cùng vẫn là Quan Đông Sơn không nhịn nổi đầu tiên, hỏi: “Tranh chữ của nhà ta không lọt vào mắt xanh của công tử à? Tại sao công tử không chịu bình luận gì hết?”. Tiết Thái thong thả cười nói: “Vì sao Quan đại nhân thích tranh chữ?”. “Tại sao thích à? Cái này… chính vì thích thôi…”. Tiết Thái lại nói; “Quan đại nhân đã tiêu không ít tiền vì những bức tranh chữ này phải không?”. “Đương nhiên, công tử không biết chứ, số tranh chữ này còn quý hơn cả kim ngân châu báu gì đó…”. Nói đến đây, Quan Đông Sơn chợt nhớ ra thân phận của đối phương, liền phân bua: “Nhưng những thứ này của hạ quan, đều nhờ người ta mua, cho nên vẫn rất rẻ, vẫn rất rẻ, hi hi…”. “Có đến mười vạn lượng không?”. “Không có! Tuyệt đối không có!”. Quan Đông Sơn lắc đầu nguầy nguậy như lắc trống bỏi. “Quan thành chủ có biết chỉ một bức ‘Liệt nữ truyện Nhân Trí đồ’ này, nếu đúng là bút tích của Cố Khải Chi, chí ít giá trị cũng phải năm vạn lượng trở lên không? Đấy là chưa kể đến giá cả sau khi bị bọn gian thương nâng giá”. Quan Đông Sơn nghe thấy thế hai mắt sáng lên: “Thật à, thật à? Thế thì xem ra quả nhiên bỉ chức kiếm được món hời rồi, tốn có ba vạn lượng bạc đã mua được”. Tiết Thái cúi đầu, nhướn mày, cười một cái: “Cho nên, đây chắc chắn là giả”. Vẻ mặt Quan Đông Sơn vốn dĩ đang phấn chấn bỗng biến thành sửng sốt: “Cái gì? Khoan đã, Tiết công tử, tại sao lại khẳng định đây là giả?”. “Bởi vì rất không may, theo ta được biết có một người vô cùng yêu tranh chữ, hơn nữa tài lực thế lực của người đó còn vượt xa đại nhân. Bức ‘Liệt nữ truyện Nhân trí đồ này, người đó đã nói sẽ mua với giá mười vạn lượng từ ba năm trước. Nếu đại nhân là chủ nhân của bức tranh này, có ý bán nó, liệu ngài có thể không cần mười vạn lượng mà chỉ ba vạn lượng đã bán cho người khác không?”. Quan Đông Sơn giọng run run nói: “Nhưng, nhưng ta và người đó có giao tình!”. Tiết Thái cười nhạt. “Tiết, Tiết, Tiết công tử?”. Tiết Thái quay người nhìn lên đám mây trên bầu trời bên ngoài cửa sổ, buồn bã nói: “Nhớ năm xưa, gia phụ cũng cho rằng mình có giao tình với rất nhiều người, muốn thứ gì chỉ cần dặn dò là trăm người hưởng ứng, người người tranh nhau làm. Nhưng khi ông xảy ra chuyện, không có một ai dám đứng ra giúp đỡ, giao tình… Quan thành chủ, ngài lăn lộn chốn quan trường đã bao năm, vẫn còn tin vào hai chữ ‘giao tình’ sao?”. Mặt Quan Đông Sơn lúc trắng lúc đỏ, cực kỳ bối rối, nhưng vẫn cố gắng vớt vát nói: “Chỉ dựa vào giá thành, không thể suy đoán nó chắc chắn là giả được?”. Tiết Thái quay người lại, cầm lấy bức “Liệt nữ truyện Nhân Trí đồ”, giở ra nói: “Thành chủ xem, chúng ta đều biết bức tranh này vẽ dựa vào quyển thứ ba ‘Nhân Trí truyện’ trong bộ ‘Liệt nữ truyện’, sau mỗi phần tranh vẽ đều có ghi lời ngợi khen, chú rõ nhân vật nào, tổng cộng có mười lăm bức”. “Không sai, là mười lăm bức”. “Sai chính ở chỗ này”. Tiết Thái than khẽ, nói: “Trên thực tế, trải qua chiến tranh hỏa hoạn, những bức họa này ngoài bảy bức ‘Sở Vũ Đặng Mạn’, ‘Hứa Mục phu nhân’, ‘Tào Hy thị thê’, ‘Tôn Thúc Ngạo mẫu’, ‘Tấn Bá Tông thê’, ‘Linh Công phu nhân’, ‘Tấn Dương Thúc Cơ’ còn được bảo tồn hoàn chỉnh, còn lại đã bị mất. Mà những bức thành chủ sưu tập được, lại hoàn toàn không có chút khiếm khuyết. Đây chính là sơ hở lớn nhất”. Quan Đông Sơn mặt xám ngoét, bị đả kích mạnh, cuối cùng lý nhí nói: “Nói như thế, lẽ nào những bức tranh chữ khác của hạ quan cũng đều là giả?”. “Tuy không phải toàn bộ, nhưng cũng gần hết”. Tiết Thái ngẩng đầu, thần sắc lạnh nhạt, tựa như châm biếm, tựa như cảm khái lại tựa như cô độc: “Trên thế gian này, làm gì có nhiều trân bảo để cho người ta chia nhau cất giữ thế? Tuyệt đại bộ phận chẳng qua đều là học đòi phong nhã mà thôi”. Câu “học đòi phong nhã” cuối cùng đã châm chích Quan Đông Sơn thật sâu cay, hắn định xé bức tranh chữ, nhưng Tiết Thái ngăn hắn lại, nói: “Những bức tranh này tuy là giả, nhưng mô phỏng cũng rất khéo. Nếu thành chủ không cam tâm, ta có cách để biến đồ bỏ thành bảo vật”. “Hả? Làm sao có thể biến đồ bỏ thành bảo vật?”. Tiết Thái cười vẻ thần bí: “Ngày mai ta và Khương đại nhân mời tiệc các vị ở Ngọc Giang lâu, mong thành chủ vui lòng đến dự. Chớ quên khi đến mang theo những bức tranh chữ này của ngài”. Cứ như thế, hai vị khâm sai đến Giang Đô, ba ngày đầu tiên, ngoài ăn uống ca hát vui chơi thì không làm gì hết. Sang ngày thứ tư, vẫn là ăn ăn uống uống, có điều có thêm một trò chơi so với ngày thường, đó chính là – quyên góp cứu chẩn. Rượu được nửa tuần, Tiết Thái ra hiệu cho Quan Đông Sơn lấy tranh ra, lớn tiếng nói: “Các vị, quốc nạn ập đến; thần tử chúng ta cũng nên hiến chút sức lực vì hoàng thượng mới phải. Từ khi Giang Đô đại hạn, Quan thành chủ vẫn luôn đêm không ngon giấc, lo lắng trằn trọc, suy nghĩ cách giải quyết. Nhưng đúng như lời Khương đại nhân nói, trời muốn đại hạn là chuyện không thể tránh được, ông trời không chịu ban mưa, người phàm chúng ta đâu có cách gì được?”. Khương Hiếu Thành nghe thấy Tiết Thái trích dẫn lời của mình, không kìm được đắc ý ra mặt, liên tục gật đầu. Những người còn lại trong bữa tiệc không hiểu rốt cuộc Tiết Thái định giở trò gì, đều im lặng quan sát. Tiết Thái nói xong một tràng, rồi mau chóng dẫn dắt vào chủ đề chính: “Vì thế, đêm qua Quan thành chủ đến tìm ta, bày tỏ nguyện vọng muốn quyên góp toàn bộ số tranh đã sưu tập trong nhiều năm của ngài, quy đổi thành tiền mặt ngân lượng, lần quyên góp cứu nạn hạn hán này là chia sẻ lo lắng với nước nhà, giải cơn hoạn nạn cho dân chúng…”. Quan Đông Sơn nghe thấy, hai mắt trợn trừng lên, vội giật giật tay áo Tiết Thái, nhưng Tiết Thái nói một câu “Đừng sốt ruột” rồi không đếm xỉa đến hắn nữa, mà lấy bức “Liệt nữ truyện Nhân Trí đồ” ra trước tiên, cao giọng nói: “Bức ‘Liệt nữ truyện Nhân Trí đồ’ này đã được ta giám định, là bút tích thực sự của Cố Khải Chi, giá trị mười vạn lượng. Nhưng thành chủ đôn hậu, đồng ý bán rẻ, chỉ lấy tám vạn lượng. Có ai muốn mua không?”. Quan Đông Sơn nghe đến đây, cũng coi như hiểu ra. Hóa ra cái Tiết Thái gọi là biến đồ bỏ thành bảo vật, tức là lấy đồ rởm bán ra như đồ xịn. Cũng hay, quy đổi thành tiền xong lại đi mua tranh tiếp, hắn không tin đen đủi đến mức cả đời đều gặp hàng giả. Chỉ có điều… các vị ngồi đây đều không phải tay vừa, ai có thể dễ dàng mua? Quả nhiên, lúc sau xung quanh vẫn im lặng như tờ, không có ai trả giá, càng không có ai lên tiếng. Tiết Thái ngẫm nghĩ, quay sang Khương Hiếu Thành nói: “Khương đại nhân, mọi người xấu hổ nên không dám mở miệng lên trước, ngài giúp một chút nhé”. Khương Hiếu Thành cười ha ha, khoát tay một cái: “Được. Ta nhận. Bức tranh này ta mua”. Lời vừa thốt ra, xung quanh xì xào. Tuy nói Khương Hiếu Thành là công tử của hữu tướng, lại đảm nhiệm chức Vũ lâm quân Kỵ đô úy, nhưng vừa ra tay là tám vạn lượng, vẫn thật sự khiến người ta giật mình. Khương Hiếu Thành cười, nói: “Dâng hiến sức lực cho Tổ quốc, đến thất phu cũng phải có trách nhiệm. Hơn nữa, chỉ cần giải quyết được việc của Giang Đô, hoàng thượng vui vẻ sẽ ban thưởng, chẳng phải là đều thu lại hay sao? Người đâu, đi lấy ngân phiếu tám vạn lượng bạc đưa cho đại nhân”. Tên tùy tùng phía sau lưng y dạ một tiếng, đang định bước đi, bỗng từ phía ngoài sảnh một tiếng nói vang lên: “Ta trả mười vạn lượng”. Giọng nói trong trẻo rõ ràng, tựa như gió mát tháng tư, ánh sáng ban sớm, lửa đèn vạn nhà, ấm áp êm tai. Mọi người nhìn ra thấy một công tử trẻ tuổi dẫn theo hai tùy tùng chầm chậm từ ngoài sảnh bước vào. Đèn trong lầu sáng trưng nhưng vẫn không tươi sáng bằng nụ cười của chàng; mỹ nhân trong sảnh đường vô số, nhưng vẫn không xinh đẹp bằng ánh mắt của chàng… Có người nhận ra chàng, đột nhiên kinh ngạc đứng bật dậy: “Nghi, Nghi, Nghi vương bệ hạ!”. Hóa ra vị công tử đó không phải ai khác, chính là Nghi vương Hách Dịch. Nhân lúc sự chú ý của mọi người đổ dồn lên người Hách Dịch, Tiết Thái quay đầu nhỏ giọng nói với Quan Đông Sơn: “Người mà tối qua ta kể với ngài chính là y”. Quan Đông Sơn cảm kích nói: “Công tử thật là có diệu chiêu, đến ngài ấy mà cũng mời tới được”. Còn Hách Dịch vẫy tay chào mọi người, khi ánh mắt dừng trên gương mặt Tiết Thái, lại nở nụ cười đầy hàm ý: “Từ buổi chia tay ở Trình quốc, không ngờ chúng ta lại mau được gặp mặt đến thế”. Tiết Thái hành lễ, nói: “Cung thỉnh bệ hạ kim an”. “Được rồi, những lễ tiết phức tạp ấy miễn đi. Hôm nay ta đến đây là để mua bán, các ngươi lấy lễ của thương nhân tiếp đãi ta là được rồi”. Hách Dịch nói xong, giơ tay cầm lấy cuộn tranh “Liệt nữ truyện Nhân Trí đồ” đó, xem xét kỹ lưỡng. Trái tim của Quan Đông Sơn vọt lên tận cổ họng, nhảy tưng tưng sợ bị chàng nhìn ra đó là hàng nhái. Nhưng cuối cùng Hách Dịch lại sờ sờ lên chỗ bị sờn ở mép tranh, thở dài nói rằng: “Đồ vật từ nghìn năm trước, còn có thể giữ tốt như thế này, không tồi, thật không tồi…”. Quan Đông Sơn bấy giờ mới yên tâm, cười khan mấy tiếng nói: “Những bản lĩnh khác hạ quan không có, chỉ có cái lạc thú này, bức họa này hạ quan còn mời riêng hai thợ khéo đến sửa lại, thỉnh thoảng cũng đem ra treo lên”. “Quan thành chủ quả nhiên là người am tường”. Hách Dịch vừa nói mắt vừa đảo một vòng: “Khương đại nhân, ngài còn muốn trả giá không?”. Khương Hiếu Thành sờ cằm cười hi hi, nói: “Hạ quan tiền nhiều gan lớn hơn đi chăng nữa, cũng không dám sánh với Nghi vương bệ hạ. Vốn trả giá là để nêu gương mà thôi, chứ thực lòng mà nói hạ quan là một kẻ thô lỗ, mấy bức tranh chữ này ấy mà, nhìn thấy là đau đầu rồi”. Lời vừa thốt ra, mọi người đều cười ầm cả lên, không khí trong lầu bỗng trở nên vui vẻ hài hòa. “Nếu thế, ta nhận”. Hách Dịch sai thị tùng bưng một chiếc rương tới, mở ra, bên trong đầy những ngân phiếu, khiến cho tất cả mọi người có mặt đều trợn mắt sửng sốt. Tiết Thái nói: “Xem ra lần quyên góp cứu nạn này, bệ hạ đã chuẩn bị rất kỹ rồi mới tới”. Hách Dịch chăm chăm nhìn, mỉm cười: “Những thứ khác không cần cũng được, nhưng có một thứ, ta buộc phải có được”. Mọi người nghe vậy, không ai là không cảm thấy hứng thú, rốt cuộc là thứ bảo bối gì, lại khiến cho kẻ tinh quái nổi tiếng chốn thương trường này không quản nghìn dặm xa xôi chạy đến đây mua?
|
Quan Đông Sơn không nhịn được hỏi: “Thứ gì thế?”. Hắn rất muốn biết rốt cuộc là bức tranh nào mà mình sưu tầm đã khiến Nghi vương thèm nhỏ dãi như vậy? Hách Dịch cụp mắt xuống, trầm tư trong tích tắc, rồi lại nhướng mắt lên, vẫn nở nụ cười tươi rói như cũ: “Ta muốn bản chép tay bài ‘Quốc sắc thiên hương’ của Cơ Hốt”. Trong đại sảnh bỗng huyên náo hẳn lên, mãi lâu sau mới có thể yên ắng trở lại. Mọi người đều biết, Cơ Hốt chính là đệ nhất tài nữ của Bích quốc, sở dĩ nàng được mệnh danh như thế là vì bài “Quốc sắc thiên hương phú”. Nghe nói năm đó, Cơ Hốt viết xong bài phú này, Chiêu Doãn khi ấy vẫn còn là hoàng tử nhìn thấy, kinh ngạc tưởng là tiên nữ, lập tức đánh ngựa đến trước Cơ phủ cầu hôn. Sau mấy hồi trắc trở, cuối cùng mới ôm được mỹ nhân quay về. Nhờ một bài phú lên ngôi vị hoàng phi, và sau cùng tạo thành bá nghiệp của một vị đế vương. Mấy trăm năm nay, làm gì có thiên văn chương thứ hai nào có thể vẻ vang hơn nó? Bài phú này tuy nổi danh, nhưng Cơ Hốt lại là một người sống bằng xương bằng thịt. Đồ của người còn sống, thường không mấy đáng tiền. Vì thế mọi người nghe Hách Dịch nói thế, trong lòng ít nhiều cũng có chút thất vọng. Ánh mắt Hách Dịch quét qua một lượt, thu trọn biểu cảm tinh tế của mọi người vào trong đáy mắt, cười hi hi, nói: “Đương nhiên, nếu có đồ vật tốt khác, ta cũng thu mua cả”. Chàng cũng không nuốt lời, bốn bức thư pháp, ba cuộn cổ họa mà Tiết Thái bày ra sau đó, đều được Hách Dịch mua hết một lượt, tổng số tiền đến hơn ba mươi bảy vạn lượng. Lúc này không khí trong đại sảnh đã lên đến cao trào cực điểm. Tiết Thái nói: “Hôm nay đến đây thôi, ngày mai tiếp tục. Nghi vương bệ hạ vẫn chưa thể mua được ‘Quốc sắc thiên hương phú’, thành thật xin lỗi”. Hách Dịch khoát tay nói: “Đồ tốt thường phải giữ đến cuối cùng, đương nhiên ta biết đạo lý này. Không sao, ngày mai lại tới”. Tiệc tan, mọi người ai nấy đều rời đi. Tiết Thái vừa về đến phủ, Quan Đông Sơn đã mời hắn vào trong thư phòng, vừa đóng cửa lại lập tức quỳ xuống đất mà vái: “Thần tài sống ơi, công tử đúng là thần tài gia của ta mà!”. Tiết Thái cười mắng: “Dù sao ngài vẫn là đại quan tam phẩm, lại đi quỳ vái một tên nô lệ, bị người khác nhìn thấy thì còn ra cái thể thống gì?”. Quan Đông Sơn thẹn thùng tiến lên ôm chặt chân Tiết Thái nói: “Không không, ta phải vái, ta phải vái. Tiết công tử ơi, từ lâu đã nghe danh thần đồng của công tử, đến nhân vật như Yên vương còn bị công tử làm cho tâm phục khẩu phục, đến nay lại giúp ta kiếm được một món hời, ta phải cảm tạ công tử như thế nào đây?”. Tiết Thái đá hắn ra, nghiêm mặt nói: “Bớt nói linh tinh đi, ngài có muốn kiếm nhiều tiền không?”. “Thế vẫn còn chưa đủ nhiều sao?”. Quan Đông Sơn trợn mắt kinh ngạc. “Coi cái bộ dạng kém cỏi của ngươi kia, quả nhiên là kẻ ở chốn thành nhỏ biên cương đã lâu…”. Quan Đông Sơn vội cười giả lả đáp: “Đúng đúng đúng, cả đời tiểu nhân ngoài cái năm lên kinh ứng thí ra thì đều ở chỗ sơn cùng thủy tận… Tiết công tử, ngài nói xem, kiếm món lớn như thế nào?”. “Ngươi đã nhìn thấy điệu bộ của Nghi vương hôm nay rồi đấy, hắn nhất định phải có ‘Quốc sắc thiên hương phú’ cho bằng được.” “Nhưng chúng ta không có ‘Quốc sắc thiên hương phú’”. Tiết Thái cười kỳ dị: “Nếu hắn muốn ‘Lạc Thần phú’ thì không có, nhưng chủ nhân của ‘Quốc sắc thiên hương phú’ vẫn còn sống, sao chép lại cũng chỉ mất có nửa canh giờ thôi…”. Mắt Quan Đông Sơn sáng lên, vỗ đùi đét một cái nói: “Đúng thế! Chúng ta lấy được bản chép tay ‘Quốc sắc thiên hương phú’ rồi bán lại cho Nghi vương…”. “Giá tiền chẳng phải là do ngươi tùy tiện đưa ra hay sao?”. Quan Đông Sơn híp mắt cười ngất, rồi đột nhiên mặt hắn nhăn lại, rúm ró như hoa cúc: “Nhưng mà làm thế nào mới có thể có bản chép tay ‘Quốc sắc thiên hương phú’?”. Tiết Thái hỏi vặn lại: “Ngươi thấy sao?”. Quan Đông Sơn ngẫm nghĩ một lát, trầm ngâm trả lời: “Người có chút quan hệ với vị Cơ quý tần đó, trong ba chúng ta e là chỉ có Khương đại nhân. Muội tử của Khương đại nhân sắp được phong hậu, nếu mở miệng bảo Cơ quý tần. Cơ quý tần chắc chắn không dám không nghe…”. Tiết Thái không phủ nhận. “Được, vậy đi tìm Khương đại nhân trước xem sao”. Dứt lời Quan Đông Sơn liền vội vã đi ngay. Khương Hiếu Thành đương nhiên vỗ ngực nói không thành vấn đề, nhưng có điều, y lại chuyển chủ đề, y bắt đầu than thở làm quan ở kinh đô thật vất vả, dưới con mắt của thiên tử kiếm chác khó khăn như thế nào, đâu có bằng chốn trời cao hoàng đế xa muốn thế nào được thế ấy, đến vài bức tranh chữ bé tẹo cũng có thể bán ra với cái giá trên trời ba mươi bảy vạn lượng chỉ trong một ngày, thật là giàu có, thật là giàu có… Y tự oán trách như thế một hồi, Quan Đông Sơn hiểu ý nhét hồng bao cho y, cười nói: “Tất cả đều cậy nhờ Khương đại nhân”. Khương Hiếu Thành nâng nâng để xem trọng lượng của chiếc hồng bao, rồi y lại bắt đầu càm ràm Cơ quý tần không coi ai ra gì như thế nào, xưa nay không tiếp xúc với thế giới bên ngoài ra sao, nếu không phải muội muội của mình có thân phận đặc biệt, e là có sai khiến cũng không nổi, rồi muốn muội muội y bỏ qua thân phận mở miệng nói với Cơ quý tần thật là làm khó nàng ra sao. Quan Đông Sơn lại vội nhét thêm một hồng bao nữa: “Nếu Khương đại nhân có thể giúp tiểu nhân chuyện này, việc thành tiểu nhân sẽ có hậu tạ”. Khương Hiếu Thành bấy giờ mới đứng dậy, chắp tay sau lưng đi quanh nhà mấy vòng, rất nghiêm túc giơ ra ba ngón tay nói: “Chỉ có một giá, ba trăm vạn lượng”. Quan Đông Sơn sợ đến mức ngồi phệt xuống đất: “Hả? Ba, ba, ba trăm vạn lượng?”. Nửa câu sau không buột khỏi miệng, nhưng đã chửi thầm trong lòng: Mi ăn cướp à? Khương Hiếu Thành thong thả ngồi xuống, vắt chéo hai chân, vừa uống trà vừa nói: “Quan đại nhân chê đắt, ta cũng có thể thông cảm. Ba trăm vạn lượng đủ để mua mấy nghìn mẫu ruộng tốt, xây một khu nhà, mua một đống người hầu, sống một cuộc đời tài chủ không phải lo cái ăn cái mặc. Có điều, đại nhân cũng nói rồi, đợi được giá mới bán, thứ gì cũng phải bán cho người biết hàng mới thực sự quý giá. Hiện tại Nghi vương muốn mua ‘Quốc sắc thiên hương phú’, ta có thể tự mình vào cung xin bản chép tay cho Nghi vương, việc gì phải để ngươi ở giữa kiếm được một khoản hời?”. Hai mắt Quan Đông Sơn trợn lên tròn xoe, đang định nói gì đó, Khương Hiếu Thành lại than thở: “Nhưng mà, có tiền thì mọi người cùng kiếm, không thể bịt hết con đường phát tài lại, đúng không? Thế này đi, ta giảm xuống hai phần, giá chốt hai trăm bốn mươi vạn lượng. Đại nhân chớ cảm thấy mình chịu thiệt, trước tiên hãy đi nghe ngóng xem giá thấp nhất Nghi vương đưa ra là bao nhiêu, rồi hãy xem xem cái giá hai trăm bốn mươi vạn lượng này có đáng hay không. Thêm nữa, khoản tiền triều đình cấp cho cũng sắp về tới nơi, đến khi bạc đưa đến rồi, mua gạo như thế nào, mua bao nhiêu gạo, vẫn là việc Quan đại nhân ngươi quyết định đúng không? Ha ha ha ha…”. Quan Đông Sơn vừa cung kính rời khỏi phòng khách, vừa thầm hỏi thăm một lượt mười tám đời tổ tông của Khương Hiếu Thành. Nghĩ đến món tiền to như thế phải dâng cho người khác, trong lòng ngàn vận lần không nỡ, nhưng bắt hắn bỏ miếng thịt béo bở như thế, hắn cũng lại không cam tâm. Không có cách nào khác, hắn đành phải phái người đến chỗ Hách Dịch thăm dò giá cả, khi tìm Tiết Thái, hắn kích động đến mức suýt nữa không thốt ra lời: “Tiết công tử! Thần tài gia của ta ơi…”. Thấy hắn lại chuẩn bị ôm chân mình, Tiết Thái vội vàng tránh sang một bên, cau mày nói: “Có gì cứ từ từ nói, đừng có làm cho người khác buồn nôn thế!”. Quan Đông Sơn cười nịnh bợ mấy tiếng, thu tay lại nói: “Tiết công tử, tin tốt tin tốt, đúng là tin cực tốt!”. Tiết Thái chẳng buồn nhếch mí mắt, lười biếng hỏi: “Khương đại nhân đồng ý giúp ngươi vụ ‘Quốc sắc thiên hương phú’ rồi hả?”. “Không phải, nhưng cũng chỉ là chuyện sớm muộn thôi. Là thế này, tiểu nhân vừa mới sai người đến thăm dò chỗ Hách Dịch, không ngờ Hách Dịch, ngài ấy lại chịu bỏ ra cái giá năm trăm vạn lượng để mua bản chép tay ‘Quốc sắc thiên hương phú’! Năm trăm vạn lượng! Tiết công tử! Ngài nói xem ngài ấy có bị điên không?”. Tiết Thái cười vẻ sâu xa: “Trong lòng có chấp niệm thì sẽ rơi vào ma chướng. Một món đồ muốn có từ lâu, tự nhiên cũng trở thành quý hiếm thôi”. “Ồ? Nghi vương muốn có ‘Quốc sắc thiên hương phú’ đến thế sao?”. Tiết Thái đặt cuốn sách trong tay xuống, ngoắc ngoắc ngón tay. Quan Đông Sơn ngoan ngoãn tiến lên phía trước. “Ta hỏi ngươi, năm nay Hách Dịch bao nhiêu tuổi?”. “Nghi vương giống Yên vương, năm nay đều hai mươi ba tuổi”. “Thế hắn thành thân chưa?”. “Cái này… chưa thấy nghe nói ạ”. “Hắn đã lập phi tử chưa?”. “Cái này… cũng chưa từng nghe nói…”. “Hắn thân là hoàng đế Nghi quốc, lớn tuổi như thế mà vẫn chưa thành thân, ngươi có biết vì sao không?”. “Cái đó… có bệnh kín à?”. Tiết Thái gõ lên trán hắn một cái, mắng: “Lời này mà ngươi cũng dám nói linh tinh à? Ta nhắc cho ngươi biết người quỳ dưới gấu váy của ‘Quốc sắc thiên hương phú’, không chỉ có một mình hoàng đế của chúng ta đâu…”. Quan Đông Sơn bỗng nhiên ngộ ra: “Ô! Ồ ồ ồ! Hóa ra như thế”. “Hiểu chưa?”. “Hiểu rồi hiểu rồi. Thật không ngờ, Nghi vương bệ hạ lại là người si tình…”. Quan Đông Sơn nói đến đây, lại thấy đáng thương thay cho Hách Dịch: “Làm hoàng đế cũng chẳng sướng như tưởng tượng, cũng không có được thứ mình thích, thật làm khó cho Nghi vương khổ sở tương tư nhiều năm như vậy, nói ra thì hoàng thượng của chúng ta số tốt, một Cơ Hốt, một Hy Hòa, ngài đều cưới về cung cả. Nghe nói vị Khương hoàng hậu sắp sắc phong cũng là đại mỹ nhân bậc nhất…”. Tiết Thái cụp hàng mi xuống, thẫn thờ nhìn mặt đất một lúc, rồi ngẩng đầu lên lạnh lùng nói: “Ta mệt rồi”. “Ồ, vâng vâng, đúng là không còn sớm nữa, quấy rầy Tiết công tử rồi, hạ quan xin cáo từ, ngủ ngon. Ngủ ngon…”. Quan Đông Sơn vừa nói vừa lùi lại rồi ra khỏi phòng. Cửa phòng đóng lại, trong mắt Tiết Thái mới hiện lên vẻ chán ghét, nhìn tay áo của mình vừa bị Quan Đông Sơn lôi lôi kéo kéo, hắn lập tức cởi ra vứt xuống đất. Trong phòng vốn có mình Tiết Thái, bỗng vang lên tiếng cười của người thứ hai: “Thuộc hạ điều tra rồi, tên Quan Đông Sơn này không bị chứng luyến đồng đâu, chủ nhân hà tất phải ghê sợ vì đã tiếp xúc với hắn như thế?”. “Quan phụ mẫu một phương lại vô sỉ bỉ ổi ngu muội bất tài, chỉ một điều cũng đủ cho hắn chết một trăm lần rồi!”. Rèm sa khẽ động, Chu Long xuất hiện dưới ánh đèn, ánh mắt nhìn Tiết Thái thoáng một niềm ngậm ngùi: “Chốn quan trường xưa nay vẫn thế, lẽ nào từ nhỏ chủ nhân còn thấy ít hay sao?”. Tiết Thái nhìn bộ y phục trên mặt đất, trút giận xong, bình tĩnh trở lại: “Thuở nhỏ không hiểu, chỉ cảm thấy những tên quan lại đó chẳng qua chỉ là vật trang trí, cả cung đình rộng lớn chỉ để mình ta vinh quang. Bây giờ mới vỡ lẽ bọn họ đối xử với hoàng đế và người có chức vụ cao hơn họ một kiểu, đối với dân chúng người hầu một kiểu. Với hoàng đế chúng nịnh bợ tầm thường và không có chút ưu điểm, với bách tính chúng thực sự xấu xa bẩn thỉu”. Chu Long im lặng nhìn hắn, hồi lâu mới nói: “Người ở trên ngôi cao thường không nhìn thấy mặt này. Chủ nhân chỉ có đi xuống mới có thể nhìn thấy. Cho nên, chủ nhân, thực ra chủ nhân vẫn may mắn”. Đầu mày Tiết Thái nhíu lại, rồi lại giãn ra, chuyển sang chủ đề khác: “Chuyện ta giao phó, ông đã làm xong cả rồi chứ”. “May không nhục mệnh”. “Ừm… đây là trận đánh đầu tiên kể từ khi ta tiếp nhận Bạch Trạch đến nay, ta nhất định phải… thắng cho người xem”. Ánh mắt Chu Long lóe sáng, thấp giọng nói: “Công tử trên trời có nhìn thấy, nhất định sẽ rất vui mừng”. Tiết Thái nhớ ra một chuyện, hỏi: “Người đã được chôn cất chưa?”. “Giờ Mùi ngày kia, núi Ngũ Tùng”. Ánh mắt Tiết Thái trong khoảnh khắc bỗng trở nên hoang vắng. Khi Tiết Thái và Chu Long bàn luận chuyện này trong phòng ngủ, chuyện xảy ra trong ngày thứ tư ở Giang Đô vẫn chưa báo về đế đô, vì thế, sau khi nghe người áo tím báo cáo tình hình ba ngày đầu, Chiêu Doãn liền tuyên bố tan họp. Khi Khương Trầm Ngư lui khỏi Bách Ngôn đường, Chiêu Doãn bỗng gọi nàng lại: “Trầm Ngư, nàng… thay trẫm đi một chuyến”. “Vâng. Đi đâu ạ?”. Chiêu Doãn im lặng trong giây lát mới nói: “Phủ Kỳ Úc hầu”. Khương Trầm Ngư kinh ngạc. Chiêu Doãn giải thích: “Kỳ Úc hầu sẽ được chôn cất vào giờ Mùi ngày kia, ta đã mời Ngôn Duệ đứng ra chủ trì toàn bộ việc này. Nhưng nàng cũng biết, Cơ Anh hắn… chỉ còn lại mỗi cái đầu… cho nên, ta muốn ngày mai nàng đến phủ Kỳ Úc hầu một chuyến xem có thứ gì có thể bồi táng cùng hắn, chôn nhiều một chút, để hắn lên trời cũng không quá cô quạnh”. Khương Trầm Ngư vẫn không nói gì, Chiêu Doãn lại nói tiếp: “Chuyện này đáng nhẽ Cơ Hốt nên đi, nhưng nàng ấy từ khi hay tin dữ của đệ đệ đã đổ bệnh. Mà cả nhà họ Cơ, cũng không còn ai thân thích hơn. Người khác đi ta không yên tâm, cho nên, Trầm Ngư…”. Y còn chưa nói xong, Khương Trầm Ngư đã quỳ gối trước mặt, nói giọng chắc nịch: “Thần thiếp nguyện đi”. Chiêu Doãn ngừng lại, chăm chăm nhìn nàng, lúc sau cánh tay từ từ đặt lên vai nàng. Khương Trầm Ngư ngẩng đầu, mắt ướt đỏ, giọng nói gần như nức nở: “Tạ, tạ ơn… hoàng thượng”. Khoảnh khắc này, cho dù dụng ý ban đầu của Chiêu Doãn là gì, là muốn thăm dò nàng hay là vì áy náy trong lòng với Cơ Anh nên thực sự muốn làm gì đó cho chàng, nhưng vì y đã chọn mình làm việc này cho Cơ Anh, Khương Trầm Ngư quyết định phải cảm ơn. Nàng thực sự… rất muốn có cơ hội này.
|
Muốn có đến mức, không kìm nén được khóc trước mặt đế vương. Chiêu Doãn không trách nàng, trong đôi đồng tử màu trà, bóng tối bao trùm, khiến người ta không thể nào nhìn rõ được thái độ của y, nhưng bàn tay đặt lên vai Khương Trầm Ngư của y vỗ nhè nhẹ biểu lộ sự dịu dàng. Cho dù giữa y và Khương Trầm Ngư tồn tại sự khác biệt như thế nào, tính cách khác xa nhau ra sao, thì khoảnh khắc này đều có chung một cảm xúc. Đó chính là – đau thương. Ngày hôm sau, Khương Trầm Ngư sau khi nghe xong buổi chầu sớm, về tới Dao Quang điện liền vội vàng thay một chiếc áo trắng, khoác áo khoác màu đen rồi ra khỏi cung. Xe ngựa đi hơn một canh giờ mới tới phủ Kỳ Úc hầu. Sắc trời âm u, mây đen phủ lên cả thế giới một tầng màu xám xanh. Từ cửa sổ xe ngựa, nàng nhìn những tòa nhà quen thuộc, từ xa tới gần, trái tim giống như viên trân châu lăn tròn trên chiếc khay, mãi mà không thể bình tĩnh được. Phủ Kỳ Úc hầu đương nhiên không phải nàng mới tới lần đầu. Trước khi nhập cung, nàng từng tới đó một lần. Lần đó, nàng xin Cơ Anh một món quà, mà đến nay món quà ấy vẫn còn trên tai nàng. Khương Trầm Ngư bất giác đưa tay lên sờ tai trái của mình, vết thương rõ ràng đã lành từ lâu, nhưng dường như lại lần nữa sưng tấy lên, sau khi sưng tấy lại trở thành trống rỗng. Người ấy, sao có thể đột nhiên… không còn nữa? Người ấy, rõ ràng đã xỏ cho nàng chiếc lỗ tai, khi nàng bị sát thủ truy sát đã cứu nàng, chàng kéo tay nàng đi đến chỗ bọn Hách Dịch thương lượng, hơi ấm cơ thể chàng dường như chưa từng biến mất, vẫn còn lưu lại trên người nàng… Nhưng người ấy, sao lại đột ngột không còn nữa? Thái giám đặt viên đá kê chân xuống, Khương Trầm Ngư đẩy cửa xe bước ra, ngẩng đầu nhìn hầu phủ, trên cánh cửa treo hai chiếc đèn lồng trắng, bị gió thổi lắc lư, lộ rõ sự thê lương khôn tả. Một cụ bà tuổi chừng sáu mươi bước chân lập cập đi ra mở cửa, tự xưng là quản gia của hầu phủ, sau đó cụ bà họ Thôi này dẫn nàng vào trong. Trước tiên đến từ đường. Từ đường được xây ở phía chính Bắc của phủ đệ, hoàn toàn không âm u hẻo lánh giống như từ đường của những nhà bình thường khác, hơn một trăm ngọn nến cắm ngay ngắn soi sáng cả rừng bài vị cực kỳ trang nghiêm cung kính. Nơi đây chính là từ đường Cơ gia… mỗi cái tên trên bài vị đều từng có một thời hiển hách. Điều khiến cho Khương Trầm Ngư bất ngờ là có cả bài vị của nữ chủ nhân, đặt cạnh chủ nhân gia tộc mỗi đời. Cũng có nghĩa là, nếu nhân duyên của nàng và Cơ Anh năm đó không đứt, nơi đây vốn cũng có một chỗ cho nàng… Mà giờ phút này, bài vị cuối cùng vẫn còn để trống, vẫn chưa điền chữ lên đó, Khương Trầm Ngư không kìm được đưa tay lên vuốt, cảm nhận ngón tay mình lướt qua từng hoa văn tinh tế, nàng bỗng òa khóc. Tiếng khóc nghẹn ngào đứt quãng, không chịu nghe theo sự kìm chế của nàng bật ra khỏi cuống họng. Nàng vừa nghĩ sao mình lại mất hình tượng như vậy, vừa để mặc cho những dòng lệ tiếp tục lăn xuống. Thôi quản gia bên cạnh hiểu ý không hề khuyên can, chỉ nói: “Già dẫn nương nương đến thư phòng của công tử nhé”. Nói rồi dẫn nàng đi ra khỏi chốn đau thương đó. Khương Trầm Ngư lấy khăn tay lau khô nước mắt, bấy giờ mới quan sát tỉ mỉ chỗ ở của Cơ Anh. Đây là… nhà của Cơ Anh. Là nhà của nam tử mà nàng yêu nhất… Đây dù sao vẫn là lần đầu tiên nàng có cơ hội quan sát kỹ nó như vậy, đi qua con đường đá sỏi mà chàng đã đi qua vô số lần, được sờ vào hàng lan can mà chàng đã từng sờ, thỉnh thoảng cũng có làn gió thổi qua vạt áo đã từng thổi tung trường bào của chàng… Vừa nghĩ đến những điều này, trái tim Khương Trầm Ngư bỗng tan chảy, lòng đầy dịu dàng. Thuở nhỏ chắc chắn công tử cũng đã từng ngồi đọc sách dưới gốc cây này, cũng từng ăn điểm tâm bên cạnh chiếc bàn đá này, những cành trúc mảnh xanh rậm rì, căn nhà sạch sẽ cực kỳ trang nhã, từng phiến đá từng gốc cây ở nơi đây, trong mắt nàng đều hài hòa, hợp ý. Giống như người mà nàng thích, toàn thân từ đầu đến chân không gì là không đẹp. Không lâu sau, đoàn người đến trước cái sân nhỏ, bên trong có ba gian nhà ngói cạnh rừng trúc, thậm chí đến cửa sổ cũng đều được điêu khắc thành hình tre trúc, dường như hòa thành một thể với rừng trúc. Một tấm biển lưu ly trên cửa khắc chìm ba chữ lớn “Hữu sở tư” bằng sơn màu xanh lục, nét chữ cứng cỏi đẹp đẽ. Khương Trầm Ngư biết, đây chính là thư phòng của Cơ Anh. Thôi quản gia đẩy cửa phòng, bước vào đốt nhang, rồi quay người lại nói: “Mời nương nương”. Khương Trầm Ngư từ từ bước qua bậu cửa, mùi Phật thủ cam quen thuộc ùa tới, thứ đầu tiên lọt vào tầm mắt nàng là sách. Trên giá sách bằng trúc cao bằng bức tường, có đến hơn nghìn cuốn sách được xếp ngay ngắn, cức cách một tầng lại treo một miếng trúc nhỏ, viết phân loại bên trên. Bên cạnh giá sách là một chiếc đỉnh cổ chạm hình con ly[1] cao mấy thước, bấy giờ trong đỉnh đang đốt nhang, làn khói trắng lượn lờ bay lên từ những hoa văn chạm rỗng, khiến cho tất cả những thứ nhìn thấy trước mắt trở nên không thực, mơ hồ như trong mộng. [1] Con ly: Một loài gần giống với rồng, màu vàng, không có sừng. Nàng… thật sự đến thư phòng của Cơ Anh ư? Hay là vì quá nhớ nhung, cho nên ông trời thương xót ban cho nàng giấc mộng này? Khương Trầm Ngư bất giác bước tới, sờ lên chiếc sập mềm đặt phía dưới chiếc đỉnh cổ, chăn gối lạnh ngắt, đúng rồi, người ấy đã không quay về từ lâu lắm rồi… Không, người ấy vĩnh viễn không thể quay về nữa rồi… Lời của Chiêu Doãn văng vẳng bên tai, từng tiếng từng tiếng một lạnh lẽo: “Nàng cũng biết, Cơ Anh hắn… chỉ còn lại mỗi cái đầu… cho nên, ta muốn nàng đến phủ Kỳ Úc hầu một chuyến, xem có thứ gì có thể bồi táng cùng hắn, chôn nhiều một chút, để hắn lên trời cũng không quá cô quạnh…”. Có thứ gì có thể để công tử mang theo đây? Mùi hương này chắc chắn phải mang đi… Thôi quản gia ở bên cạnh lặng lẽ nói: “Lúc nhỏ, ngoài bệnh tim bẩm sinh ra, công tử còn bị hen. Thế nên đại phu mới kê cho công tử loại thuốc Phật thủ cam để mang theo bên mình, sau dần dần mới khỏi. Nhưng tam sao thất bản truyền ra ngoài, rất nhiều vương tôn công tử tranh nhau bắt chước, khiến một thời gian hương ở kinh đô trở nên đắt đỏ. Haizz”. Khương Trầm Ngư đến trước thư án, bên cạnh có bày một bình hoa cao bằng nửa người, trong bình không cắm hoa, mà đặt rất nhiều quyển trục. Nàng tiện tay mở một quyển ra, bên trong là một bức tranh. Khương Trầm Ngư “a” lên một tiếng, cánh tay đang giữ bức tranh đột nhiên run bắn. Đó là một bức tranh hoa sen xanh. Nhưng thực sự mà nói, đó không phải là một bức “tranh”. Bởi vì, nó được dán lên. Cũng tức là chủ nhân của tranh đã cắt hoa sen và lá sen thật, dán lên giấy vẽ, rồi dùng một cách đặc biệt nào đó để giữ màu sắc tươi thắm như còn trên cây cho nó. Sở dĩ Khương Trầm Ngư giật mình, là vì đây không phải lần đầu tiên nàng nhìn thấy bức tranh được vẽ theo cách này. Mấy ngày trước, chẳng phải nàng đã cùng Hy Hòa chơi trò vẽ tranh kiểu này sao? Giọng nói bình tĩnh không gợn sóng của Thôi quản gia nhẹ nhàng vang lên, như đang hoài niệm, lại chỉ như kể lại mà nói: “Từ nhỏ công tử rất không thích vẽ tranh, vì thế mà không ít lần bị lão hầu gia giáo huấn. Sau này, có người dạy công tử cách vẽ tranh này, ngài liền học theo, dùng cách này để đối phó với phu tử. Phu tử xem xong liền cười, từ đó về sau không còn bắt công tử vẽ tranh nữa. Ngược lại chính công tử thỉnh thoảng cũng vẫn cắt cắt dán dán. Bức tranh này công tử làm trước lúc đi Trình quốc. Khi đó, hoa sen mới vừa nhú, công tử nói cứ làm một nửa trước đã, phần còn lại sau khi trở về sẽ làm tiếp. Nhưng ai ngờ… chuyến này công tử có đi mà không có về…”. Khương Trầm Ngư chầm chậm cuộn bức tranh lại, đưa cho cung nhân phía sau. Bức tranh hoa sen mùa mới chưa hoàn thành này, cũng theo công tử lên đường đi… Trên tường của thư phòng còn treo một cây cung, cây cung nhỏ tinh xảo lạ thường, thường dành cho trẻ em hoặc phụ nữ sử dụng. Thôi quản gia nói: “Đây là cung của Tiết Thái”. Khương Trầm Ngư thoáng chút ngạc nhiên. Thôi quản gia giải thích tiếp: “Đây là bảo cung khiến Tiết Thái nổi danh ngự tiền năm xưa, Tiết Thái dùng cây cung này bắn chết một con hổ. Sau khi Tiết gia bị tịch biên, cây cung này cũng mấy lần qua tay các hiệu cầm đồ, công tử đi ngang qua, liền mua nó về. Sau Tiết Thái bị đưa tới Cơ gia làm nô lệ, công tử nói với hắn, lúc nào hắn chuẩn bị tâm lý thật tốt, có thể từ bỏ tất cả mọi thứ của quá khứ, thì sẽ trả cây cung này lại cho hắn”. Khương Trầm Ngư không kìm được đưa tay sờ lên cây cung, cung nhân phía sau hỏi: “Có lấy không ạ?”. Lấy, tức là sẽ đem nó chôn theo công tử. Khương Trầm Ngư lắc đầu, cây cung này vẫn nên giữ lại đợi Tiết Thái đích thân lấy về. Đây là hy vọng của công tử. Cũng là hy vọng của nàng. Trong vòng nửa canh giờ tiếp theo Khương Trầm Ngư xem khắp lượt thư phòng một lần nữa, nhưng cũng không tìm thấy nhiều đồ. Tuy bài trí trong phòng rất tinh tế, nhưng cũng không có thứ gì để chọn, không có một món cổ vật châu báu nào. Thôi quản gia thấy nàng tìm không ra món đồ gì có ý nghĩa, bèn đề nghị: “Chúng ta đến phòng ngủ xem xem”. Lời này rất hợp ý của Khương Trầm Ngư, nàng lập tức cùng lão quản gia đi vào phòng ngủ của Cơ Anh. Phòng ngủ rất gần thư phòng, chính là căn nhà chính cách thư phòng một hành lang quanh co ở phía sau. Thiết kế như thế này đương nhiên là để tiện cho Cơ Anh nghỉ ngơi và làm việc. So với thư phòng, phòng ngủ có ít sách hơn, có thêm một chiếc giường, đầu giường đặt một tủ quần áo, Thôi quản gia bước lên mở cánh cửa tủ ra, bên trong toàn là đồ trắng gấp ngay ngắn. Khương Trầm Ngư lấy một chiếc ra, hoa văn Bạch Trạch lọt vào mắt nàng, nhớ lại phong thái lúc còn sống của người ấy, nàng không khỏi có chút ngây dại. Bên cạnh, Thôi quản gia nói: “Người đời đều biết công tử thích màu trắng, thực ra công tử không hề thích màu trắng, mà luôn chê nó dễ bẩn khó giặt. Nhưng kế thừa từ lão hầu gia lúc sinh thời, tiên đế đã lấy đồ đằng Bạch Trạch ban cho Cơ gia, đây là vinh hạnh của Cơ gia, bởi vậy lúc nào cũng phải nhớ đến không được quên. Công tử không biết làm sao đành đặt may một loạt quần áo giống hệt nhau, trong thời gian thêu áo cho công tử, các tú nương đều bị đổ bệnh, nên kéo dài ba tháng liền mới xong, nhưng không hiểu sao khi đồn ra ngoài lại biến thành ‘chỉ một chiếc áo của Kỳ Úc hầu cũng phải mất ba tháng liền để thêu’…”. Nói đến đây, Thôi quản gia bỗng lảo đảo quỳ xuống. Khương Trầm Ngư giật mình, vội đưa tay ra đỡ: “Lão quản gia làm gì thế này? Mau đứng dậy đi!”. “Nương nương, lão nô có một chuyện khẩn cầu, xin nương nương nhận lời”. “Bà cứ đứng dậy đã, có gì từ từ nói”. Thôi quản gia lắc đầu, hai chân đã bắt đầu run run, nhưng vẫn không chịu đứng dậy, vừa nước mắt lưng tròng vừa trầm giọng nói: “Lão nô biết gần đây bên ngoài truyền miệng những bài vè không hay ho, thóa mạ công tử nhà ta. Công tử nhà ta lúc còn sống đã đắc tội không ít người, bây giờ ngài chết rồi, những người đó bắt đầu giậu đổ bìm leo… Những điều này đều không hề gì. Thế nhưng, lão nô không cam lòng, không cam lòng khi thấy công tử thanh bạch nhật nguyệt chứng giám của nhà ta bị người ta vu oan. May mà hôm nay nương nương thay hoàng thượng đến thu thập di vật cho công tử, lão nô sẽ để nương nương xem, công tử nhà ta sinh thời rốt cuộc đã sống một cuộc sống như thế nào, rốt cuộc có tham ô ăn hối lộ như bên ngoài đồn đại hay không! Ta nghĩ, đây cũng là lý do mà hoàng thượng không phải người khác, chỉ phái nương nương đến đây!”. Khương Trầm Ngư được mở mang đầu óc, một lời mà lay tỉnh người trong mộng.
|
Hồi thứ mười tám: Người tính
Trường phục màu đỏ thắm, chín con phượng hoàng thêu bằng kim tuyến, khi ánh đèn chiếu vào lại càng diễm lệ lạ thường, phần đầu phượng thêu trên vai càng khiến tư thế người mặc nó thêm cao ngạo, cùng với chiếc mũ mười hai con rồng chín con phượng trên đầu tô điểm nổi bật lẫn nhau. Tua ngọc dài gồm hơn ba nghìn viên trân châu buông rủ, từng cử chỉ đều tỏa ra ánh sáng lung linh. Khắp nhà một màu đỏ thẫm, nhưng không át nổi nàng toàn thân hoa lệ quý phái. Khương Trầm Ngư ngồi ngay ngắn giữa Ân Phái cung, từ ngày hôm nay trở đi, nàng đã trở thành chủ nhân của cung này, người đứng đầu của hậu cung. Nhưng nàng lại không vui mừng thích thú một chút nào, mà chỉ chăm chú nhìn ngọn nến lớn hình rồng uốn lượn trên bàn đợi thời gian chậm chạp trôi qua. Tuy là ngày lành, nhưng đáng tiếc ông trời cũng chẳng tác thành cho chuyện tốt, từ sáng tới giờ chưa thấy mặt trời ló rạng. Trước đó mọi người còn lo lắng sẽ đổ mưa, đại lễ sẽ không thể tiến hành, nhưng ông trời còn tử tế, mây chồng tầng tầng lớp lớp, càng lúc càng dầy, nhưng mưa vẫn không rơi. Chắc là đến nửa đêm sẽ mưa thôi… Khương Trầm Ngư hờ hững nghĩ đến vấn đề không liên quan này. Tiếng cười của Hoài Cẩn và Ác Du từ ngoài cửa vọng vào, tiếp đó cánh cửa phòng bật mở, Ác Du cười giòn tan như chuông kêu, nói: “Hoàng hậu nương nương, hoàng thượng đến rồi!”. Khương Trầm Ngư ngẩng đầu lên, liền nhìn thấy Chiêu Doãn. Khác với vẻ chỉnh trang của nàng, Chiêu Doãn vẫn mặc bộ đồ thường ngày như cũ, rõ ràng rất tùy ý. Ác Du len lén đánh mắt với nàng, rồi vừa cười vừa lui ra ngoài. Chiêu Doãn đi đến trước giường, ngắm nàng một lượt từ đầu xuống chân, cười nhạt nói: “Đẹp”. Khương Trầm Ngư ngước mắt lên, im lặng nhìn y. Chiêu Doãn tiện tay nhấc bình rượu trên bàn lên, tự rót cho mình một chén, ngồi xuống, nói: “Ôi chao, hoàng hậu của trẫm, hôm nay nàng quả thật rất xinh đẹp… Có điều sao mặt mày lại ủ dột thế kia. Là giận trẫm tới muộn sao? Trẫm đền cho nàng là được chứ gì, đến đây, chén rượu này coi như là lễ tạ của trẫm với nàng. Những ngày này vất vả cho nàng quá”. Nói rồi đưa rượu cho nàng. Khương Trầm Ngư nhận lấy, lặng lẽ uống cạn. Chiêu Doãn mắt cong cong, cười càng lúc càng thân mật: “Thế mới đúng chứ, uống chút rượu mặt nàng sẽ hồng hào. Trong hậu cung của trẫm toàn là mỹ nhân, nhưng chỉ có mình hoàng hậu nàng là người thông minh nhất, ở bên nàng như được tắm gió xuân, thật là dễ chịu”. Vừa nói y vừa tiến về phía nàng, đưa tay ra nhẹ nhàng ve vuốt gò má nàng, ý đượm tình nồng vô hạn. Còn giọng nói của y cũng càng lúc càng dịu dàng hơn: “Từ khi nàng vào cung đến nay, trẫm vẫn chưa từng ân sủng nàng, đêm nay giờ lành cảnh đẹp, chúng ta… không nên bỏ phí…”. Hàng mi của Khương Trầm Ngư run rẩy như cánh bướm. Chiêu Doãn nhìn thấy phản ứng của nàng, cười càng vui hơn: “Hoàng hậu đang căng thẳng à? Đừng căng thẳng, trẫm sẽ nhẹ nhàng với nàng…”. Khương Trầm Ngư đặt chén rượu xuống, chậm rãi lên tiếng: “Hoàng thượng… thần thiếp có thể hỏi người một câu được không?”. “Đợi lúc nữa rồi hỏi không được sao? Bây giờ… nên làm những chuyện khác…:. Chiêu Doãn vừa nói vừa giơ tay cởi đai áo của nàng ra. Khương Trầm Ngư không ngăn động tác của y, mà chỉ trừng đôi mắt sáng như sao sớm lên nhìn y chằm chằm không chớp. Chiêu Doãn bị đôi mắt đó nhìn nên mất tự nhiên, đành khe khẽ thở dài, nói: “Được rồi, được rồi, nói ta nghe nào”. “Tại sao… hoàng thượng phong thiếp làm hoàng hậu?”. Chiêu Doãn nhướn mày, lại cười, y lùi lại mấy bước, thuận tay rót cho mình một chén rượu, vừa chầm chậm nhấp rượu vừa không chú tâm nói: “Không phải trẫm đã nói rồi sao, là trẫm ban thưởng cho nàng”. “Tại sao hoàng thượng phải ban thưởng cho thần thiếp?”. Một tràng truy vấn liên tiếp cuối cùng đã khiến Chiêu Doãn cảm thấy lạ, y dừng lại, nhìn thái độ nghiêm túc lạ thường của nàng, hắng giọng ho mấy tiếng: “Được, vậy trẫm sẽ nói cho nàng nghe. Thẳng thắn mà nói, thật sự lần đầu tiên trẫm gặp một nữ tử như nàng – chủ động xin làm mưu sĩ cho trẫm, thể hiện trong chuyến đi Trình quốc của nàng cũng rất xuất sắc, cơ trí hơn người, nhưng, những điều này đều không đủ khiến trẫm cảm động. Nàng có biết vì sao không?”. Khương Trầm Ngư lắc đầu. “Bởi vì nàng có vốn liếng vượt xa người bên cạnh. Cho nên, trẫm không cảm động”. Nhìn gương mặt Khương Trầm Ngư lộ vẻ mơ hồ khó hiểu, Chiêu Doãn cười cười: “Hay nói cách khác, vì nàng là con gái của Khương Trọng. Nàng vừa chào đời đã có điều kiện ưu việt hơn người thường, quyền thế và quan hệ của phụ thân nàng có thể giúp nàng dễ dàng làm được rất nhiều việc, cho nên trẫm không cảm động. Thế nhưng, một người sinh ra trong danh môn, lớn lên trong phú quý, tất cả mọi thứ đều có được nhờ vào gia tộc như nàng lại dám cắt đứt với phụ thân, đây mới thực sự là chỗ khiến trẫm động lòng”. Ánh mắt Khương Trầm Ngư lóe sáng. Chiêu Doãn thở dài nhè nhẹ, giọng nói trở nên dịu dàng: “Nàng ấy… rõ ràng nàng biết, rời khỏi phụ thân nàng, rời khỏi gia tộc của nàng, trong hậu cung này, nàng thực sự sẽ đơn thương độc mã chiến đấu, không có chỗ nào để dựa dẫm, không có ai để bấu víu, thậm chí không có tình thân nào để nhớ nhung… Với sự thông tuệ của nàng, nàng biết rõ hậu quả nghiêm trọng thế nào. Cho dù là thế, nàng vẫn từ bỏ. Cho nên, từ khoảnh khắc biết nàng từ bỏ gia tộc, trẫm đã tự nói với mình, trẫm phải ban thưởng cho nàng, ban thưởng cho nữ tử làm được chuyện phi thường nhất thế gian”. Khương Trầm Ngư mím môi, mắt chợt hơi hoe đỏ: “Thế hoàng thượng… tại sao lại coi trọng hành động từ bỏ gia tộc này?”. Đầu mày Chiêu Doãn chau lại: “Trầm Ngư, rốt cuộc nàng muốn hỏi gì?”. “Có phải là vì bản thân hoàng thượng cũng là người chịu khổ, cho nên cảm thấy đồng bệnh tương lân?”. “Choang” một tiếng, bình rượu bị hất đổ. Chiêu Doãn đứng phắt dậy, trừng mắt nhìn Khương Trầm Ngư, nét mặt nghiêm nghị. Còn Khương Trầm Ngư vẫn ngồi trên giường, đến lông mi cũng chẳng rung, tiếp tục nói: “Hoàng thượng đang thấy lạ? Hay đang sợ hãi? Đang nghĩ tại sao thần thiếp có thể biết chuyện này? Đúng không?”. Chiêu Doãn sầm mặt nói: “Khương Trầm Ngư, chuyện gì cũng phải có chừng mực!”. Khương Trầm Ngư mở to đôi mắt trong veo như thủy tinh, sáng lấp lánh nhìn y, sau đó bỗng nhiên nhoẻn cười. Nàng ngũ quan dịu dàng, vì thế hiếm có biểu cảm quá sắc sảo, nhưng bây giờ khóe miệng khẽ nhếch lên, mí mắt hơi nhướn lên, đó là một nụ cười lạnh lùng đến kỳ lạ. Mà trong nụ cười lạnh lùng đó, đôi môi đỏ diễm lệ như hoa xuân tạo nên một đường cong hoàn mỹ, từng tiếng từng tiếng đều lạnh như băng: “Hoàng thượng, Lang Gia là ai?”. Cả gương mặt Chiêu Doãn biến sắc: “Nàng… nàng nói gì?”. “Cái tên này rất hiếm gặp, triều ta từ thưở khai quốc đến nay, tổng cộng có mười ba người mang cái tên này, mà trong mười ba người đó, duy nhất chỉ có một người có liên hệ với cung đình, hơn nữa còn là một người rất giỏi giang. Hoàng thượng… biết đó là ai chứ?”. Trong mắt Chiêu Doãn lóe lên một tia hung quang, lạnh lùng đáp: “Khương Trầm Ngư, rốt cuộc nàng muốn làm gì?”. “Làm gì à?”. Hai chân Khương Trầm Ngư chạm đất, khoan thai đứng dậy, chiếc váy dài trong phút chốc phủ kín mặt đất, nàng khẽ đan hai tay vào nhau, đi từng bước một, bằng tư thế của một hoàng hậu, nhìn thẳng vào quân vương tôn quý nhất của Bích quốc hiện nay, không cao ngạo cũng không có hèn mọn: “Hoàng thượng, hôm nay là ngày hoàng đạo, cho nên hoàng thượng chọn làm ngày tấn phong cho thần thiếp, còn thần thiếp cũng chọn ngày hôm nay để xin hoàng thượng một thứ”. “Thứ gì?”. Đối diện với Khương Trầm Ngư lời lời bức người như thế, Chiêu Doãn bất giác run lên. “Công bằng”. “Cái gì?”. Chiêu Doãn cơ hồ tưởng mình nghe nhầm. Thế nên Khương Trầm Ngư lại nhắc lại một lần nữa: “Công – bằng, thần thiếp nói là công bằng. Hoàng thượng không biết nó là cái gì sao? Cũng đúng, hoàng thượng xưa nay tùy ý làm càn, duy ngã độc tôn, vĩnh viễn chỉ nhìn thấy vết thương của mình, làm sao cảm nhận được nỗi oan khuất của người khác?”. Một tia giận dữ lóe lên trên khuôn mặt Chiêu Doãn, nhưng rất nhanh sau đó đã bị nén xuống, không giận dữ nữa mà trái lại cười nói: “Được. Nói tiếp đi. Trẫm lắng nghe đây, rốt cuộc trẫm đã phụ hai chữ ‘công bằng’ như thế nào!”. Khương Trầm Ngư không sợ sệt trước khí thế của y, mỉm cười nói: “Được, thế thì chúng ta nói từ Hy Hòa phu nhân đi. Hy Hòa phu nhân quả thật rất đẹp, nhờ vào phúc của hoàng thượng, thần thiếp đã được xuất ngoại du lãm, gặp đủ mọi loại mỹ nhân. Nhưng cộng tất cả bọn họ lại cũng không sánh được với một mình Hy Hòa phu nhân”. Chiêu Doãn “hừ” một tiếng. “Một nữ tử xinh đẹp như thế, đương nhiên sẽ phải thuộc về hoàng đế. Cho nên, hoàng đế sai người giở trò, khiến phụ thân của nàng là Diệp Nhiễm thua bạc một khoản lớn, cuối cùng phải gán con gái cho bọn buôn người, rồi bị bán vào trong cung, cứ như thế trở thành phi tử của hoàng thượng. Việc xong rồi, hoàng thượng sợ việc lộ ra ngoài, liền giết chết Diệp Nhiễm, từ đó, Hy Hòa phu nhân trở thành cô nhi không chỗ dựa, chỉ có thể dựa vào một mình hoàng thượng”. Chiêu Doãn nhẫn nhịn, rồi lại nhẫn nhịn, cuối cùng vẫn không nén được: “Trẫm và Hy Hòa… hoàn toàn không giống như nàng nói”. “Không phải như thần thiếp nói, thì là thế nào? Lẽ nào hoàng thượng muốn nói hai người thật sự yêu nhau?”. Khương Trầm Ngư nhìn Chiêu Doãn đứng bên cạnh đèn, trong lòng thất vọng về y đến cực điểm: “Hoàng thượng nhìn Hy Hòa mà xem, nhìn xem hiện nay nàng ta thành bộ dạng thế nào? Thực lòng thích một người, sao có thể nhẫn tâm thấy nàng ta biến thành như thế? Khoảnh khắc nàng ta nhìn thấy đầu của công tử, hoàng thượng có nhìn thấy biểu cảm trên mặt nàng ta không? Hoàng thượng cảm thấy tại sao nàng ta phát điên? Là hoàng thượng hủy hoại nàng ta! Là hoàng thượng hủy hoại nàng ta và công tử!”. “Thế thì sao!”. Chiêu Doãn nhảy dựng lên, không thèm để ý đến hình tượng, thét lớn: “Trẫm là đế vương! Đế vương là gì? Chính là dưới gầm trời không đâu không là đất của nhà vua, nội trong bốn bể, không ai không phải là thần tử của nhà vua, toàn thiên hạ đều là của trẫm! Huống hồ chỉ là một nữ nhân! Nàng ta là nữ nhân của Cơ Anh thì sao nào? Ai bảo Cơ Anh không phải là hoàng đế?”. “Tại sao Cơ Anh không phải là hoàng đế mà là hoàng thượng, hoàng thượng không phải là người rõ nhất sao?”. Một câu nói nhẹ nhàng của Khương Trầm Ngư khiến cho Chiêu Doãn toàn thân run bắn, sau đó, im lặng trở lại. Chiêu Doãn thở dốc, ngồi xuống chiếc ghế cạnh bên, trừng mắt nhìn nàng, bình tĩnh lại rất lâu rồi mới nói: “Nàng quả nhiên là đã chuẩn bị rất kỹ… Được, trẫm sẽ xem xem rốt cuộc nàng đã chuẩn bị đến trình độ nào, có thể cho mấy điểm. Nói đi, nói đi!”. “Cơ Anh không phải là hoàng đế, lý do rất đơn giản. Chàng bị bệnh tim bẩm sinh, lại thêm chứng hen suyễn, chàng không đủ khỏe mạnh, cho nên, Cơ gia rất thất vọng với đứa trẻ này, liền lùi toàn bộ kế hoạch thêm một năm, đợi hoàng thượng ra đời!”. Ánh nến nhảy nhót chiếu lên gương mặt Chiêu Doãn, lúc mờ lúc tỏ. Khương Trầm Ngư hít sâu một hơi, nói: “Quá trình này không cần nói kỹ…”. Chính vào lúc này, một giọng nói bỗng lặng lẽ vang lên, tựa như một oan hồn đến từ địa ngục, mang theo chấp niệm thấu tận xương cốt: “Tại sao không nói kỹ? Ta cũng muốn nghe”. v
|