Lâu Đài Di Động Của Phù Thủy Howl - Howl's Moving Castle
|
|
Chúng có thể cao chọc thủng bầu trời. Sophie chỉ có thể nghĩ rằng phần này ở chỗ mà cái tường bí ẩn đã chặn cô lại tối hôm trước. Cô mở cánh cửa thứ tư, nó chỉ là một tủ đựng quần áo, với hai cái áo khóac nhung tuyệt đẹp nhưng đầy bụi đang treo trên hai cây chổi. Sophie đóng cửa lại, chầm chậm. Còn một cánh cửa còn lại trên tường với cánh cửa sổ, và đó là cánh cửa mà cô đã xông vào tối hôm qua. Cô bước chân đến và cẩn thận mở ra. Cô đứng một giây lát nhìn ra phong cảnh chuyển động của những ngọn đồi, nhìn cây thạch nam dần mất tích bên cánh cửa, cảm thấy ngọn gió thổi lọn tóc bạc, và lắng nghe tiếng kêu rổn rảng của những tảng đá đen khi lâu đài di chuyển. Rồi cô đóng cửa và đến cửa sổ. Và ngoài kia lại là thị trấn cạnh bờ biển lần nữa. Không phải là tranh. Một người phụ nữ mở cửa nhà đối diện và đang quét rác ra đường. Cạnh nhà đó là một con thuyền màu xám đang tiến gần đến bờ, cánh buồm bay phần phật làm náo động một đoàn chim hải âu bay lượn trên mặt biển lấp lánh. “Tôi không hiểu được,” Sophie nói với cái đầu lâu. Rồi, bởi vì lửa sắp tắt, cô đến gần và đặt vài cây củi vào lò và quét một số tro bụi ra. Lửa leo lên giữa những cây củi, nhỏ và cong, và bật lên một gương mặt xanh biếc với tóc xanh lơ. “Chào buổi sáng,” hỏa yêu nói. “Đừng quên vụ trao đổi nhé.” Vậy là không phải là giấc mơ. Sopphie không khóc, nhưng ngồi xuống ghế một lúc nhìn vào hỏa yêu, và không chú ý đến tiếng động của Michael thức dậy, cho đến khi cô thấy cậu ta đang đứng bên cạnh, trông có vẻ hơi mắc cỡ và mệt mỏi. “Bà vẫn còn ở đây,” cậu ta nói. “Có gì không ổn sao?” Sophie khịt mũi. “Tôi già,” cô bắt đầu. Nhưng, như bà phù thủy đã nói và hỏa yêu đoán, Michael nói vui vẻ, “Well, thì chúng ta rồi ai cũng già mà. Bà có muốn ăn sáng không?” Sophie khám phá cô thật ra là một bà già rất khỏe. Sau bữa trưa chỉ có bánh mì và cheese hôm qua, hiện giờ cô đói ngấu. “Ăn!” cô nói, và khi Michael đến cửa kho, cô đứng dậy và ngó trộm qua vai cậu ta để xem trong đó có gì. “Cháu e chỉ có bánh mì và cheese thôi,” Michael ngán ngẩm nói. “Nhưng trong đó còn một giỏ trứng cơ mà!” Sophie đáp. “Và cái kia không phải là thịt sấy đó sao? Có muốn uống trà nóng không? Ấm nước đâu rồi?” “Không có ấm nước,” Michael đáp. “Howl là người duy nhất biết nấu ăn ở đây.” “Tôi biết nấu ăn,” Sophie trả lời. “Đem cái chảo chiên đến đây rồi tôi sẽ cho thấy.” Cô rướn người lấy cái chảo đen to lớn đang treo trên cửa kho, mặc kệ Michael ngăn cản. “Bà không hiểu đâu,” Michael nói. “Đó là Calcifer, hỏa yêu. Nó không chịu cúi đầu xuống để nấu ăn cho bất cứ ai ngoài Howl.” Sophie quay lại và nhìn hỏa yêu. Nó nháy mắt với cô tinh nghịch. “Tôi không chịu để bị lợi dụng đâu,” nó nói. “Ý cậu là,” Sophie nói với Michael, “cậu không được uống nước trà nóng trừ khi Howl không ở đây hả?” Michael mắc cỡ gật đầu. “Vậy thì cậu mới là người bị lợi dụng!” Sophie tiếp. “Đưa nó đây.” Sophie giựt cái chảo từ những ngón tay đang nắm chặt của Michael, thảy thịt sấy vào đó, thuổng vào cái giỏ trứng, và đem chúng đến gần bếp lửa. “Nào, Calcifer,” cô nói, “đừng có giỡn nữa. Cúi đầu xuống.” “Bà đừng hòng bắt tui!” hỏa yêu hét lên. “Oh, vâng, được chứ!” Sophie hét trả lại, với cái giọng thường làm ngừng cuộc tranh cãi của hai đứa em. “Nếu không, ta sẽ đổ nước vào mình ngươi. Hoặc sẽ lấy cây gạt than này và kéo khúc củi ra,” cô nói thêm, bước chân từ từ tiến đến bếp lửa. Ở đó cô thì thào, “Hoặc ta sẽ không làm trao đổi nữa, hoặc sẽ nói với Howl, được chứ?” “Oh, chết dẫm!” Calcifer làu bàu. “Sao cậu cho bà ấy vào làm gì hả Michael?” Hỏa yêu cúi mặt xanh dương sưng sỉa xuống cho đến khi tất cả những gì có thể thấy là một nhúm lửa xanh lơ nhảy trên múa trên củi. “Cám ơn,” Sophie nói, và đập cái nồi lên trên tóc màu xanh lơ để cho Calcifer không ngóc đầu dậy được.“Cầu cho thịt sấy của bà bị khét,” Calcifer nói, nghẹn ngào dưới cái chảo. Sophie thẩy mấy miếng thịt sấy vào chảo. Nó đã vừa nóng. Miếng thịt khô cháy xèo, và cô phải quấn váy quanh tay để giữ quai chảo. Cánh cửa mở ra, nhưng cô không chú ý vì tiếng xèo xèo. “Đừng có ngốc,” cô nói với Calcifer. “Và hãy nằm yên để tôi đập trứng vào.” “Oh, chào Howl,” Michael bất lực nói. Sophie giật mình quay lại, khá nhanh. Cô ngó sững. Một anh chàng cao lớn trong bộ cánh hoa hòe viền xanh vàng vừa mới bước vào và đang dừng lại dựa cây đàn guitar vào góc tường. Anh ta hất mái tóc mềm đang rủ xuống đôi mắt màu xanh thủy tinh và ngó lại. Khuôn mặt dài, xương xương lộ vẻ bất ngờ. “Bà là ai thế này?” Howl nói. “Tôi đã gặp bà ở đâu nhỉ?” “Tôi là người lạ,” Sophie lạnh lùng nói dối. Nói cho cùng, Howl chỉ gặp cô một chốc để gọi cô là con chuột xám, cho nên nói vậy cũng gần đúng.
|
Cô nên cám ơn các ngôi sao may mắn vì đã nhanh trí đáp lại như vậy, nhưng ý nghĩ chính của cô lại là, Chời đất ơi! Hóa ra Pháp sư Howl chỉ là một đứa trẻ trong lứa tuổi hai mươi, mà đã độc ác như vậy rồi! Thật là một sự khác biệt lớn khi ta già, cô vừa nghĩ vừa lật miếng thịt sấy trong chảo lại. Và cô sẽ chết trước khi để anh chàng bóng bẩy này biết cô là cô gái mà anh đã tội nghiệp vào ngày lễ May Day. Trái tim và linh hồn không có trong đó. Howl sẽ không được biết sự thật. “Bà nói bà tên là Sophie,” Michael nói. “Bà đến vào tối hôm qua.” “Làm sao mà bà già làm Calcifer cúi đầu xuống được?” Howl hỏi. “Bả ăn hiếp tôi!” Calcifer nói với giọng đáng thương, nghẹn ngào từ dưới cái chảo đang nóng. “Không phải ai cũng làm được vậy đâu,” Howl thận trọng. Anh ta dựng cây đàn guitar vào tường và tiến đến bếp lửa. Mùi dạ hương lan hòa lẫn với mùi thịt sấy khi anh ta nhẹ nhàng đẩy Sophie qua một bên. “Calcifer không thích ai trừ tôi nấu ăn,” anh nói, cúi thấp xuống và kéo tay áo dài thượt quanh cổ tay để cầm chảo. “Làm ơn đưa tôi hai miếng thịt sấy và sáu trứng, và nói tôi biết tại sao bà ở đây.” Sophie ngó sững chiếc hoa tai xanh dương lủng lẳng trên lỗ tai Howl và đưa cho anh ta từng quả trứng một. “Tại sao tôi đến hả, cậu trẻ?” cô nói. Lời nói trở nên đương nhiên sau khi cô đã xem hết lâu đài. “Tôi đến bởi vì tôi là người dọn dẹp mới của cậu, dĩ nhiên…” “Thật vậy sao?” Howl đáp, đập trứng bằng một tay và thẩy vỏ trứng giữa đống củi, nơi Calcifer dường như đang ăn chúng trong tiếng gầm gừ rào rạo. “Ai nói với bà thế?” “Tôi nói,” Sophie trả lời, và thêm vào với vẻ đạo đức giả, “Tôi có thể rửa sạch đống bụi bẩn ở nơi đây dù tôi không thể lau sự độc ác ra khỏi cậu, cậu trẻ ạ.” “Howl đâu có độc ác,” Michael xen vào. “Có chứ,” Howl phản đối cậu. “Cậu quên là tôi rất độc ác ngay lúc này, Michael.” Anh hất cằm về phía Sophie. “Nếu bà thật sự muốn hữu dụng, hãy tìm dao nĩa và dọn cái ghế ra ngồi đi.” Dưới bàn làm việc có vài cái ghế cao. Michael kéo chúng ra để ngồi và đẩy tất cả mọi vật trên bàn để có chỗ trống cho dao, nĩa. Sophie giúp cậu bé. Cô đã không trông chờ sẽ được Howl hoan nghênh, dĩ nhiên, nhưng anh ta đến giờ vẫn chưa đồng ý cho cô ở lại sau bữa sáng nữa. Michael không có vẻ gì là cần giúp đỡ, Sophie xách cây gậy lên, và đi từ từ, chầm chậm đặt nó trở về tủ treo quần áo. Khi thấy Howl cũng chẳng có vẻ để ý gì đến mình cả, cô nói, “Cậu có thể nhận tôi làm một tháng thử việc, nếu cậu muốn.” Pháp sư Howl chẳng nói gì thêm ngoại trừ “Đưa dĩa đây, Michael,” và đứng dậy cầm chảo bốc khói. Calcifer vui vẻ ầm ầm nhảy vọt lên cao, và tỏa sáng rực rở trong ống khói. Sophie thử buộc Pháp sư một lần nữa. “Nếu tôi sẽ phải lau chùi nơi đây trong một tháng,” cô nói, “Tôi muốn biết phần còn lại của tòa lâu đài ở đâu. Tôi chỉ tìm thấy phòng ngủ và một phòng tắm thôi.” Dưới sự ngạc nhiên của cô, cả Michael và Pháp sư đều phá ra cười lớn. Chỉ đến khi họ gần ăn xong bữa sáng Sophie mới phát hiện ra điều gì làm họ cười. Howl không những rất khó bị trói buộc. Anh chàng còn không thích trả lời câu hỏi chút nào. Sophie chịu thua luôn và quay qua hỏi Michael. “Nói đi,” Howl nói. “Trả lời để bà già khỏi hỏi nữa.” “Lâu đài không còn gì nữa đâu,” Michael giải thích, “trừ mọi cái mà bà đã thấy và hai cái phòng ngủ trên lầu.” “Hả?” Sophie ngạc nhiên. Howl và Michael cười lớn lần nữa. “Howl và Calcifer sáng chế ra cái lâu đài,” Michael giải thích, “và Calcifer giữ cho nó hoạt động. Bên trong chỉ là ngôi nhà cũ của Howl ở Porthaven, và là phần thật sự.” “Nhưng Porthaven xa hàng dặm ngoài biển!” Sophie nói. “Thật là xấu quá! Tại sao mấy người lại cho cái lâu đài to lớn xấu xí này chạy lên chạy xuống khu đồi và làm mọi người ở Market Chippping sợ đến chết hả?” Howl nhún vai. “Bà già lắm chuyện quá! Tôi đã đến thời điểm trong nghề nghiệp khi tôi phải gây ấn tượng cho mọi người với sức mạnh và sự độc ác của tôi. Tôi không thể cho Đức Vua nghĩ tốt về tôi được. Năm ngoái tôi còn xúc phạm một người có thế lực và tôi cần giữ họ xa ra.” Đó là một cách tức cười để tránh mặt người ta, nhưng Sophie cho rằng các pháp sư có chuẩn mực khác với người thường. Và không lâu, cô khám phá ra lâu đài có những nét kì lạ khác. Họ đã ăn uống xong và Michael đang xếp dĩa trong cái bồn nước đầy nhớt cạnh bàn gỗ khi một tiếng gõ thật lớn vào cánh cửa. Calcifer bừng sáng, “cửa Kingsbury!” Howl, đang trên đường đi phòng tắm, quành lại mở cửa. Trên cửa có một quả đấm cửa gỗ hình vuông, gắn chặt vào rầm đỡ cửa, bốn phía sơn bốn màu khác nhau.
|
Tại giây phút đó phần sơn màu xanh nằm ở phía dưới, nhưng Howl vặn nút để cho màu đỏ nhằm phía dưới trước khi mở. Đứng bên ngòai là một nhà quý tộc cao sang, trên đầu đội mái tóc giả màu trắng cứng ngắc, và một cái nón trắng. Y vận bộ trang phục màu đỏ tươi, tím và vàng, và trên tay cầm một cây gậy quấn ruy băng xung quanh như một cây nêu nhỏ. Y cúi đầu chào. Mùi hoa đinh hương và hoa cam phảng phất vào phòng. “Đức Hoàng Thượng muôn năm dâng tặng lời khen ngợi và gởi tiền cho hai ngàn đôi hia bảy dặm,” người này nói. Phía sau lưng y Sophie thoáng thấy một cái xe kiệu đứng yên trong con đường toàn những tòa nhà xa hoa, chạm trổ tinh vi, nhà thờ, tháp nhọn và vòm xa xa, một cảnh tượng lộng lẫy cô chưa bao giờ thấy. Cô thấy tiếc khi người đứng ngoài cửa không bao lâu đã đưa một cái ví xủng xẻng tiền bằng lụa dài, và Howl cũng dùng từng ấy thời gian để nhận ví, cúi chào và đóng cửa lại. Howl vặn nút cửa lại để màu xanh chĩa xuống dưới và xếp cái ví dài vào trong túi áo. Sophie nhìn mắt Michael dõi theo cái ví tiền với vẻ khẩn trương, lo lắng. Howl tiến thẳng vào phòng tắm, và gọi với ra ngoài. “Cần nước nóng trong này, Calcifer!” và mất tích trong một khoảng thời gian lâu thật là lâu. Sophie không thể kềm được sự tò mò. “Ai đã ở ngoài cổng vậy?” cô hỏi Michael. “Hay tôi phải nói là ở nơi nào?” “Cánh cửa đó mở ra chỗ Kingsbury,” Michael nói, “nơi Đứa Vua ngự. Tôi cho rằng người đó là thư ký của Đại Pháp Quan. Và,” cậu lo lắng nói với Calcifer, “ước gì ông ấy đã không đưa Howl từng ấy tiền.” “Vậy Howl có cho tôi ở đây không?” Sophie hỏi. “Nếu có cho, bà cũng sẽ không bắt anh ấy nói ra được đâu,” Michael trả lời. “Anh ghét bị trói buộc vào bất cứ cái gì lắm.”
|
Chương 5: Có quá nhiều quét dọn
Điều duy nhất có thể làm, Sophie quyết định, là cho Howl thấy cô là một người quét dọn xuất sắc, một kho báu thật sự. Cô cột miếng giẻ cũ kỹ quanh mái tóc trắng, cuộn tay áo lên khỏi cánh tay già nua gầy guộc và quấn cái khăn trải bàn cũ quanh mình để làm tạp dề. Khá là nhẹ nhõm khi biết chỉ có bốn phòng để dọn thay vì một tòa lâu đài rộng lớn. Cô nắm lấy một cái xô, một cây chổi và bắt tay vào làm. “Bà đang làm gì thế?” Michael và Calcifer cùng hét lên. “Quét dọn,” Sophie kiên nghị trả lời. “Cái chỗ này là một sự nhục nhã.” Calcifer nói, “Đây không cần đâu,” và Michael càu nhàu, “Howl sẽ đá bà ra đó!” nhưng Sophie lờ cả hai. Từng đám mây bụi tung lên mù mịt. Giữa làn khói bụi đó, có một tiếng gõ cốc cốc ngoài cửa. Calcifer bừng sáng lên, gọi, “cửa Porthaven!” và ách xì một tiếng rõ to làm văng những tia lửa tím qua đám mây bụi. Michael rời khỏi chỗ làm việc và bước đến mở cửa. Sophie ngó xuyên qua đám bụi mà cô tung lên và nhìn thấy lần này Michael vặn nút xuống để màu xanh dương nằm phía dưới. Rồi cậu mở cửa ra con đường mà ta nhìn thấy qua cửa sổ. Một cô gái nhỏ đứng đó. “Anh Fisher,” cô bé nói. “Em đến lấy bùa cho mẹ em.” “Bùa an tòan cho bố em phải không?” Michael nói. “Đợi anh chút.” Cậu quay trở lại bàn làm việc và đong số bột từ hũ trên kệ vào trong một tờ giấy vuông. Trong khi cậu ta làm việc, bé gái tò mò ngó trộm Sophie cũng như cô cũng đang ngó trộm. Michael quấn tờ giấy gói bột lại và bảo, “Nói mẹ em rắc bột này xung quanh thuyền nha. Nó sẽ bảo vệ cho chuyến đi và trở lại, ngay cả trong bão.” Cô bé lấy tờ giấy và đưa ra một xu. “Chẳng lẽ Pháp sư có bà phù thủy làm việc cho ông nữa sao?” cô hỏi. “Không,” Michael đáp. “Bà hả?” Sophie cất tiếng. “Đúng đó, con gái ạ. Bà là phù thủy xuất sắc và sạch sẽ nhất trong vương quốc Ingary.” Michael đóng sập cửa và bực tức nói. “Tin đó sẽ loan cả vùng Porthaven. Howl sẽ không ưa đâu.” Cậu lại quay nút xanh lục xuống phía dưới. Sophie cười khì, không có vẻ hối hận chút nào. Có lẽ cô đã để cây chổi sể trong tay đặt ý tưởng vào đầu. Nhưng nó có thể sẽ thuyết phục Howl cho cô ở lại nếu mọi người đều nghĩ cô đang làm việc cho anh ta. Thật là kỳ cục. Nếu là một cô gái, Sophie sẽ rùng mình mắc cỡ vì những hành động của mình. Trong vai một bà già, cô không quan tâm đến cử chỉ hay lời nói chút nào. Cô cho đó là một sự thoải mái. Cô còn ngó nghiêng như bà già lắm điều khi Michael nhấc tảng đá trong bếp lửa và giấu đồng xu của bé gái xuống dưới. “Cậu đang làm gì thế?” “Calcifer và cháu đang cố tiết kiệm tiền,” Michael có vẻ ăn năn nói. “Howl xài hết từng đồng xu nếu chúng cháu không làm vậy.” “Tiêu tiền như rác!” Calcifer ho. “Gã đó xài tiền của vua còn nhanh hơn tôi đốt củi. Thiệt vô lý.” Sophie rắc một chút nước từ bồn rửa chén để bụi không bay lên. Calcifer thu mình trong ống khói. Sau đó cô quét sàn nhà một lần nữa. Cô vừa quét vừa tiến đến cửa để hòng nhìn cái nút vặn hình vuông trên cửa. Mặt thứ tư, mà cô chưa từng thấy sử dụng, có màu sơn đen ở trên. Tự hỏi không biết cái đó dẫn đi đâu, Sophie bắt đầu mạnh mẽ quét mạng nhện xuống khỏi thanh xà nhà. Michael rên lên và Calcifer lại hắt xì lần nữa. Vừa lúc ấy Howl bước ra khỏi buồng tắm mang theo mùi nước hoa thoang thoảng. Anh chàng trông hết sức chải chuốt. Ngay cả hoa văn và chỉ thêu trên áo dường như rực rỡ lấp lánh hơn. Anh ngó một cái và tháo lui vào buồng tắm lần nữa với tay áo xanh bạc che lên đầu. “Thôi đi bà già!” anh nói. “Để bọn nhện được yên!” “Mấy mạng nhện là sự ô nhục!” Sophie tuyên bố, gạt chúng xuống thành từng chùm. “Vậy thì quét chúng xuống và để bọn nhện được yên,” Howl đáp. Có lẽ anh chàng có hấp dẫn đặc biệt với bọn nhền nhện, Sophie nghĩ. “Chúng sẽ chỉ giăng mạng nhện nữa thôi,” cô trả lời. “Để giết ruồi, rất là hữu dụng,” Howl nói. “Bà làm ơn giữ yên cái chổi cho đến khi tôi bước ra khỏi nhà của tôi cái đã.” Sophie đứng tựa cái chổi, mắt dõi theo Howl đi qua căn phòng và lượm cây đàn guitar lên. Khi anh đặt bàn tay lên chốt cửa, cô hỏi, “Nếu màu đỏ dẫn đến Kingsbury, và màu xanh dương dẫn đến Porthaven, vậy màu đen đi đến đâu?” “Bà già lắm chuyện!” Howl nói. “Nó dẫn đến chỗ trốn riêng của tui và bà sẽ không được biết nó ở đâu.” Anh mở cửa ra vùng đất hoang rộng lớn đầy cây thạch nam và đồi núi. “Khi nào anh trở lại hả Howl?” Michael chán chường hỏi. Howl giả tảng không nghe thấy.
|
Anh nói với Sophie, “Bà không được giết một con nhện khi tôi đi vắng.” Và cửa đóng sập sau lưng anh chàng. Michael liếc Calcifer đầy ý nghĩa và thở dài. Calcifer cười khăng khắc vẻ gian ác. Vì không có ai giải thích Howl đi đâu, Sophie kết luận là anh ta lại đi săn gái đẹp và bắt đầu làm việc càng hăng hái mạnh mẽ hơn. Không dám làm tổn hại bất cứ con nhện nào sau lời Howl dặn, cô đập cây chổi vào xà nhà và quát lên, “Đi ra, nhền nhện! Cút khỏi mắt ta!” Mấy con nhện chạy bán sống bán chết khắp mọi nơi, và mạng nhện lại rơi từng chùm xuống sàn nhà. Tiếp theo dĩ nhiên cô phải quét nhà lần nữa. Sau đó cô lại phải quỳ xuống và lau chùi thật kỹ. “Cháu ước gì bà ngừng tay!” Michael nói, ngồi trên bậc thang tránh xa cô ra. Calcifer co rúm lại sát phía trong lò, lầm bầm trong miệng, “Ước gì tui đã không làm cuộc trao đổi đó với bà!” Sophie vẫn vận hết sức lực và tiếp tục lau chùi. “Hai người sẽ vui vẻ hơn khi mọi thứ được sạch sẽ và ngăn nắp,” cô nói. “Nhưng cháu khốn khổ ngay lúc này!” Michael phản đối. Howl không trở về cho đến tận khuya. Lúc đó Sophie đã quét dọn và lau chùi đến rã rời, không còn cử động được nữa. Cô ngồi cúi đầu trong ghế, mình mẩy đau nhức. Michael níu tay áo thụng dài của Howl và kéo anh vào phòng tắm, nơi Sophie có thể nghe cậu bé hăng hái tuôn ra vô số lời than thở. Những câu như “bà già kinh khủng hoảng” và “không nghe một lời nào!” nghe khá là rõ, dù rằng Calcifer đang tru tréo, “Howl, ngăn bà gì lại đi! Bả giết cả hai đứa mất!” Nhưng Howl chỉ nói, sau khi Michael buông ra, là “Bà có giết con nhện nào không?” “Tất nhiên không!” Sophie cáu kỉnh đáp. Cơn đau nhức làm cô nóng nẩy. “Chúng nhìn tôi và chạy trối chết. Chúng là gì? Mấy cô gái bị cậu ăn tim hả?” Howl phá ra cười. “Không, chỉ mấy con nhện thôi,” anh nói và lại mơ mơ màng màng bỏ đi lên cầu thang. Michael thở dài. Cậu vào trong phòng chứa quần áo và tìm cho được một cái giường gấp cũ kỹ, nệm rơm, và vài tấm chăn, cậu đặt tất cả vào khoảng trống dưới cầu thang. “Đêm nay bà ngủ ở đây thì tốt hơn,” cậu nói với Sophie. “Vậy nghĩa là Howl đã chịu cho bà ở lại hả?” Sophie hỏi. “Cháu không biết!” Michael hơi khó chịu đáp. “Howl không bao giờ hứa gì với ai cả. Cháu phải ở đây sáu tháng trước khi anh ấy biết là cháu sống ở đây và nhận cháu làm đệ tử. Cháu chỉ nghĩ một cái giường thì tốt cho bà hơn là ghế.” “Cám ơn cháu nhiều,” Sophie biết ơn nói. Cái giường quả nhiên thoải mái hơn ghế, và khi Calcifer than đói bụng vào buổi tối, Sophie có thể dễ dàng lập cập đứng dậy và đưa thanh củi nữa cho nó. Trong những ngày sau đó, Sophie quét dọn quanh tòa lâu đài không yếu đi chút nào. Cô rất thưởng thức chính mình. Tự nhủ là phải tìm ra manh mối, cô rửa cửa sổ, tẩy sạch cái bồn nước rò rỉ, bắt Michael dọn sạch mọi thứ trên bàn làm việc và kệ tủ để cô chùi rửa. Cô dọn mọi thứ ra khỏi phòng quần áo và lấy tất cả mọi thứ xuống khỏi xà nhà và lau chùi luôn. Cái sọ người, cô tưởng tượng, cũng bắt đầu trông khốn khổ như là Michael. Nó đã bị xê dịch rất nhiều lần. Đoạn cô cột tấm vải cũ vào xà nhà gần bếp lửa nhất và bắt Calcifer cúi đầu xuống để cô quét ống khói. Calcifer ghét lắm. Nó phá ra cười dã man khi Sophie phát hiện bồ hóng bay ra khắp phòng và cô lại phải lau chùi lại lần nữa. Đó là khuyết điểm của Sophie. Cô làm việc chuyên cần, nhưng không có hệ thống. Tuy nhiên có hệ thống trong sự chuyên cần của cô: cô tính toán là không thể quét dọn sạch sẽ ngôi nhà mà không thể sớm muộn khám phá kho tàng bí mật của Howl chứa đầy linh hồn, hoặc tim khô các cô gái trẻ - hoặc một cái gì đó giải thích hợp đồng của Calcifer. Tuốt trên ống khói, được Calcifer canh gác, làm cô tưởng đó là một chỗ che giấu rất tốt. Nhưng không có gì ở trong, ngoài một số lượng lớn bồ hóng, mà Sophie đã hốt được thành chục bịch ở đằng sau vườn. Vườn sau chiếm vị trí cao trong danh sách những chỗ giấu đồ của Sophie. Mỗi lần Howl bước vào nhà, Michael và Calcifer lớn tiếng than phiền về Sophie. Nhưng Howl dường như không để tâm tới. Cũng như anh không để ý gì đến sự sạch sẽ. Và anh cũng không thiết tha gì đến tủ thức ăn được chất ngăn nắp với bánh, mứt, và rau cải. Bởi vì, như Michael đã tiên đoán, lời đồn đại đã loan khắp Porthaven. Mọi người ai cũng đến trước cửa đòi gặp Sophie. Mọi người gọi cô là Quý Bà Phù Thủy của Porthaven, hay là Phu Nhân Pháp Sư của Kingsbury. Lời đồn cũng loan tận kinh đô. Mặc dù người gõ cánh cửa Kingsbury ăn vận sang trọng hơn người ở Porthaven, không ai ở hai chỗ ấy muốn đến thăm một người có quyền phép cao siêu với hai bàn tay không. Vì thế Sophie lúc nào cũng phải ngừng làm việc để gật đầu, mỉm cười và nhận quà, hay để kêu Michael đi làm bùa chú nho nhỏ cho người ta. Một vài món quà rất dễ thương - tranh, dây chuyền vỏ sò, hay là tạp dề. Sophie dùng tạp dề mỗi ngày và treo dây chuyền vỏ sò, và tranh xung quanh không gian nhỏ của cô dưới cầu thang, và nơi ấy nhanh chóng có không khí như là nhà vậy.
|