Tuổi Thơ Dữ Dội
|
|
Chương 18: Phần Thứ Bảy (2) 11 Lượm cùng với các bạn trong đội ngồi quây quần xung quanh một tờ báo đặt lên thềm xi măng sát dãy bể nước hỏng. Trên tờ báo có chục vắt cơm tù, một cái lon đựng muối mỏ. Và cái vỏ đồ hộp vuông đựng lưng miệng bánh bích quy vụn. Cái thùng nước sạch Lượm mang về để sát thành bể, miệng thùng đậy mấy ngọn lá bàng loáng nước. Lon bích quy vụn là sáng kiến của Thúi. Túi bánh vụn Lượm mang về được chia làm hai phần, một phần tiếp tế cho các anh ở xà lim và ca-sô âm phủ. Phần còn lại, cả đội đòi ăn hết một bữa đã nư, nhưng Thúi gàn: - Tụi mình con nhà nghèo ăn uống phải tùng tiệm. Mỗi bữa ăn một ít thôi. Để dành lỡ có đứa mô đau, cơm cháo không nuốt được, còn có miếng bánh cầm hơi… Lượm giao túi bánh cho Thúi giữ, cười nói với nó: - Mi mà vô Vệ Quốc Đoàn răng cũng được cấp chỉ huy lựa làm quản lý. Mi mà làm quản lý, tụi tau hoàn toàn tin tưởng, chứ vô tay đứa khác, hắn chỉ tắc lẻm một lúc là hết bọc bánh. Thúi quản lý túi bánh rất chặt. Lúc nào nó cũng đeo kè kè bên lưng. Đi qua nó, đứa nào cũng phải đứng lại hít hít, vì mùi bánh bích quy bơ thơm điếc mũi. Đứa nào cũng nằn nì: - Cho tau một miếng nhỏ bằng ngón tay út thôi! Thúi hứ một tiếng: - Mỗi đứa cứ xở bớt một miếng bằng ngón tay, mười đứa gộp lại cũng hết lưng túi bánh còn chi! Thèm đành nuốt nước miếng nhưng không đứa nào dám chê bai Thúi. Vì chưa một lần chúng bắt gặp Thúi miệng tóp tép nhai bánh. Nó nói: - Ăn chùng ăn vụng bánh lúc ni cũng bằng ăn cứt của anh em! Cả đội đều chịu phục nó sát đất: “Đói thắt ruột mà suốt ngày lại cứ phải ngửi mùi bánh thơm nhức mũi, mà hắn nhịn được, không tắc lẻm thì tài thiệt”. Đến bữa ăn, Thúi ngồi dang chân, để túi bánh vô giữa, mở ra, xúc một lon rồi buộc ngay lại. Đứa nào lân la đến gần, nó hát mắt ngay! Nó không ăn trước một miếng dù nhỏ bằng cái móng tay. Có chăng là nó chỉ mút ngón ray dính chút bột bính, mút đi mút lại mấy lần. Lon bánh được đặt chính giữa tờ báo chờ ăn cơm xong, chia nhau tráng miệng. - Ta ăn cơm thôi anh em hè! - Lượm nói. - Ngớ tề, có hai đứa trong băng Lép-sẹo đang xách cái bị chi nặng đi về phía ta. - Ngạnh nói, chỉ tay về phía thềm ba-ti-măng hai. Chồn-hôi và một thằng nữa đi đến chỗ anh em Lượm đang ngồi. Chồn-hôi đặt cái bị xuống, nói: - Anh Lép-sẹo sai hai đứa tui đến… Nó mở cái bị, lôi ra một con gà luộc to tướng da vàng hươm, đủ cả đầu, cả chân, đặt chồng lên những vắt cơm. Nó nói với vẻ trịnh trọng khác thường: - Anh Lép-sẹo tụi tui nói đem kỉnh anh Lượm con gà, đền ơn anh cho thuốc cứu mạng. Có thể nói nếu một kỳ quan thế giới xuất hiện giữa sân lao Thừa Phủ cũng không làm bọn trẻ sửng sốt bằng khi nhìn thấy con gà luộc nằm đè lên những vắt cơm tù vừa sống, vừa nhão, vừa khê. Tất cả gần như nín thở, mắt mở tròn xoe, dán chặt vào con gà luộc. Chúng có cảm giác cả đời chúng chưa bao giờ được nhìn thấy một con gà luộc to đến như thế, béo đến như thế, vàng hươm đến như thế! Nước mỡ trên cái lưng tròn căng, bóng loáng rịn ra chảy thành dòng, lăn xuống mấy vắt cơm bên dưới, và thấm luôn vào vắt cơm. Vắt cơm tù lập tức ánh lên màu vàng béo ngậy. Tất cả bọn trẻ đều nuốt nước miếng ừng ực. Không còn đủ sức nhịn nổi, cả chục ngón tay đen đúa, cáu ghét, cùng một lúc đưa ra sờ vào cái lưng tròn mum múp rịn nước mở của con gà mái luộc. Lượm-sứt cau mặt. Những ngón tay thèm khát vội rụt ngay lại và để lại trên làn da gà vàng hươm những vết đen như vết lăn tay, điểm chỉ. Con gà luộc của một tay anh chị đưa đi kỉnh biếu cũng có khác. Hai cái chân gà ngòn khum khum buộn chéo vào cổ gà bằng một mẩu dây thép, sát ngay bên dưới cái đầu, đúng điệu đầu lâu xương chéo trên lá cờ của quân cướp biển. Thằng Lanh cúi sát xuống cặp giò gà, xem xét cái gì đó rất kỹ. Nó ngẩng lên nói với Lượm: - Con gà ni là con gà mái mơ của mụ vợ Một Điếu. - Răng mi biết? - Ngó cặp chân là tui biết ngay! Các món chân gà đều bị mụ chặt cụt chắc là để nó khỏi bươi phá bồn hoa trước mặt nhà Một Điếu. Con gà ni rất hay chui qua cửa sắt vô lao kiếm ăn. Cách đây lâu lâu tui đã chộp được nó, cũng định vặt lông nướng đãi anh chơ bữa chơi. Nhưng tui nhớ tới cái chân bị Một Điếu bắn nát xương bánh chè của anh tù ăn trộm gà, tui phải thả ra ngay. Nhờ rứa tui mới biết các móng chân bị cụt đó chớ! Trong vài ngày gần đây, Lượm đang phải có chuyện lo nghĩ ghê gớm. Chính nhờ sự phải mải lo nghĩ đó mà đầu óc Lượm trở nên sáng suốt, nhạy bén. Nếu không chắc nó cũng gật đầu nhận với tất cả vẻ hãnh diện của người được đích thân địch thủ gửi đồ kính biếu. Hơn nữa, con gà cũng làm nó rệu nước miếng vì thèm giống như các bạn. Cộng thêm câu nói khôn ngoan của thằng Lanh: “Nhưng nhớ đến cái chân anh tù ăn trộm gà bị Một Điếu bắn nát xương bánh chè, tui phải thả ra ngay…” làm Lượm nhận ra tai hoạ khôn lường đang rình rập núp sau lưng con gà luộc. Lượm bưng con gà đặt trả vô bị của hai đứa được phái đi kính biếu, và nói với chúng: - Hai đứa bay về nói với Lép-sẹo là Lượm-sứt xin nhận tấm lòng của Lép-sẹo, nhưng con gà thì xin trả lại nghe… Nghe nói vậy nhiều đứa trong đội xịu mặt vì thất vọng. Chúng nhìn con gà với bộ mặt đưa ma. Lượm nói tiếp giọng khá gay gắt: - Hai đứa bay nhớ nói với Lép-sẹo: Lượm-sứt không ngờ một tay anh chị khôn ngoan như hắn mà lại làm một việc ngu dại đến như rứa! Hay là hắn muốn bóp dái Một Điếu hỏi ai bắt trộm gà, thì phải nhận lấy chứ đừng đổ bậy đổ bạ cho tụi tao nghe! Tụi tao là Vệ Quốc Đoàn, là du kích, không thích mang tiếng với Tây là quân ăn trộm gà! Thôi xách đi! Lượm nhét cái quai bị vô tay Chồn-hôi, khoát khoát tay ra hiệu hắn xách ngay đi cho khuất mắt 12 Cách đây hai hôm, buổi sáng Lượm đang lúi húi lau sàn nhà phòng làm việc của quân hai I-tai thì thấy viên đội văn phòng đi vào. Sau khi chào hỏi, hai thằng nói chuyện với nhau. Lượm vừa lau nhà, vừa cố hết sức lắng nghe câu chuyện giữa hai thằng Tây, vì bất thần lọt vào tai nó tiếng: prisonnier (tù) Viên đội văn phòng báo cáo với tên Giám đốc sở là vừa nhận được công văn của cấp trên, báo cho biết mấy hôm nữa sẽ có hai người lính da đen xuống sở để làm công việc lao công, thay cho toán tù. Vì đây là một công sở quan trọng của quân đội, không nên để bọn tù Việt Minh đến làm cỏ vê… Câu chuyện bất ngờ nghe lỏm được làm Lượm choáng váng. Nó xách xô nước bẩn và cái giẻ lau đi ra khỏi phòng. Nó mừng thầm là đã may mắn nghe lỏm được cái tin đáng sợ này. Nếu không, công phu chuẩn bị gần hai tháng trời thành công cốc. Chưa kịp trốn tù thì một buổi sáng không thấy xe sở Pốt đến đón tù đi làm nữa. Hy vọng tiêu tan. Hai lớp tường cao vòi vọi của nhà ngục Thừa Phủ lại vĩnh viênc khép kín, vây chặt. Phải trốn gấp, nếu không sẽ không biết còn phải ở tù đến bao giờ! Và cũng có thể chết gục trong tù vì đói khát, bệnh tật. Ý nghĩ đó nóng rát trong đầu Lượm như than đỏ. Suýt nữa làm nó mất bình tĩnh, định liều lĩnh chạy trốn ngay trưa hôm dó. Nhưng kinh nghiệm đau đớn của hai lần trốn tù thất bại trước đó đã làm nó tĩnh trí lại. Lượm quyết định phải dò xem ngày nào chúng gửi lính da đen đến thay thế tù làm cỏ-vê. Lượm rửa tay sạch sẽ, lau khô, bước vào phòng làm việc của viên đội văn phòng với vẻ mặt thật tươi tỉnh. Lúc đó khoảng mười giờ sáng. Ngoài trời gió thổi lộng, lá rụng tới tấp. Lượm liếc nhìn thấy viên đội ngồi trước bàn kê sát tường, hý hoáy đọc và ghi vào sổ công văn. Trên mặt cái bàn vuông cạnh đó để chồng chất những đống thư. Đó là những thư chờ đóng dấu bưu điện của sở. Lượm lễ phép nói: - Thưa ông đội, tôi đã làm xong công việc dọn vệ sinh. Ông có thể cho tôi tập đóng dấu bưu điện? Viên đội ngẩng lên nhìn Lượm với cặp mắt xanh lưo như có ý dò hỏi: Sao thằng nhỏ này lại không thích nghỉ ngôi, mà cứ thích luôn tay làm việc? Lượm bước đến cạnh bàn, nói tiếp làm như vô tình: - Ông quan hai có hứa sau khi ra tù, ông có thể nhận tôi vào làm tùy phái ở sở. Tôi muốn được tập làm một số công việc cho quen tay. - Mày đóng dấu đi! - Viên đội chỉ đống thư rồi cúi xuống đọc và viết tiếp. Lượm xếp thư thành từng chồng, cầm con dấu có cán như cái búa, một nhát vào hộp mực dấu, một nhát vào góc phong bì, nhịp nhàng đều đặn. Póc pịch! Póc pịch! Viên đội quay lại nhìn, gật đầu khen: - Tốt lắm! - Cám ơn ông đội! - Lượm lễ phép đáp không ngẩng đầu lên, tay không ngừng póc, pịch! Nó nghĩ bụng: “Mi cứ cho tau biết ngày mô mi thôi cho tau đi làm, tau còn cám ơn mi hơn!”. Lượm liếc nhìn những tờ giấy đánh máy có dấu đỏ, viên đội đọc vào sổ xong, để thành một tập dày bên cạnh. Có thể cái công văn nói rõ ngày tháng thay tù nằm trong tập đó, nhưng biết làm cách nào xem được bây giờ? Ngoài vườn gió thổi ào ào. Nhìn qua cửa kính, Lượm biết gió đang thổi thốc vào phía phòng. Phải làm liều thôi! Nó lập tức quyết định. Với tay qua bàn, nó vặn chốt cửa sổ, đẩy hai cánh cửa mở rộng. Gió thổi thốc vào phòng mang theo cả những chiếc lá khô vàng. Chồng giấy đánh máy bay tung khắp phòng. Viên đội giật mình kêu lên: Ô lá la! Méc đờ! Lượm giả bộ sợ hãi, cuống quýt đóng ập ngay cửa sổ lại! - Xin lỗi ông đội. Tôi thấy phòng hơi tối, muốn mở cửa cho ông nhìn đọc và viết được dễ hơn. Tôi sẽ lượm xếp lại như cũ… Lượm hối hả chạy đi thu nhặt giấy bị bay. Tờ nào cầm lên nó cũng rũ rũ như có bụi dính bẩn. Và lúc rũ tờ giấy, nó liếc rất nhanh. Không phải! Không phải! Không phải! Trời ơi không phải!… Đây rồi! Tờ giấy nắm vận mạng của nó bay tíy tận góc phòng. Lượm mừng đến muốn trào nước mắt. Ngày hai mươi tháng sau, hai người tù da đen sẽ đến sở nhận việc. Lượm đặt tập giấy đã xếp ngay ngắn lên bàn, bối rối nói: - Mong ông đội tha lỗi cho sự vô ý của tôi! - Không sao!… Hắn lại cúi xuống cắm cúi viết. Lượm đến bàn, đóng dấu tiếp các chồng thư. Con dấu bưu điện in rõ ngày hôm nay mười bốn tháng sáu. Póc pịch! Póc pịch! Póc pịch! Mười bốn tháng sáu. Mười bốn tháng sáu. Mười bốn tháng sáu! Con dấu bưu điện in mổ vào hộp mực in, mổ xuống góc phong bì, lúc này vang lên bên tai Lượm điệp khúc đó. 13 Hai mươi tháng sáu là ngày thứ hai. Lượm quyết định vượt tù vào trưa ngày mười tám, thứ bảy! Trước mắt Lượm chỉ còn hai ngày nữa để chuẩn bị những khâu quan trọng cuôí cùng. điều làm Lượm phải nát óc lo nghĩ là trong cuộc vượt tù lần này phải đưa được thằng Thúi cùng trốn. Đã từ lâu, Lượm coi Thúi như đứa em ruột, như chính Tư-dát vậy. Chưa một lúc nào Lượm có ý nghĩ vượt tù lấy một mình, để Thúi lại chơ vơ trong nhà lao. "Cũng một phần do mình mà tự nhiên nó bị vào tù. Và nếu không có nó la tiếp cứu, săn sóc mình lúc đau, thì chắc mình đã ngoẻo lâu rồi". Lượm luôn nghĩ như vậy. Lượm đã nói riêng với Thúi từ lâu dự định vượt tù và dặn nó phải hết sức giữ kín. Kế hoạch trốn tù của hai đứa, Lượm phác qua cho nó nghe : Đến ngày đó, Lượm sẽ tìm cách đưa nó đi làm cỏ-vê. Nó sẽ đóng vai thằng bán kẹo gừng "đúng nghề nghiệp chuyên môn của mi", đi trước dò đường, Lượm sẽ đi sau nó chừng trăm bước, đóng vai thằng ở đi chợ về. Tay Lượm sẽ xách cái bị, trên bị để mấy mớ rau, hành dưới bị là "khẩu côn mười hai" của thằng quan hai I-tai (khẩu súng này không một phút nào nằm ngoài tính toán của Lượm). Dọc đường tẩu thoát hễ thấy động động như gặp trạm kiểm soát, tụi An ninh, Bảo Vệ Quân đi tuần tiễu là Thúi phải rao kẹo gừng nóng mới ra lò thật to, để phía sau Lượm liệu đường đối phó… Lượm nói với Thúi: - Công việc đi trước dò đường rất khó, trong bộ đội gọi là đi xích hầu. Đi xích hầu phải khôn ngoan, chăm chú, lanh trí, nếu không, người đi sau dễ dàng ăn đạn. Thằng Tư-dát đi xích hầu cho tau, chỉ lơ là một chút mà tau bị tóm, rồi mi cũng bị tù lây luôn. Liệu mi có làm được không? - Làm được. - Mi không sợ à? - Chắc lúc đó tui cũng run… Nhưng tui biết sau lưng tui có anh thì răng tui cũng làm được… - Thúi ngẫm nghĩ một chút, rồi nói thêm, mặt nó trở nên già câng. - mà có chuyện chi thì hai anh em mình cùng chết. Anh đi mô tui xin đi theo nấy. Tui mà không có anh thì e tui cũng nhảy xuống sông, xuống hói mà chết cho rồi đời! Lượm lấy số tiền Thúi cất giữ bấy lâu, đem đi sắm cái mủng, cái mẹt bán kẹo gừng, và một túi nhỏ kẹo gừng, để hôm đó bày lên mẹt. Thằng Thúi cứ xuýt xoa tiếc mãi cái thúng, cái mẹt cũ của nó. - Tau mua cho mi bộ đồ nghề mới cũng tốt lắm. - Đồ nghề mới quá, họ dễ nghi? Mủng mẹt cũ, sợi dây đeo đen láng mồ hôi mới ra thằng bán kẹo gừng thành thạo… Rứa đồ nghề anh mua sắm, chừ giấu ở mô? - Trên cái máng xối sau dãy nhà kho. Tau đã buộc sẵn cả dây đeo vô rổ mủng. Việc đưa Thúi đi làm cỏ-vê không đến nỗi khó lắm. Lượm đã ướm thử với anh Bện: "Thằng em tui từ ngày bị bắt đến chừ chưa được tắm, ghẻ lở đầy người. Bữa mô anh giả đò đau, nghỉ một bữa, cho em tui thế chân anh đi làm cỏ-vê để hắn được tắm sông. Có được không anh?". Anh Bện đồng ý ngay: "Khi mô cậu em thích đi, chú cứ nói với tui. Đi thay một bữa chứ hai ba bữa cũng được". Nhưng còn lão Tụng, biết làm cách nào để lão ở lại nhà lao đúng cái hôm vượt tù? Lão ta vẫn không ngớt để mắt dò la Lượm. Cặp mắt hùm hụp giảo quyệt của lão vẫn thường liếc nhìn trộm Lượm, và đáy mắt loé ánh thù hận. Bắt gặp tia nhìn của lão, Lượm vừa tức giận, vừa lo sợ. Nó có cảm giác cặp mắt trơn nhớt, ghê ghê như mắt rắn độc của lão bám chặt khắp người mình, cả lúc đứng, lúc đi, lúc ăn, lúc ngủ… Lượm biết, chỉ cần lộ ra một chút gì đó, lão sẽ báo ngay với tụi Tây. Lão đã làm cho Lượm phải lo nghĩ bồn chồn, thấp thỏm, mất ăn mất ngủ. Làm cách nào đây để loại lão Tụng ra trong cái ngày sống chết quyết liệt đó? Lượm nghĩ đến nát óc. Buổi chiều thứ sáu - trưa thứ bảy là ngày cuối cùng để vượt tù - ngồi trên xe sát bên cạnh lão, trở về nhà lao, Lượm nảy ra quyết định : "Phải nhờ tay Lép-sẹo!". Về đến lao, Lượm nói ngay với thằng Thúi: - Mi chạy đi tìm Lép-sẹo, nói riêng với hắn ra chỗ gốc cây cơm nguội cạnh dãy "ca-sô âm phủ", cho Lượm-sứt gặp, có chuyện muốn nói. Nó với hắn đi một mình thôi nghe! Thúi hộc tốc chạy đi. Lượm đứng ở gốc cây cơm nguội chờ Lép-sẹo trong nỗi thấp thỏm khôn cùng. Chừng mười phút sau, Lượm thấy Lép-sẹo từ ba-ti-măng hai đi ra cùng với Thúi. Có mấy thằng đàn em đi theo, nhưng Lép-sẹo quay lại, khoát tay đuổi lui. Khi đến cách Lượm còn mấy bước, Lép-sẹo đưa tay cài lại khuy áo pạc-ti-dăng mở phanh ngực, như có ý xấu hổ với cái hình xăm trên ngực. Lượm hồi hộp lắm với quyết định liều lĩnh của mình. Nó cố lấy dáng bộ thật tự nhiên, niềm nở bước đến bên Lép-sẹo. - Răng, đã lành hẳn chưa? Đừng giận mình chuyện con gà kính biếu hôm nọ hí. Mình nói đó là tình thiệt. Lượm đưa tay ra. Lép-sẹo cũng vội đưa tay ra với vẻ ngượng nghịu. Nó nói, mặt hơi cúi xuống: - Tui cũng thấy làm rứa là ngu… Hai bàn tay nắm chặt nhau. Hai cặp mắt vốn thù địch cùng nhìn nhau, im lặng đến một phút. Lượm bóp bóp bàn tay Lép-sẹo nói, giọng thán phục. - Cứng như sắt nguội! Đúng là bàn tay của làng dao búa! - Gặp tui có việc chi rứa?… - Mình có việc vô cùng hệ trọng, việc chết người! Nếu bạn hứa hết sức giữ kín thì mình mới nói. - Không giữ kín tui sẽ hộc máu chết tươi! - Mình hoàn toàn tin lời hứa danh dự của bạn. Mình với bạn biết nhau rõ lắm nên chẳng cần nói quanh co thêm mệt. Mình hỏi thật ri : "Bạn có muốn trốn tù không?". - Trốn tù? - Lép-sẹo hỏi lại như chưa tin vào tai mình lắm. - Ừ. Vượt khỏi cái nhà lao chó chết ni. - Nếu đốt được cả lao cho cháy rụi hết cả Tây, cả ta, thì mình đốt liền chẳng gớm tay! - Giọng Lép-sẹo cộc cằn, thù hận. - Rứa là bạn cũng muốn trốn khỏi đây. - Nhưng trốn răng được! - Lép-sẹo lắc đầu. - Tường ni không vượt nổi mô. Có điên mới vượt tường! Mình sẽ đưa bạn đi làm cỏ-vê ở sở Pốt. Và cả ba đứa mình cùng trốn. Mình và thằng em mình đây, - Lượm đặt tay lên vai Thúi, - trốn lên núi, trở lại Vê-cu-đê. Còn bạn thì muốn đi mô tuỳ bạn… Giọng Lép-sẹo đột ngột run lên, hỏi lại gần như thì thầm: - Khi mô trốn? - Trưa mai. Lép-sẹo lại đưa tay ra nắm chặt tay Lượm, nói nước mắt rơm rớm: - Bạn cứu mình sống chừ lại giúp mình vượt tù… ơn nghĩa to rứa biết lấy chi đền? - Ơn nghĩa chi mà… Cũng phải dựa nhau cả thôi. Có việc ni nếu bạn làm được thì mình mới giúp nổi bạn lọt ra khỏi lao. Bạn có biết lão Tụng không? - Cái thằng cha mặt choắt như mặt khỉ vẫn đi làm cùng sở với bạn à? Hắn ngủ cùng ba-ti-măng với mình… - Đúng đó. Thằng cha đó là đồ liếm đít Tây. Trước tê hắn cũng là Việt Minh như mình. Tây đến, hắn phản Việt Minh, đưa Tây đi giết Việt Minh… - Cố nội hắn! - Lép-sẹo nhổ nước bọt, chửi. - Hắn căm mình lắm, chỉ rình rập coi mình có làm chi để báo với tụi Tây. Sáng mai, thằng em mình đây sẽ thay chân anh Bện, anh đồng ý rồi. Còn bạn phải tìm cách thay chân lão đó. Lép-sẹo bặm môi suy nghĩ. - Làm cách răng được hè?… - Lượm nói, - Theo mình, bạn phải trùm chăn đập cho lão một trận, làm cho lão ngắc ngư, không lết được. Mình sẽ nói với tụi Tây đến nhận tù để bạn thay chân lão. - Không thèm trùm chăm đập làm chi cho mệt! Mình cắt gân chân lão. - Cắt gân? - Lượm hỏi lại và thấy lạnh gáy. - Chớ chi nữa! Trong làng dao búa ai phản bội đều bị xử tội cắt gân chân. Hắn phản Việt Minh cắt gân là đáng lắm. Cắt gân chân thì sống cũng bằng thừa. Không đi được, chỉ có lết thôi. Kẻng báo giờ tù phải vào ba-ti-măng. Lượm nói: - Làm cách chi tuỳ bạn. Nhưng phải làm nội trong đêm nay. Nếu không làm được là coi như hỏng hết mọi việc. - Bạn cứ tin ở mình. Thằng Lép-sẹo ni coi lời nói là đọi máu. Nửa đêm hôm đó cả khu vực nhà lao đang chìm trong yên tĩnh, bỗng ở ba-ti-măng hai nổi lên một tiếng rú ghê rợn. Tiếp đó là tiếng ồn ào như vỡ chợ. Tiếng kẻng đánh báo động. Tiếng bọn lính ngục quát tháo ầm ĩ. Tiếng súng nổi rầm rầm. Phải hàng tiếng đồng hồ sau, tiếng ồn ào mới lắng xuống. Sáng hôm sau, cửa ba-ti-măng vừa mở, tin đồn đã lan ra khắp lao. Có một anh tù già tên là Tụng, đạp vào một anh tù nào đó mò đi ỉa. Anh tù này nổi điên, túm lấy chân người đạp, cắt một lát đứt lìa gân khoeo chân. Ông Tụng đang đắp chiếu nằm trong đó chờ đưa lên xe bò chở đến nhà thương. Lượm và Lép-sẹo gặp nhau giữa sân lao, Lượm đi lại gần, thì thào hỏi: - Có ai biết không? - Trời biết! Tối như đêm ba mươi! Lép-sẹo trả lời mặt lạnh băng. - Con dao? - Cắt xong là liệng luôn vô cầu tiêu, chìm nghỉm trong cứt.
|
Chương 19: Phần Thứ Bảy (3) 14 Xe của sở Pốt bao giờ cũng đến chở tù đi làm muộn nhất. Tù đi làm các sở đã vãn hết. Trên sân trước ìao chỉ còn lại Lượm, Thúi, Lép-sẹo và bọn tù con nít. Lượm ngong ngóng nhìn ra cổng lao, lòng bồn chồn khôn tả. Lép-sẹo và Thúi cũng vậy hai đứa chốc chốc lại đưa mắt nhìn Lượm như muốn hỏi: "Liệu có trót lọt được không?". Lượm lẳng lặng gật đầu. Từ chiều qua, thằng Thúi nghe theo Lượm đã đổi cái áo ba lỗ bao tải cho Chồn-hôi lấy cái áo cộc tay rách. Chồn-hôi rất khoái việc đổi chác lợi lộc này. Số thuốc uống, thuốc bôi, đựng trong các túi Thúi giao lại cho Ngạnh. - Mi cất giúp, sợ đi làm cỏ-vê rớt mất. Lượm chỉ giữ lại một tuýp thuốc đựng hai chục viên thuốc nhỏ - thuốc ngủ gác-đi-nan dắt vào cạp quần mang theo. Còn Lép-sẹo, Lượm bắt phải lấy nước dấp lên tóc chải ép xuống với mẩu lược gẫy, và mặt mũi phải rửa ráy tử tế. Lượm nói: - Cậu phải làm bộ hiền khô, để tụi Tây tin tưởng mà nhận cậu đi làm. Tụi đàn em ngắm đại ca Lép-sẹo, cười rúc rích. - Bửa ni ngó "đại ca" đẹp như chú rể đi hỏi vợ. Sáng nào Lượm đi làm, các bạn trong đội cũng kéo ra tận cửa sắt ngó theo cho đến khi trèo lên xe jeep chạy khuất. Và lần nào, bước ra khỏi cổng lao, Lượm cũng quay lại ngoắc ngoắc tay nói với chúng: "ở nhà vui nghe? Chiều tau về". Nhưng sáng nay Lượm không đủ gan nhìn các bạn. Mắt nó cứ tránh nhìn đi chỗ khác. Sợ bắt gặp cái nhìn trông đợi, thương mến của các bạn, nó sẽ khóc mất. Nó biết chắc, công việc hôm nay dù trót lọt hay không, mình cũng sẽ không bao giờ còn gặp lại các bạn nữa. Một là thoát, hai là chết. Lượm muốn nói với các bạn một lời dặn dò, an ủi, nhưng cứ mở miệng là cổ tắc lại, mũi cay xè. Các bạn cũng nhận thấy cái vẻ khác lạ, không bình thường của Lượm. Chúng nhìn Lượm ngơ ngác, dò hỏi. Nhìn bóng nắng trên sân lao. Lượm biết sắp đến giờ xe của sở Pốt đến chở tù đi làm. Vừa đúng lúc đó, xảy ra một sự việc hết sức bất ngờ, làm Lượm muốn đứng tim. Cửa sắt mở rộng, Một Điếu từ sân ngoài bước vào. Miệng hắn không ngậm tẩu. Chính điều bất thường này tên chúa ngục đập vào mắt Lượm đầu tiên, và như dự báo tai họa ghê gớm sắp giáng xuống chính đầu nó. Quả nhiên, Một Điếu vừa nhìn thấy bọn tù con nít, bộ mặt cô hồn của hắn quạu ngay lại, dữ dằn hơn cả mọi ngày. Hắn vung cây roi ra như con rắn đen, vẫy bọn trẻ. - Lại đây? Tất cả lại đây! - Một tay hắn đặt lên bao súng. Có mấy đứa khiếp đảm định co giò bỏ chạy. Lượm quát to: - Không được chạy! Tụi bay muốn chết à? Không còn cách nào khác Lượm liều mạng bước đến gần, cố nói giọng không run: - Thưa ông quan hai. Chúng tôi có mặt. Ông cần gì tôi xin thông ngôn với chúng. - Lượm đưa tay chỉ các bạn đang đứng nép hết phía sau. - Trong bọn chúng mày, đứa nào đã giết trộm con gà mái đẹp của vợ tao? Việc mà Lượm lo sợ trước đã xảy ra. Sáng sớm nay lúc cho đàn gà ăn, mụ vợ Một Điếu phát hiện con gà mái hoa mơ đang nhảy ổ bị mất. Mụ tru tréo: "Thằng mô, con mô ăn trộm con gà của tao?". Mệ-Lai-tàn-tật chạy đến, đưa ra một nắm lông gà, xun xoe nói: "Bẩm bà lớn, tụi tù đã giết trộm con gà của bà. Chiều qua lúc đi roỏn quanh lao, tôi thấy một đám lông gà nằm lấp trong cỏ phía sân sau. Tôi biết ngay gà của bà". Thế là mụ nổi cơn tam bành, chạy vào buồng lôi cổ Một Điếu dậy, dí túm lông gà vào sát mặt lão, bù lu bù loa, bắt lão phải vào ngay tra khảo cho ra đứa mô giết trộm gà. Một Điếu còn ngái ngủ, đi vào lao không kịp ngậm ống điếu. - Thưa ông quan hai, tôi không biết. - Lượm trả lời mặt xanh tái. - Không biết? - Một Điếu gằn giọng hỏi lại và vung roi quất như xé thịt xuống vai Lượm. Lượm không dám né tránh, gồng mình chịu đòn. Vì nó thừa biết tránh đòn hắn càng nổi điên, quất tiếp và có thể ăn đạn, vì tay hắn đã mở bao súng. Lượm trào nước mặt giàn giụa trên hai má. - Thưa ông quan hai, tôi phải đi làm cỏ-vê ở sở Poste Militaire suốt ngày, tôi không thể giết trộm con gà của ông. - Mày phải hỏi chúng nó xem đứa nào giết trộm gà? Nếu không đứa nào nhận, tất cả sẽ bị bắn chết! - Một Điếu rút súng ra khỏi bao, Lượm quay lại thông ngôn câu hỏi của hắn với bọn trẻ. Nó bắt gặp tia nhìn hoảng sợ của Lép-sẹo. Thằng Chồn-hôi đứng sau lưng Lép-sẹo, run rẩy, mặt cắt không ra giọt máu. Nó đưa mắt nhìn Lượm như cầu khẩn "Xin anh tha cho em.". Nó lại nhìn khẩu súng lục trong bàn tay lông lá của Một Điếu. Nỗi sợ hãi của nó đã lên tới cùng cực. Cặp mắt nó sao mà giổng hệt cặp mắt con chó sắp bị người ta dìm chết giết thịt. Các bạn trong đội của Lượm mặt cũng đều tái xanh tái tử. Mắt chúng đều đổ về phía Lép-sẹo và Chồn-hôi, có vẻ như sắp chỉ mặt hai đứa. Lượm hiểu ý liền trừng mắt ra hiệu. Thằng Lanh hiểu ý Lượm trước tiên. Nó nói: - Nhờ anh nói lại với ông nớ là anh em tui không ai dám săn trộm gà của ông… Tất cả cùng bắt chước Lanh nói theo. Lượm thông ngôn lại với Một Điếu. Một Điếu khoát cây roi, chỉ vào mặt tất cả, gằn giọng hỏi: - Tất cả không ăn cắp? Tất cả không biết? - Vâng ạ? Vâng ạ? Một Điếu gọi ba tên lính ngục vào, hạ lệnh: - Xích tay tất cả chúng nó lại, tống vào ca-sô! Bao giờ có đứa nhận mới được thả ra. Bọn lính ngục rập dạ to và chạy ra nhà kho còng tay. Lượm không ngờ cơ sự đến nông nỗi này? Lượm phải cố hết sức mới khỏi bật khóc thành tiếng. Chỉ vì một con gà mái chó đẻ, mà nó phải chịu thất bại ở phút cuối cùng. Nếu sáng hôm nay không đi làm cỏ-vê, phải còng tay chui vào ca-sô, thì chưa biết đến ngày nào mới thoát ra khỏi cảnh tù đày. Và có thể bỏ xác lại ở đây vì đói khát, bệnh tật hành hạ. Lép-sẹo khẽ gọi: - Lượm? Lượm gạt nước mắt, ngẩng lên. Hai cặp mắt chạm nhau. Lép-sẹo đưa mắt nhìn sang phía Chồn-hôi, lắp bắp nói: - Hay là… Lượm quắc mắt, một tiếng kêu nghẹt giữa hai hàm răng. - Không được! Nó bỗng giận run, giận mờ cả mắt. Nó chỉ muốn nhào tới bóp cổ Lép-sẹo mà gầm thét: "Mi là đồ chó! Mi gây ra mọi chuyện. Rồi chừ mi định đổ tội lên đầu đàn em mi để thoát thân!". Nhưng nó kịp ghìm lại được. Ba tên lính ngục xách mỗi đứa một xâu còng tay đi vào, hô: - Hai tay chắp lại đưa ra trước mặt? Tổ cha tụi con ranh con lộn? Chuyến ni thì bay mục xương trong đó? Một Điếu đút súng vào bao, đứng chống nạnh mặt lầm lầm chờ kiểm tra bọn lính ngụe Còng tay tụi tù giết trộm gà. - Ắc ê! Ăc ê! Ắc ê! Anh tù điên bỗng từ phía sau, vừa hô vừa giậm chân đi đều, cười nhăn nhở bước thẳng đến trước mặt Một Điếu. Anh giơ tay xòe cả năm ngón đưa lên vành mũ các-tông hình nón, chào và nói thứ tiếng Tây hổ lốn quen thuộc của anh: - Bông-dua mông dạch-nằng - chào ông quan hai - Xe-moa vô lê la-pun - Chính tôi ăn trộm con gà mái. Moa đói cái bụng - Moa vồ la-pun - Anh làm động tác vồ gà - Moa rô-ti moa đớp - Pác-đông me-xừ. Xin lỗi ông! - Chính mày ăn trộm con gà? - Còn ai vô đó nữa? Uỳ me-xừ! Một Điếu vung roi quật tới tấp lên người anh điên. Anh nhảy như con choi choi, miệng la bai bải: - Pác-đông me-xừ! Pác-đông me-xừ? Anh bất thần ngã lăn ra đất, rồi lăn tròn như con quay, la hét chuyển cả nhà lao: - Ôi làng nước ơi cứu tôi với! Cứu tôi với! Cứu tôi với! Một Điếu tuy-ê moa? Một Điếu giết tôi! Hết la hét anh lại cười sằng sặc, điên không chịu được! Tình huống quá bất ngờ làm Lượm chỉ còn biết đứng há hốc mồm mà nhìn. Ngoài cổng lao có tiếng xe phanh rít. Tiéng viên quản phó đề lao gọi chõ vào rất to. - Pốt Mi-li-te mô? Ra! Lượm đáp như trong mơ: - Có ạ? Nó chụp vội lấy tay Lép-sẹo và Thúi chạy ra cổng lao. Lượm mừng đến suýt đái ra quần khi thấy trên xe jeep không có viên đội văn phòng. Nếu có viên đội, việc thay hai tù mới chưa chắc hắn đã bằng lòng ngay. Nó biết hắn rất cẩn thận và khó tính, không thích ai làm trái ý hắn. Còn đối với thằng lính gác thì sẽ dễ dàng hơn. Với hắn tù nào chẳng là tù. Tên lính hỏi Lượm: - Hai tên tù kia đâu? - Ốm nặng phải đi nhà thương. - Hai thằng này có tốt không? - Hắn chỉ Lép-sẹo và Thúi. - Tốt, rất tốt? - Mày bảo đảm chứ? - Tôi xin lấy đầu tôi để bảo đảm! Hắn nhún vai: - Tao cóc cần. A-lê, lên xe! Khi chiếc xe quặt sang phải, chạy dọc theo đại lộ xanh rợn bóng cây, gió ẩm ướt từ mặt sông thổi tạt vào mặt, Lượm mới dần dần tĩnh trí lại. Nhưng đầu óc nó vẫn còn choáng váng, bàng hoàng như.vừa bừng tỉnh một cơn ác mộng. Lép-sẹo ngồi sát vào Lượm, một tay nó đặt lên đùi Lượm nói giọng run run: - Bữa ni không có anh tù điên thì không biết sẽ ra răng hè? - Chết cả bọn chứ còn răng nữa?… Thúi cũng thì thào nhắc lại điều vẫn ám ảnh đầu óc nó từ lâu: - Anh tù điên ni lạ lắm. Tui nghi là anh nớ không điên. 15 Điều Lượm lo lắng không phải không có căn cứ. Ba đứa vừa bước xuống xe, đi vào đến sân, viên đội văn phòng đã bước ra, cau mặt lại hỏi: - Hai thằng tù kia đâu? - Thưa ông đội, họ bị ốm nặng, mắc phải bệnh truyền nhiễm. - Sao không thay bằng hai tên tù lớn ? - Hắn hỏi tên lính gác, giọng gần như gắt. Tên lính gác luống cuống nhìn Lượm. Lượm nói ngay: - Thưa ông đội, ở nhà lao, không còn một người tù lớn tuổi nào. Hôm nay có nhiều sở mới đến lấy tù đi làm cỏ-vê. Họ phải lấy cả tù con nít. Hai đứa này tuy nhỏ, nhưng làm việc siêng năng và hiền lành. Tôi biết rõ chúng. Viên đội nhún vai, đi vào phòng làm việc. Lượm lập tức lên giọng khá hách dịch sai bảo Lép-sẹo và Thúi: - Ê, thằng này vào lấy đôi thùng ra sông gánh nước, đổ đầy vào hai bể. Còn thằng này, - Lượm chỉ Thúi, - lấy chổi quét sân. Phải làm việc cho chăm chỉ vào. Các quan lớn ở đây là rất ghét bọn lười biếng! Lép-sẹo răm rắp sợ sệt nghe theo Lượm điều khiển. Thúi chăm chú quét sân, nhặt từng chiếc lá rụng; Lép-sẹo đặt đòn gánh lên vai là chạy huỳnh huỵch. Viên đội văn phòng đứng trước hành lang, quan sát chúng làm việc. Lượm liếc mắt, thấy hắn có vẻ hài lòng. Nó mừng thầm : Ổn rồi Lượm quét dọn, lau sàn nhà còn kỹ hơn cả mọi ngày. Xong ở phòng làm việc của viên đội, nó xách 1 xô nước sạch, giẻ lau, sang phòng của quai hai giám đốc sở, gõ cửa xin phép được vào làm vệ sinh. Quan hai I-tai ngồi trước bàn, ngẩng bộ mặt ông giáo làng lên nhìn Lượm, gật đầu, rồi cúi xuống viết tiếp cái gì đó. Con nhện vàng "canh kho vũ khí" vẫn có mặt ở vị trí, bò đi bò lại tuần tiễu một cách chuyên cần trên sợi tơ ánh bạc găng từ chuôi khẩu súng lục đến nóc tủ. Tim Lượm đập rộn lên, nhưng nó phải cố hết sức để không nhìn con nhện lâu hơn nữa. Nó thầm nói :"Tao cảm ơn mi lắm đó nhện ơi !". Và hết sức bất ngờ Lượm bật nhớ một câu học thuộc lòng trong sách Quốc-văn giáo khoa thư lớp ba :"Buồn trông con nhện giăng tơ. Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ mối ai…?". Vừa cắm cúi lau sàn nhà, nó vừa thì thào :"Nhện chờ mối tui". Nó rùng mình khi tưởng tượng đến lúc cái nòng thép lạnh cứng kia áp sát vào da bụng mình. Lau xong sàn nhà, nó mở rộng các cánh cửa kính, cửa chớp, nó trèo đứng lên bậu cửa lau chùi hai khuôn cửa mở ra vườn. Vừa lau, nó vừa đưa mắt ước lượng chiều cao từ bậu cửa đến đất vườn. Lúc đóng lại những cánh cửa của khuôn cửa sổ gần bàn làm việc của viên quan hai, nó vặn quả bàng sắt khá mạnh để đóng chốt sắt kêu phập vào lỗ chốt cửa, cốt cho I-tai đang ngồi làm việc cũng nghe tiếng. Hai cánh cửa chớp ở khuôn cửa cuối gian phòng, lúc đóng, nó cũng vặn quả bàng sắt khá mạnh nhưng không cho chốt sắt chui vào lỗ chốt. Đứng ngoài vườn, có thể ẩy nhẹ cũng mở ra được. Đóng đến hai cánh cửa kính nó cũng định làm như vậy, nhưng kinh nghiệm chiến sĩ trinh sát mách bảo :"Không nên!". Và Lượm đã vặn cho hai gióng sắt chui vào lỗ chốt. Nó phải đề phòng sau khi nó ra khỏi phòng, tên quan hai cáo già với tính thận trọng cố hữu, có thể đến kiểm tra lại. Nhưng có điều khác với những buổi làm vệ sinh trước, nó cố ý để quên lại tấm giẻ lau sàn nhà dưới chân bậu cửa sổ. Lượm nắm chắc quy luật : Cứ khoảng mười giờ sáng, tên I-tai có thói quen trở về buồng ở, uống một tách cà phê sữa mà mụ vợ hắn pha sẵn. Gian phòng thường để trống khoảng mười lắm phút. Khoảng chín giờ rưỡi, tên lính gác cho ba đứa nghỉ giải lao. Chúng ngồi tụm đầu dưới bóng mát cây vông đồng cổ thụ trước sân. Tên lính gác ngồi dưới gốc cây phượng cách ba đứa chừng chục bước chân. Khẩu tiểu liên "mát" gác ngang trên đùi, hắn châm điếu thuốc Gô-loa, rít khói, mắt mơ màng nhìn ra cổng, nhìn dãy quán rượu bên kia đường. Thúi lào thào hỏi: - Anh sửa soạn xong cả chưa? - Cũng tàm tạm… - Lượm gạt mồ hôi trán trả lời. Lép-sẹo trống ngực đập thình thịch hỏi: - Mấy giờ thì bắt đầu? - Mười một giờ rưỡi ! Sở tan giờ làm việc. Bọn chúng đều ngủ trưa. Một giờ rưỡi chúng mở cửa. - Thằng nớ thì làm răng ? - Lép-sẹo hất đầu về phía tên gác. - Có trưa hắn dựa gốc cây ngủ gà ngủ gật; Có trưa hắn mò qua dãy quán bên tê đường nhậu nhẹt. - Lọt qua hắn có dễ không? - Cũng không dễ.. Tốt nhất là phải làm cho hắn ngủ thật say. - Làm cách răng? - Phải cho hắn một liều thuốc ngủ. Thuốc ngủ có sẵn đây rồi. - Lượm vỗ lưng quần. - Nhưng phải hoà vào nước hoặc rượu để mời hắn. Có rượu thì tốt nhất. Sợ nước hắn không uống. Hắn là con sâu rượu mà… Này, Lép-sẹo, cậu có thể đánh xoáy một chai rượu bày trên bàn mấy cái quán ngoài kia không? Nghe cậu là bậc tài danh trong nghề này… - Dễ ợt! - Lép-sẹo hăm hở đáp. Nó nheo mắt nhìn ra dãy quán, trong óc phát nhanh kế hoạch đánh cắp chai rượu. Nó nói: - Nếu có một hai đồng bạc thì chắc ăn trăm phần trăm. Lúc gánh nước qua đó mình sẽ xin thằng gác cho ghé vô quán mua điếu thuốc hút. PHải có cớ để đến gần bàn để rượu. - Thúi, mi đưa cho Lép-sẹo hai đồng bạc còn lại. Thúi móc túi đưa cho Lép-sẹo tờ giấy bạc hai đồng, và nhìn tờ bạc với cặp mắt tiếc rẻ. Lép sẹo khẽ bợp tai Thúi, cười: - Ngó con mắt mi mà tau rầu thúi ruột. Có ngày sẽ đền lại cho mi hai lượng vàng… Lép-sẹo vo tròn tờ giấy bạc nhét vào lỗ tai. - Anh để rứa lỡ rớt mất thì làm răng? Thúi nhìn Lép-sẹo, lo lắng hỏi. - Mi cạy cũng không ra mô! Có lần tao nhét vô đó đôi bông tai vàng đánh cắp được của một mụ ở chợ Đông Ba, nhảy xuống sông đào tẩu. Bơi qua sông, mà đôi bông tai vẫn còn nguyên. - Rứa thì anh tài bằng Một Điếu! Thằng cha đó chửi, nói, tha hồ mà cái ống điếu vẫn không rớt khỏi miệng. Tài thiệt! - Thúi tấm tắc khen. Hết giờ giải lao. Thằng lính gác xách súng dẫn Lép-sẹo và Thúi ra bến sông gánh nước. Lượm chuẩn bị vào bày bàn ăn cho tụi Tây ăn trưa. Viên quan hai I-tai đi ra khỏi phòng làm việc khép cửa lại đằng sau lưng. Hắn về buồng ở uống cốc cà phê sữa thường lệ. Lượm xách xô nước đi ngay đến buồng hắn. Nó đặt cái xô trước cửa, mở nhẹ cánh cửa đi vào phòng. Thật nhẹ nhàng, nó xoay quả bàng sắt, mở chốt cửa kính cuối gian phòng, rồi nhặt cái giẻ lau đi ra khỏi phòng. Nó đã tính kỹ, nếu bất ngờ chạm trán viên quan hai, hoặc một tên Tây khác, hỏi: "Mày vào phòng làm gì?", nó sẽ đưa cái giẻ lau nhà ra nói: "Tui vào lấy cái giẻ lau nhà lỡ bỏ quên". Lép-sẹo và Thúi đã gánh được gánh nước thứ hai. Lượm xách cái xô ra bể vờ múc một xô nước giặt giẻ lau, để đón Lép- sẹo. - Được chưa? - Lượm bồn chồn hỏi, mắt chằm chằm nhìn vào bụng áo Lép-sẹo, vì đoán rằng nó dắt chai rượu lấy cắp vào cạp quần trước bụng. Nhưng hai vạt áo Lép-sẹo vẫn sát vào bụng, không thấy có dấu hiệu gì. Lượm hơi tái mặt, hỏi nhỏ: - Lấy được chưa? Không thấy giấu trong bụng áo? - Dễ ợt?… Giấu vô bụng áo? Đồ ngu? - Lép-sẹo bắt chước dùng giọng Lượm từng mắng nó. Nó đặt hai thùng nước xuống khỏi vai, nói như ra lệnh: - Để cái xô sát thùng nước tê. - Nó chỉ thùng nước trước mặt. Trên mặt thùng, có thả mấy ngọn lá bàng cho nước khỏi chao. Nó cúi thọc tay xuống đáy thùng lôi lên một chai rượu màu xanh có nút vàng chóe bỏ nhanh vào cái xô của Lượm. Lượm ném luôn cái giẻ lau, phủ lên chai rượu. Lép-sẹo làm bộ vớt mấy ngọn lá bàng vứt đi, rồi bưng thùng nước đổ vào bể. Lượm đứng lặng một giây nhìn Lép-sẹo, và lúc ấy nó thấy gương mặt vốn xấc xược, ngang tàng, anh chị của Lép-sẹo, sao trở nên dễ thương vô cùng. Và bụng nó tràn đầy khâm phục. "Chao? Hắn nghĩ ra cái cách giấu chai rượu vào đáy thùng nước, trên mặt để mấy ngọn lá bàng nguỵ trang thì thiệt thông minh vô cùng? Đúng là trí lực của một tay trộm cắp tài danh?". Lượm bật cười: - Chịu tài "đại ca"? - Mệ mà gánh nước chừng một tháng thì mụ đó sập tiệm cái rầm. Lượm và Thúi phải chịu là Lép-sẹo giả giọng các mệ không chê được? 16 Buổi trưa tháng sáu năm đó, thành phố Huế, con sông Hương, ngập chìm trong ánh nắng chói gắt, màu hoa phượng đỏ và tiếng ve sầu. Lượm, Thúi, Lép-sẹo bày bữa ăn trưa của chúng dưới gốc cây vông đồng cổ thụ. Một bữa ăn khá thịnh soạn đối với ba tên tù: Theo lệnh của tên quan hai giám đốc sở bọn nhà bếp cho ba đựa hai ổ bánh mì, nửa lon thịt bò hộp, một hộp cá xạc-đin. Tất cả được bày lên mảnh vải bạt đặt trên cỏ. Nhìn bữa ăn, Lượm rùng mình. Nó nói với hai bạn: - Tụi hắn cho ba thằng mình ăn bữa ăn cuối cùng đây. - Các bậc đại ca dao búa của tớ thường kể: Mấy người tù tử hình, trước khi đưa đi bắn, Tây thường cho ăn một bữa thiệt ngon. E cũng như ri đây. - Nhưng trường hợp ba thằng tù mình bữa ni thì chưa biết ai bắn ai?… - Lượm bẻ một miếng bánh mì nhai để nén hồi hộp. - Trước mặt ba anh em mình, còn một tiếng đồng hồ ni đây? Trước đó hai mươi phút, Lượm gặp thằng lính gác. - Anh Rôbe ạ. Trưa nay, ba chúng tôi có mòn quà biếu anh. Lượm lôi trong xô có phủ cái tải ướt, cái chai rượu Lép-sẹo vừa đánh xoáy đưa cho hắn. - Ồ vang trắng? - Thằng lính gác nhìn nhãn hiệu reo lên. - Làm sao chúng mày lại có? - Những người tù làm bên sở Coopérative Militaire cho chúng tôi. Chúng tôi tưởng nước ngọt mở ra định uống. - Lượm giải thích việc cái nút chai đã mở để hòa vào hai mươi viên thuốc ngủ được tán nhỏ. - Nhưng té ra rượu. Thứ nước này chắc anh thích. Chúng em thì xin hàng. - Nó đưa cao hai tay làm bộ điệu đầu hàng và nháy mắt cười. Tên lính gác cầm chai rượu ngắm nghía, cười khắc khắc. Hắn xoa đầu cả ba đứa. - Bé con tốt lắm! Bé con ngốc lắm! Rượu vang hảo hạng mà không biết uống!… Khắc khắc khắc! Hắn mỏ nút chai, ngửa cổ tu một hơi gần hết nửa chai. Hắn khà một tiếng khoái trá, trở sống tay chùi miệng, đầu lắc lư, lắc lư. Hắn đút chai rượu vào túi quần bắt gà, lại xoa đầu ba đứa cười nói: - Cám ơn! Rất cám ơn? Và lúc này hắn đang ngồi dựa lưng vào gốc cây, khẩu súng gác ngang đùi, tu nốt hơn nửa chai rượu còn lại. Ba đứa miệng tuy nhai bánh, nhưng mắt đều nhìn hết về phía tên lính gác, chờ đợi phép màu sắp xảy ra. Lượm vụt nhớ đến một cảnh trong truyện Thủy Hừ mà nó đọc ngày còn đi học: Một du khách vào một hắc điếm bên đường, gọi rượu thịt. Chủ hắc điếm là một mụ đàn bà có nhan sắc toe toét cười, rót rượu ra bát lớn mời khách. Sau đó mụ lui vào sau rèm, nhìn ra theo dõi khách ăn, uống. Khách nốc cạn đến bát rượu thứ ba mụ ta liền vỗ tay hô: Ngã này! Ngã này! Quả nhiên khách ăn ngã lăn ra đất, vì rượu có hòa thuốc mê. Lượm lúc này cũng muốn vỗ tay kêu: Ngã này! Ngã này! Nhưng thằng lính gác không ngã mà chỉ dựa lưng vào gốc cây, miệng há ra, mắt lơ mơ nửa nhắm nửa mở và bắt đầu ngáy. Thúi và Lép-sẹo đứng bật dậy, nhưng Lượm níu tay chúng ngồi xuống. - Chờ thêm mười phút nữa cho thật ăn chắc, - Lượm nói giọng trở nên bình tĩnh khác thường - Lép-sẹo ạ lúc đó tùy cậu, muốn đi đâu thì đi. Còn Thúi, mi đứng chờ tau ở đây. Rổ và mủng kẹo gừng tau đã đem ra giấu ở dưới đống lá rụng cạnh gốc cây me tê. Hễ ngó thấy tau ló ra ở góc sau nhà tê, thì mi đến lấy rổ mủng đeo vô, và đàng hoàng đi ra phía cõng trước. Đến chỗ góc đường cuối dãy quán, mi đứng lại giả đi đái, chờ tau. Nhớ đi theo đường chợ Cống, qua xít-tát, rẽ ra đường Đàng Ngang, đứng chỗ nhà Nông khố Ngân hàng cũ. Mi nhớ chưa? Thúi gật đầu, nhìn Lượm chăm chăm. - Thôi đi được rồi! - Lượm đứng dậy và Lép-sẹo cũng đứng bật dậy theo. Lép-sẹo tái mặt hỏi: - Cậu còn đi mô nữa? - Tớ còn phải trèo vô buồng thằng quan hai lấy khẩu súng và bốn băng đạn. - Có gay lắm không? - Gay! - Thôi bỏ đi anh? - Thúi nói gần như khóc. - Tớ có thể giúp được cậu không? - Lép-sẹo hỏi. Lượm lắc đầu: - Hai đứa càng dễ lộ. Cảm ơn cậu! Cậu đi đi! Lép-sẹo vẫn đứng tần ngần: - Hay thôi, cậu bỏ quách cho rồi… Chết cũng không bỏ được. Cậu chưa hiểu hết giá của một khẩu súng đối với Vệ Quốc Đoàn mô. Lượm nắm tay Lép-sẹo, nói giọng rưng rưng: - Cậu đi may mắn nghe? Biết mô có lúc mình lại gặp cậu. Rồi có lúc, cậu nhớ lại tất cả những chuyện ni, và cậu sẽ hiểu mình… Lép-sẹo nói, miệng gần như mếu: - Đập nhau bể đầu bể óc mới hiểu nhau. Tức cười đã gớm! Cả khu công sở Post Militaire lúc này chìm sâu trong yên ắng. Cừa lớn, cửa sổ các gian phòng đều đóng kín như lịm trong màu nắng trưa chói gắt. Tiếng ve kêu inh ỏi cả khu vườn hoang mọc lút cỏ dại. Tiếng ngáy của tên lính gác vẳng lại mỗi lúc một to như muốn thi giọng cùng tiếng ve. Lượm hai tay ôm quần đi như chạy băng qua khu vườn, vòng ra phía sau nhà, có lối rẽ đến dãy nhà xí. Nó đã suy tính hết, nếu bất ngờ chạm trán với thằng Tây nào đó, hắn hỏi, nó sẽ chỉ dãy nhà xí trả lời: "Cabinê!". Lép-sẹo đứng sững nhìn theo Lượm cho đến lúc bóng nó mất hút sau gờ tường đầu hồi dãy nhà. Tự nhiên nó muốn chạy theo, muốn được liều mạng để giúp đỡ, để chia sẻ hiểm nguy, và nếu cần được cùng chết với cái thằng mới cách chưa lâu đã đập lộn nhau với mình bể đầu bể óc. Một niềm cảm phục lớn lao bỗng từ đâu không biết, dâng lên làm choáng ngợp trái tim và đầu óc thô thiển của tay anh chị vị thành niên; mà niềm mơ ước độc nhất là trở nên lẫy lừng trong làng dao búa. Đôi môi xấc xược, kiêu bạc của Lép-sẹo bỗng run run, bật lên tiếng kêu: - Ui chao! Vệ Quốc Đoàn là rứa đó! 17 Cái gì đã thúc đẩy Lượm - người Vệ Quốc Đoàn mười lăm tuổi - lao vào một việc làm táo bạo, liều ưnh đến như vậy? Một việc làm có thể mất mạng sống như chơi và hoàn toàn thôi được ở phút chót? Nhưng Lượm vẫn cứ bươn tới, lao thẳng đến đích, bất chấp. Nói chung, vũ khí có một sức mê hoặc đặc biệt đối với lứa tuổi thiếu niên. Mấy ai trong tuổi thơ của mình, lại đã không từng ước mơ cầm trong tay một khẩu súng, không phải đồ chơi, mà bắn được. Riêng thế hệ tuổi thơ của Lượm là một thế hệ tuổi thơ dữ dội. Mới lớn lên kịp có chút ít trí khôn, mới bắt đầu hiểu được chút ít điều này điều nọ, thế hệ tuổi thơ của Lượm đã được nghe lời kêu gọi kỳ vĩ nhất trong lịch sử đấu tranh của Tổ Quốc: "Thà chết không quay lại thời nô lệ!', "Hãy quyết tử để Tổ quốc quyết sinh!". Và cả thế hệ tuổi thơ đó, trong hoàn cảnh quyết liệt của Tổ quốc đã phải dấn mình vào cuộc đụng độ của vũ khí. Và bằng kinh nghiệm máu của mình và của đồng đội, Lượm đã thấu hiểu cái giá lớn lao của vũ khí trong cuộc đụng độ với kẻ thù. Có biết bao nhiêu đồng đội cùng thế hệ với mình và thế hệ cha anh, thừa tài sức, gan dạ, nhưng phải chịu gục ngã cay đắng trước kẻ thù, chỉ vì trong tay không có vũ khí. "Cơi chi lúc đó trong tay tui có một khẩu súng, một trái lựu đạn thì mô đến nỗi!". Hồi ở mặt trận Huế, Lượm đã được nghe không ít các anh lớn đồng đội đau đớn kêu lên như vậy lúc hy sinh. Có lẽ tất cả những cái dồn tụ lại trong trí nhớ Lượm và biến thành tiềm thức chiến sĩ. Và hôm nay đã cuốn hút Lượm lao vào mạo hiểm với một sức mạnh không tài nào cưỡng nổi. "Như có ai túm tóc mình mà lôi tới đó". Về sau này Lượm đã kể lại cảm giác của mình lúc đó như vậy. Đã bao nhiêu lần đứng trên bậu cửa sổ lau chùi cánh cửa, Lượm nhìn xuống đất để ước lượng chiều cao từ vườn lên đến bậu cửa sổ. Nhưng lúc này, đứng lút chân trong cỏ vườn, Lượm với tay lên mới thấy nó cao hơn mình tưởng. Phải đứng lên gờ tường mới có thể mở được cửa mà trèo vào. Nhưng gờ tường đẩy rêu, lại không có chỗ bíu, nên nó trèo lên lại tụt xuống. Nếu với tay quá đà để mở, hai cánh ctta bật ra có thể gây thành tiếng động. Và hai cánh cửa này lại gần sát buồng ở của hai vợ chồng tên quan hai. Lượm vuốt mồ hôi mặt nhìn quanh. Đây rồi? Một tảng đá cách đó chừng ba mét. Lượm vọt ngay tới, lay tảng đá rời khỏi đất. Chao ôi là nặng? Lúc thường sức nó có lẽ chịu hàng. Nhưng nó đã cúi xuống vẩn tảng đá với sức mạnh của kẻ bất thình lình bị rơi xuống biển, nếu không bơi thì chết. Và nó đã vần nó đến được áp sát tường, để làm bậc đứng lên, mở cửa sổ. Đứng lên tảng đá, hai tay rất vừa tầm. Nó móc bốn ngón tay vào chớp cửa, kéo nhẹ. Cánh cửa từ từ mở ra. Nó thò tay qua bệ cửa đẩy hai cánh cửa kính, miệng lẩm bẩm như trong mơ: "Lạy trời, hắn không chốt lại?". Hai cánh cửa kính mở rộng, giống hệt như trong câu chuyện cổ tích: "Vừng ơi! Mở cửa ra!". Lượm đu người nằm vắt ngang lên bậu cửa, rồi cố hết sức khẽ khàng, chuồi người vào bên trong. Hai bàn chân nứt nẻ, đầy bụi của nó đã đặt lên nền đá hoa sạch bóng mà sáng nay chính tay nó vừa lau chùi. Cái mát ìạnh của đá hoa chuyền qua hai gan bàn chân làm rợn cả người nó. Lượm bỗng thấy hai mắt mình mờ đi, đồ đạc trong gian phòng tranh tối tranh sáng, trở nên nhòe nhoẹt. Lượm đâm hoảng: "Răng ri hè?", và đưa bàn tay quệt hai mắt. Té ra cả gương mặt Lượm lút mồ hôi, chảy xuống phủ mờ cả hai mắt. Lượm kéo vạt áo lau mồ hôi, khép hai cánh cửa chớp lại. Gian phòng sáng mờ. Nó bước thẳng đến phía khoảng tường, giữa cái tủ và bàn giấy của tên quan hai, có treo khẩu súng lục. Lượm mở nắp bao súng. Cái cầu tơ nhện ánh bạc bắc từ chuôi súng lên nóc tủ, đứt. Con nhện vàng - "Chú lính gác kho vũ khí" - Rơi xuống trước mặt. Nhưng nó không chịu rớt xuống nền nhà, mà bíu vào sợi tơ leo ngược lên nóc tủ, nhanh không thể tưởng tượng được. Lượm đưa tay định rút khẩu súng ra khỏi bao, nhưng tay nó bỗng khựng lại. Nó nghe có tiếng mở cửa phía buồng ở của viên quan hai. Và tiếp đó tiếng dép kéo lệt xệt đi ra hành lang. Đúng là tiếng dép của hắn? Thính giác của nó trong những giây phút quyết liệt này trở nên nhạy bén lạ lùng. Và ngay lúc đó không hiểu sao nó vụt có cảm giác là hắn đang đi đến phòng này. Đó là một tình huống khủng khiếp mà Lượm không hề lường tới trong kế hoạch đoạt súng. Nó gẩn như chết lặng một giây. Tiếng dép mỗi lúc nghe một gần hơn. Sự thất bại coi như hiển nhiên, không còn cách gì tránh khỏi - vì thoát ra khỏi phòng không còn kịp nữa rồi. Nhưng rồi nó vụt tỉnh trí lại. Một chớp lóe rọi sáng đầu óc: Cái khe hở giữa bức tường và thành sau cái tủ. Nó đóng bao súng lại. Nhón gót chân, chạy đến đóng hai cánh cửa kính lại, vặn chốt. Tiếng chân viên quan hai đã dừng lại trước cửa phòng. Nó cố thót bụng, ép ngực, chét mình vào giữa cái khe hở tủ và tường. Cái khe hở quá hẹp. Lúc bình thường có lẽ nó khó lòng mà chét mình vào đó Nhưng lúc này như có một sức mạnh vô hình từ bên ngoài đẩy nó chét vào giữa khe hở như đóng một cái nêm. Tiếng chìa khóa tra vào ổ khóa vặn lách cách. Hai cánh cửa mở rộng. Gian phòng vụt bừng sáng. Đứng giữa khe hở, Lượm có cảm giác cả gian phòng bị đem phơi trần ra giữa nắng. Viên quan hai đi đến bàn giấy, chỉ cách Lượm có mấy bước chân. Hắn mở ngăn kéo, lục tìm cái gì trong đó chừng năm phút. Trong năm phút đó Lượm thấy như mình đang đứng trên giàn lửa. Nền đá hoa cháy rát dưới hai bàn chân. Tiếng ngăn kéo đóng lại. Tiếng dép kéo lệt xệt đi ra phía cửa. Tiếng hai cánh cửa đóng lại. Gian phòng vụt trở lại mờ tối. Chờ đến lúc tiếng dép xa hẳn, Lượm trườn ra khỏi khe hở. Toàn thân nó ướt sũng mồ hôi. Không kịp gạt mồ hôi lút mặt, nó rút khẩu súng ra khỏi bao. Khẩu súng rung rung trong tay. Nó bật chốt an toàn, kéo quy lát. Một viên đạn vàng chóe nhảy ra khỏi nòng, rơi xuống nền đá hoa, nghe vang như một tiếng nổ. Nó khóa chốt an toàn, giắt khẩu súng vào lưng quần, trước bụng. Dải rút quần là sợi dây gai xe rất chắc và khá to, buộc chặt nút (chi tiết này cũng được Lượm chuẩn bị từ trước, để dây lưng quần không tuột, không đứt, không trĩu xuống vì sức nặng của khẩu súng). Lượm rút tiếp bốn băng đạn trong bốn cái bao da dài như những phong bánh khảo, giắt ra phía sau lưng quần. Lượm cúi nhặt viên đạn lăn lóc trên đá hoa, bỏ vào túi. Nó nhẹ nhàng mở cửa kính, cửa chớp, rồi từ trên bậu cửa, nó vọt thẳng xuống vườn. Trèo lên hòn đá, nó khép hai cánh cửa chớp lại đề phòng lỡ tên giặc nào bất chợt đi ngang qua phát hiện: Tại sao giữa trưa cửa sổ phòng làm việc của giám đốc trông ra vườn lại mở? Và sự lùng bắt kịp thời lập tức sẽ tiếp theo… Lượm chạy nép theo bờ tường, thò đầu ra đẩu hồi nhà. Nó thấy Thúi vẫn đứng dưới gốc cây, chăm chăm nhìn phía mình. Nó khoát tay ra hiệu. Thúi vụt chạy đến đống lá rụng cạnh gốc cây me, lôi ra bộ đồ nghề bán kẹo gừng. Nó đeo quai mủng vào cổ, xổ túi kẹo lên mẹt, mắt lấm lét nhìn về phía tên lính gác đang dựa gốc cây, ngáy như sấm. Nó đi ra cổng chính hai chân run run, cất giọng rao thử. Nhưng giọng nó cứ nghẹn lại ở cổ. Lượm băng qua khoảng vườn trống, vòng ra phía sau dãy nhà ngang. Cuối dãy nhà ngang có một hố rác lớn, nó vẫn thường mang rác ra đây đổ. Nó moi một góc đống rác lôi lên một cái gói bọc vải sơn. Nó mở gói, bên trong là một cái áo sơ mi cũ nhưng còn lành lặn, cái quần soóc xanh đã bạc màu, vá đít, và cái mũ phớt phở nhem nhuốc. Bộ áo quần và cái mũ này nó nhờ mấy chị bán hàng trước cổng sở đổi giúp bằng hai ' cái bao bố đựng thư lấy cắp được, và cất giấu ở đây đã mười hôm nay. Không kịp thay, Lượm mặc bộ áo quần trùm ra ngoài bộ áo quẩn tù rách rưới, rồi chụp cái mũ phở lên đầu. Lượm nhặt lại bó rau muống, mấy mớ hành, mấy củ cà rốt mà sáng nó lấy cắp của tụi nhà bếp, bỏ vào cái xô đem ra giấu dưới một đống lá rụng cách hố rác chừng mười bước. 'Nó xếp tất cả vào cái bị cói cũng giấu cùng với rau hành… Nó định lôi khẩu súng lục và bốn sác-giơ đạn giắt lệch quanh người giấu xuống đáy bị phủ rau, hành lên trên như dự tính từ trước. Nhưng một thoáng nghĩ ngợi, nó thay đổi quyết định. Nó lượm hòn gạch vỡ để xuống đáy bị để xách đi đường có vẻ nặng. Nó vụt nhớ thằng Tặng dạy mình cách xách sáu đòn bánh tét "truyền đơn", "báo Giết giặc".:. - Giấu súng và đạn vào đáy bị có cái lợi. - Lượm nghĩ, lỡ bất ngờ đụng phải trạm soát dọc đường có thể nhanh chóng vứt hoặc giấu bị vào đâu đó, làm mất tang vật. Nhưng nếu gặp hoàn cảnh bất trắc, cần bắn nhau, thì sẽ không kịp rút súng. Lượm băng qua một khoảnh vườn đầy rác rưởi, mảnh chai, vỏ đồ hộp han rỉ, những vòng thép gai chìm lấp trong cỏ dại… Nó trèo qua bức tường đổ vọt ra đường sửa sang lại trang phục, Lượm xách bị đi đến chỗ đường rẽ về chợ Cống. Nó thấy thằng Thúi đeo mủng kẹo, đầu đội cái nón rách chắc là mới nhặt được - Lượm mỉm cười: "Hắn cũng là tay bợm xoay xở" - đứng chờ sau một gốc cây, quay lưng lại phía mình. - Ê! Thằng kẹo gừng! - Lượm gọi. Thúi giật mình quay lại. Gương mặt nhỏ thó đầm đìa mồ hôi của nó vụt tươi rạng lên dưới bóng râm chiếc nón rách. Lượm gật đầu cười khoát tay ra hiệu. Thúi xăng xái đi lên trước. Cất giọng rao, nhưng nghe còn ngượng và lạt thếch. Giống như một ca sĩ vọng cổ vốn nổi tiếng có giọng ca rất mùi nhưng vì bỏ ca đã lâu ngày, bất ngờ phải bước lên sân khấu. Nhưng chỉ đi chừng vài trăm bước, nó đã tìm lại được "giọng ca mùi" sở trường bỏ quên. - Ai… i ai… kẹo gừng ừng ừng… ngọt như đường cát, mát như đường phèn…eèn…
|
Chương 20: Phần Thứ Bảy (4) 18 Cây đứng bóng, con đường nắng chói lòa. Người đi lại trên đường thưa thớt. Chốc chốc một vài chiếc ô tô nhà binh G.M.C, Đốt ầm ầm chạy qua, cuốn tung bụi. Con đường ngầm ngập nắng như oằn xuống dưới sức nặng dữ dằn của những chiếc xe chở đầy lính hàng hóa. Thúi đi sát bên lề đường, rá kẹo tòng teng trước bụng, cái nón mê gãy vành sùm sụp che gần kín khuôn mặt, cặp chân trần đen đũi nhỏ như hai ống quyển loang lổ bụi đường và mồ hôi, một tay giữ quai đeo, một tay vung vẩy đánh xa… Chốc chốc nó lại lảnh lót cất tiếng rao "Ai kẹo gừng nóng…" để báo cho Lượm đi đằng sau nó trăm bước chân, phía trước không có gì đáng ngại. Lượm đi đằng sau, mũ phở đội lút trán, tay xách bị rau ôi, hành, cà rốt và gạch; chăm chú, thận trọng bước lên, cố giữ đúng khoảng cách giữa hai đứa như đã quy định. Mặc dầu khẩu "côn mười hai" nặng trĩu kềnh kệch trước bụng cái nòng súng cứ chọc liên tiếp vào bụng dưới đau điếng, nhưng chốc chốc nó vẫn luồn tay vào dưới hai lớp áo dâm dấp nồ hôi, sờ nắn cái báng súng, như chỉ sợ nó rớt mất. Nó nhìn con đường hun hút trước mắt bồn chồn nôn nóng, nhấp nhổm chỉ muốn chạy thật nhanh, để ra mau đến Đường Ngang, nhào xuống ruộng lúa bên đường… Nó phải gắng hết sức mới kiềm chân được, giữ đúng cự ly. Nguy cơ bọn Tây sở Pốt phát hiện ba tên tù bỏ trốn, và tên lính gác bị táng thuốc ngủ, sớm hơn thời gian nó dự tính, đang bám sát sau lưng nó. Chúng sẽ lập tức huy động lính, xe, súng, chó béc-giê… lùng đuổi như cái lần vượt tù trước. Trống ngực Lượm đập thình thịch, cổ khô đắng, chốc chốc nó lại ngoái đầu nhìn phía sau. Mỗi lúc nó càng có cảm giác thằng Thúi đi chậm quá. Thúi có vẻ nhẩn nha đi như đi bán kẹo thật không bằng! Lượm chỉ muốn quát to: "Đi mau lên chứ mi? Hay mi tưởng mi đang đi bán kẹo gừng lấy lời cho mụ chủ mi ở Bao Vinh đó!". Nó đột nhiên giận run người. Nó chợt nhớ đến Tư-dát. "Một thằng thì mê bắn chim làm mình phải nộp mạng cho tụi An ninh, còn thằng ni thì mê bán kẹo gừng, không khéo nó lại nộp mạng mình cho tụi Tây sở Post Militaire". Lượm cay đắng nghĩ vậy. Nhưng cơn giận chỉ thoáng qua. Bình tĩnh lại Lượm phải chịu thằng Thúi đi xích hầu rất khá, "như đã được tập dượt từ khi mô rồi ạ?". Nó vừa đi vừa chăm chú, thận trọng quan sát không bỏ sót một hiện tượng khả nghi nào trên đường. Tiếng rao lảnh lót của nó cất lên rất vang, rất đều đặn. Nó đóng vai thằng bán kẹo gừng hết chê! Vì cả hai đứa, một thằng bán kẹo, một thằng ở đi chợ về, không thể chạy lồng trên đường phố như ngựa tế. Bất ngờ tụi làm việc cho Tây ngó thấy, chúng nhất định sẽ sinh nghi. Và tai họa sẽ bắt đầu từ đó… Hai đứa đã bước ra đến Đường Ngang, chạy qua cánh đồng An Cựu - con đường thân thuộc chạy thẳng lên cầu Tràng Tiền, chạy về Ngoẹo - dàng - xây, hai bên trồng cây mù u, me, vông đồng thân chi chít gai… Bên trái đường là cánh đồng lúa tốt bời bời, chín sắp gặt. Gạo de An Cựu là gạo của cánh đồng ni đây? Sinh ra và lớn lên ở làng quê, nhưng chưa bao giờ nhìn một cánh đồng lúa sắp chín, Lượm lại có cảm giác vui mừng đến ngột thở như trưa nay. Lúa tốt bời bời! Chỉ mấy trăm bước chân nữa thôi, mình sẽ lủi vô cái rừng lúa bời bờ chói chang nắng trưa kia, như con chim cuốc. Chỉ cần cúi thấp mà chạy là lúa khỏa lấp kín người, người đi trên đường không sao nhìn thấy được! Lượm bỗng thấy hai mắt mình mờ đi, mồ hôi lút mặt mà không hay. Nó đứng lại dưới bóng mát một cây vông đồng, lột cái mũ phở, dùng mũ làm khăn lau, lau khuôn mặt đẫm mồ hôi… Vừa đội cái mũ lên đầu, mắt còn hấp háy vì lóa năng, Lượm bỗng thấy một người đàn ông tay cầm ghi đông xe đạp cuốc, đứng gần sát trước mặt mình. Người đàn ông này từ ngã tư con đường đối diện, phóng xe ra định ngoặt lên phía cầu Tràng Tiền. Nhưng hình như bất chợt nhận ra Lượm là ai, nên vòng xe lại, nhảy xuống xe đúng cái lúc nó còn mải lau mồ hôi mặt. Người đàn ông cao lớn, mặc áo sơ mi ngắn tay trắng, quân soóc ka-ki, đội mũ bê-rê, chân đi giày bốt tin trắng, đeo kính râm, khuôn mặt đầy trứng cá, nhiều chỗ tím bầm vì nặn nhiều. Con đường trước mặt vắng tanh, xa xa chỉ có một chị bán đậu hủ gánh không trở về, cắm cúi bước. Thằng Thúi đi phía trước, quay đẩu lại định hỏi Lượm: "Đã đến chỗ rẽ xuông ruộng lúa chưa?". Đúng lúc người đàn ông nhảy xuống xe đạp. Nó liền ngậm miệng căng mắt nhìn, tự hỏi: "Ai rứa hè mà ngó bộ như muốn chặn đường anh Lượm?". Nó cởi cái rá kẹo đặt xuống lề đường, im lặng sải chân bước tới phía sau lưng người đàn ông… Có thể nói nếu thay vào người đàn ông này là một con cọp hoặc một con beo, cũng không làm Lượm sửng sốt kinh ngạc bằng. Nó lùi lại một bước và bật kêu lên: - Nguyễn Trì? - Phải. Nguyễn Trì đây? Mi đi đâu? - Tui đi chợ mua đồ ăn. - Lượm trả lời như máy. - Tui được tha tù, chừ về ở với mạ. Mạ tui sai đi chợ Cống… - Mi mà được tha tù? - Nguyễn Trì nhếch mép cười gằn. - Tui được tha thiệt. Đây mạ tui sai đi mua đồ ăn cho bữa chiều. - Lượm đưa cái bị đựng rau hành ra trước mặt như để chứng minh. Nguyễn Trì thả chiếc xe đạp bổ nghiêng xuống đường giật phắt cái bị trong tay Lượm. Hắn ném hai mớ rau xuống đường, nhìn vào đáy bị… Đúng ngay lúc đó, Lượm luồn tay vào bụng áo, rút phắt khẩu "côn mười hai", bật chốt an toàn, và chĩa súng vào ngực hắn. Thấy nòng súng đen ngòm bất thần chĩa thẳng vào ngực, chỉ cách ba bước chân, Nguyễn Trì đứng chết lặng, cặp mắt lạc tinh, miệng há ra định kêu nhưng không kêu được, như bị ai bóp cổ. Cả khuôn mặt hắn hiện lên một nỗi kinh khiếp khôn tả của người cầm chắc cái chết. Lượm bóp cò. Cắc! Viên đạn không nổ! Nghe tiếng kim hỏa đập vào hát hổ viên đạn lép, Nguyễn Tn vụt tỉnh trí lại. Hắn phản ứng nhanh như một ánh chớp. Hắn nhào tới, tung chân đá vào cổ tay Lượm. Khẩu súng trong tay Lượm văng ra cách đó bốn năm thước. Lượm chưa kịp nhúc nhích, Nguyễn Trì đã quài tay ra sau lưng, giật phắt khẩu súng lục giắt sau lưng quần. Cũng một khẩu "côn mười hai" chĩa súng vào mặt Lượm. Hắn cười gằn dữ tợn, hả hê: - Giơ tay lên? Mi giết tau răng nổi! Lượm chưa kịp giơ tay, bất thình lình từ phía sau lưng Nguyễn Trì, hai cánh tay con nít khẳng khiu như ống sậy chồm ra, túm chặt lấy cánh tay hắn chĩa súng, kéo rị xuống. Thằng Thúi co hai chân lên, đu hẳn vào cánh tay Nguyễn Trì để kéo xuống với sức nặng toàn thân. Bị tấn công bất thình lình, Nguyễn Trì hoảng loạn. Người tấn công hắn bị cái nón mê che khuất nên hắn không nhìn thấy mặt, nhưng hắn biết cũng là một thằng con nít. Hắn gầm lên như thú dữ bị mắc bẫy, cánh tay còn lại cứ nhè dưới cái nón mê đấm thốc ngược lên với tất cả hung dữ, điên cuồng của thú dữ vùng vẫy để thoát khỏi bẫy. Cánh tay cầm súng bị đeo chặt, hắn cố vằng thật mạnh để lẳng cái thân hình ốm nhom của thằng Thúi ra xa. Nhưng hắn bỗng kêu thét. Khẩu súng rớt xuống đất? Với hai hàm hăng nhỏ và nhọn như răng chuột, Thúi ngoạm vào cổ tay hắn, cắn mạnh đến nỗi răng ngập lút vào thịt. Trong khi đó Lượm nhào tới chộp lấy khẩu súng của mình, giật mạnh cơ bẩm cho viên đạn thối văng ra khỏi nòng. Nó chĩa súng lên trời bắn một phát thử súng. Đoàng? Nó nhảy đến bắn liền ba phát vào giữa ngực Nguyễn Trì. Thân hình lực lưỡng của hắn đổ nhào xuống nằm vắt ngang lên chiếc xe đạp. Thúi lột cái nón mê vứt xuống đường. Miệng nó nhoe nhoét máu. Với tất cả căm giận dồn nén bấy lâu, Lượm gần như dí sát nòng súng vào mặt tên phản bội, bắn liên tiếp hết cả băng đạn. Cái mặt đầy mụn trứng cá của Nguyễn Trì vỡ toác, lầy nhầy máu và não. Lượm kêu: - Chạy thôi mi! - Rồi vọt xuống ruộng. Thúi chộp lấy khẩu súng của Nguyễn Trì rớt cạnh chân, vọt theo Lượm. Những bông lúa trên đầu chúng lay động. Vệt lay động mỗi lúc một xa dần… Hai đứa lặn sâu vào rừng lúa vàng hực nắng trưa. 19 Lượm và Thúi tiếp tục cúi lom khom, cố lủi thật nhanh giữa cánh đồng lúa chín. Lượm lủi trước, Thúi bám gót theo sau. Hai đứa trong tay lăm lăm hai khẩu súng "côn mười hai". Hai đứa lúc chạy trên bờ ruộng, lúc lội băng ngang giữa ruộng bùn sục đến bắp chân. Chốc chốc, Lượm đứng lại, thò đầu lên khỏi những bông lúa, nhìn quanh để định hướng, rồi lủi tiếp. Hai đứa lội ào qua những con hói lớn nhỏ, có con nước đến đầu gối, có con nước ngập đến bụng. Lủi khoảng một tiếng đồng hồ Lượm và Thúi gặp một con hói lớn hơn tất cả những con hói vừa lội qua, nước đục trắng như nước chan cơm hến. Bên kia con hói cách chừng hạt dạt ruộng là một luỹ tre ldài. Đó là luỹ tre dọc con đường ven bờ sông, quãng lên trên cống Phát Lác. Lượm chỉ luỹ tre, nói với Thúi: - Cánh đồng bên kia sông thuộc địa phận làng tau rồi. Chừ ta ngồi nghỉ một chút rồi bơi qua sông. Mi có biết bơi không? - Biết hơi hơi thôi. Tui sợ bơi qua không thấu. - Có chi tau dìu mi. Thúi đưa khẩu súng cho Lượm, nói: - Anh cầm để tui xuống hói súc cái miệng, máu thằng đó tanh quá. - Máu Việt gian mà mi! Sau lưng hai đứa bỗng nổi lên một tiếng còi chói tai. "Còi tụi cảnh sát?". Ý nghĩ đó lóe lên trong đầu Lượm như một ánh chớp. Nó lên đạn khẩu súng của Nguyễn Trì, quay phắt lại. Thúi nằm rạp phía sau lưng Lượm. - Uơ trời? Thằng Lép-sẹo? - Cả hai đứa cùng bật kêu to. Lép-sẹo đứng giữa đám ruộng lúa nếp, cởi trần trùng trục, trên ngực chỗ xăm hình con dao găm xuyên qua trái tim là một mảng bùn che kín. Một tay hắn cầm cái ve không tờréptômixin kề miệng ve vào môi thổi còi, một tay hắn cầm cái chi như khúc tre dài chừng nửa sải tay, bọc kín trong cái áo pác-ti-dăng lem luốc của hắn. Hắn đưa cái "khúc tre" đó lên đầu, hoa lia lịa chào Lượm và Thúi. Cái miệng rộng ngoác của hắn hoác ra, cười rất tươi. Hắn bươn bừa qua mấy thửa ruộng, nhảy lên bờ hói, ngồi phịch xuống cạnh chân Lượm và Thúi, Lép-sẹo thở dốc, nói: - Hai đứa bay làm tau lủi đuổi theo gần đứt hơi! Mấy lần tau định gọi chờ với, nhưng sợ có ai giữa đồng họ nghe tiếng lại thôi. Từ sáng đến giờ Lượm đã đụng đầu liên tiếp những chuyện bất ngờ muốn đứng tim. Nhưng việc gặp lại Lép-sẹo có lẽ là bất ngờ nhất. Nó cứ đứng ngây người trên bờ hói nhìn Lép-sẹo, tưởng như đang nằm mơ. Lép-sẹo liến thoắng kể: - Lúc chia tay cậu đó, tớ băng qua khu vườn, trèo qua tường, vọt xuống đường. Tớ cắm đầu cắm cổ đi lên phía cầu Tràng Tiền. Gần đến chân cầu, tớ đứng lại nghĩ: "Chừ mình biết đi mô hè?". Mình không cha, không mạ, không cửa, không nhà, chừ mình biết đi mô? Răng lúc đó mình không biết xin đi theo thằng Lượm, nhờ hắn dắt mình vô Vệ Quốc Đoàn hè? Đúng mình là thằng đại ngu? Thằng Thúi nhỏ như cái tăm rứa còn vô Vệ Quốc Đoàn được, huống chi mình?". Rứa là tau chạy lộn lại, vọt vô vườn coi hai đứa bay còn đó không? Vô đến nơi, nhìn quanh nhìn quất, hai đứa bay đã lặn mất tăm. Tau chợt nhớ khi hồi nghe cậu dặn thằng Thúi đi theo đường chợ Cống, băng qua xít-tát, ra cánh đồng Đường Ngang. Tau liền chạy đuổi theo hai đứa bay. Lúc ngang qua thằng lính gác, tau thấy hắn vẫn há hốc miệng, ngáy pho pho, khẩu súng gác ngang trên đùi. Rứa là tau bắt chước mi, liều mạng lò dò đến, nhấc khẩu súng ra khỏi đùi hắn, rồi Lượm một khúc cây gác lên đùi hắn, thế vô - lúc đó mà hắn tỉnh dậy hứng bất tử, cũng mệt! Cũng may hắn trúng phải liều thuốc mê quá nặng, hắn ngủ say mới gớm chớ! Tau cởi luôn cái áo bọc khẩu súng lại, lẻn ra đường. Phiền nhất là quả tim với con dao găm trên ngực, biết lấy chi che đậy. Qua cái rãnh bùn thúi như cứt, tau bốc đại một nắm bệt lên… Lép-sẹo cởi cái áo bọc, lôi khẩu tiểu liên "mát" nước thép xanh biếc đưa cho Lượm, nói: - Khẩu ni coi bộ cũng xài được cậu hè? Lượm đỡ khẩu súng, mừng đến ngột thở: - Cả trung đoàn Trẩn Cao Vân chưa có khẩu mô giống như khẩu ni? - Lượm vừa nói vừa lật đi lật lại khẩu súng ngắm nghía. - Ui chao! Cậu dám kẹp nách khẩu súng to tướng ri mà đi lừng lững giữa phố à? - Không kẹp vô nách thì biết giấu vô chỗ mô? Hắn có nhỏ như khẩu của cậu mà biểu giắt vô lưng quần? Thôi thì cứ liều! Lỡ gặp tụi hắn dọc đường chặn hỏi, thì mình cứ trả lời đại "Mệ thấy ai làm rớt giữa đường, ngó khéo khéo, mệ lượm mệ chơi!". Nói rứa chứ nghĩ cùng ớn! Nhất là ngang qua quãng phố đông gần xit-tát. May quá, tau nhìn thấy bên lề đường, dưới gốc cây mù u, có một bó củi cành khô nhỏ nhỏ, với cái khoèo củi, dựa vô thân cây. Chắc của thằng con nít mô đi quèo củi, để tạm đó vô nhà bên đường xin nước uống. Rứa là tau kẹp luôn bó củi ra bên ngoài cây gậy sắt ni - Lép-sẹo chỉ khẩu súng - rồi bớp luôn cả cái khoèo vác vai. Cởi trần mà giả vai thằng đi quèo củi dưới nắng trưa thì nhất hạng? Nhưng tau phải sải chân, vừa đi vừa chạy. Sợ thằng có khoèo, có củi, đuổi theo đòi lại thì lôi thôi to, chạy ra đến đầu đường ngang, thấy xa xa hai đứa bay đang bắn đòm đòm rồi vọt xuống ruộng. Rứa là ta vứt khoèo vứt củi vọt xuống lủi theo. Tau nghĩ bụng: "Khôn hồn không lủi cho mau, tụi hắn tóm được, tưởng mình bắn thằng cha nớ bể mặt, bể mày thì cũng mệt". Kể không vội thì tau cũng bớp chiếc xe máy na đi. Thằng cha đó chết rồi, xe máy để ai đi? Rét rỉ mất thiệt uổng! Lượm và Thúi nghe giọng kể tưng tửng của Lép-sẹo, phải bò lăn ra bờ hói mà cười. - Mi mần tau cười đứt ruột! Có thằng Tư-dát ở đây cho hắn cười một bữa đã đời? - Tui là Tư-dát đây rồi còn chi? - Thúi vừa cười làm bộ nó dỗi. - Ứ ừ! Tau quên… Lê Văn Tư, biệt danh Tư-dát, trưởng ban ám sát Việt Minh. Chừ thì mi đúng là trưởng ban ám sát thiệt rồi, tụi hắn có bắt, oan không! Lượm đặt khẩu tiểu liên "mát" lên đùi Lép-sẹo dang rộng hai tay, ôm Thúi kéo vào lòng, rồi cúi xuống hôn lia lịa lên hai má nó. - Bữa ni mà không có mi thì tau rồi đời! - Lượm rưng rưng nói - Lúc đó tau hoảng quá mắt mờ đi không ngó thấy mi đi đến sau lưng hắn. Tau cứ tưởng mi đã bỏ chạy từ đời tám hoánh!… Thúi ôm chặt cổ Lượm rủ rỉ nói: - Tui bỏ chạy, để hắn bắn chết anh thì lấy ai dắt tui vô Vệ Quốc Đoàn?… Lép-sẹo ngồi ngây người ngó hai thằng con nít, bùn lấm từ chân đến đầu, súng đạn đầy mình ngồi ôm nhau vừa hôn vừa khóc trên bờ hói, dưới nắng trưa chang chang, xung quanh là cánh đồng lúa tẻ, lúa nếp chín vàng hương thơm nức, hắn hoác miệng định cười. Nhưng miệng bỗng méo xẹo thành mếu. Và hai mắt hắn tự nhiên cũng nhòe ướt hắn nói: - Chừ tính răng đây? Hay bay định cứ ngồi đây mà hôn nhau cho đến tối? Lượm rời tay ôm thằng Thúi. Nó bày qua cho Thúi và Lép-sẹo cách sử dụng súng lục và tiểu liên, lên đạn, ngắm bắn, bóp cò khóa chốt an toàn… Rồi nói: - Hai đứa bay ngồi núp ở đây. Tau lội hói, lên bờ sông, ngó không thấy ai, tau ra dấu cho tụi bay. Tụi bay lên thật mau rồi ta bơi luôn sang bên tê sông. Qua bên đó là thuộc địa phận làng tau rồi. Qua hết cánh đồng là đến làng. Qua làng, đến đường quốc lộ, dương này, rồi đến đồi trọc chạy mãi cho đến tận núi xanh. Chiến khu còn ở trên nớ. - Anh có biết đường lên chiến khu không? Không. Đây là chiến khu huyện. Tau chưa lên đó khi mô. Chiến khu đội Thiếu niên trinh sát là chiến khu tỉnh, ở ngoài phía Bắc tê. Nhưng tau tính cả rồi. Sang bên tê sông tụi mình sẽ lủi vô nằm giữa ruộng lúa, chờ cho đến tối rồi sẽ đi vô làng. Chú Bốn tau là Việt Minh hạng nặng, chắc chừ ông đang ở chiến khu. Chú Đệ, chú ruột thứ hai của tau là Việt Minh ấp. Ba đứa mình sẽ vô nhà chú Đệ, nhà ở liền với cánh đồng, chỉ cách một con hói, cơm nước cái đã. Việc đưa tụi mình lên chiến khu giao cho chú lo liệu. Lép-sẹo ngạc nhiên hỏi: - Mi đông chú rứa mà chú mô cũng là Việt Minh cả à? - Tau có bảy chú, hai o. Cả nhà tau Việt Minh một mạch. Ông nội tau là Việt Minh phụ lão. Cha tau là Việt Minh từ khi tau chưa đẻ. Tau được hai tuổi thì cha tau bị Tây bắn chết. Chừ đến phiên tau… Nhưng Việt Minh đời tau sướng hơn nhiều… Đời cha, Việt Minh tay không, không súng không đạn. Tây bắn mình chỉ chịu chết. Đời con, hắn bắn mình, mình bắn lại! Lượm đứng lên định lội hói. Thúi níu tay Lượm, giữ lại. - Đừng, anh để tui lên dò đường trước cho. Tui nhỏ lỡ có xáp tụi hắn, tụi hắn cũng chẳng nghi. "Nhỏ như cái tăm rứa thì Việt Minh việt miếc chi!". Thúi cởi áo, cởi luôn cả quần. Lượm và Lép-sẹo nhìn nó. Đúng là nhỏ như cái tăm thiệt! Toàn xương với da, cọp ăn không đủ dính răng. Con chim hắn chỉ bằng quả ớt chỉ thiên. Thúi ngó xuống, nói giọng phân trần: - Tui ở lỗ sẵn ri, có gặp tụi hắn, tụi hắn cho là con nít đi vầy nước. Lép-sẹo lượm hòn bùn, vê tròn, nhắm chim nó, ném trúng cái phắp, hoáe miệng cười: - To đầu mà dại, nhỏ dái mà khôn! Đúng thiệt? Thúi lội hói, nước đến cổ. Nó lội qua mấy đám ruộng, chui qua bụi tre. Nó bước lên con đường ven sông, ngó ngược ngó xuôi rồi thò đầu ra ngoắc Lượm và Lép-sẹo. Hai đứa trải rộng cái áo pạc-ti-dăng, cho tất cả súng đạn vào đó bọc lại để lúc lội sông khỏi ướt. Lượm vầy bộ quần áo hôi khét mùi tù, nhổ mấy cây lúa làm lạt bó lại, miệng xống sông, nói to: Vĩnh biệt đời tù!
|
Chương 21: Phần Thứ Bảy (5) 1 Những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, đồng bào Thừa Thiên truyền tụng từ làng này qua làng khác, chuyện một người đàn bà dở tỉnh dở điên đi lang thang khắp tỉnh để tìm con. Chị ta tên chi, quê quán ở đâu, ít ai biết thật rõ. Chỉ biết chị ta làm nghề bán bún rong, khi bún thịt, khi bún cá, khi bún cua… tùy theo sản vật hiện có ở vùng chị đến bán. Ngoài gánh bún bên vai chị còn đeo toòng teng cái bị đệm đựng áo quần và vài đồ vật linh tinh khác - chắc là toàn bộ gia sản của chị. Chị bán ở làng này ít lâu, lại lân la qua làng khác. Chị cứ dọc theo cái dải đồng bằng dài mà hẹp, với những thôn xóm giặc thường xuyên càn quét, bắn giết, đốt phá…; với những trảng cát miên man ngút tẩm mắt; những đầm, những phá, những hói, những sông… Mới đầu du kích các làng ngờ chị là Việt gian, gián điệp. Họ cho là "con mụ ni giả điên giả dại, lấy cớ đi tìm con nhưng cốt để dò la kháng chiến, chỉ điểm cho Tây". Nhiều lẩn họ bắt chị, định lôi chị ra rú, ra trảng cát chặt đầu. Mỗi lần du kích bắt, tưởng chị phải sợ lắm, nhưng chị lại mừng rỡ như người bắt được của. Chị xoắn xít, đon đả mời chào: "Mời các anh ăn bún! Bún tui là ngon có tiếng đó các anh nờ… Cả chợ Bao Vinh ai còn lạ chi bún bò giò heo mụ Niệm?". Chị cười đó rồi khóc đó. Chị kéo vạt áo nối đà chấm nước mắt, sụt sùi kể lể: "Các anh là Việt Minh, chắc các anh biết chừ thằng con tui ở mô… Các anh chỉ giùm cho tui với. Cháu tên là Mừng. Cháu mới có mười ba tuổi, nước da đen ngăm ngăm giống in như tui ri. Người cháu rom rom là lanh lẹ lắm. Tui chỉ có một mạ một con… Ngày Huế mình mới nổ súng, bữa đó tui đi chợ về thì không thấy cháu nó ở nhà. Tui nghĩ là cháu chạy chơi mô đó. Tui chờ đến tối, đến nửa đêm, đến sáng hôm sau, cũng không thấy cháu về… tui e cháu ra sông tắm nghịch, ma rà (1) nhận nước mất rồi. Cả tháng trời, tui bỏ buôn bỏ bán, đi dọc hai bợt sông tìm xác cháu, cầm cơm cầm trứng hú hồn hú vía cháu, mà chẳng thấy tăm dạng cháu mô… Tui để dành để dụm may cho cháu được bộ áo quần, cái quần soọc với cái áo thơ-mit. Chị lục cái bị lác, lôi ra một bộ áo quần con nít gấp vuông vắn buộc lại bằng sợi lạt. Chỉ giở từng cái một đưa ra trước mặt các anh du kích. Cháu hắn cứ nằn nỉ đòi mặc, tui không cho. Tui nói để đến Tết mặc, mình con nhà nghèo ăn, mặc phải tùng tiệm… Rứa mà chừ áo quần còn đây, mà con thì đi mô mất? Mạ có ngờ mô chuyện ni con ơi? Con mà không còn thì áo quần con mạ biết để mần chi… Rồi một bữa, nửa đêm nửa hôm, có một chú Vệ Quốc Đoàn nhỏ nhỏ cũng trạc lứa tuổi con tui, đi vô nhà nói: "Bạn Mừng con thím đang ở Vệ Quốc Đoàn, đánh Tây trên mặt trận Huế. Chừ bạn ấy đang mắc công việc mặt trận, bạn ấy nhờ cháu về nhắn với thím, khi mô việc mặt trận thư thư, sẽ xin phép cấp chỉ huy về thăm mạ…". Tui nghe mà bán tín bán nghi… Hay họ lầm Mừng con cái nhà ai? Chớ thằng Mừng con tui đôi khi còn ở lỗ chạy rong khắp xóm, còn nhai chéo áo, thì đã biết cái chi mà dám vô Vệ Quốc Đoàn! Rứa rồi mấy bữa sau, lại có một anh Vệ Quốc Đoàn tui quen, trước tê anh làm cu-li khiêng vác ở bến Bao Vinh, thường ăn chịu bún bò của tui, về tìm gặp tui, đưa cho tui bó là tầm gửi ni - chị lôi ra trong bị bó lá tầm gửi bọc bằng vải bạt áo súng, buộc bằng dây điện - nói là thằng Mừng con chị gửi về cho chị để chị sắc uống cho lành bệnh suyễn kinh niên… Hắn đang mắc việc đánh giặc nên mới phải nhờ tui gửi giúp cho chị. Lá tầm gửi ni hắn phải trèo lên cây chót vót mặt trận, rồi phải phơi ba sương năm nắng, uống vô chắc chị lành bệnh cái rụp! Ui chao, lúc đó tui mới tin là cháu nó vô Vệ Quốc Đoàn thiệt, các anh ơi! Đúng là tui mắc bệnh suyễn kinh niên, cực khổ không nói được các anh nờ… Các anh là Việt Minh, chắc các anh biết thằng con tui chừ đang ở mô, chỉ giùm cho tôi với… Chị kể, nước mắt giọt ngắn giọt dài. Người chị run rẩy như tàu lá chuối trước gió. Giọng chị kể, những hàng nước mắt, đến bộ áo quần con nít, bó lá tầm gửi… chân thật, thống thiết đến nỗi làmcác anh du kích đang định lôi chị ra trảng cát chặt đầu, quay lại tìm lời an ủi chị: "Chắc thằng con chị chừ đang ở trên Xê-ca" - đồng bào Thừa Thiên ngày đó gọi chiến khu là Xê-ca. Cặp mắt đẫm lệ của chị vụt sáng lên mừng rỡ: - Chớ Xê-ca mô rứa các anh? Ở Phú Lộc, họ nói với chị: - Xê-ca Truồi, Bạch Mã. Ở Phú Vang, Hương Thuỷ, họ nói với chị: - Xê ca Độn Bồ, Xê-ca Khe Tre, Nam Đông, Xê-ca Dương Hoà, Lương Miêu. Ở Phong Điền, Quảng Điền, họ nói với chị: - Xê-ca Trò, Trái, Xê-ca Cầu Nhi, Xê-ca Hoà Mỹ… - Nhưng làm răng tôi biết đường sá mà lên thấu đó các anh ơi! Chị mếu máo kêu lên nghe thương đứt ruột: "Các anh có việc chi lên trên mấy Xê-ca đó cho tui lên theo với. Các anh cần sai biểu chi tôi cũng xin làm hết, miễn răng lên được trên đó may ra tìm thấy thằng con một của tui…!. - Được rồi, khi mô đi tiếp tế Xê-ca tụi tui sẽ kêu chị đi - Các anh du kích làng nào, huyện nào cũng hứa với chị như vậy. Rồi đồng bào các làng chị đi qua, không còn ai nhớ tên chị, chỉ nhớ câu chuyện chị kể với nước mắt giọt ngắn giọt dài. Rồi người ta gọi gánh bún của chị là Gánh-bún-chị-tìm-con. Chú thích: (1) Một loại ma, lẩn quất trong các vùng sông nước (theo mê tín dị đoan của nhân dân). 2 Người ta thường ví tỉnh Thừa Thiên như cái đòn gánh, cái đòn gánh, dài gần trăm cây số. Một bên là biển, một bên là núi, giữa là dải đồng bằng hẹp. Nhiều quãng hẹp đến nỗi tưởng chừng người đứng trên núi gọi thật to, người đứng dưới bờ biển cũng nghe tiếng. Hàng mấy chục con sông lớn nhỏ từ trên núi đổ xuống như những lưỡi dao xanh, xắt khúc dải đồng bằng hẹp ra những khúc ngắn dài, xiên xẹo, như người nội trợ vụng xắt khúc con cá hố. Sau ngày Huế vỡ mặt tlận, lực lượng kháng chiến của mỗi huyện đổ ngang lên vùng rừng núi thuộc huyện mình, thành lập chiến khu. Cả tỉnh Thừa Thiên cũ eó sáu huyện mà có đến bảy tám chiến khu. Do đó Chị-tìm-con đến làng nào cũng than thở với khách ăn bún: "Chiến khu bất loạn (1), không biết đi tìm cho hết phải mất mấy tháng, mấy năm". Trong bảy tám chiến khu đó, chiến khu Hoà Mỹ là chiến khu lớn nhất và cũng là chiến khu đầu tiên. Xê-ca Hoà Mỹ là đầu não kháng chiến của tỉnh. Các cơ quan tỉnh đều đóng ở đây Bọn giặc biết rõ như vậy. Chúng dốc sức, tìm đủ trăm phương nghìn kế để tiêu diệt chiến khu Hoà Mỹ. Việc trước tiên là chúng đổ quân lên làng Đất Đỏ, một làng chỉ cách Hoà Mỹ bốn cây số, xây vị trí và chất ở đó một trung đội âu Phi. Trung đội giặc này lừng danh thiện chiến, rất giỏi đánh vùng rừng núi, mới đưa từ Pháp sang, được gọi là Đội tuần tiễu núi An-pơ (Chasseur Alpin). Phía nam Hoà Mỹ, chúng đóng vị trí Sơn Quả. Vị trí Đất Đỏ khác nào mũi lê dí vào trán chiến khu và vị trí Sơn Quả như lưỡi dao găm kề mạn sườn chiến khu. Mặt khác, chúng tung gián điệp, biệt kích lên chiến khu do thám, chỉ điểm, chuẩn bị cho kế hoạch tấn công tiêu diệt chiến khu… Xê ca Hoà Mỹ được chia thành bảy Xê-ca nhỏ, theo từng lớp chiều sâu của núi: Từ Xê-ca Một đến Xê-ca Bảy. Bộ đội Thừa Thiên ngày đó ưa nói tiếng Tây cho vui, họ không gọi Xê-ca Một, Xê-ca Hai… gọi là Xê-ca "Oon", Xê-ca "Đơ" Xê ca "Tờ-roa", Xê-ca "Cát", Xê-ca "Xanh", Xê-ca "Xít", Xê ca "Xết". Riêng làng Hoà Mỹ được gọi là "Tiền chiến khu". Chỉ sau mấy tháng, chiến khu Hoà Mỹ đã có những thay đổi thật lớn lao. Xê-ca bây giờ đã có gần đầy đủ các bộ phận của "guồng máy kháng chiến tỉnh". Nhà cừa, lán trại của bộ đội cơ quan, mọc lên ngày một nhiều, từ Tiền chiến khu đến Xê-ca "Xết", có khu nhà Tỉnh uỷ, Uỷ ban hành chính kháng chiến tỉnh, Trung đoàn bộ, Tỉnh đội, bệnh viện, xưởng quân giới xưởng bào chế dược liệu, kho quân khí, quân lương, quân nhu… Vùng Tiền chiến khu, hàng quán của đồng bào mọc lên ngày một đông. Tiền chiến khu cũng là nơi đóng quân của một số đơn vị như trinh sát, biệt động, đại đội liên pháo… Giữa trung tâm Hoà Mỹ có cả nhà văn hoá đại chúng - nhà bằng tranh tre nứa, nhưng cao rộng thênh thang, dựng theo kiểu hội trường. Hàng tuần, ngày chủ nhật, nhà văn hoá đại chúng thường tổ chức sinh hoạt văn hoá, biểu diễn văn nghệ; các tiết mục văn nghệ đều do các đơn vị, các cơ quan tự biên tự diễn. Chỉ riêng sự thiếu thốn, gian khổ thì Xê-ca Hoà Mỹ ngày đó còn gay gắt, quyết liệt hơn cả những ngày đầu tiên. Có thể nói cuộc sống gian khổ thiếu thốn ngày đó đã trở thành những huyền thoại: huyền thoại đói, huyền thoại rét, huyền thoại rách rưới, huyền thoại ghẻ, huyền thoại rận, huyền thoại bệnh tật và cao đẹp hơn hết là những huyền thoại "bền gan chịu đựng" của những người kháng chiến cứu nước. Chú thích: (1) Quá nhiều - tiếng địa phương Huế. 3 Đội thiếu niên trinh sát là một trong những đơn vị đóng quân ở Tiền chiến khu. Lán của đội nằm chếch về phía nam Xê-ca, trên bờ sông Ô Lâu. Trước mặt lán là một vuông sân đất. Qua sân vuông là lau lách mọc rậm như rừng đổ dốc xuống sát tận mép sông. Đứng ở sân không nhìn thấy sông vì lau lách che khuất, nhưng nghe rõ mồn một tiếng nước rì rào và tiếng những coọng nước quay kẽo kẹt suốt ngay đêm… Ngôi lán dài khoảng chục mét, cột kèo bằng thân cây nguyên vỏ, phên liếp tre lồ ô, mái tranh phủ đầy lá tre rụng. Trong lán hai bên hai dãy sạp nứa dài, lối đi chính giữa, nền đất cháy đen vì đốt lửa suốt vụ rét, và những ngày mưa gió. Cả đội nằm trần trên sạp, nên mặt sạp loang lổ những mảnh xám xịt vì mồ hôi và ghét bẩn. Phía đầu nằm, sát phên liếp, xếp một hàng những cái bao tải đựng gạo, gấp làm tư, làm tám. Cái bao tải nào cũng đen xì, mép rách tuơ, lông dựng lờm xờm như lông chó ghẻ. Trên mặt bao, những chú rận gày xác, đen như chấy, lủi nhanh như bọ chét, bò dạo thung thăng. Tư-dát một hôm đứng chống nạnh ngắm chúng, có lời bình luận: "Rận của lính trinh sát khác xa rận của bên dân sự! Rận dân sự trắng trẻo, béo núc ních, bụng no kềnh, bò chậm chạp lờ đờ như cha cố tập quân sự; ghè móng tay giết kêu bốp! Rận tụi mình giết kêu tét, nghe tức như pháo xịt!". Những cái bao tải này được ban Quân nhu trung đoàn cấp phát theo tiêu chuẩn quân trang đông xuân. Mà cũng chỉ những đơn vị đặc biệt như trinh sát, biệt động, các tổ canh gác các trạm gác tiền tiêu… mới được ưu tiên cấp phát. Các đội viên thiếu niên trinh sát rất lấy làm hãnh diện về việc được cấp phát bao tải. "Như rứa là đội mình được trung đoàn xếp vô hàng những đơn vị đặc biệt". Bao tải được bọn trẻ sử dụng tùy theo sở thích, và sáng kiến của mỗi đứa. Có đứa tháo ra thành một tấm dài để đắp như chăn; có đứa cứ để nguyên xi, lúc đi ngủ chui vào bao, co đầu rụt chân lại cho vừa người - vì tuy bé nhưng đứa nào người cũng dài hơn bao tải. "Đem tháo ra thiệt dại! Cứ để nguyên làm thành trên chăn dưới đệm, ngủ vừa ấm vừa êm". Những đứa sử dụng nguyên bao khích bác những đứa tháo thành tấm dài. "Nhưng người ta được nằm thẳng chân thẳng cẳng sướng như ông hoàng! Ấm lưng hơn một chút mà phải nằm co ro cút rút, sung sướng cái nỗi chi?". Cuộc tranh cãi tranh khôn ấy ngày nào cũng diễn ra giữa bọn trẻ và bất phân thắng bại. Tư-dát là đứa thuộc nhiều "chuyện kiếm hiệp ba xu" (1) cười hề hề nói: - Các cậu dại tuốt, thằng tháo cũng dại, thằng để nguyên cũng dại! - Nó giũ tung cái bao tải của mình ra làm bụi mù - Cái mền ni của tớ là mền vóc đại hồng kiêm áo hồ cừu. Lúc làm mền, lúc làm áo, biến hoá khôn lường? - Nó biểu diễn luôn cách biến hoá khôn lường: lấy sợ dây mây xâu ngang qua cái bao tải gấp đôi, khoác lên người và buộc dây trước cổ. Nó nói, mặt vênh vênh tự đắc: - Đã thấy tuyệt chưa? Giêng hai rét mướt mà khoác cái áo cừu thiên kim (áo cừu nghìn vàng) ni về đồng bằng bám vị trí giặc thì còn chi ấm hơn! Cả đội đều chịu sáng kiến của Tư-dát. Từ đó, những đứa được phân công về đồng bằng bám địch đều xúng xính "áo cừu thiên kim bao bố". Nhưng chỉ khoảng tháng sau, chúng phát hiện ra nhược điểm đáng sợ của loại "mền vóc đại hồng", và "áo cừu thiên kim bao bố" này là rận - Tư-dát gọi đó là "Xê-ca của rận". Vì rận ở quần áo còn dễ lùng bắt nhưng rận chui rúc trong bao bố thì vô phương tiêu diệt - cũng là ý kiến của Tư-dát. Bọn trẻ giận dữ trải bao tải lên mặt tảng đá, cầm một hòn đá mà ghè. Chúng không chết! Dìm bao tải xuống sông Ô Lâu, lấy đá dằn lên, tiêu diệt bằng kế "thuỷ công" cũng không ăn thua! Người ta thường hình dung nỗi gian khổ của những người kháng chiến ở chiến khu là đói và rét. Nhưng rận, ghẻ, sốt rét, mới thật là kinh khiếp. Lán của đội Thiếu niên trinh sát thường ngày rất vắng vẻ. Những đứa tương đối khỏe đều được cử về đồng bằng bám vị trí giặc, bám đường quốc lộ, theo dõi quy luật hành quân, càn quét của giặc… làm tai mắt cho chiến khu. Ở lại lán chỉ còn những đứa ghẻ lở kềnh càng hoặc lên cơn sốt rét nặng, vào lán trong những ngày này, những ai rắn lòng nhất cũng không khỏi xúc động, mủi lòng. Lán như bỏ hoang đã lâu ngày. Sạp nứa chỉ cần vắng hơi người dăm hôm đã nổi mốc xanh mốc trắng. Bụi mọt nứa, tre, tranh từ trên mái rụng xuống lả tả rắc một lớp bụi vàng mốc lên mặt sạp. Ở góc lán, một vài đứa đang lên cơn sốt rét rên hừ hừ, rung rung cả sạp. Chúng đắp lên người cả một đống bao tải rách tả tơi, rận bò lúc nhúc. Bên cạnh đầu nằm, để một bát cháo gạo lễnh loãng chưa kịp ăn. Cháo nấu bằng thứ gạo chôn giấu dưới đất, từ đồng bằng tiếp tế lên, rời ra từng hạt, và có mùi thum thủm. Những đứa bị ghẻ trông mới càng tội. Ghẻ ăn kín người, từ gối đến cổ, da bì lên từng đám tím đen như cơm cháy. Đến con chim nhỏ xíu cũng bị ghẻ đào rãnh, đào hang, đỏ hỏn, sưng phồng. Lúc lên cơn ngứa, bọn trẻ cởi trần truồng gãi lấy gãi để. Gãi đã cơn ngứa lại đến cơn xót, nước mắt ứa ra, xuýt xoa, mếu máo. Hai bàn tay, ngón nào móng tay cũng bờ lên một lớp ghét máu mủ ghẻ. Bộ quần áo rách rưới máu mủ loang lổ như bản đồ, đứng xa chục bước cũng ngửi thấy mùi tanh. Hoà-đen không biết được anh nào cho cái áo may ô bằng vải màn tuyn. Nó mặc ít lâu các lỗ thủng bị trám kín hoá thành vải bạt. Ghẻ ruồi đã khổ, ghẻ cái lại càng khổ hơn. Lòng bàn tay dày kín những mụn ghẻ to như hạt bắp, cương mủ xanh lè, bàn tay không sao nắm lại được cứ khum khum như định hứng một vật gì. Mỗi buổi sáng, chúng phải lấy gai nhọn chích các mụn ghẻ. Chỉ cần chích nhẹ là mủ phều ra, đặc lền, trắng đục. Chích hết mủ, bàn tay mới nắm lại được. Con ghẻ đào hào đào rãnh theo các đường chỉ tay. Chúng lấy mũi gai khều bắt con ghẻ. Con ghẻ nhỏ như hạt bụi màu trắng mủ, bò khá nhanh. Chúng để con ghẻ lên móng ngón tay cái, xem nó bò, rồi đưa móng tay kia ghè nát, miệng méo xệch vì căm tức. Mấy đứa dứt cơn sốt, chui ra khỏi đống bao tải, lò dò ra sân ngồi sưởi nắng. Chúng cởi áo, trải lên đầu gối ngồi bắt rận. Bên cạnh để hòn đá, bắt được rận, để lên hòn đá dùng móng tay ghè nát. Giết nhiều quá, ghê tay, chúng ném rận xuống đất dùng gót chân mà dí. Thế nhưng mỗi tháng vài ba lần, cả chiến khu Hoà Mỹ không ở đâu lại nhiều tiếng cười, tiếng reo, lại ồn ào náo động như ở ngôi lán này. Đó là lúc cả đội họp mặt đông đủ. Các em bám địch ở đồng bằng được đội trưởng triệu tập về chiến khu, báo cáo tình hình, nhận nhiệm vụ mới, hoặc học tập nghiệp vụ, chính trị… Mảnh sân trước lán đã biến thành sân trường tiểu học trong giờ ra chơi. Chú thích: (1) Loại truyện võ hiệp rất phổ biến trước cách mạng, xuất bản thành từng tập 18 trang với giá ba xu ngày đó. 4 Hai hôm sau ngày anh Đồng-râu bị bọn giặc bắn chết ở Vĩ Dạ và Lượm bị bắt ở Bao Vinh. Tư-dát đã lần mò về được đến Sịa. Chính thằng Tặng dẫn đường cho Tư-dát về Sịa. Hôm đó, Tư-dát vừa đến cây cầu ván đã nhìn thấy Tặng ngồi câu ở đó rồi. Tặng nhấc cần câu, đứng lên cười cười đón bạn: - Đi tay không à? Răng mà mặt mũi coi bộ hớt hải như người bị ma đuổi rứa? Tư-dát bước đến sát Tặng, thì thào: - Cậu Lượm bị bắt rồi. Anh Đồng-râu bị bắn chết… Tặng tái mặt, quẳng cần câu xuống ván cầu. - Bị bắt à? - Tặng hỏi như bật thành tiếng rên. - Chớ bị khi mô? - Ngay cái bữa chiều hôm đó. Và đến Bao Vinh thì bị… Với cả sáu đòn bánh tét! - Thôi chết cha rồi?… - Cả người Tặng bỗng run lên. - Tụi hắn bắn chết anh Đồng-râu, kéo xác ra phơi ở chân Đập Đá, rồi kéo thẳng về Bao Vinh, rình chộp hai đứa tớ. Cả thằng Kim-điệu chắc cũng bị cùng với anh Đồng-râu. Tặng bỗng nổi giận phừng phừng, nạt Tư-dát: - Mi đi xích hầu cho hắn mà lại để cho hắn bị chộp? Rứa mắt mũi mi để đi mô?… Chắc còn mãi ngớp lên ngọn cây tìm chim chớ chi? Trông điệu bộ Tặng, Tư-dát tưởng như nó sắp nhào vô đập mình, Tư-dát sợ hãi bước lùi lại, ấp úng chối: - Tau có tìm chim mô… Tau cũng có ngó đường… Nhưng tụi hắn núp kín quá nên không ngó thấy… - Mi đừng có chối? - Tặng bước xấn tới. - Tau còn lạ chi cái mặt mi. Ngó điệu bộ mi vừa la vừa giật con cá rô bữa trước, tau biết ngay mi là đứa ham chơi quên việc? Tư-dát vừa xấu hổ vừa hối hận. Nó muốn chuồn nhanh qua khỏi cầu để khuất cặp mắt xoi mói, giận dữ của Tặng. - Thôi, chừ để cho tau đi không thì trễ mất… Tặng liền đứng chắn ngay trước mặt Tư-dát, giọng vẫn không thôi nạt nộ: - Chớ mi định đi mô? - Về dưới Sịa báo cho mấy đứa ở tổ liên lạc… - Chưa đi được? - Tặng nói như ra lệnh. - Đi về nhà tau đã, tau nấu cơm cho ăn. Ngó cái mặt, tau biết thừa là mi đang đói xếu mếu. Ăn xong tau sẽ đưa đường cho mi về thấu Sịa. Mi định đi một mình, không có ai dò đường, để cho tụi hắn theo mi về thấu đó, thộp luôn cả mấy thằng tê à? Tặng lượm cái cẩn câu vác lên vai, mặt vẫn hằm hằm: - Đi theo tau? Tặng đi trước, Tư-dát cun cút đi theo như bị dắt mũi. Nhà Tặng cách cây cầu chừng năm trăm thước. Cả nhà nó đi vắng hết. Nó vào buồng lấy nồi, gạo bưng xuống bếp. Nó chỉ cái chõng tre kê cạnh cái bàn gỗ ọp ẹp, trên bàn có để lọ mực, cây bút sắt và cuốn vở học trò nhem nhuốc, bốn mép quăn queo, nói với Tư-dát: - Mi ngồi đó. Trong lúc đợi cơm chín, mi viết cho tau cái thơ Đời cách mạng. Tặng nhen lửa, đặt nồi lên bếp. Nó nói qua khe liếp bếp: - Mi mà viết ngoáy, tau không đọc được, tau bẻ giò đó nghe! Tư-dát nắn nót chép xong bài thơ "Đời cách mạng…". Tặng cũng vừa nấu cơm chín. Nó bưng đặt lên chõng một nồi cơm dầy kênh vung, cái mâm gỗ với chén đũa, hai quả trứng vịt luộc dầm nước mắm ớt, một đĩa cá diếc kho xơ mít cũng đỏ lòm những ớt. - Mi ăn đi, - Tặng xới cơm, giục bạn - Tau ăn rồi. Mi phải ăn hết nồi cơm, hai cái trứng nớ. Không ăn hết tau bẻ giò đừng có kêu! Trong lúc Tư-dát ăn cơm, Tặng cầm cuốn vở chép thơ, ra ngồi ở bậu cửa, vừa đánh vần vừa đọc oang oang: Đời cách mạng từ khi tôi đã hiểu Dấn thân vô làphải chịu tù đày… Là gươm kề tận cổ, súng kề tai… Tặng bỗng lặng phắc như nghĩ ngợi điều gì, quay lại nhìn Tư-dát đang và cơm, chỉ vào những câu thơ vừa đọc, nói giọng rưng rưng: - Cái thơ ni in như nói chuyện thằng Lượm với anh Đồng- râu mi hè? Giọng Tặng bỗng như nghẹt. Nó ngoảnh vội ra sân, mắt chớp chớp đỏ loe. Tư-dát vừa và cơm vừa ngẫm nghĩ: Hắn vừa đánh vần vừa đọc mà hiểu Hết thơ… Lạ thật! Tư-dát ăn cơm xong. Tặng rút cọng tranh trước mái hiên, bẻ một đoạn dài cỡ gang tay, đưa cho bạn làm tăm xỉa răng. Nó nhảy ra đứng im giữa sân, coi bóng nắng, nói: - Gần hai giờ rồi. Ta đi không trễ mất. Nó rút cây dao rựa, chạy ra vườn, chặt ba cây mía, bó thành một bó. Vác bó mía lên vai, Tặng nói: - Tau đi trước, mi đi sau. Thấy tau đổi vai vác mía, là mi phải tìm đường lủi cho mau: trước mặt có địch! Mi không chú ý, lủi không kịp để tụi hắn bắt được thì mặc kệ mi, tau không biết. Tụi hắn hỏi, tau nói: "Mạ tui sai tui về Sịa thăm Mệ ngoại". Tặng vác bó mía, mải miết đi, chăm chú dò đường, đưa Tư-dát về thấu Sịa. Đến chỗ ngã ba rẽ vào xóm, nó đứng lại, đưa vác mía cho Tư-dát, nhếch miệng cười không thành tiếng: - Rứa là coi như tau hoàn thành nhiệm vụ nghe? Mấy cây mía cho mấy đứa ở tổ mi. Chừ tau phải về không tối mất, mạ tau lại tưởng tau bỏ nhà đi chơỉ, chửi cho một trận tứ tung lung tàng. Tư-dát đưa tay ôm choàng qua vai Tặng, khóc thật sự. Tư-dát vốn tính suốt ngày liến láu, tìm đủ mọi cách chọc cho mọi người cười, bây giờ cái mặt khóc nhìn rất tức cười. Nó sụt sịt nói: - Không biết đến khi mô tau mới được gặp lại mi?… - Mi muốn gặp tau thì khó, - Tặng nói. - Tau muốn gặp mi, dễ ợt… Tau lấy cái Đời cách mạng ra tau đọc… Ngay đêm hôm đó, Tư-dát cùng với tổ liên lạc rút về chiến khu. Tư-dát báo với đội trưởng toàn bộ sự việc đã xảy ra. Báo cáo đến đoạn nó đi xích hầu cho Lượm từ Sịa về Bao Vinh, giọng bỗng ngắc ngứ. Nó phải vơ cái ca nhôm của đội trưởng để trên bàn, vục vào nồi nước uống nấu bằng lá ngái rừng, uống liền hai ca, làm như đang khát nước. Nước lá ngái rừng đắng nghét. Nó muốn giấu quách cái chuyện vì mải ngớp mặt lên ngọn cây, bắn con cu xanh, quên chuyện quan sát đường, để đến nỗi hai thằng An ninh đứng ngay trước mặt mà không biết. Nhưng nó vụt nhớ vẻ mặt phừng phừng giận dữ của Tặng như sắp nhào vô đập mình, nó đã nuốt được ý định gian dồl cùng với những ngụm nước đắng nghét xuống cổ. Giọng nó liền trở nên dứt khoát, sáng sủa, báo cáo đầy đủ những sơ xuất chết người của mình. "Lượm bị bắt là lỗi tại em". Tư-dát cúi gầm mặt xuống bàn, nói - Chừ anh có thi hành kỷ luật chi em cũng xin chịu". Bồng-da-rắn vốn rất nghiêm khắc, rất ghét những trò con nít đem chen vào trong lúc làm nhiệm vụ đánh giặc. Nó thường bực tức nói: "Muốn nghịch, muốn chơi thì ở nhà mà nghịch mà chơi! Đã vô Vệ Quốc Đoàn thì dù con nít lên ba cũng phải làm việc đứng đắn, cho ra người Vệ Quốc Đoàn!". Không hiểu sao hôm đó Bồng lại lên tiếng đầu tiên xin đội trưởng tha lỗi cho Tư-dát, "Bạn ấy mới lỡ dại lần đầu, mong anh tha lỗi…". Sau đó, Bồng còn nói riêng với đội trưởng, giọng của người từng trải, bao dung - mặc dầu nó cũng chỉ bằng tuổi Tư-dát. "Thằng nớ ba láp rứa nhưng bụng dạ tốt, mà dễ thương anh ạ. Hắn lại có tài…". Cùng sống với nhau lâu, các bạn trong đội càng phát hiện ra Tư-dát có lắm tài. Tài liến láu chọc cả đội cười đứt ruột, tài nhớ thơ, đọc thơ, kể chuyện, tài sáng tác các vở kịch cương trong những buổi sinh hoạt văn nghệ của đội… Mới đây Tư-dát lại sáng tác một bài thơ khá dài, dán bích báo mà cả đội đều thuộc. Mấy câu mở đầu bài thơ thường được các bạn ngâm nga: "Xê-ca vui lắm bạn ơi Niềm vui độc lập, cuộc đời đấu tranh Ở đây cùng với các anh Đánh cho giặc Pháp tan tành thịt xương…". Dạo này Tư-dát lại có thêm một cái tài mới, được các bạn hoan nghênh đặc biệt: tài cắt tóc. Cả chiến khu Hoà Mỹ ngày đó chỉ có một quán cắt tóc. Chủ quán là anh Đỡm, vốn là thợ chuyên cắt tóc cho Tây ở khách sạn Mô-ranh. Cách mạng lên, anh Đỡm bỏ nghề cắt tóc xung phong vào đội Tự vệ quyết tử. Huế nổ súng kháng chiến, anh cùng với đội Tự vệ quyết tử mang rơm ớt, chai xăng, xông đốt các khách hàng cũ của anh đóng trong khách sạn. Tình cờ anh lạc vào cái gian hàng "Coiffeur de luxe" mà trước đây anh làm việc. Đồ lề cắt tóc, cạo râu sáng giới, vẫn còn nguyên trên các bàn cắt tóc. Anh vơ đại một mớ đồ lề cởi áo bọc lại, đem về giấu kín một nơi. Mặt trận Huế vỡ. Anh theo bộ đội rút lên chiến khu, mang theo cái bị đồ lề cắt tóc. Lúc đó anh đã gần năm mươi tuổi. Anh nói với anh em bộ đội: "Tui sức yếu không xông pha trận mạc được như anh em thì làm cái việc sửa sang tóc tai, râu ria cho anh em mình đi xông pha trận mạc. Theo thiển ý của tui, đã là chiến sĩ cứu nước, sống hay chết đều phải chỉnh tề, phải đẹp". Lên đến chiến khu hôm trước, hôm sau anh đã đôn đáo đi bứt tranh, xin tre lồ ồ, dựng một cái quán nhỏ cạnh lối đi chính xuyên qua làng Hoà Mỹ. Anh hý húi đóng cái bàn bằng tre và cái ghế tựa bằng cành cây. Anh bày lên bàn tất cả những dụng cụ cắt tóc mang theo. Trong số này có nhiều thứ bày cho oai chứ chẳng mấy khi anh dùng đến, như cái bơm nước hoa, cái bàn ủi da mặt chạy điện, cái tông đơ điện… Trước quán, anh chưng cái biển bằng cót, viết chữ phấn: "Hiệu cắt tóc cựu chiến sĩ tự vệ quyết tử Lê Bá Đỡm - Coiffeur de luxe Xê-ca Hoà Mỹ". Hiệu cắt tóc của anh vừa khai trương, khách hàng kéo đến chen chúc. Ba tháng sau, anh ngã bệnh, mắc chứng ghẻ lở rất nặng. Hai cẳng chân lông lá của anh mụn nhọt, ghẻ lở loét suất từ bẹn đến gót. Anh không đứng được vì hai chân tụ máu càng đau nhức, và ruồi, con bu mắt, xúm vào tấn công các mụn nhọt. Cuối cùng anh phải ngồi, hai chân thọc vào cái bao tảì để chống ruồi, bu mắt. Từ đó trong cái hiệu "Coiffeur de luxe" của anh đã xảy ra chuyện ngược đời: Khách cắt tóc phải đứng mà thợ cắt tóc lại ngồi. Và khách phải xoay tròn theo sự điều khiển của anh. Tư-dát thường khoái những chuyện vui trớ trêu, ngược đời. Nó rất mê cái kiểu cắt tóc của anh Đớm. Theo ý nó đây là hiệu cắt tóc độc đáo nhất thế giới! Hễ có dịp lên chiến khu là Tư-dát chạy ngay ra thăm viếng hiệu cắt tóc anh Đỡm. Nó nói với các bạn: "Tau ngó anh Trân đại đội trưởng biệt động đánh Tây khét tiếng mà phải đứng nghiêm xoay tròn như chong chóng để cho ông Đỡm ngồi đàng hoàng trên ghế xa lông cành cây, xẻo tóc, tau cười muốn đứt lòng bóng mà chết thôi bay ơi!". Trước mặt hiệu cắt tóc anh Đỡm là quán mụ Tào. Quê mụ ở Phò Trạch, bị Tây càn đốt hết nhà cửa. Mụ chạy lên chiến khu dựng quán bán quà bánh. Để khoe với anh em bộ đội, mụ là người có lập trường kháng chiến và có chữ nghĩa, mụ làm đôi câu đối dán trước cửa quán: "Bán cháo bán chè không bán nước Buôn ngày buôn tháng chẳng buôn dân" Anh em bộ đội thích thú tán thưởng câu đối của mụ làm anh Đỡm tức anh ách: "Đàn bà đái không qua ngọn cỏ" - Anh Đỡm thường nói về mụ với giọng khinh khi: "Mụ ta thì chữ nghĩa được mấy hột mà dám qua mặt cái thằng Đỡm ni, nói tiếng Tây làu làu như cháo chảy?". Anh muốn làm một đôi câu đối dán trước hiệu của mình để thi tài với câu đối của mụ Tào, nhưng nghĩ mãi không ra. Tư-dát do đi lại thăm viếng nhiều nên đã thân thân với anh. Nó lân la tán anh, xin một vài thứ dụng cụ mà anh không cần dùng, định đem về cắt tóc cho các bạn trong đội. Anh nói: - Nghe chú em thơ từ chữ nghĩa khá lắm. Chú em cứ làm cho anh một đôi câu đối thiệt hay - Anh hất hàm trỏ sang quán mụ Tào - Cho mụ nớ phải trắng mắt ra, thì xin chi anh cũng cho. Tư-dát về nghĩ một đêm, rồi ra viết luôn đôi câu đối lên hai cái cột tre trước hiệu cắt tóc: "Cắt tóc cắt râu, không cắt cỏ Cạo mày, cạo mắt, chẳng cạo lòng". Anh Đỡm thú quá, vỗ đùi đen đét. Anh tặng Tư-dát cái kéo bị gãy mất mũi và con dao cạo mẻ. Tư-dát chưa chịu, nằn nèo anh cho thêm cái "bơm nước hoa": "Câu đối em đối nhau chan chát rứa mà anh cho có con dao, cái kéo loại hai ri, thiệt cho em quá!". Những hôm đội về tập trung đông đủ, Tư-dát dem đồ nghề ra mở hiệu cắt tóc cho đội. Nó chọn tảng đá ở góc sân làm bàn cắt tóc, và vần một khúc cây làm ghế ngồi. Nó bày đồ nghề lên mặt tảng đá, vai khoác cái bao tải làm áo choàng. Nó hỏi: "Cậu mô muốn cắt tóc, tớ cắt cho. Mà thích cắt kiểu chi cũng được?". Các bạn nghi ngờ nhìn Tư-dát: "Cậu cắt tóc được thiệt à?" - "Các cậu không tin thì chạy ra hỏi ông Đỡm? ông đã khen tớ là tài cắt tóc của chú mi vô loại nhất nhì Đông Dươngt. Các bạn vẫn bán tín bán nghi nhưng thèm cắt tóc quá nên cũng cứ liề.u mạng một lần xem sao. Tư-dát bắt khách hàng ngồi thật ngay ngắn lên khúc gỗ, hai tay đưa ra trước ịnặt để nó khoác áo choàng, nghĩa là quấn cái bao tải đầy bụi và rận vào quanh người. Nó trịnh trọng hỏi: "Quý khách thích cắt kiểu chi? Ca-rê cua? Đơ-mi cua? Móng lừa? hay Phi-lô-dốp?"(1) "Cậu thấy kiểu chi đẹp mà hợp thì cắt giúp?".Tư-dát nâng cằm khách hàng, ngắm nghía cái đầu, tay nhịp nhịp khéo điệu bộ tài ba hơn cả thợ cắt tóc chính hiệu. Và bất cứ khách hàng nào nó cũng dõng dạc tuyên bố. "Đầu của cậu cắt kiểu Phi-lô-dốp là hợp nhất!". Kết quả là Tư-dát - thợ cắt tóc loại nhất nhì Đông Dương - đã úp lên đầu cả đội mỗi đứa một cái trách đất. Và đứa ít nhất cũng bị sứt vài miếng da đầu, da gáy. Cắt tóc xong, Tư-dát còn xịt nước hoa nghĩa là nước sông Ô Lâu. Xịt vô tóc thì ít mà xịt vô mắt thì nhiều. Các bạn kêu ca phàn nàn, Tư-dát cười hề hề nói: "Các cậu coi, cắt tóc hiệu ông Đỡm vừa phải đứng nghiêm, lại vừa phải mất tiền mà làm chi được xịt nước hoa hảo hạng như hiệu của tớ?". Chú thích: (1) Kiểu tóc để dài của các nhà triết học.
|
Chương 22: Phần Thứ Bảy (6) 5 Mừng và Quỳnh-sơn-ca là hai đội viên ốm yếu nhất đội. Hai em chưa một lần nào được đội trưởng cho về đồng bằng công tác. Mặc cho hai em nhiều lần mếu máo khóc lóc, nhưng đội trưởng vẫn cương quyết: "Em nào cũng đòi về đồng bằng thì lấy ai công tác ở chiến khu?". Anh giao cho hai em nhiệm vụ chạy liên lạc trong chiến khu, từ Tiền chiến khu đến Xê-ca "Xết". Tuy gọi là giao cho cả hai nhưng việc chạy liên lạc gần như chỉ một mình Mừng đảm đương. Chân Quỳnh vẫn còn đau, em đi lại rất khó khăn. Quỳnh rút khỏi Huế cùng với Trạm Quân y Mặt trận khu C. Em không đi được, các anh chị phải thay nhau cáng em bằng võng. Vì phải cáng em, cuộc rút lui của trạm quân y trở nên vô cùng vất vả và nguy hiểm. Tiếng súng giặc đuổi rát sau lưng. Các anh chị y tá, hộ lý định để em lại, cử người đưa em trở về với gia đình. Nhưng em khóc nức nở, nói. "Em không về mô. Các anh chị không cho em đi theo thì em cắn lưỡi em chết!". Các anh, chị trạm quân y đã biết cái gan của Quỳnh lúc nằm trên bàn mổ, nên họ tin rằng không phải em nói doạ. "Thằng con nít ni dám cắn lưỡi mà chết lắm à?". Họ trao đổi với nhau như vậy và xúm lại dỗ dành em: "Chừ mà em về nhà sống với cha mạ thì còn sướng hơn tiên. Chứ lên chiến khu lúc ni cực khổ lắm, sức em chịu chi thấu. Mà chân em lại đang đau, lên trên đó không có thuốc men, vết thương nhiễm trùng trở lại thì nguy hiểm lắm…". Quỳnh lắc đầu, bịt tai: "Các anh, các chị đừng nói chuyện sướng khổ nữa, em không nghe mô". Em nằm lặng trên cán, nghẹn ngào giận dỗi. Nước mắt ứa ra, giàn giụa trên hai má trắng xanh như cẩm thạch. Môi em mấp máy như muốn nói một điều gì nhưng không tìm ra lời để nói. Em bỗng ngồi nhỏm dậy. Và hết sức bất ngờ, em cất giọng hát. Giọng em trong vắt, cao vút, rung lên một âm hưởng bi thiế.t đến nỗi các anh chị trạm quân y đứng bật dậy, gai lạnh người nhìn em, tưởng như em hiện ra từ một cuộc đời không có thực. "Bao chiến sĩ anh hùng. Lạnh lùng vung gươm ra sa trường. Quân xung phong, nước non đang chờ, mong tay người hồn sông núi khí thiêng ghi muôn đời. Ngựa phi nơi xa kia nghe súng vang bên trời điệu kèn rộn ràng. Là trang nam nhi, quyết chiến nơi sa trường, sông thác coi thường. Mong xác trong da ngựa bọc thân thể trai…". Hát đến đó, em bỗng dừng lại đột ngột như lúc hát. Và em oà khóc nức nở. Em nói qua nước mắt: "Hay các anh các chị để cho em đi cũng được… Đừng khiêng em nữa mà nặng. Không đi được thì em lết. Có chết em cũng lên thấu chiến khu em mới chết. Không có da ngựa bọc xác em mà chôn thì các anh các chị lấy mấy cái lá chi to như cái quạt tê - em chỉ mấy ngọn lá nón xòe như cái quạt mọc rợp hai bên dốc núi - bọc xác em mà chôn cũng được… ". Mọi người đều rớm nước mắt. Và không một ai còn có ý nghĩ dỗ dành em ở lại Từ Trò lên Hoà Mỹ phải vượt qua nhiều núi cao, suối sâu, đường rất cheo leo khó đi. Họ phải bỏ cáng thay nhau cõng em. Vì phải cõng em đi theo mà trạm Quân y Mặt trận khu e rút lên chiến khu chậm mất một tuần, và hai lần suýt bị giặc vây tóm gọn. Quỳnh phải nằm bệnh viện chiến khu mất nửa tháng. Mặc dầu chân còn đau, đi phải cà nhắc mà chỉ đi được gần thôi, nhưng nhất định em xin về đội. Một anh y tá chặt cành cây, đẽo gọt, đóng cho em cái nạng chống. Với cái nạng cành cây đó, ngày nào em cũng chống đi thăm thú vùng Tiền chiến khu. Gặp chú bé chiến sĩ có gương mặt đẹp và dễ thương như trong tranh minh hoạ các chuyện cổ tích, chống nạng đi cà nhắc, không ai không mỉm cười với em và đứng lại ngắm hút theo bóng em. Em mặc bộ áo quần bộ đội màu tím than, ống quần cắt ngắn cho vừa chân nhưng đũng quần thụng xuống quá đầu gối, cái áo trấn thủ dài phủ mông đít, đội cái mũ ca lô dạ màu cứt ngựa - chính cái mũ calô của anh Vệ Quốc Đoàn bị đạn thủng bụng được nghe em dạo đàn dương cầm trước khi tắt thở ở Trạm quân y Mặt trận khu C. Trong bộ trang phục luộm thuộm này em càng bé bỏng, dễ thương đến phát khóc lên được. Những buổi chiều đẹp trời, Quỳnh-sơn-ca thường chống nạng đi tha thủi một mình dọc bờ sông Ô Lâu, lút mình trong những nương sắn và những bãi lau sậy, xạc xào… Mỏi chân, em lại dừng nạng, ngồi bệt xuống bờ đất dốc ẩm ướt, hai bàn tay đan ngón vào nhau, bó gối ngắm dòng sông lượn uốn nao nao trong ánh chiều tà. Cả người em như một pho tượng nhỏ người ta thường đặt bên bờ nước trong công viên, bất động đắm mình trong tiếng rì rào bất tuyệt của dòng sông, tiếng kẽo két những coọng nước quay, tiếng nước từ trên cao bắn tung tóe rơi lách chách xuống mặt sông, tiếng lau lách đung đưa thì thầm… Trong một lùm cây bỗng lảnh lót ngân lên tiến hót một con chim gì đó mà em không nhìn thấy, với những giai điệu mê hồn. Cặp mắt trẻ thơ của em tự nhiên nhòe ướt: "…Trời ơi, hay quá đi?". Em thì thào như trong giấc mơ. Chụm cặp môi đỏ tươi lại em cố bắt chước giọng chim. Em lắc lắc đầu vừa cười vừa khóc: "Không! Không phải như thế!". Em thì thầm nói một mình: "Trời ạ, giọng nó cao hơn giọng mình đến một ốc-ta!". Những ngón tay em bỗng trở nên nhanh nhẹn khác thường - những ngón tay của một nghệ sĩ biểu diễn dương cầm bẩm sinh, dài, trắng xanh như những quả chuối non còn nằm úp trong bẹ buồng chuối - mở nút túi áo, rút ra một mẩu bút chì và một tờ giấy gấp làm tư. Em đặt tờ giấy lên đùi, thấm thấm đầu bút chì vào cặp môi chúm lại, kẻ những dòng nhạc. Em hí hoáy ghi các nốt nhạc. Em khe khẽ xướng âm. Những ngón tay dài mảnh, trắng xanh, gõ gõ lên cái nạng cành cây đánh nhịp. Mừng dạo này đang ra sức học chữ. Đội trưởng dạy cho em tập đánh vần trên tờ báo Giết giặc. Một hôm, Mừng nhìn thấy Quỳnh nằm chùm hum trên sạp nứa, sửa lại những câu nhạc viết ngoài bờ sông. Mừng tò mò, đứng lom khom, chăm chú nhìn những cái chấm đen, trắng, có râu, ban viết đặc sít trên tờ giấy, nhăn nhăn trán, hỏi: - Cậu viết chữ kiểu chi mà lạ rứa? Mình đánh vần mãi không ra? - Chữ nhạc ấy mà, - Quỳnh đáp không ngẩng đầu lên. - Chữ nhạc thì đánh vần cách răng? Cũng đánh vần là a chờ ách, ê chờ ếch à? Quỳnh ngước mắt nhìn bạn, cười tủm tỉm: - Không phải. Chữ nhạc đọc lên không thành tiếng như ở báo Giết giặc, mà thành tiếng chim hót, tiếng nước sông Ô Lâu chảy, tiếng coọng nước quay, tiếng gió thổi trong lau lách, trên ngọn tre lồ ô… tiếng chiến khu mình bền gan đánh giặc… - Rứa thì cậu giỏi thiệt… - Mừng trầm trồ thán phục. - Biết khi mô mình cũng đọc được chữ nhạc như cậu hè?… - Cậu gắng học chữ cho thạo rồi mình sẽ dạy cho cậu chữ nhạc, khó chi mà… Sau chừng chục buổi chiều tha thẩn trên bờ sông Ô Lâu, Quỳnh-sơn -ca đã sáng tác được bài hát "Sông Ô Lâu bền gan đánh giặc". Thính giả đầu tiên của Quỳnh là Mừng. Quỳnh dắt bạn ra bờ sông, cùng ngồi trên tảng đá khuất sau một đám lau sậy sát bên bờ nước hát cho bạn nghe. Nghe xong bạn hát hai lần, Mừng trợn tròn mắt nhìn bạn, kinh ngạc hỏi: - Cậu làm ra bài hát nớ thiệt à? Quỳnh phì cười: - Tớ không làm thì còn ai làm nữa? - Răng mà cậu tài dữ rứa? Cậu làm mà nghe hay như bài "Vệ Quốc Quân một lần ra đi…". - Cậu chỉ khen huyên thuyên!… Làm răng mà hay được như bài hát đó! - Tớ nói thiệt mà? Nghe bài hát của cậu tớ chỉ muốn ở chiến khu mãi… cho đến lúc thành người lớn như Chính uỷ… Như tất cả những nghệ sĩ thực thụ, sáng tác chỉ vì một lý do độc nhất là sự thúc bách của tình cảm "không viết ra không chịu nổi". Quỳnh say mê miệt mài sáng tác, bị cuốn hút trong cơn lốc cảm hứng. Nhưng khi sáng tác xong, cơn lốc cảm hứng lắng dịu, em nhìn lại bài hát của mình với cặp mắt bình tĩnh và nghiêm khắc. Em cảm thấy thất vọng. Em tự đánh giá bài hát của mình không đạt được một phần nhỏ những gì em cảm xúc mơ ước. Con sông Ô Lâu kháng chiến chảy trong bài hát của em sao mà tầm thường, khác xa dòng sông hùng vĩ chảy trong mộng tưởng của em. Em buồn rầu, thất vọng, và quyết định phải làm lại bài khác. Trong cơn chán nản, em vò bài hát định ném luôn vào bếp lửa mà Mừng đang cúi lom khom thối, nấu cháo cho Hoà-đen, hớt hải chụp tay Quỳnh, kêu lên sửng sốt: - Cậu điên điên chi rứa? Làm mất bao nhiêu công trình cậu lại đem vứt vô lửa? Quỳnh rầu rĩ đáp: - Nhưng nó dở òm… Mình sẽ làm lại bài khác. - Cậu chê thì cho tớ. - Nhưng cậu lấy làm chi? - Để khi mô tớ được cậu dạy cho chữ nhạc, tớ tập đánh vần. Mừng cẩn thận vuốt tờ giấy có chữ nhạc thật phẳng phiu, rồi kẹp vào giữa tờ báo Giết giặc - cuốn sách học vỡ lòng của nó. Mừng còn cẩn thận chồng ba cái bao tải lên để tờ giấy thẳng hết các nếp nhăn. Một hôm, Mừng chạy liên lạc vào cơ quan Tỉnh đội dân quân đóng ở Xê-ca Bốn. Nó nhìn thấy anh Hinh tỉnh đội phó dân quân ngồi trước bàn, nhăn nhó như người đau răng, viết viết, xoá xoá những chữ nhạc giống hệt Quỳnh. Nó tò mò đứng xem, và khoe: - Ở đội em có bạn Quỳnh cũng biết viết chữ nhạc như anh rứa. Mà viết đặc sệt cả một trang giấy to như ri nì. Rồi bạn nớ ngó vô đó hát lên một bài hát hay ghê lắm. Hay không thua chi bài Vệ Quốc Quân một lần ra đi… Anh Nguyễn Hinh, trước Cách mạng tháng Tám là giáo viên dạy nhạc ở trường Quốc học. Anh là một trong mấy người chủ trương và lãnh đạo nhà văn hoá đại chúng của chiến khu. Trong hoàn cảnh gian khổ thiếu thốn kinh người mà anh vẫn lập được một đội đồng ca làm nòng cốt cho nhà Văn hoá đại chúng. Anh vừa là người tập hợp, tuyển chọn, huấn luyện và chỉ huy đội đồng ca. Đã từ lâu anh ôm ấp ý đồ sáng tác một bài hát về chiến khu Hoà Mỹ. Tranh thủ những phút rảnh rỗi hiếm hoi trong công tác lãnh đạo dân quân du kích tỉnh, anh viết bài hát. Nguyễn Hinh tự biết mình không có năng khiếu về sáng tác, nhưng anh quyết định lấy phương châm "cần cù bù tài năng", trong quá trình thực hiện niềm mong ước của mình. Anh viết đi viết lại nhiều lần, càng viết anh càng thất vọng. Anh tự dằn vặt, ray rứt, đau khổ âm thầm. Bởi vậy, Mừng bắt gặp anh đang sáng tác bài hát mà mặt mũi nhăn nhó như người bị đau răng… Trong tâm trạng đó nên khi nghe chú nhóc liên lạc đọc chưa thông, viết chưa thạo này khoe là bạn mình cũng viết bài hát, anh Hinh không buồn ngẩng lên. Anh chỉ hỏi lại một cách nhạt nhẽo: "Thế à"; và anh lại tiếp tục cắm cúi viết viết xoá xoá, coi như không biết Mừng đang đứng ở đó. Giọng hỏi thờ ơ và thái độ coi thường của anh Tỉnh đội phó với lời khoe bạn của mình, làm Mừng nổi tự ái "Chắc trong bụng anh nớ coi cái bài hát của cậu Quỳnh là không ra chi, là cái trò nghịch ngợm của con nít… Người lớn là họ hay khinh con nít lắm!" - Mừng ấm ức nghĩ vậy. Nó lẳng lặng đi ra khỏi lán, chạy thẳng một mạch từ Xê-ca Bốn về đội, mà con đường đâu phải gần! Phải vượt qua ba dốc núi và lội qua năm con suối Mừng lấy tờ nhạc của Quỳnh, cuộn tròn lại, cẩn thận bỏ vào trong bụng áo, cắm đầu chạy một mạch từ Tiền chiến khu trở lại Xê-ca Bốn. Anh Tỉnh đội phó vẫn còn ngồi viết chữ nhạc trước cái bàn mặt nứa. Mừng rút tờ nhạc trong bụng áo ra, cầm hai tay, đặt xuống trước mặt anh, và nói: - Tờ chữ nhạc của bạn em đây anh nì… Anh Hinh hơi cau mặt như hầu hết người lớn đang mải bận việc bị con nít quấy rầy. Nếu Mừng không phải là chiến sĩ mà chỉ thuần là một chú bé, chắc anh đã nói: "Em đi chơi chỗ khác để anh làm việc". Vì nể tấm tình của chú bé chiến sĩ đối với bạn, anh cầm bản nhạc lên, định bụng chỉ liếc mắt qua. Mắt anh bỗng hấp háy như bất ngờ chạm phải một tia nắng. Anh đọc tiếp câu thứ hai, rồi câu thứ ba… Và đến câu cuối cùng, anh bật kêu lên sửng sốt: - Ái chà, lạ quá hè? - Nhìn anh lúc này giống hệt một người nhặt lên một vật đinh ninh là một đồng xèng, bất ngờ lóe lên trong tay mình ánh kim loại quý. Anh đọc to bản nhạc lần thứ hai. Và lần thứ ba anh hát. Giọng nam trầm rất vang, rất khỏe và nỗi xúc động đột ngột của anh làm cho diện mạo bài hát khác lạ hẳn đi, hùng tráng hơn, bi thiết hơn. Bản nhạc có tám câu: âm hình chủ đạo là tiếng rì rào bất tuyệt bền bỉ của dòng sông Ô Lâu chảy qua cuộc kháng chiến trường kỳ. Mừng đứng há miệng, ngạc nhiên nhìn anh Tỉnh đội phó dân quân miệng hát, tay vung lên vung xuống, hai mắt và chót mũi đỏ lên như bị khói xông. "Tại răng rứa hè?". Em tự hỏi. Nhưng chính mắt và mũi em cũng đang đỏ lên như anh. Anh Hinh gấp tờ nhạc bỏ vào túi áo, đeo túi dết, đội mũ lá, xỏ vội đôi dép cao su, phăm phăm đi một mạch thẳng đến Xê-ca Một. Mừng không hiểu chuyện gì đã xảy ra, vừa xốc quần vừa lúp xúp chạy theo anh. Nó chạy theo cốt là để lựa lúc đòi lại cái tờ chữ nhạc mà mình có công cứu ra khỏi bếp lửa: "E anh lấy mất của mình có". Nó lo lắng, hồi hộp nghĩ vậy. Anh Hinh bước vào lán làm việc của Trung đoàn trưởng. Trung đoàn trưởng đang vừa ăn một khúc sắn nướng, vừa chăm chú xem xét cái gì đó trên tấm bản đồ chiến khu tỷ lệ 1/25.000. Anh Hinh đặt luôn bản nhạc lên tấm bản đồ, nói như reo: - Một chú nhóc liên lạc của anh vừa sáng tác được bài hát về chiến khu tuyệt quá anh ơi! Rồi không kịp để cho Trung đoàn trưởng hỏi lại anh Hinh nhịp nhịp tay xuống tấm bản đồ, cất giọng hát rung cả mái lán… Anh hát đi hát lại bốn lần. Sông Ô Lâu đôi bờ trắng tóc lau Hát lời thề kháng chiến đến bạc đầu… Lần nào hát đến câu này mặt anh cũng tái hẳn đi và cặp mắt anh như sắp cháy bùng thành lửa ngọn. Các anh bên lán ban Tham mưu cạnh đó nghe anh Hinh hát cũng bỏ hết công việc chạy sang nghe. Bài hát dứt mà người nghe vẫn còn đứng lặng rất lâu, như người ta lúc bất ngờ chứng kiến vẻ đẹp mà không thể nói lên lời. Trung đoàn trưởng hỏi: - Chú bé nhạc sĩ này tên là chi? - Dạ tên Quỳnh… - Mừng từ phía sau lưng anh Hinh bước ra, đứng nghiêm trước mặt Trung đoàn trưởng đáp, - đội chúng em gọi bạn ấy là Quỳnh-sơn-ca. Hồi ở Huế, bạn ấy thường bắt nhịp cho cả đội hát… - Em có biết Quỳnh làm bài hát này từ khi mô không? - Dạ biết chớ… Bạn ấy đi lui đi tới hoài trên bờ sông, nghe tiếng nước chảy rồi bạn ấy làm… Làm xong, bạn ấy kéo em ra ngồi khuất sau bụi cây, hát cho em nghe. Em khen nghe hay như cái bài đoàn "Vệ Quốc Quân một lần ra đi", nhưng bạn ấy kêu là dở òm. Rồi bạn ấy vo viên lại định quăng vô bếp. Em lanh tay giữ lại không thì cháy rồi… - Giọng không giấu được vẻ hãnh diện về cái công của mình đã cứu được bài hát khỏi lửa. Trung đoàn trường nhìn Mừng và bất chợt nhớ đến cái đêm mưa tầm tã ở Mặt trận Huế. Ông chỉ em, nói với anh Hinh bằng tiếng Pháp: - Đây cũng là một Ga-vơ-rốt của kháng chiến đấy! Rồi ông kể cho anh và các anh trong ban Tham mưu chuyện Mừng về thăm mẹ và gặp ông trên đường tuần tra mặt trận… Anh Hinh đáp lại Trung đoàn trưởng cũng bằng tiếng Pháp: - Những Ga-vơ-rốt chết trên các chiến luỹ cách mạng thì tôi có thể hiểu được. Nhưng một em bé mười ba tuổi mà lại viết nổi những câu hát như thế này, - anh gõ gõ ngón tay vào bản nhạc, - thì tôi cứ thấy lạ. Trung đoàn trưởng nhịp nhịp ngón tay lên tấm bản đồ, trẩm ngâm nói: - Tôi nhớ hồi ở chiến trường vùng cực Nam Trung bộ, tôi được gặp một nghĩa quân già từ thời Trương Định. Cũng trong một buổi chuyện trò như thế này ông cụ nói: "Trong những giờ phút thử thách nghiêm trọng của lịch sử, Nhân Dân và Đất Nước thường mượn lời của con trẻ để nói lên cái tráng chí của mình". Việc em Quỳnh sáng tác nên bài hát này có lẽ đúng như lời ông cụ nói. Ông quay sang nói với Mừng: - Em chạy ra gọi Quỳnh vào đây cho anh gặp. - Dạ chân bạn ấy còn đau, đi phải chống nạng em sợ bạn ấy không trèo qua được dốc… - Thế thì thôi, để các anh ra gặp chú ta cũng được. Trung đoàn trưởng và anh Hinh cùng đi ra Tiền chiến khu. Mừng hý hửng đi theo sau. Hai người bước vào sân lán thấy chú bé nhạc sĩ và Hoà-đen đang ngồi trước eửa lán cởi áo, bắt rận. Hai em bắt rất chăm chú nên không thấy hai người vào. Hai người đứng lặng hồi lâu, ngắm hai tấm lưng trần con nít mỏng mảnh, gày gò, dày đặc những nốt ghẻ ruồi ưm đỏ. Một nỗi thương xót đứt ruột trào lên nghẹn cổ. Nếu họ đứng nhìn thêm nữa, chắc họ sẽ khóc. Trung đoàn trưởng và Tỉnh đội phó dân quân cùng ngồi xổm trước mặt hai em. Họ hỏi chuyện Quỳnh về gia đình, chuyện em được học nhạc từ bao giờ, hoàn cảnh em gia nhập Vệ Quốc Đoàn… Qua lời kể của em, hai người được biết thêm một điều lý thú: Có người trở thành chiến sĩ cứu nước chủ yếu vì những bài hát cách mạng. Trung đoàn trưởng và Tỉnh đội phó dân quân hỏi Quỳnh về những suy nghĩ của em khi viết bài hát "Sông Ô Lâu bền gan kháng chiến", và những mơ ước của em hiện nay về sáng tác. Gương mặt dễ thương của em hiện vẻ bối rối ngượng nghịu của người nghệ sĩ khi được khen ngợi quá với điều mình mong đợi. Em nói, mặt hơi đỏ lên: Em bỏ âm nhạc lâu quá rồi mà lúc viết lại không có đàn, nên câu nhạc cứ chệch choạc ra răng ấy… Em định bỏ đi, viết lại bài khác… Em thèm viết một vở nhạc kịch đề tài "Bạn Mừng đi tìm thuốc cho mẹ". - Quỳnh ve vẩy bàn tay đánh nhịp và ngân nga khe khẽ mấy nét nhạc âm hình chủ đạo cho vở nhạc kịch tương lai… Anh Hinh chăm chú lắng nghe, bật lên nói bằng tiếng Pháp: - Tuyệt diệu! Trung đoàn trưởng cũng là người sành và mê nhạc. Hai người vui mừng đến ứa nước mắt. Cả hai đều nghĩ rằng chú bé chiến sĩ mình đầy ghẻ ruồi và mặc cái áo trấn thủ đầy rận đang ngồi bệt trên đất kia, là một thần đồng âm nhạc. Sẽ đến một ngày nào đó, chính chú ta chứ không ai khác, làm rạng danh trung đoàn, rạng danh chiến khu. Ông hỏi em: - Để sáng tác được vở nhạc kịch ấy, em cần đàn gì? - Được pi a-nô thì nhất! Nhưng làm chi có được anh… Chừ em chỉ ước có cái đàn măng-đô-lin. - Anh sẽ gửi tổ quân báo ở Huế mua tặng em cái đàn măng-đô-lin. Và trung đoàn trường đã gửi thư cho anh Đồng-râu dặn mua cái đàn măng-đô-lin mà Châu-sém nhớ ra là đờn măng tre, măng lồ ô… Hai tuần sau, bài hát "Sông Ô Lâu kháng chiến" được đội đồng ca của chiến khu do anh Hinh chỉ huy trình diễn tại nhà Văn hoá đại chúng. Bài hát được khán giả vỗ tay vang dội, yêu cầu hát lại nhiều lần. Rất tiếc Quỳnh không có mặt hôm đó. Hai hôm trước, các bạn trong đội phải thay nhau khiêng em vào bệnh viện. Em lên cơn sốt trên bốn mươi độ, và bàn chân đau, vết thương tái phát sưng tấy lên. Cả Xê-ca Hoà Mỹ ngày đó không ai không thuộc bài hát "Sông Ô Lâu kháng chiến". Chính uỷ trung đoàn Trần Quý Hai, từ trước đến nay, cán bộ và chiến sĩ ở trung đoàn bộ chưa thấy ông hát hò bao giờ, ngoài bài "Quốc tế ca" ông hát trong buổi lễ khai mạc cuộc họp Đảng bộ toàn trung đoàn. Dạo này anh em rất ngạc nhiên thấy ông thỉnh thoảng lúc đang ngồi làm việc cũng khe khẽ ngân nga vài câu trong bài hát "Sông Ô Lâu kháng chiến". Và cũng từ dó, Quỳnh trở thành một nhân vật nổi tiếng của chiến khu Hoà Mỹ. 6 Lên chiến khu được ít lâu, Mừng được các bạn đặt cho cái biệt hiệu mới: Bộ-xương-cách-trí. Các bạn gọi em như vậy vì em gầy giơ hết xương sống, xương sườn, gần giống như bộ xương người vẽ trong sách "Cách trí giáo khoa thư". Đói ăn, ghẻ, rận, sốt rét, làm cho các em trong đội Thiếu niên trinh sát đều gầy sút. Riêng Mừng gầy sút hơn tất cả. Tưởng như trong người em có sinh sống một con vật gì đó, ngày ngày cứ rứt rỉa thịt em mà ăn. Khắp người em ghẻ lở ăn không sót chỗ nào. Cả con chim nhỏ xíu như quả ớt chỉ thiên, ghẻ cũng đào hang đào rãnh. Đứng cách xa em vài bước đã ngửi thấy mùi tanh mủ máu ghẻ cái, ghẻ ruồi, dính bết vào bộ áo quần độc nhất lúc nhúc những rận. Tư-dát bịa đủ thứ chuyện về ghẻ và rận của Mừng. "Một bữa, thằng Mừng chạy liên lạc vô Rú Quao đưa công văn cho tổ trạm gác tiền tiêu phía Nam chiến khu. Ở khúc rú này có con cọp thọt ăn thịt người đã thành tinh. Cọp thọt ngồi rình trong bụi bên đường đã ba ngày mà chưa chộp được anh Vê-cu-đê mô lớ ngớ đỉ qua. Hắn ta đói mờ cả mắt, ngồi ngủ gà ngủ gật. Vừa đúng cái lúc đó Mừng ta đi liên lạc ngang qua ngay trước mũi cọp. Cọp thọt chưa kịp vọt ra vồ thì đã hắt xì hơi liên tiếp chục cú liền: Tanh quá! Tanh quá! Cọp ta nhảy lùi lại phía sau rồi cong đuôi bỏ chạy, vừa chạy vừa hắt xì hơi rầm rầm, chuyển rú. "Một hôm, Mừng ta xuống sông Ô Lâu giặt quần áo. Hai tay ghẻ lở kềnh càng nên nó phải đến chỗ nước chảy xiết cầm áo quần nhúng xuống nước để nhờ nước giặt giúp. Bất ngờ nó tuột tay, bộ áo quần bị nước cuốn, trôi phăng phăng xuống cái vực bên dưới. Nó đứng ngó theo bộ áo quần mà khóc hu hu, chuyến ni chắc phải ở lỗ ở truồng mà chạy liên lạc. Bất ngờ bộ áo quần nổi lên mặt nước, rồi trôi ngược trở lại phía nó. Té ra tụi rận sợ chết chìm nên hè nhau tha bộ áo quần bơi ngược nước như đò ngược sông. Bữa đó mà không có tụi rận thì Mừng ta mất trắng tay". Mừng bị sốt rét nhiểu nhất nên nước da em ngả dần sang màu ký ninh. Ngày mới lên chiến khu, Mừng chưa biết sốt rét là gì. Em còn nhỏ quá nên trong các thứ bệnh chỉ mới biết bệnh đau đầu và đau bụng. Lần đầu tiên em thấy Hoà-đen lên cơn sốt rét thì lấy làm lạ lắm. Em đứng sững, há hốc miệng nhìn, bụng thắc mắc: "Trời nắng nẻ đầu, mình phải cởi trần mà hắn run chi run dữ hè? Hay hắn giả đò run rứa để doạ mình? Nhưng ai ta thèm sợ cái run?". Đến lúc em đã đắp cho Hoà-đen mười cái bao tải, nó vẫn cứ run; lại còn lắp bắp gọi nhờ em nằm đè lên người cho đỡ run, thì em không còn hiểu ra sao nữa. Sợ bạn đau, Mừng chỉ đè rón rén nhưng Hoà-đen vừa run vừa van vỉ: - Đè è è mạnh vôôô cho tau với ới ới… Chờ cho Hoà-đen dứt cơn sốt, chui ra khỏi đóng bao tải, Mừng đến gần ngồi cạnh, tò mò nhìn bạn và hỏi: - Răng khi hồi cậu run dữ rứa? Hoà-đen nhăn nhó trả lời: - Sốt rét chớ còn răng nữa mi? - Nhưng mình đã đắp cho cậu mười cái bao tải rồi tê mà? - Mười cái mà thấm chi? Rét trong bụng rét ra chứ có phải rềt ngoài da rét vô mô! - Lạ quá hè?… Mừng chặc lưỡi nói. - Ước chi tớ cũng được sốt rét như cậu để coi rét trọng bụng rét ra là răng cho biết… Hoà-đen nghe vậy, gắt um: - Ước chi không ước lại đi ước sốt rét. Mi ngu chi mà ngu dữ rứa? Cầu được ước thấy. Chỉ một tuần sau, không phải cầu ước. Mừng đã được biết rét trong bụng rét ra là như thế nào. Sốt rét dứt cơn, Mừng chui ra khỏi đống bao tải, người mệt lả, miệng đắng nghét, đầu nhức như búa bổ. Em nhàn nhó, rên rỉ nói với Hoà-đen: - Ui chao! Cái bệnh rét trong ruột rét ra ni còn cực hơn cả bệnh đau đầu nhiều cậu ạ… - Rứa chừ mi có còn ước được rét trong bụng rét ra nữa không? - Tớ sợ rồi… Chừ ai cho cục vàng tớ cũng lạy cả tơi cả nón. Nhưng bây giờ thì có lạy cũng không xong. Bệnh sốt rét đã trở thành cơm bữa của Mừng. Chừng vài ba ngày em lại lên cơn sốt rét một lần, sốt nóng có, sốt rét có. Có hôm em lên cơn sốt nóng, phát cuồng, trèo lên cả mái nhà mà chạy, làm đội trưởng sợ hết hồn. Anh phải bắc thang bế em xuống. Kể lại thật khó tin: Bệnh tật, ốm đau liên miên như vậy, nhưng Mừng lại là chú đội viên chạy liên lạc trèo núi, leo dốc, lội suối cả đội không đứa nào bằng. Ngay cả các anh lớn cũng phải tấm tắc khen phục. Có lần Mừng dẫn đường cho các anh du kích ở huyện đội Phong Điền vô Xê-ca Bốn lĩnh mìn và lựu đạn. Đường vô Xê-ca Bốn toàn dốc cao dựng đứng. Em đi trước, các anh theo sau. Anh nào cũng phải mướt mồ hôi trán mới theo kịp em. Các anh phải ngạc nhiên kêu lê: "Chao cái thằng! Hai cẳng chân hắn nhỏ như hai que tăm rứa mà hắn trèo núi giỏi cách chi?". Mà có phải em chỉ trèo núi thôi đâu. Vừa trèo dốc em vừa nhặt đá ném tụi sóc chuyền cành, vừa ngó ngửa tìm quả ươi bay, vừa xóc quần, vừa quệt mũi vừa gãi ghẻ. Có lẽ những năm tháng phải chạy rông khắp thành phố Huế, trèo tuốt lên những ngọn cây cao để tìm thuốc cho mẹ đã chuẩn bị gân sức cho em bây giờ trèo núi leo dốc, chạy liên lạc ở chiến khu. Rất nhiều các anh lớn, trong những năm ở chiến khu Hoà Mỹ, chưa một lần đi khắp cả bảy Xê-ca. Vì không có việc gì cần phải đi hết, và đi cho hết cũng tốn sức lắm. Từ Xê-ca này qua Xê-ca khác, ít nhất cũng phải băng qua bảy dốc núi, lội qua dăm bảy con suối cạn, suối sâu. Riêng Mừng, do công tác liên lạc nên không có Xê-ca nào em không phải đến. Không những đến, em còn thường tạt ngang, tạt dọc. Nếu phải chạy liên lạc vào Xê-ca Năm thế nào em cũng tạt vào Xê-ca Sáu, nơi có xưởng bào chế dược liệu đóng. Em tạt vào đây cốt lân la xin các chị bào chế một vài thìa thuốc ho, uống tại chỗ. Trong các thứ thuốc uống, em mê nhất là thuốc ho, vì thuốc ho ngọt. Ở chiến khu thèm đường ghê gớm. Có khi mấy tháng liền em không được biết vị đường. Nhiều đêm, em nằm mơ thấy miệng ngậm cục đường đen. Không có đường Mừng nghĩ cách bù vào bằng thuốc ho. Được húp một thìa thuốc ho mà phải lặn lội trèo qua bốn cái dốc cao vòi vọi, và lội qua hai con suối chảy xiết kể cũng công trình biết mấy? Nếu có việc phải vô Xê-ca Bốn, thể nào Mừng cũng tạt qua Xê-ca Bảy - nơi bệnh viện chiến khu đóng - thăm Quỳnh-sơn-ca. Quà thăm bạn ốm là mấy quả ươi bay, lượm được lúc trèo qua dốc núi. Quả ươi bay gần giống quả trám khô. Muốn ăn, đem ngâm nước một lúc, quả sẽ nở bung, ăn có vị mát mát như thạch. Nếu có đường vào một hai muỗng, trộn lên thì không còn phải nói! Nếu phải chạy liên lạc vô Xê-ca Ba, Mừng thường tạt vô Xê-ca Một chơi với Phan Nghi chốc lát. Sau cái đêm ngồi chung với nhau trên lưng con ngựa của vua Bảo Đại, phi về làng Phò thăm mẹ, Nghi và Mừng trở thành đôi bạn chí thân. Nghi ở cơ quan Trung đoàn bộ, cùng ăn cơm với trung đoàn trưởng, chính uỷ, tham mưu trưởng trung đoàn, nên thỉnh thoảng cũng được biết mùi vị đường, mỡ, cá mắm khô. Mỗi lần xuống thăm thú nhà bếp, thấy xuất hiện các thứ của ngon vật lạ đó, đến bữa ăn Nghi thường nghĩ mẹo đi đâu đấy để chị cấp dưỡng phải để phần cho em. Và em sẻ bớt một ít gửi ra Tiền chiến khu cho Mừng. Một lần Nghi được để phần một bát cơm chiên với tóp mỡ. Em lấy chiếc phong bì, sẻ vô đó nửa bát, chọn gắp tất cả tóp mỡ bỏ hết vào phong bì. Em dán phong bì thật kín, rồi lấy bút nắn nót đề: "Công văn thượng khẩn. Tối mật (gạch đít) Phan Nghi, ban tham mưu Trung đoàn 101 - Kính gửi: Bộ-xương-cách-trí, đội Thiếu niên trinh sát - Tiền chiến khu Hoà Mỹ". Nghi gửi bức công văn "thượng khẩn", "tối mật" này cho đội trưởng Thắng vào làm việc với trung đoàn trưởng, nhờ chuyển giúp cho Mừng. Do công tác liên lạc mà Mừng thuộc làu làu tất cả đường đi lối lại trong chiến khu Hoà Mỹ. Không những thuộc những đường chính mà em còn tìm ra những lối tắt, đi có vất vả hơn, nhiều dốc, nhiều núi, nhiều sên vắt, nhưng gần hơn, có khi gần hơn đến nửa đường. Đội trưởng Thắng rất hãnh diện về cái tài thuộc đường của chú đội viên nhỏ của mình. Anh gọi Mừng là "tấm bản đồ sống của chiến khu". Rồi đến trung đoàn trưởng cũng phải ngạc nhiên trước sức nhớ và thuộc địa hình rừng núi của Mừng. Hôm đó, Mừng tạt vô Xê-ca Một chơi với Nghi. Em gặp đội trưởng đang ngồi với trung đoàn trưởng. Trước mặt hai người trải rộng tấm bản đồ chiến khu. Cả hai đang chăm chú nhìn vào bản đồ và thảo luận cái gì đó. Nghi ngoắc Mừng xuống bếp và dúi cho bạn một cục đường đen to bằng ngón chân cái đã chảy nước. Mừng vừa mút đường vừa lân la đến gần đội trưởng nhìn tấm bản đồ qua vai anh: Mừng có một thích thú đặc biệt là xem bản đồ. Em có thể đứng ngắm một tấm bản đồ hàng giờ liền mà không chán mắt, và mặt ngẩn ra đầy kinh ngạc, thán phục. Em không thể nào hiểu nổi làm cách nào mà người ta có thể vẽ vào một tờ giấy, tất cả núi non, sông suối, đường đi lối lại cả một vùng rừng núi mà muốn đi cho hết phải mất bao nhiêu ngày? Em tấm tắc: "Tài thiệt? Tài thiệt? Như là phép tiên rứa?". Mỗi lần chạy liên lạc vào ban tham mưu, thế nào Mừng cũng ghé vô lán của tổ Hoạ đồ coi anh Tùng, anh Danh, anh Du ngồi hoạ đồ. Ngồi ngắm bản đồ nhiều em trở nên thành thạo. Khi thấy các anh vẽ những đường vòng méo mó, vòng trong nhỏ hơn vòng ngoài, cho đến lúc chỉ còn nhỏ bằng cái mũi đinh và đề lên đó một con số, em biết đó là những ngọn núi; núi ít vòng là núi thấp, núi nhiều vòng là núi cao và con số chỉ chiều cao của ngọn núi. Sông suối thì các anh vẽ bằng mực xanh đậm, đường đi vẽ bằng màu nâu, làng mạc là những mảnh vụn màu lá mạ… Em lẩm nhẩm đánh vần những chữ đề trên các ngọn núi, dọc các con sông, con suối, em nhận ra có những ngọn núi, những con suối em đã từng trèo qua, lội qua hàng chục, hàng trăm lần. Rồi em quen đến độ không cần đọc tên đề, chỉ nhìn qua hình dạng, em cũng đoán được đó là ngọn núi nào, con suối nào, trong dãy núi trùng điệp của chiến khu. Và bây giờ mỗi lần nhìn vào bản đồ, em thấy hiện ra trước mắt những núi, những suối nhỏ, suối to, với tất cả kích thước thật của nó, với tất cả xanh tươi, sống động, rậm rịt, chảy xiết… Em thấy những cây cao ba bốn người ôm không xuể, những mây song, tre giang, bò ngang bò dọc trên mặt đất như đàn trăn, đàn rắn, sóc chuyền cành, tiếng vượn hú tiếng chim phi-họ-phi-làng, cá lội tung tăng, đá cuội tròn nhẵn lấp loáng dưới đáy nước chảy xiết, những tảng đá lớn nhỏ phủ rêu trơn tuột vô ý giẫm lên là vồ ếch như chơi… Em thấy những lán trại, kho tàng, công binh xưởng, cơ quan, bệnh viện, xưởng bào chế… nép mình dưới những lán cây um tùm lưng dốc núi hay sát bên bờ suối. Em thấy khói lan bò trên các mái lán, trong ánh chiều tà. Em nghe tiếng cười nói, tiếng rên lên cơn sốt rét, tiếng búa, tiếng cối xay lúa ù ù, tiếng chày giã gạo… Tất cả những nơi này em đều có thể ghé vào uống một ngụm nước lá rừng, ăn một củ sắn nướng hay xin một thìa thuốc ho… Tấm bản đồ đang trải rộng trước mặt trung đoàn trưởng và đội trưởng, có những khuyên tròn, những vòng cung vẽ bằng bút chì đỏ. Vừa thoáng nhìn, Mừng đã biết ngay đó là tấm bản đồ "Bố phòng chiến khu" - một tấm bản đồ tối mật. Đội trưởng Thắng cũng có một tấm bản đồ như thế nhưng nhỏ hơn, gấp làm tám, bỏ trong cái xà cột da, mà đi đâu anh cũng mang theo. Trung đoàn trưởng đang cầm cây bút chì xanh đỏ chỉ vào một điểm trên bản đồ, nói với đội trưởng: - Cần phải bố trí thêm đài quan sát ở đây. Không biết trên đỉnh dốc núi này có cây cao nào không, để đặt đài quan sát, và địa hình có bị che khuất? Ngày hôm nay đồng chí phải đến nghiên cứu thực địa và về báo cáo cho tôi biết để quyết định. Thoáng nhìn Mừng biết ngay chỗ dốc núi mà trung đoàn trưởng chỉ trên bản đồ là dốc núi gần Xê-ca Bảy. Em liền buột miệng nói: - Thưa anh chỗ dốc núi đó không có cây chi to hết, toàn cây mây với cây giang thôi, mà rậm rịt ghê lắm. Trung đoàn trưởng ngẩng nhìn Mừng. Em sợ hãi nuốt ực cục đường đang mút dở, và đứng nghiêm lại. - Chú mày có biết dốc núi này ở đâu không mà dám nói như vậy? - Dạ em biết… Ở Xê-ca Bảy, gần dốc bệnh viện… - Mừng bước đến cạnh bàn nhìn tấm bản đồ rồi đưa ngón tay trỏ đen thui, chỉ vào một điểm cạnh điểm trung đoàn trưởng vừa khuyên bằng chỉ đỏ, hồi hộp thưa. - Dạ thưa anh, ở chỗ ni dốc núi thoáng hơn mà có cây cao to lắm. Trèo đứng lên chạc ba cây đó thấy hết cả Tiền chiến khu, ngó được thấu qua đồi Đồng Nhên bên kia sông Ô Lâu… - Em ấp úng một tí rồi nói thêm. - Trên ngọn cây đó có tổ ong vò vẽ to như cái nồi bảy. Mừng rụt ngón tay lại. Trên màu xanh nhạt tấm bản đồ in một vết đen xì - vết máu ghẻ khô và nước đường dính ở đầu ngón tay em. Mừng sợ hãi định trở mu bàn tay chùi vết đen mình làm nhớp bản đồ. Trung đoàn trưởng đưa tay ngăn lại: - Chú làm đen hết cả tấm bản đồ của anh bây giờ? Đội trưởng của chú sẽ đi kiểm tra thực địa. Nếu đúng như chú mi nói, anh sẽ thưởng. Nhưng nếu chú mi nói tam toạng anh sẽ đập chú mi chục roi về cái tội xem trộm bản đồ mật. Trưa hôm đó, trung đoàn trưởng cùng đi với đội trưởng Thắng đến dốc núi Xê-ca Bảy, điều tra vị trí đặt đài quan sát. Ông phải sửng sốt khi nhìn vào bản đồ đúng cái chỗ đen sì vết móng tay của chú liên lạc, có một cây quao đại thụ, cao vòi vọi, dựng thẳng tắp giữa lưng chừng núi. Ông hỏi đội trưởng: - Chú bé liên lạc này có được học hành gì không? - Dạ em vô bộ đội còn chưa biết chữ. Hiện tôi đang dạy cho em học. Không có vở, bút, tôi phải lấy tờ báo Giết giặc làm sách vỡ lòng, dạy em tập đánh vần. Bây giờ em cũng đã đánh vần đọc được kha khá rồi. - Thế thì lạ thật! Chú ta đọc bản đồ sành sỏi không thua gì một sĩ quan tham mưu. - Trung đoàn trưởng móc trong túi áo quân phục mấy tờ giấy, cây bút chì còn mới và tờ bạc mười đồng, đưa cho đội trưởng trinh sát, nói tiếp: - Anh đưa cho chú ta, nói là trung đoàn trưởng thưởng cho chú như đã hứa. Và trung đoàn trưởng quyếtđịnh đặt đài quan sát mới của chiến khu tại cây quao đại thụ này.
|