Tuổi Thơ Dữ Dội
|
|
- Oan ức tui quá các em ơi! Các em thả cho tui về với vợ con chớ không thì đêm ni vợ con tui khóc hết nước mắt! Anh tổ trưởng gác tên là Ngưu, đã đứng tuổi, trước Cách mạng làm nghề kéo xe kéo. Anh từ sau lán bước ra, nói: - Anh ráng chờ đến sáng mai, họ ra xét hỏi, nếu đúng anh là người ngay thì họ thả cho về thôi. Thời buổi kháng chiến, mỗi người gắng chịu cực một chút. "H.21" nói giọng lễ phép, khúm núm: - Dạ bẩm eng, tui cũng biết rứa, có dám oán trách chi mô! Chỉ khổ cái là ở nhà vợ dại con thơ, mỏi mắt ngóng tui về. Lúc đi, tui hẹn là chiều nay răng cũng về… Mặt trời đã lặn khuất sau phía dãy núi xanh mung lung sương khói. Đất trời chiến khu bàng bạc một màu tím hoa sim bầm. Mừng nói: - Ta về thôi anh Kim, sắp tối rồi. Tui cứ ngửi mãi thằng cha nớ mà chẳng thấy mùi chi. Kim sa sầm nét mặt, nói giọng tức tối: - Thằng nớ nói trạng cóc rứa mà mi cũng đeo queo mà tin! Mừng liền bênh: - Anh mới lên chiến khu nên chưa biết mô. Anh Bồng nói cái chi cũng trúng phắp. Cả trung đoàn trưởng cả chính uỷ cũng còn nghe ý kiến anh ấy chứ anh đừng tưởng! Kim đang rối ruột gan nên chằng buồn cãi lại. Người đàn ông bỗng gọi hai đứa: - Hai chú chi ơi! Tui thèm thuốc quá, mà không làm răng vấn được Nhờ hai chú lấy thuốc trong bọc tui, vấn giúp cho tui điếu thuốc. Kim hỏi anh lính gác: - Hắn xin hút thuốc, anh có cho hút không? - Chú em vấn giúp cho hắn một điếu cũng được. Kim bước lại gần, xẵng giọng hỏi: - Thuốc men mô thì đưa đây. Tui phải về không tối. - Dạ trong bọc tui, có cả thuốc cả máy lửa trong đó. Kim cúi xuống móc cuộn thuốc lá trong túi áo hắn. Cặp mắt hắn vụt sáng lóe trong bóng tối nhập nhoạng góc lán. Hắn hỏi, giọng thật thà: - Trên ni có nhiều người bán mây song không chú? Kim-điệu rùng mình. Đó là câu mật khẩu quy định. - Không chú ý nên tôi không được rõ lắm. - Kim đáp lại như máy. Nó bứt nhỏ hai lá thuốc, xé một mảnh lá nguyên làm giấy quấn thành điếu thuốc to cỡ ngón tay cái. Nó móc túi áo bên kia lấy cái bật lửa Tàu bò, bật lửa châm thuốc cho hắn. Hắn rít một hơi khói, nói như gió thoảng: - Đặt cái bật lửa xuống đất, cạnh chân. Kim bỏ xấp thuốc vô túi hắn, và thả nhẹ cái bật lửa xuống đất "H.21" đưa bàn chân đè lên. Kim đứng lên, giọng cáu bẳn: - Thuốc thiếc, làm người ta mất bao nhiêu thì giờ? Trên đường trở về đội Mừng hỏi: - Liệu thằng nớ có phải Việt Gian không anh hè? - Đã chắc chi! Đi một quãng, Kim làm như vừa chợt nhớ ra, nói với Mừng: - Chút nữa về, mi đừng kể chuyện tau vấn thuốc giúp hắn với thằng Bồng nghe? Không thằng nớ lại chửi tao là dại, đi vấn thuốc giúp cho Việt gian! - Ử lỡ không phải "Vê-giê" mà tối ni phải ngồi cho muỗi đốt cả đêm nghĩ cũng thương anh hí? 20 Đã quá nửa đêm, chiến khu Hoà Mỹ vùi sâu trong bóng đêm. Khói núi dâng lên mỗỉ lúc một thêm dày đặc. Tiếng sông Ô Lâu rì rào, tiếng coọng nước quay kẽo kẹt bất tận, nghe vang, sâu thẳm… tiếng lau lách xạc xào, tiếng những thân tre, lồ ô cọ vào nhau, hoà với tiếng dòng sông nghe như một bè trẩm dìu dặt. Ở trạm gác tiền tiêu, đống lửa đốt giữa nhà đang lụi dần trong tiếng nổ lép bép, chỉ còn nhấp nháy những đốm than. Khí núi về đêm càng giá buốt. Anh lính gác ngồi trước cửa lán, khẩu "tuyn" gác ngang đầu gối, ngủ gà ngủ gật. Tên "H.21" ngồi dựa vào cái cột mà hắn bị trói liền vào đó, đầu gục xuống ngực, vẻ như đang ngủ rất say. Điếu thuốc lá tắt ngấm còn ngậm bên mép. Phía sau bức phên liếp ngăn ngôi lán ra làm hai, anh tổ trưởng và hai chiến si nằm ngủ úp thìa trên sạp nứa trần trụi, đắp hai cái bao tải được khâu liền nhau. Khẩu "mút-cơ-tông" và hai bao đạn anh Ngưu gối trên đầu Hai phiên đổi gác, các anh đều thấy người đàn ông vẫn ngồi nguyên trong tư thế đầu cúi gằm xuống ngực mà ngủ, nên yên tâm không chú ý đến hắn nữa. Một anh còn thương hại hắn lạnh, ném lên người hắn cái bao tải. Hắn vẫn ngồi im không động đậy. Lúc này bất ngờ hắn từ từ ngóc đầu dậy. Cặp mắt đảo nhanh nhìn ra phía anh lính gác ngồi cửa, lóe ánh hung hiểm. Hắn nhấc bàn chân trái lên để lộ cái bật lửa, với một động tác khéo léo không ngờ, hắn dùng hai ngón chân bàn chân trái kẹp dựng cái bật lửa lên, dùng ngón chân bàn chân phải mở nắp, và đánh bánh xe bật lửa. Cái bật lửa trông cũ kỹ mà nhạy không ngờ. Ngọn lửa cháy sáng lung lay, lung lay. Hắn cúi gập người châm lửa vào đầu thuốc lá tắt ngấm. Rít mấy hơi cho đầu thuốc cháy đều, hắn thả bật lửa xuống đất. Ngọn lửa tắt. Hắn cúi đầu xuống ngực trở lại tư thế cũ, vờ như vẫn tiếp tục ngủ say. Hắn thận trọng châm đầu thuốc lá vào sợi dây dừa trói vòng qua ngực. Ở Huế ngày trước các quán bán thuốc lá Cẩm Lệ, thường treo sợi dây dừa một đầu có lửa để khách hàng châm thuốc hút. Dây dừa có đặc tính nhạy cháy và ngùn lửa như nùn rơm. Sợi dây dừa trói tên "H.21" khá to, hắn châm khoảng mười hơi thuốc sợi dây mới bén lửa, ngún cháy. Và khoảng ba phút sau, sợi dây dừa đứt. Hắn đã rời khỏi cây cột trói hắn vào đó. Điếu thuốc trên môi hắn lúc này chỉ còn dài khoảng hai đốt ngón tay. Hắn gắng hết sức nghiêng người châm đầu thuốc vào dây trói hai khuỷu tay. Hắn phải rít điếu thuốc cháy sát đến tận môi, sợi dây trói mới bén lửa. Hắn nhả vội điếu thuốc xuống đất, thổi nhè nhẹ vào chỗ lửa ngùn cháy. Năm phút sau hắn đã tự cởi trói hoàn toàn. Người nông dân ngờ nghệch đi mua dây mây, hiện nguyên hình tên biệt kích có hạng. Trước cừa lán, anh lính gác thức ngủ nhiều đã thấm mệt và quá buồn ngủ. "H.21" vẫn ngồi khẽ cử động xoa bóp hai cánh tay cho bớt tê dại. Hắn hất cái bao tải trên vai xuống đất, đứng bật ngay dậy. Hắn nhảy chồm tới phía anh lính gác nhanh như thú dữ vồ mồi, giật phắt khẩu tiểu liên anh gác ngang trên đùi. Anh lính gác bị tước súng bất thình lình, vụt tỉnh cơn buồn ngủ, chới với, hốt hoảng, chồm dậy để giật khẩu súng lại. Nhưng hắn đã kịp thời nhảy lùi lại, co chân đạp anh ngã nhào xuống đất. Anh chưa kịp kêu, hắn đã bật chốt an toàn khẩu súng, nổ liền hai phát vào giữa ngực anh. Ba anh lính ngủ sau phên liếp nghe súng nổ, bừng tỉnh, nhảy xuống sạp. Nhưng vừa ló mặt ra ngoài phên liếp, cả ba anh đã hứng cả băng đạn tiểu liên quất ngang mặt. Hạ thủ xong cả tổ gác trạm tiền tiêu, tên "H.21" xách súng lùi vào bóng tối, vượt qua sông Ô Lâu. Trời vừa rạng sáng, cả chiến khu Hoà Mỹ đã biết tin bốn chiến sĩ tổ gác trạm tiền tiêu phía Nam Xê-ca bị một tên Việt gian giết hại. Gian lán chật ních những người. Trung đoàn trưởng, Tham mưu trưởng trung đoàn cũng có mặt. Các anh xem xét hiện trường, nhìn sợi dây trói còn ngùn lửa, cái bật lửa nằm lăn lóc trên mặt đất, phán đoán diễn biến của sự việc. Có lẽ người tức giận hơn cả trước cảnh tượng này là Bồng-da-rắn. Em báo cáo với các anh đầu đuôi việc em lừa bắt tên Việt gian đội lốt đi mua mây, cả việc em đã giật phắt điếu thuốc tên này đang hút, vứt đi. Em nhìn xác bốn anh lính gác, đau xót, tức tối nói: - Tui chắc là một trong bốn anh ni đã thương hắn, vẫn thuốc cho hắn hút, hắn mới đốt được dây trói! Em cúi nhìn những gương mặt bất động đầy máu của các anh lính gác, vừa khóc vừa nói: - Tui đã dặn đi dặn lại các anh, hắn đúng là Việt gian, phải gác xách cho cẩn thận, rứa mà các anh không tin tui, các anh cứ vấn thuốc cho hắn hút? - Em bất thần gào to như điên dại - Chờ anh mô đã vấn thuốc cho hắn hút? Răng không anh mô nói đi! Nhưng cả bốn anh lính gác đều câm lặng, mang theo sự bí ẩn xuống mồ. Trong số những người có mặt lúc đó, có hai người là Mừng và Kim biết điều bí ẩn này. Nhưng Mừng sợ hãi không dám nói, còn Kim ngoái mặt làm bộ đau xót nhưng trống ngực nó đập rộn lên vì mừng. Thế là nguy cơ đe doạ nó không còn nữa! Mừng đứng úp mặt vào cây cột lán và khóc. Đôi vai con nít gầy guộc trong tấm áo rách rưới của em cứ rung lên từng hồi. Kim đến kéo tay em đi ra một góc sân, thì thầm với giọng hăm doạ: - Mi mà nói lộ chuyện ra thì cả tao cả mi sẽ bị trung đoàn xử bắn. Họ không tha mô. Mi nhớ nghe! Mừng kéo vạt áo lau nước mắt, buồn bã gật đầu. Trung đoàn trưởng ra lệnh cho mọi người giải tán, trở về đơn vị. Ông nói với tham mưu trưởng: Việc này anh cần thông báo gấp cho toàn trung đoàn. Các đơn vị phải tổ chức học tập, liên hệ, rút kinh nghiệm. Đây là một bài học vô cùng sâu sắc và đau đớn: với kẻ thù, nếu mất cảnh giác, chúng ta phải trả bằng giá máu? 21 Nhưng rồi đơn vị Thiếu niên Trinh sát chưa kịp tổ chức học tập về ý thức cảnh giác cách mạng như thông báo và chỉ thị của Trung đoàn, em Mừng vì đại dột đã phạm tiếp một lỗi lầm khác, nghiêm trọng không kém, mà em phải trả giá bằng chính cả cuộc đời em. Sáng hôm đó, Bồng được đội trưởng cử về đồng bằng gọi các tổ trinh sát về gấp chiến khu để học tập và chuẩn bị nhận nhiệm vụ mới. Đội trưởng cùng với Mừng và Kim dọn dẹp, sửa sang, tổng vệ sinh lán trại để đón đội về. Kim-điệu đang nhổ cỏ quét sân thì nhăn nhó kêu đau bụng. Đội trưởng cho vào lán nằm nghỉ. Nó nằm co người, tay ôm bụng. Chốc chốc nó lại vò giấy chạy vào hố xí. Mỗi lần đi ngoài nó ngồi khá lâu, lúc trở về vào bước chân lảo đảo, nằm vật xuống sạp nứa, thở dốc, vẻ rất mệt nhọc. Đội trưởng tìm miếng gừng, giã nhỏ hoà nước cho nó uống. Anh nói: - Nếu không khỏi thì sáng mai anh sẽ đưa em vào bệnh viện. Đội trưởng và Mừng dọn dẹp gần đến trưa mới xong. Cả hai anh em lấm láp từ đầu đến chân. Hai anh em định ra sông tắm giặt. Đội trưởng nói: - Hai tay em ghẻ lở loét thế kia thì giặt thế nào được. Cởi áo quần, anh giặt cho một thể. Em ở nhà trông nhà. Anh tắm giặt xong, em sẽ ra tắm sau. Đội trưởng gom gần chục cái bao tải quân trang của các em, ôm cùng với áo quần của Mừng, đi ra sông Ô Lâu. Hôm đó trời nắng to, anh muốn giặt sạch phơi khô để lúc các em ở đồng bằng lên có cái mà đắp. Đội trưởng đi được một lúc, Kim chống tay ngồi dậy, làm bộ nhăn nhó nói với Mừng: - Tau đi ngoài nhiều, chừ thấy đói bụng quá. Mi ra quán o Liền mua giúp cho tau mấy chục đồng xôi chè, đem về đây hai đứa ta cùng ăn… Hay mi thích ngồi ăn luôn ngoài quán thì ăn trước đi, rồi mang về cho tau một ít thôi. Nó móc túi quần sau lấy đưa cho Mừng mấy tờ giấy bạc mười đồng. Mừng ngần ngừ: - Nhưng đội trưởng dặn phải ở nhà coi nhà. Sợ bỏ đi, anh về anh la… Hay chờ đội trưởng tắm giặt về rồi tôi đi mua cho. - Thì tau coi cho cũng được chớ răng? Tau đau nằm nhắm mắt rứa chứ có ngủ được mô. Nghĩ đến xôi chè, Mừng cũng thấy bụng cồn cào, thèm rệu nước miệng. Em cầm hai cái ca để mua chè đậu đen đặc. Mừng nói: - Rứa anh coi giúp cho tui với nghe. Có hai đến hỏi việc chi, anh cứ nói họ ngồi đó chờ, rồi đội trưởng lên. Anh nhớ đừng cho họ tự tiện đi vô buồng của đội trưởng nghe. - Em chỉ về phía cuối lán - trong nớ anh để nhiều giấy tờ tài liệu mật… Cuối lán, đội trưởng đan phên liếp ngăn ra một khoảng rộng chừng ba bốn mét vuông, làm buồng làm việc. Buồng có cánh cửa ken bằng tre lồ ô chẻ nhỏ. Trong buồng có một sạp nứa hẹp, một cái bàn mặt nứa ghép, một cái ghế làm bằng khúc thân cây. Chân bàn, ghế đều đóng sâu xuống đất kiểu thông dụng trong khắp các lán trại ở chiến khu. Cạnh bàn có khuôn cửa sổ, cánh cửa cũng bằng phên liếp mở đóng theo kiểu chống lên, hạ xuống. Nghe Mừng dặn dò, Kim cau trán gắt: - Mi không phải dặn. Tau chẳng dại thua mi mô! Mừng chạy ra khỏi lán. Quán o Liền bán xôi chè là quán xa nhất, ở cuối dãy hàng quán Tiền chiến khu. Kim đang nằm ôm bụng, lập tức vùng ngay dậy. Nó chạy ra phía hố xí, rẽ lau lách, chui sâu vào bên trong. Đến bụi lau rậm có đánh dấu bằng một khúc cây mục, nó khom người rúc đầu moi dưới đất lên cái túi vải nhựa bên trong đựng khẩu súng lục kiểu Xanh-tê-chiên, đạn và máy ảnh chuyên dùng của điệp viên. Nó giắt súng vào bên trong bụng áo, máy ảnh đút túi, rồi chạy vụt trở vào lán. Nó đẩy cánh cửa gian buồng của đội trưởng. Chiếc xà cột da sờn cũ mà đội trưởng vẫn dùng từ ngày còn ở mặt trận Huế, treo lủng lẳng trên con sỏ tre. Cái xà cột này là vật bất ly thân của đội trưởng, đi đâu anh cũng mang theo. Lúc nãy vì phải ôm cả một bao tải, áo quần, nên anh phải để xà cột lại buồng, và dặn Mừng trông nhà. Tất cả những sự việc này đều không lọt khỏi mắt Kim, mặc dầu lúc đó nó đang nằm ôm bụng, nhắm mắt. Nó đứng lên sạp lấy cái xà cột, mở nắp, ghé mắt lục tìm bên trong và rút ra tấm bản đồ bố phòng chiến khu. Mặt sau tấm bản đồ này có bồi vải mỏng để giữ cho bản đồ khỏi rách. Nó trải rộng tấm bản đồ lên mặt bàn nứa, chống hé cái cừa liếp lên để lấy ánh sáng. Nó rút máy ảnh trong túi quần ra và đưa lên chụp tấm bản đồ bố phòng chiến khu từng khuôn một. Nó phải chụp mười khuôn mới hết tấm bản đồ. Vừa chụp xong khuôn cuối cùng, bỗng có tiếng Mừng gọi phía trước cửa lán: - Anh Kim mô rồi? Chỉ mua được xôi, chưa có chè - chè chưa chín! Nó không ngờ Mừng quayvề sớm đến thế! Nó luống cuống hoảng hốt, đặt cái máy ảnh xuống góc bàn, gấp vội tấm bản đồ định nhét trả vào xà cột. Nhưng Mừng đã xô cửa buồng bước vào, tay vẫn lăm lăm cầm gói xôi. Thấy Kim cầm tấm bản đồ đã gấp làm tám, nhưng chỉ thoáng nhìn Mừng biết ngay đó là tấm bản đồ tối mật. Mừng tái mặt, kêu run, hoảng sợ: - Uỉ chao? Răng anh dám tự tiện lục tấm bản đồ đó của đội trưởng ra coi? - Tao định coi nhờ đường vô Xê-ca Bảy đi lối nào gần hơn, để lỡ chiều ni nó có phải đi bệnh viện thì đi lấy một mình… Kim ấp úng chống chế và loay hoay nhét tấm bản đồ vào xà cột, Và treo trảo lên con sỏ tre. - Cần đi thì tui dắt anh đi, việc chi phải coi trộm bản đồ? Đội trưởng mà biết thì anh giận lắm! - Mừng nói giọng run rẩy, và hai mắt em nước mắt đã rơm rớm. Mừng chợt thấy cái máy ảnh nhỏ xíu như một thứ đồ chơi, để ở góc bàn, đưa tay ra cầm lấy và hỏi: - Cái chi ri? Kim hoảng sợ đưa tay chộp lấy cái máy ảnh, nhét vào túi áo bên trái và cài khuy nắp túi áo lại, miệng luống cuống ừ ào: - Cái hộp đựng tiền của tao… Mừng đứng sững, mắt đăm đăm nhìn Kim. Kim bỗng ôm bụng nhăn nhó, tay vò vò tờ giấy loại, nói giọng cuống quýt: - Tao lại buồn đi ca-bi-nê… Mi cứ ăn xôi trước đi, chút nữa tau vô tau ăn… ăn rồi, mi chạy ra quán coi chè đã chín chưa, mua về cho tau ăn với nghe… Vừa nói Kim vừa ôm bụng lách mình bước ra khỏi buồng và chạy về phía hố xí. 22 Mừng đặt gói xôi lên sạp nữa, nhìn theo Kim ôm quẩn chạy cuống quýt. Gương mặt em mỗi lúc một trở nên cau có. Cặp mắt trong suốt, thơ ngây của em lần đầu tiên thoáng đục ánh nghi ngờ. Em kéo chéo áo lên miệng, nhai nhai,nghĩ ngợi: "Răng anh ấy lại dám cả gan lục bản đồ tối mật của đội trưởng ra coi trộm hè? Mà điệu bộ anh ấy lúc ngó thấy mình bước vô, coi hốt hoảng và gian gian như răng ấy. Việc ni mình hải báo cáo với đội trưởng mới được, anh ấy có giận không chơi với mình nữa cũng thôi…". Mừng chợt nhìn gói xôi trên sạp, em vụt nghĩ ra một điều nghi ngờ: "Chắc anh ấy lừa mình đi mua xôi, chè, để ở nhà một mình coi trộm bản đồ cho dễ… May mà mình nóng ruột, không chờ chè chín, chạy về sớm… Chớ không thì anh ấy coi kỹ rồi, bỏ vô như cũ, mình làm răng biết được? Mà tấm bản đồ đó chỉ có trung đoàn trưởng với đội trưởng môi có. Mọi lần đi ỉa, đội trưởng cũng mang đeo bên hông…Chắc bữa ni anh phải ôm nhiều đồ đi giặt, đeo theo sợ ướt, nên anh mới treo nó ở nhà, dặn mình phải chú ý coi nhà. Nhà ni thì có cái chi sợ mất mà phải coi? Đội trưởng dặn rứa là có ý dặn mình phải coi tấm bản đồ đó. Rứa mà mình tham ăn miếng xôi, miếng chè, mình đã bỏ nhà mình đi! Mình mà báo cáo thiệt với đội trưởng, chắc anh phải la dữ lắm, chưa chừng anh còn kỷ luật cũng nên. Rồi anh ghét mình, không tin mình nữa…". Nghĩ đến đó, Mừng thấy ngực đau nhói, mũi cay cay muốn khóc. Và em càng thấy giận Kim hơn. "Mình đã giấu đội trưởng chuyện hắn vấn thuốc cho thằng Việt gian hút - trong ý nghĩ Mừng đã chuyển gọi Kim từ anh sang hắn vì quá giận - nhờ rứa thằng Việt gian mới đốt được dây trói cướp súng, bắn chết các anh trạm gác. Việc ni không ai biết, nhưng hai hôm ri đêm mô mình cũng nằm mê thấy chuyện đó… Mình không dám ngó mặt đội trưởng, cứ phải len lén như thằng ăn cắp… Mà hắn đi ỉa chi lâu rứa hè?". Và ngay lúc đó Mừng bất giác nhớ lại rất rõ việc "Cái hộp đựng tiền" mà thằng Kim hớt hải chộp lấy, đút nhanh vô túi áo. Mình ở với hắn đã lâu mà chưa lần mô thấy hắn bày cái hộp đó ra. Mỗi lần đi ăn hàng, hắn toàn rút tiền trong túi quần ra, rứa mà bữa ni tự nhiên lại có cái hộp đựng tiền? Mà hộp đựng tiền chi lại có con mắt đen đen nằm chính giữa, lấp láy như mắt thằng kẻ cắp?". Cái hộp đựng tiền có mặt gương bỗng làm Mừng chợt nhớ có lần đội trưởng nói chuyện với cả đội: "Tụi Việt gian, gián điệp, thường dùng một loại máy chụp bóng rất nhỏ, nhỏ bằng cái hộp diêm, để chụp trộm các tài liệu mật của kháng chiến. Các em cần chú ý phát hiện để kịp thời tóm cổ chúng, không cho chúng làm hại kháng chiến". "Hay cái hộp đựng tiền đó là cái máy chụp bóng mà đội trưởng nói?". Nghĩ đến đó, Mừng bất giác toát hết mồ hôi, người em run lên như sắp lên cơn sốt rét vì lo sợ thay cho chiến khu, cho kháng chiến… "Ê thằng Kim là Việt gian, gián điệp đó? Hắn chụp trộm bản đồ bố phòng chiến khu mang về cho tụi Tây!". Điều em bất chợt phát hiện đó, đối với em thật vô cùng khủng khiếp. Em lao ra phía nhà xí, gọi to: - Kim! Kim? Kim! Nhà xí trống không. Em đứng như chôn chân gọi to mấy tiếng nữa: - Kim! Kim! Ơi Kim! Chỉ có tiếng lau lách xạc xào đáp lại em. Trong khoảnh khắc đó, sự dại dột, ngây thơ, ngờ nghệch của chú bé mười ba tuổi vụt biến mất nhượng chỗ cho sự suy luận sáng suốt và trực giác nhạy bén của người chiến sĩ trinh sát bất thình lình đánh hơi thấy kẻ thù và nguy cơ kháng chiến bị chúng rắp tâm làm hại. "Chắc hắn bỏ chạy trốn về với Tây rồi, chứ ỉa đái chi! Hắn giả đò đau bụng! - Em đấm tay vào đầu, đau khổ kêu lên: "Mình ngu quá? Rứa mà cứ ngồi chờ cho hắn đi ỉa xong?". Mừng vốn rất thông thạo mọi đường ngang ngõ tắt ở chiến khu. Em đoán: "Hắn chạy về với Tây thì phải chạy về phía đồn Sơn Quả là gần nhất. Cầm hèn chi hắn hay hỏi mình, đường mô về Sơn Quả là gần hơn cả. Rứa mà mình dại quá, lại bày cho hắn nữa chớ!". Em lại đấm tay bôm bốp vào đầu. - "Nhưng tau còn biết khối đường đi tắt mà mi chưa biết mô?" - Em nói to lên thành tiếng. Chạy đến trạm gác tiền tiêu phía Tây nam chiến khu, em hỏi mấy anh lính gác: - Có thấy Kim ở đội em đi ngang qua đây không? - Không? Không thấy! Có việc chi rứa? - Anh lính gác trực hỏi. - Dạ em đi tìm hắn có việc. - Em trả lời rồi chạy biến. Em sợ đứng lại kể chuyện dài dòng, thằng Kim sẽ chạy về thấu đồn mất. Chắc hắn chạy đường tắt vòng qua sau trạm gác mà có lần mình bày cho hắn, nên các anh không thấy. Ý nghĩ đó lóe ra trong óc em như chớp đạn. Em chạy thẳng đến cây bứa rừng rất cao mà em đã trèo hái quả nhiều lần. Em thoăn thoắt trèo tuổi lên chót vót ngọn cây, nhìn về phía những dãy đồi cỏ tranh và lau lách xa xa. Em thấy bóng thằng Kim chạy lúp xúp, lúc ẩn lúc hiện giữa bạt ngàn lau lách. Em tụt nhanh gần như thả mình từ ngọn cây xuống đất. Em cắm đầu lao đi với ý nghĩ: "Phải chạy theo đường tắt qua rú Quao, đón đầu hắn may ra mới kịp". Con đường tắt rú Quao tuy gần nhưng ít người dám đi lại, vì khúc núi này có con cọp thọt hay rình bắt người, trâu bò. Cọp thọt một lần mắc bẫy của người Tà Ôi nhưng thoát được nên rất tinh khôn và hết sức hung dữ. Trung đoàn đã cử những tay thiện xạ bậc nhất, rình phục cả tháng trời nhưng không giết được. Đồng bào Hoà Mỹ đồn rằng nó ăn thịt người nhiều nên đã thành tinh. Nhưng lúc này Mừng chẳng còn nhớ gì đến cọp thọt, cọp lành. Em chạy băng băng với tất cả sức lực bé bỏng của em. Nhiều lần vấp phải đá, rễ cây, ngã dúi dụi, nhưng em vùng ngay dậy chạy tiếp. Những đọt mây gai như vuốt mèo, vắt vẻo tua tủa hai bên lối mòn hoang vắng, móc vào áo quần da thịt em, như muốn lôi giữ em lại. Em không kịp đứng lại để gỡ, cứ bươn bừa tới phía trước. Bộ áo quần rách, càng rách tướp, da thịt em trên mặt, trên đôi tay chân trần gầy tóp teo bị gai móc rách xước từng đường dài, máu chảy ròng ròng. Nhiều cành gai bịt em lôi theo, bẻ gãy, treo lủng lẳng trên lưng áo, trên cái quần đùi, vá víu và dầy như mo vì quết tẩm máu mủ ghẻ cái, ghẻ ruồi lâu ngày… So với thằng Kim, sức vóc Mừng chỉ bằng một nửa, và trong tay em không một tấc vũ khí. Dù có đón đầu hắn được đi nữa, làm sao em đủ sức bắt giữ hắn lại? Cái điều đơn giản đó hầu như em không hề nghĩ tới. Đó là một nét khờ khạo ngây thơ trong tính cách chiến sĩ của em. Em chỉ nhớ là vì mình mải tham ăn miếng xôi, hớp chè, mà đến nỗi để thằng gián điệp lấy trộm bản đồ tối mật của kháng chỉến mà cấp chỉ huy giao cho mình coi giữ. Bây giờ em phải gắng hết sức đuổi theo hắn để đòi lại. Và phải gắng chạy cho thật mau để đón đầu thằng Việt gian? Đó là toàn bộ ý nghĩ của em lúc này. Mừng vừa kịp nhào ra khỏi lối mòn lau sậy ngập dầu, bắt mùi với con đường chính, thì thằng Kim cũng vừa lúp xúp chạy đến. Thằng Kim chạy được đến quãng đường này bụng hắn đã khấp khởi mừng: "Thoát rồi?". Chỉ còn khoảng hai cây số nữa là đến đồn Sơn Quả. Ở đó đã có người của "dơ bê" ở Huế lên đón hắn, như tin tức cuối cùng mà "B.15" đã chuyển cho hắn. Và tấm bản đồ bố phòng chiến khu - tiền bạc và tương lai đời hắn - đang nằm gọn trong túi áo ngực trái. Hắn vừa chạy vừa đưa tay sờ nắn cái máy ảnh tình báo cồm cộm trước ngực… - Kim! Mi là đồ con chó! Mi là thằng Việt gian! Tiếng quát giận dữ sát ngay trước mặt làm cho thằng Kim đứng khựng ngay lại như bất thẩn va phải bức tường chắn ngang, hắn trợn tròn mắt, há hốc mồm nhìn Mừng máu me đầy người, áo quần rách tưa treo lủng lẳng những cành gai mây, ánh mắt tóe lửa, sừng sững ngay trước mặt. Hắn hoang mang sững sờ tưởng chừng như Mừng vừa chui từ dưới đất lên! Hắn bất giác run rẩy vì khiếp đảm. Hắn cảm thấy mình trở nên yếu đuổi, bé nhỏ trước mặt Mừng, mặc dẩu hắn vạm vỡ to xác gấp đôi Mừng. Đầu hắn mê mụ đi vì cảm giác kinh hoàng. Hắn lắp bắp mãi mới hỏi được một câu khá ngớ ngẩn: - Mi chạy đường mô mà mau dữ rứa? - Chạy đường mô mi hỏi làm chi? Hỏi để về báo cho Tây à? - Tau không ngờ mi là thằng Việt gian! Mi đưa trả ngay tấm bản đồ chiến khu đây, không thì mi chết! - Bản đồ chi? Thì tau đã đút trả vô xà cột rồi, mi cũng thấy đó - Thằng Kim luống cuống chống chế. - Mi đừng nói láo! Tau biết hết rồi! Cái hộp đựng tiền là cái máy chụp bóng gián điệp. Mi lừa cho tau đi mua xôi chè để mi chụp bóng trộm bản đồ đem về cho Tây! Mi đang để trong bọc tê? - Mừng chỉ túi ngực áo thằng Kim, mặt giận phừng phừng. Biết không thể chối được, thằng Kim giở giọng dụ dỗ: - Mừng, hay mi đi với tau luôn thể. Về dưới Huế tau sẽ xin việc cho mi làm. Ở mãi chiến khu làm chi cho khổ. Tau thương mi nhất đội. Có tiền tau chỉ cho một mình mi ăn, tau có tiếc với mi cái chi? Đi với tau Mừng nghe! - Miệng nói, chân hắn bước tới định đưa tay ra khoác vai Mừng, kéo đi cùng về đồn giặc. Người ta nói sức mạnh tinh thần và vẻ đẹp cao cả thường toả hào quang, có thể lấn át, đè bẹp những kẻ to xác nhưng tâm hồn hèn hạ. Có lẽ điều đó có lý. Không hiểu sao thằng Kim to con gấp đôi Mừng, trong lưng có giắt súng, mà đứng trước Mừng, hắn trở nên khiếp nhược, sợ hãi, đánh rơi mất sức mạnh của mình. "Póc!". Một mảnh giấy vo tròn, Mừng bất thần ném vào mặt hắn, trúng luôn con mắt trái - rơi lăn lóc xuống đất. Đó! Tiền của mi đó! - Mừng căm giận hét lên - tiền mi đưa cho tau mua xôi chè còn dư đó. Tau không thèm mô! Mi kể công mi cho tau ăn à? Tau tưởng mi là Vệ Quốc Đoàn thì tau mới ăn. Tau mà biết mi là Việt gian thì một hột xôi tau cũng ỉa vô! Mừng thọc luôn cả bàn tay vào cổ móc họng, khạc nhổ lia lịa. Em uất giận quá. Em muốn móc họng để mửa ra những thứ hắn đã cho mình ăn, trả lại cho hắn. Nhưng em chỉ nhổ khạc ra được toàn nước miếng. Giận dữ và bất lực, em oà lên khóc. Bị đồng bạc vo viên ném trúng mắt và những lời nguyền rủa của Mừng làm cho thằng Kim vụt nổi xung. Và hắn đã tìm lại được sức mạnh của hắn. - Tổ cha mi! Tau sẽ giết chết mi! - Hắn nhào tới, nhe răng, trợn mắt, điệu bộ hung dữ như con chó bị đánh quá đau. Vẻ hung dữ của tên Việt gian mười sáu tuổi này, chắc sẽ làm cho cả người lớn cũng phải hoảng sợ. Nhưng người chiến sĩ Vệ Quốc Đoàn mười ba tuổi lại cúi xuống lượm một hòn đá nhào tới tấn công trước, Mừng vung tay cầm hòn đá, đập tận sức vào ngực áo trái của tên Việt gian "Rốp!" qua lần vắt áo kaki khá dày, nghe rõ tiếng chiếc máy ảnh chuyên dùng của điệp viên, vỡ vụn. Trong ruột máy ảnh chứa cuốn phim chụp bản đồ bố phòng chiến khu. Bàn tay cầm hòn đá của Mừng lở loét những mụn ghẻ cái, bình thường không nắm lại được. Em xán hòn đá vào ngực Kim mạnh đến nỗi các mụn ghẻ tóe máu đỏ lòm cả bàn tay và hòn đá. Thằng Kim đưa tay ôm chụp ngực kêu "ối" như bất thần trúng phát đạn. Hắn đứng sững, chết lặng người, tay bóp bóp túi áo. Trong túi lạo xạo những mảnh vụn. Tấm bản đồ bố phòng chiến khu mà hắn phải liều đổi lấy bằng mạng sống của hắn mới có được - tiền bạc và tương lai của đời hắn - chỉ một giây đã bị hoàn toàn phá nát! Cặp môi hắn tự nhiên run run, trắng ra như phấn, cả khuôn mặt tái nhợt méo mó vì tức giận - căm giận và tuyệt vọng làm hắn nổi điên? Hắn chồm tới ôm chặt lấy Mừng quật nhào xuống giữa lối mòn lổn nhổn sỏi đá. Mừng đau quá muốn chết ngất. Hắn cưỡi lên người Mừng mà đấm tát, cào cấu, miệng gầm ghè không thành tiếng, tưởng chừng ăn thịt được, hắn cũng không tha! Hắn xé toạc cái áo của Mừng, xoắn xoắn lại làm dây trói quật hai tay Mừng ra sau lưng. Hắn nghiến răng riết hết sức hai múi dây trói. Hắn đứng phắt dậy, rút khẩu Xanh-tê-chiên giắt trong cạp quần ra, bật chốt an toàn, chĩa mũi súng vào mặt Mừng đang nằm dài dưới đất, chửi: - Tổ cha mi! Đứng lên đi về đồn với tau! Mi phá nát cái bản đồ chiến khu thì tau nộp mi thay vô đó! Mi thuộc lòng hết đường cả chiến khu, mi cũng là cái bản đồ? Tau không nộp được cho Tây bản đồ chết, thì tau nộp bản đồ sống! - Ý nghĩ đó bất chợt đến với hắn, làm hắn thích thú cười gằn. Mừng nằm dài dưới đất, hai tay bị trói chặt sau lưng, em ngóc đầu cố hết sức để ngồi lên nhưng không nổi. Cái áo rách của em bị thằng Kim xé làm dây trói, trên người em chỉ còn lủng liểng cái cổ áo và mấy tua giẻ rách. Em phơi ra dưới nắng trưa chang chang cái thân hình còm nhom, da bọc xương bị ghẻ ruồi ăn không còn sót chỗ nào. Cặp mắt em hấp háy vì chói nắng. Em cố rướn mi mắt, hết nhìn nòng súng loá nắng chĩa vào mặt mình, lại nhìn cái túi áo thằng Kim lúc nãy còn cộm lên bí mật của kháng chiến bây giờ đã xép rẹp. Ánh mắt em lộ vẻ hả hê. Em nhắm chặt mắt lại, nói với giọng ngạo mạn: - Tau nằm đây, tau không đi mô hết! Tau là Vệ Quốc Đoàn, tau không đi theo ba cái đồ Việt gian! - Không đi thì tau xách đầu mi tau lôi đi! Mi chửi tau là Việt gian, chứ cha mi cũng là Việt gian hạng nặng. - Mi đừng nói láo! Cha mi là lão Năm-ngựa, ngực xăm đầy rồng rắn, tau còn lạ chi. Chừ cha mi là võ sĩ Năm-ngựa, làm quan hai mật thám, chuyên tra tấn Việt minh. Mừng mở mắt, nhìn Kim, sững sờ: - Mi nói thiệt à? - Mừng hỏi, giọng trờ nên yếu đuối run rẩy. Gương mặt lấm láp đất bụi của Mừng vụt nhăn nhúm, đau đớn như bất thần nhận một nhát dao vào chỗ hiểm. Em không yêu cha, cha đã bỏ mạ em đi lấy vợ hai. Cha đã đánh đập hành hạ mạ và lấy mất đôi bông tai vàng… Những kỷ niệm cũ về cha là những kỷ niệm xé lòng, như em đã kể với đội trưởng và Vịnh-sưa vào cái đêm ở mặt trận Huế. Nhưng dù vậy, cha vẫn là cha… em là con, em phải gánh chịu nỗi khổ, nỗi nhục. Em bật kêu to, nghẹn ngào, xé ruột: "Úi chao i, cha ơi!…". rồi em ngất đi. Thằng Kim bối rối, cúi xuống lay gọi mãi Mừng vẫn không tỉnh. Không thể đứng đây lâu hơn vì bộ đội có thể đuổi theo. Nhưng cũng không thể bỏ được tấm bản đồ sống chiến khu Hoà Mỹ. Mặc dù lúc này hắn cũng sắp ngã quỵ vì mệt, nhưng hắn cố thắng cơn mệt. Hắn giắt súng vào bụng áo, vực Mừng ngồi dậy, cõng xốc lên lưng. Hắn không ngờ Mừng có thể nhẹ đến thế như chỉ có toàn xương với da. Hắn cõng Mừng lúc đi lúc chạy, về phía đồn Sơn Quả, dưới nắng như dội lửa… 23 Việc Kim và Mừng, hai đội viên đội Thiếu niên trinh sát bỏ trốn khỏi chiến khu đã làm chấn động cả chiến khu. Nhiều người bàng hoàng, sửng sốt. Năm hôm sau, Ban Quân báo trung đoàn nhận được báo cáo của tổ chức quân báo nội thành về sự kiện Kim và Mừng. "Tôn Thất Kim là con của một viên chức cao cấp trong chính quyền bù nhìn Bảo Đại. Tên Kim bị bắt và đã xưng khai. Chính hắn đã dẫn đường cho bọn quân Ban Hành động ty An ninh mật thám Huế vây đánh chỗ trú quân bí mật của tổ quân báo ở Vĩ Dạ, bắn chết anh Đồng-râu, đem phơi xác ở Đập Đá Sau đó chúng kéo về phục kích bắt Lượm và Tư-dát ở gần cống Bao Vinh. Tên Kim được sở mật thám phòng Nhì Pháp bí mật đưa vào Thủ Đức học một lớp điệp viên ngắn ngày, rồi đưa trở lại Huế. Chúng bố trí cho tên Kim vượt tù, cướp súng, trở lại chiến khu với mục đích điều tra lực lượng quân ta và tình hình bố phòng chiến khu. Lên đến chiến khu, tên Kim đã bắt liên lạc với tên Mừng, vốn là con của tên võ sĩ Năm-ngựa, một tên mật thám ác ôn khét tiếng ở Huế. Tên đàn ông giả dạng đi mua mây là một điệp viên lợi hại được bọn giặc cử lên chiến khu để bắt liên lạc với tên Kim, nhận tài liệu, tin tức đánh cắp được. Chính tên Kim đã giúp tên này đốt cháy dây trói cướp súng và hạ sát cả tổ gác trạm tiền tiêu. Sau sự việc này hai tên Kim và Mừng sợ bị lộ, đã bỏ trốn khỏi chiến khu, chạy về đồn Sơn Quả. Vừa về đến đồn, hai tên đã được xe của sở Mật thám Phòng Nhì chở ngay về Huế…". Việc tên Kim bị bắt, đầu hàng, rồi trở thành điệp viên, mọi người không lấy làm lạ lắm. Nhưng việc Mừng lộ mặt là điệp viên của giặc, làm hầu hết mọi người ở chiến khu bàng hoàng, sửng sốt. Đội trưởng Lê Thắng được Ban Quân báo trung đoàn mời vào Xê-ca Một báo cáo lại toàn bộ những sự việc có liên quan đến tên Mừng điệp viên. Từ việc bằng cách nào nó lọt được vào hàng ngũ của Đội Thiếu niên Trinh sát hồi mặt trận Huế mới nổ súng, đến việc sau khi tên Kim lên chiến khu, hai đứa đi đâu cũng có nhau và tiêu tiền như rác… vân vân và vân vân… xâu chuỗi những sự kiện này lại, Ban Quân báo trung đoàn đi đến kết luận: tên Mừng là điệp viên được bọn mật tám Pháp khôn khéo cài vào hàng ngũ Vệ Quốc Đoàn từ ngày đầu kháng chiến, và chắc chắn nó đã cung cấp cho giặc không ít những tin tức quan trọng về lực lượng kháng chiến của ta… Nếu không có những tình huống bất ngờ vừa rồi, thì không biết quân ta còn nuôi ong tay áo đến bao giờ. Mừng vốn là đội viên ở chiến khu nhiều hơn cả, được cả khu biết tên, biết mặt. Khi nghe tin Mừng là điệp viên nằm vùng của giặc, tất cả đều phải kinh ngạc. Sực nhớ lại những việc làm, lời nói và dáng bộ con nít ngờ nghệch của nó, tất cả đều phải lắc đầu kêu lên: "Trời đất, nó đóng vai chú bé ngây thơ mới tài tình, quỷ quyệt làm sao". Nó đã qua mặt hết, lừa được hết, kể cả những cán bộ chiến sĩ từng trải, có nhiều kinh nghiệm cách mạng nhất của chiến khu. Lê Hường, trưởng ban Quân báo trung đoàn, hỏi đội trưởng Thắng: - Trong suốt quá trình chỉ huy, gần gũi nó, đồng chí có một phút nào thoáng nghi ngờ nó là gián điệp không? Đội trưởng ngồi bóp bóp trán, lắc đầu buồn bã trả lời: - Không, không hề! Tôi đã tin nó như tin vào bản thân tôi vậy. Thế mà không ngờ… Gương mặt anh hiện vẻ đau khổ sâu sắc. Nỗi đau khổ của người đã đặt toàn bộ lòng tin yêu vào một kẻ mà bất ngờ được phát hiện đó là đứa phản bội quỷ quyệt, đê tiện nhất. Lê Hường đầu gật gật, nói: - Có thể nói thằng bé này là một điệp viên bẩm sinh, một điệp viên thần đồng?
|
Chương 28: Phần Thứ Tám 1 Mồng một Tết. Trong lúc nhân dân ở thành phố, ở đồng bằng, mặc áo quần đẹp, đi lại chúc tết nhau: "Vạn sự như ý", thì các chiến sĩ tiểu đoàn mười tám xuất phát từ chiến khu Truồi, lội suối băng rừng, hành quân về phía đèo Phát Tượng - một ngọn đèo hiểm trở vùng cực nam Thừa qhiên. Ngoài súng đạn, ba lô, ruột tượng gạo rang làm lương khô, mỗi chiến sĩ được phát hai đòn bánh tét. Số bánh tét này là của nhân dân khắp các làng quê huyện Phú Lộc gởi lên chiến khu ủng hộ bộ đội vào những ngày trước Tết. Ban chỉ huy tiểu đoàn quyết định để dành toàn bộ số bánh làm lương ăn cho trận đánh phục kích tàu ở đèo Phát Tượng mà tiểu đoàn đã nghiên cứu chuẩn bị từ một tháng trước đó. Dự kiến của Ban chỉ huy, trận đánh có thể kéo dài từ một đến ba ngày. Trưa mồng bốn Tết, cả tiểu đoàn đã nằm trên trận địa phục kích, dưới mưa xuân rả rích. Mưa không nặng hạt, đúng điệu mưa xuân, nhưng phải dầm mưa suốt ngày đêm, áo quần của các chiến sĩ đều ướt sũng, nước ngấm vào da thịt lạnh thấu xương… chờ địch đã qua một ngày, một đêm, địch vẫn chưa xuất hiện. Mỗi chiến sĩ bóc đến đòn bánh tét thứ hai… Ở trung đội trợ chiến, một chiến sĩ xạ thủ súng mười hai ly bảy, bóc đòn bánh tét của mình, đòn bánh được gói rất khéo. Hai đầu đòn bánh đều nhau, tròn trịa như cải ống bương, khéo từ lá gói, đến nút lại lạt buộc. Anh chiến sĩ vừa mở lá một đầu đòn bánh, mắt bỗng trợn tròn, ngạc nhiên. Anh gọi hai người bạn cùng đang bóc bánh: - Lạ quá các cậu ơi! Trong đòn bánh tét của mình có bức thư? Bức thư được bọc cẩn thận trong mảnh lá chuối hơ lửa, viết bằng mực tím, nét chữ nắn nót nhưng xiêu vẹo của người mới biết đọc biết viết. Bức thư chắc là được bỏ thêm vào sau khi bánh đã luộc chín nên nét chữ không nhòe. Ba chiến sĩ ngồi xổm dưới công sự đào dưới lùm cây rậm, tụm đầu đọc bức thư: "Kính thưa các anh bộ đội! Dạ thưa các anh tui tên là Niệm, làm nghề bán bún bò gánh: Trước tê tui ở Bao Vinh, tui có đứa con tên là Mừng, cháu mười ba tuổi, cháu trốn tui đi theo các anh Vệ Quốc Đoàn đánh Tây ở Huê. Dạ, đời tui chỉ có một mạ một con cực khổ trần ai lắm các anh nờ. Tui gắng gỏi sông cũng chỉ vì con, mặt trận Huế bể, người trong xóm tui rủ nhau hồi cư hết, nhưng tui về mà làm chi các anh ơi, về mà lui cui lút cút một đèn, một bóng thì thà chết đường chết chợ cho xong. Tui gánh bún bán mua đắp đổi qua ngày côt để tìm con tui coi cháu còn sống hay chết, mà tìm khắp sáu huyện chẳng thấy tăm dạng con mô. Tui nghe đồn cháu theo các anh lên chiến khu, tui xin du kích uỷ ban các xã, các huyện cho tui đi theo gánh đồ đoàn tiếp tế lên chiến khu để tìm cháu mà chiến khu mô cũng nói với tui là không chộ cháu ở đây, cực thân tui lắm các anh nờ. Bữu ni nhân ngày Tết nhất! Tui gói năm đòn bánh tét mô tui cũng bỏ một phong thơ như ri, gửi lên cho các anh ở chiến khu ăn Tết, may ra các anh ăn trúng đòn bánh của tui đọc thấy thơ ni biết được con tui chừ đang ở mô thì gửi giấy về làng Thệ Chí Đông tin cho tuỉ biết với. Được như rứa tui đội ơn các anh suốt đời. Nay kính thơ Niệm" Anh chiến sĩ bóc đòn bánh tét tên là Tiến, trước đây là cu li nhà máy vôi Long Thọ. Anh mồ côi cha mẹ từ ngày mới chập chững biết đi. Hai vợ chồng người bác họ nuôi anh… Đời anh chưa bao giờ biết được thế nào là tình yêu của mẹ. Bởi vậy mà bức thư của người mẹ đi khắp các làng mạc hói hà cả tỉnh Thừa Thiên để tìm con làm anh lạ lùng lắm. Mãi đến hôm nay, hăm ba tuổi đẩu, do bức thư tình cờ tìm thấy trong đòn bánh tét anh ăn trước giờ xung trận, anh mới phát hiện ra một điều rủi ro bất hạnh lớn nhất của đời anh là không biết được tình yêu của mẹ. Và anh đã khóc. Thấy anh khóc hai người bạn trong tổ đại liên mười hai ly bảy nói: - Có rứa mà cũng khóc. Vô duyên òm? - Nhưng chính mắt hai người cũng ướt nhòe. - Mưa chi mưa ác! Thúi đất thúi đai! - Hai anh nói và quay mặt chùi vội nước mắt. Anh xạ thủ Tiến có một nhược điểm làm cả đơn vị thường xúm lại trêu chọc: Anh không nói được vần tờ. Tên anh là Tiến anh tự xưng là Yến, tiểu đoàn trưởng anh gọi là yểu đoàn ưởng, bức thư anh gọi là bức hư. Tiến bò dọc theo mép đồi, đến công sự của Ban Chỉ huy tiểu đoàn, nộp bức thư và kể lại đẩu đuôi. Chính trị viên Lê Bích đọc đi đọc lại bức thư ba lẩn. Lát sau có thêm hai chiến sĩ ở đại đội một bò đến, nộp một bức thư giống hệt bức thư Tiến nộp. Anh Tiến ngồi trên mép công sự, chằm chặp nhìn chính trị viên tiểu đoàn. Anh hỏi: - Chừ anh định răng với cái "hư ni"? - Theo ý đồng chí ta nên như thế nào? - Heo ý ui, a phải đi ìm con giúp cho chị ni. - Nếu tôi cử đồng chí đi làm nhiệm vụ này, đồng chí có đồng ý không? - Lúc mô đi! - Đi ngay bây giờ, mà chuyến đi sẽ vất vả ghê gớm đấy. Đồng chí phải đi xuyên dọc Trường Sơn, ghé qua tất cả các chiến khu từ cuối tỉnh đến đầu tỉnh. Bỏ rẻ cũng phải mất mười lăm ngày vượt núi. Tìm thấy hay không, đồng chí phải từ chiến khu Hoà Mỹ về đồng bằng, vượt phá Tam Giang qua làng Thệ Chí, tìm chị đó báo tin cho chị biết. Đồng chí có biết làng Thệ Chí không? - Có trước đây tui cũng có ra làng ni thuê thuyền chở đá vôi cho nhà máy. - Từ làng Thệ Chí, đồng chí phải đi theo đường sát biển, qua cửa Thuận An, đi cho đến núi Tuý Vân, rồi nhờ thuyền đò của bà con ngư dân vượt đầm Cầu Hai, về lại chiến khu Truồi. - Vất vả rứa chứ hơn nữa ui cũng chẳng ngại. Ui hương chị ta quá, ui muốn ngó mặt mũi chị như răng mà hương con đến nước nớ… Ui chỉ iếc là không đánh được ận ni… Chính trị viên kê tờ giấy khống chỉ lên xà cột, viết thư gửi các chiến khu: "Kính gửi các đồng chí lãnh đạo các chiến khu: Bạch Mã, Truồi, Độn Bồ, Khe Tre, Nam Đông, Binh Điền, Trạm Ba, Trò, Hoà Mỹ. Chúng tôi xin giới thiệu với các đồng chí, đồng chí Đặng Tiên là chiến sĩ tiểu đoàn mười tám, có nhiệm vụ đến chiến khu của các đồng chí để tìm một liên lạc tên là Mừng, con của người phụ nữ có bức thư mà chúng tôi gửi kèm theo đây. Kính mong các đồng chí hết sức giúp đỡ đồng chí Tiên, tìm xem trong chiến khu của các đồng chí từ trước đến nay có em liên lạc nào tên là Mừng, nếu có mà đã hy sinh rồi thì cũng báo cho đồng chí Tiên biết để đồng chí về báo với mẹ em hiện đang ở làng Thệ Chí. Chào quyết thắng. Chính trị viên tiểu đoàn mười tám. Lê Bích" Bị chú: Đồng chí Đặng Tiên của chúng tôi có một khuyêt tật là không nói được vần tờ. Bởi vậy trong lúc đồng chí Tiên trình bày, trò chuyện mong các đồng chí nắm được và thông cảm". Chính trị viên điều ở đơn vị lên thêm cho Tiến một ruột tượng gạo rang, một ống muối ruốc ớt. Và trang bị cho anh một hộp diêm, một khẩu tiểu liên và hai băng đạn, một cây dao rựa. Đúng như chính trị viên dự kiến, anh Tiến đã đi từ trận địa phục kích đến chiến khu Hoà Mỹ - chiến khu cuối cùng của Thừa Thiên - mất mười tám ngày ròng rã. Anh đã phải vượt qua hàng nghìn dốc núi, lội qua hàng trăm con suối cạn, suối sâu năm lần chạm trán với cọp, voi, bò tót, lợn lòi, trăn thì không ngày nào không gặp. Anh đã ghé lại tất cả các chiến khu đã ghi trong thư. Đến chiến khu nào, các đồng chí lãnh đạo cũng cho biết, cách đây tám tháng, sáu tháng, năm tháng, ba tháng… có một chị tên là Niệm trong đoàn dân quân từ đồng bằng gánh gạo, muối, tiếp tế chiến khu, hỏi thăm đứa con trai của chị tên là Mừng, mười ba tuổi, trốn nhà đi Vệ Quốc Đoàn từ ngày mặt trận Huế nổ súng. Bởi vậy, làm sao có thể tả hết nỗi đau đớn thất vọng của người Vệ Quốc Quân có tâm hồn hiệp sĩ này khi ra đến chiến khu Hoà Mỹ, được tin là chú bé liên lạc mà anh phải mất mười tám ngày trời băng rừng vượt núi, nhiều lần suýt làm mồi thú dữ, để tìm kiếm, lại là một tên gián điệp ranh ma, xảo quyệt, vô cùng lợi hại. Và cách đây chưa lâu, hắn đã cùng với một tên gián điệp khác, đánh cắp bí mật của kháng chiến trốn khỏi chiến khu chạy về đồn giặc. Cặp mắt anh vụt đỏ kè. Anh bặm môi, nghiến răng kêu lên dữ tợn: - Hằng yên ni hề có ời đất, ui mà còn sống, nhất định có ngày ìm được cái hằng con ranh con lộn đó, ui nghiền nát đầu hắn ra như nghiền con rận! Nhưng anh còn một nhiệm vụ nữa là phải tìm về làng Thệ Chí để báo tin cho người mẹ tìm con bất hạnh. Anh cảm thấy nhiệm vụ này còn khó khăn khủng khiếp hơn cả nhiệm vụ báo tử. Anh thật sự hoảng sợ đến toát mồ hôi hột mỗi lần nghĩ đến nó. "Ui chao ôi, mới mười ba uổi mà hắn đã là một tên gián điệp lợi hại, ranh ma, quỷ quyệt hì không biết hắn học cái nghề bán nước đó ừ khi mô?" Anh cứ rên rỉ hoài như vậy trong suốt mấy ngày liền nấn ná ở chiến khu Hoà Mỹ. Trong mấy ngày đó anh Tiến cứ ở với đội Thiếu niên Trinh sát. Các em bây giờ đã tập trung hết về đội. Sau một đợt học tập chuyên môn chính trị ngắn ngày, các em được phân công phụ trách các đài quan sát của chiến khu. Nhiệm vụ bám địch ở đồng bằng giao lại cho các anh lớn mới được trung đoàn bổ sung về đội. Do đó đội bây giờ được đổi tên là Đội Trinh sát của trung đoàn. Anh Tiến hỏi chuyện các em về "cái thằng Mừng Việt gian" tính nết thường ngày, mặt mũi hắn như răng? Nghe các em kể nó thân nhất với thằng Nghi liên lạc của trung đoàn bộ, anh vô Xê-ca một tìm gặp Nghi hỏi chuyện. Em Nghi kể cho anh nghe chuyện cái đêm em đèo ngựa đưa Mừng về thăm mạ ở làng Phò. "Về đến ngõ hắn lại nhờ em vô nhà nhắn tin với mạ, còn hắn thì đứng nép ngoài hàng rào ngó vô mà khóc. Hắn sợ mạ đập đầu xuống đất mà kêu la không cho hắn đi Vệ Quốc Đoàn nữa". Anh Tiến ngạc nhiên nói: "Rứa hắn là đứa bụng dạ không đến nỗi mô hè?". Nhưng ngẫm nghĩ một lúc, anh nói tiếp: "Đã mang thân đi làm Việt gian bán nước chắc chi hắn thật bụng? Hắn làm rứa cất để che mắt thế gian". Và anh bỗng phát hiện ra một điều mới mẻ. "Chưa chừng cả con mạ hắn là Việt gian cũng nên, cha Việt gian, con Việt gian, thì mạ Việt gian là cái chắc! Thôi, đúng rồi con mạ hắn giả dạng xin đi tiếp tế lên chiến khu là cốt để dò la tin tức chiến khu về báo cho Tây chứ tìm con tìm kiếc cóc chó chi! Việc sờ sờ ra rứa mà mình không nghĩ ra, đúng là mình ngu hết chỗ nói". Đang từ thương xót, cảm phục, anh chiến sĩ có tâm hồn hiệp sĩ, phút chốc đùng đùng nổi giận. Anh càng tiếc cay tiếc đắng cái công mười tám ngày đêm băng ngàn lội suối đi tìm con giúp cho cả cái nòi Việt gian! Rồi anh quyết định phải cấp tốc trở lại con đường cũ, báo ngay với các chiến khu biết để đề phòng con mụ Việt gian giả đò tìm con. Và ngay trưa hôm đó, anh đeo ruột tượng lương khô vào lưng, khoác khẩu tiểu liên, xăm xăm trở về chiến khu Truồi, theo con đường rừng vô cùng gian khổ và nguy hiểm. Một buổi sáng tinh mơ mùa hè năm 1948. Chiến khu Hoà Mỹ vừa mới thức giấc. Núi rừng, cây cỏ, sông Ô Lâu còn phủ kín trong màn sương trắng đục. Một chú bé không biết từ phía nào lại chui ra khỏi con đường lau lách, bước vào trạm gác tiền tiêu phía tây nam chiến khu. Chú bé độ cái mũ bêrê màu rượu chát còn mới tinh kéo sụp che gần kín trán, mặc bộ áo quần kaki màu xanh lá cây, chân đi dép da. Cả người chú ướt đẫm sương. Chắc chú phải đi bộ cả đêm, lội qua nhiều khe suối, băng qua nhiều đám bùn lầy nên hai ống quần ướt đến bẹn, trát đầy bùn, dính bết vào bắp chân. Gương mặt chú hốc hác, cặp mắt thâm quầng, bước đi lảo đảo kiệt sức. Chú bé chào anh lính gác đang còn ngái ngủ: - Anh ạ… - Chú ở mô và mô đây sớm rứa? - Anh không nhìn ra em à? Em thằng Mừng ở đội Thiếu niên Trinh sát đây mà. Anh lính gác như không còn tin vào mắt mình nữa, bước đến nhìn sát vào tận mặt chú bé, kêu: - Đúng ìà mi rồi? Mi còn dám vác mặt mo lên đây à? Chứ mi ở mô mò lên đây? - Dạ, dưới đồn Sơn Quả. Em trốn khỏi đồn từ chiều bữa qua… Nghe tiếng chộn rộn trước sân, cả tổ gác trạm gác tiền tiêu bước ra đứng vây quanh chú bé. Họ đều nhận ra đúng là Mừng, tên gián điệp ranh ma, xảo quyệt, cách đây ba tháng đã cùng với tên Kim điệp viên lợi hại trốn khỏi chiến khu. Họ có thể tưởng tượng đủ mọi điều, nhưng việc Mừng dám trở lại chiến khu và ngang nhiên khai rằng từ đồn giặc đến đây, thì ngoài sức tưởng tượng của họ. Anh tổ trưởng thốt lên: - Thằng ni gớm thật? - Mi là thằng gan già! Gương mặt mệt mỏi của Mừng vụt tươi lên. Em tưởng đó là lời khen. - Dạ… em phải chạy gần suốt cả đêm, mà phải toàn lủi trong bụi rậm. Em mệt quá, các anh cho em về lán ngủ một giấc rồi chút nữa em về đội. - Mừng nói, cặp mắt ríu lại, xắm nắm định bước vô lán. - Ngủ à? - Anh tổ trưởng quắc mắc giận dữ. - Trói cổ nó lại! Mừng đứng khựng lại, vẻ mặt ngơ ngác nhìn anh: - Em làm chi mà trói em? - Làm Việt gian gián điệp chớ còn làm chi? Anh tổ trưởng bước tới, như sắp tát em. Em bước thụt lùi hốt hoảng đưa tay lên đỡ mặt. Và lúc này em như vụt hiểu ra không phải các anh tổ trạm gác đùa vui với em như mọi lần. Em rơm rớm nước mắt nói: - Thằng Kim mới Việt gian chứ em đời mô…? - Không nói lôi thôi! Trói cổ nó lại! Đồng chí Tánh. - Anh tổ trưởng gọi một trong ba chiến sĩ tổ gác - Vô Xê-ca Một báo ngay cho ban Quân báo trung đoàn ra giải quyết. Lấy sợi dây điện thoại ra đây. Phải rút kinh nghiệm xương máu, không được trói tụi ni bằng dây dừa. - Ồ, thằng Kim vấn thuốc châm lửa giúp thằng gián điệp chớ có phải em mô… - Bay cùng một duộc cả! Mới rãy mũi đã làm Việt gian bán nước. Tụi ni phải đem bắn quách, để sống làm chi cho nhớp đất? Anh tổ trưởng hằm hằm nói, chụp hai cánh tay Mừng bẻ quặp ra phía sau lưng, dùng sợi dây điện thoại trói em giật cánh khuỷu. Trói xong, không nén nổi giận dữ, xô em một cái, em ngã chúi mặt cạnh chân cột lán. Từ trong bụng em văng ra một khẩu súng lục "côn mười hai", nước thép xanh biếc. Anh nhảy tới chộp lấy khẩu súng như sợ em nhanh tay chộp mất. Anh cầm khẩu súng, bàn tay rung rung như khẩu súng quá nặng, lật đi lật lại ngắm nghía. Gương mặt anh méo mó vì tức giận. Anh chìa khẩu súng ra trước mặt Mừng, chửi: - Tổ cha mi! Rứa cái chi đây? Mi còn chối nữa hay thôi? - Thằng ni gớm thật! Anh lính gác nhìn nó với ánh mắt dễ sợ - Không trói hắn nhanh chắc hắn đã cho cả tụi mình ăn đạn! Anh tổ trưởng bấm chốt kéo "sác-giơ" ra. Sác-giơ đầy đạn vàng chóe. Mừng ngồi co rúm nép sát chân cột, nhìn các anh với cặp mắt ngơ ngác, thất thần, Em nói, môi run run: - Khẩu súng nớ em lấy cắp của cha em… em định giấu mang về cho đội trưởng… Em… em… - giọng em bỗng nghẹn tắc. Em nhìn hết anh tổ trưởng đến mấy anh trong tổ gác. Em vụt hiểu ra, không một ai tin lời em hết. Em bật oà khóc. Em ngọ nguậy cánh tay định đưa lên cùi nước mắt và em nhớ ra hai tay mình đã bị trói. Nước mắt giàn giụa, lã chã, tắm hai gò má, trôi xuống miệng, xuống cằm, giọt giọt xuống đất. và lúc đó phía ngoài đường có nhiều tiếng chân chạy, tiếng hỏi chộn rộn, xôn xao: - Mô? Mô? Thằng Việt gian mô rồi? Mừng nhận ra giọng nói quen thuộc của các bạn. Gần đủ mặt các bạn trong đội tràn vô sân trạm gác. Thì ra anh Tánh trên đường chạy vô Xê-ca Một, báo cáo với ban Quân báo trung đoàn, gặp các em đang rầm rập chạy ra sông Ô Lâu rửa mặt. Anh liền gọi các em. - Các em ơi! Thằng Mừng lại mò lên chiến khu! - Anh nói giỡn chi rứa? - Thì các anh đã tóm cổ hắn trói ngoài trạm gác tề?… - Ui chao! Chuyện chi hiện nguỵ! Ta ra coi đi. - Các em xôn xao kêu lên và chạy luôn ra trạm gác. Gặp lại các bạn Mừng thổn thức nói: - Các cậu ơi anh Du, anh Đoàn, anh Châu… nói giúp cho tui với. Tui không phải là Việt gian… các anh ni nghi tui… Có lẽ em tin rằng các bạn sẽ xúm lại bênh em, cởi trói cho em. Nhưng các bạn đứng túm tụm giữa sân, nhìn nó như chưa hề quen biết nó bao giờ. Nhiều em nhổ nước bọt, kêu lên, giọng ghê tởm, khinh bỉ: - Nghi cứt chi nữa? - Việt gian rành rành còn giả đò khóc? - Mần Việt gian có khác? Bê-rê tề, áo quần kaki tề, xăng- đan tề?… Ngó mà gớm ghiếc! - Trong người hắn lại giắt cả súng lục mới keng đây các chú nì! - Anh tổ trưởng đưa khẩu "côn mười hai" cho cả đội coi. - Hắn mà gặp tụi mình giữa đường chắc hắn nổ cho tụi mình mỗi đứa một phát vô giữa đẩu! - Nì! Mi ngửi cứt Tây có thơm không mi? Hoà-đen hát rống lên bài "Mắng Việt gian": "Mi nghe chăng hỡi ai mê mùi phú quý quên non sông" - Rứa mà thằng Quỳnh còn viết cả nhạc kịch để khen hắn nữa chớ? Thằng Quỳnh mà biết chuyện ni, chắc hắn phải chết thêm lần nữa? - Đồ chó? - Châu-sém bước đến đứng sát trước mặt Mừng chửi với ánh nhìn tóe lửa. Rồi thuận tay, Châu-sém chụp cái mũ bê-rê trên đầu Mừng quăng xuống đấy, lấy chân chà lên. - Mi đi mần Việt gian cho sướng cái thân mi, mà để lây tiếng xấu cho cả đội! - Nó nhổ cả một bãi nước bọt to tướng trúng bẹt giữa khuôn mặt đầm đìa nước mắt của Mừng. Bồng-da-rắn cũng bước đến đứng cạnh Châu-sém, nhìn Mừng chăm chăm. Ánh mắt em không giận dữ khinh bỉ như các bạn, mà lộ vẻ đau đớn, buồn bã đến xé lòng. Trước những lời nguyền rủa của các bạn, gương mặt Mừng tái nhợt như xác chết. Em ngước nhìn Bồng, ánh mắt van lơn, cầu khẩn. Ánh mắt con chim non bị người ta vặn cổ, sắp chết. - Anh Bồng, anh nói giúp cho tui với, - Mừng lắp bắp nói qua nước mắt. - Anh ngửi được mùi Việt gian, mùi Vệ Quốc Đoàn mà… Anh nói giúp cho tui với… Bồng không nói gì, vẻ mặt lầm ìì, nhìn hai cánh tay Mừng bị trói chặt bằng dây điện thoại, hai bàn tay bị tụ máu đỏ lên. Nó nói với anh tổ trưởng trạm gác: - Anh trói hắn chặt quá. Nới bớt cho hắn một chút… - Chú mi thương hắn à? Phải trói chặt hơn nữa tê? Trói lỏng để cho hắn chồm lên giật súng bắn chết anh ẻm mình, như cái thằng cha mua mây dạo nọ? - Anh tổ trưởng nhìn Bồng với cặp mắt chê trách nói tiếp. - Rứa mà trung đoàn lại thông báo tuyên dương chú mi là có tinh thần cảnh giác cách mạng cao? Bồng không trả lời anh, lẳng lặng bỏ đi ra ngoài đường. 2 Mừng được cởi trói, ngồi trước cái bàn mặt nứa ở gian ngoài trạm gác. Lê Hường, Trưởng ban Quân báo trung đoàn, ngồi bên kia bàn, đối diện với em. Cuốn sổ tay và cây bút máy Parke gác trên sổ, đặt trước mặt anh. Anh nói, giọng nghiêm khắc: - Chú mày phải khai rõ ràng, khai hết, khai cho thật. Nếu khai thành thật, chú mày sẽ được hưởng lượng khoan hồng. Nếu đối trá, quanh co, phải trả giá đắt đó. Chú mày có biết kỷ luật thời chiến đối với bọn Việt gian gián điệp là thế nào không? Xử bắn? - Anh dằn giọng, đầy hăm doạ. Rõ ràng, giọng của anh Trưởng ban Quân báo nói với Mừng không còn là giọng anh chỉ huy nói chuyện với chú em liên lạc, mà giọng một cán bộ nghiệp vụ đang lấy cung kẻ thù. Mừng lúc này đã hiểu rõ điều đó. Cả người em run rẩy đau đớn, gương mặt mệt lả, tuyệt vọng. Thấy em vẫn ngồi lặng lẽ khóc, anh hỏi: - Trước hết, chú mày phải nói cho tôi biết chú mày là người của cơ quan mật thám nào? Đơ-bê? Xuya-rơ-tê Phê-đe-ran? Hay Ty An ninh? - D ạ… em là Vệ Quốc Đoàn… em không biết chi hết… Mừng ngước gương mặt tắm nước mắt mà em chẳng buồn lau, nhìn lên Hường… Cách đây chưa lâu, mỗi lần chạy liên lạc vô Xê-ca Một, qua lán của ban Quân báo, anh Lê Hường thường ngoắc gọi em vào hỏi em: - Bữa ni em có việc chi phải vô Xê-ca Năm không? Xê-ca Năm là đóng xưởng bào chế thuốc. Từ Xê-ca Một vô Xê-ca Năm phải trèo qua ba dốc núi. Mặc dầu không phải có việc chi vô đó nhưng em biết anh Hường cần gì, nên em vui vẻ nói: "Có em cũng có công văn chạy vô xưởng bào chế" - "Rứa thì nhờ em tiện thể đưa giúp cái nỉ cho chị Tịnh Nhơn". Anh móc túi áo lấy ra phong thư dán kỹ, trao cho Mừng. Anh cười, mặt hơi đỏ lên, dặn thêm: "Em nhớ đưa riêng cho chị Nhơn thôi nghe… Có mặt các chị khác thì đừng đưa…". "Em biết rồi! Em biết rồi!…". Mừng nhanh nhảu nói, cầm lấy phong thư dầy cộm, chạy đi. Chị Tịnh Nhơn đẹp nhất xưởng bào chế. Hai má chị bầu bầu, lúc nào cũng đỏ hây hây như có bôi giấy hương. Mừng biết anh Hường và chị Nhơn thương nhau… Lần mô mang thư vô cho chị, chị cũng có thư gửi ra cho anh: "Nhờ em đưa giúp chị…". Em còn biết đưa loại thư này không giống như đưa giấy tờ công văn. Cầm công văn lỡ bị làm nhớp một chút cũng không can chi. Mà tay em lúc nào cũng kềnh càng đầy ghẻ; cầm không khéo, máu mủ ghẻ dính vô phong bì ngay. Bởi vậy, thư của hai người bao giờ em cũng cẩn thận bọc trong ngọn lá vả rừng hoặc ngọn lá nón, để giữ cho phong bì được sạch. Có lần chị Nhơn hỏi: "Tại răng lúc mô cũng thấy em gói thư vô ngọn lá như gói cái bánh rứa?" - "Em sợ tay em làm nhớp mất cái thư quý của chị" - Mừng chìa hai bàn tay chi chít những nốt ghẻ cái cương mủ xanh lè, và nhiều nất lở loét chảy máu. Cặp mắt đen lay láy và trong vắt như nước suối của chị mở to nhìn em không chớp, và tự dưng láng láng nước mắt. Thấy chị khóc, em lúng túng, lo lắng, vội vã chạy xuơng dốc núi: "Em phải về không sợ đi lâu đội trưởng la". Chừ thì anh Hường ngồi đó, hỏi em với cái giọng như chưa hề quen em khi mô. Anh không gọi em là em như mọi khi mà gọi là chú mày. "Chắc anh nghi mình là Việt gian anh mới gọi rứa. Chừ mà chị Nhơn gặp mình, chị cũng gọi mình là "chú mày" như anh Hường… Ai người ta còn thèm tử tế với cái đồ Việt gian?". Ý nghĩ đó làm em bật khóc to nức nở. Anh Hường vỗ bàn làm cuốn sổ và cây bút nhảy lên như bị kiến nhéo: - Chú mày khai đi! Không phải khóc, mất thì giờ! - Dạ, em chẳng biết chuyện chi mà khai… Tại vì thằng Kim… em cứ tưởng hắn là Vệ Quốc Đoàn, có ngờ mô hắn là Việt gian. Bữa đó hắn kêu đau bụng. Đội trưởng xuống sông giặt áo quần, bao tải cho cả đội, giao em ở nhà coi nhà. Hắn nhờ em ra quán o Liên mua xôi chè. Em mà biết hắn là Việt gian đời mô em đi… có thèm xôi chè đến chết em cũng không đi. Rứa mà em dại quá, em lại bỏ nhà em đi, để hắn ở nhà một chắc. Em mua xôi về, chè chưa chín… Lê Hường cau trán, anh vụt nhớ chi tiết này: trên sạp nứa nằm lăn lóc gói xôi đỗ đen khá to, anh Thắng đã cầm ném ra bụi rậm vì sợ trong xôi có bỏ thuốc độc. -… Em thấy thằng Kim đang ở trong buồng, coi tấm bản đồ bố phòng chiến khu. Em tức quá, la hắn: "Răng anh dám lục bản đồ mật của đội trưởng ra coi?". Hắn nói: "Tau coi nhờ đường vô bệnh viện, để chiều tau xin đi chữa bệnh". Cơi chi mà biết hắn là Việt gian thì em đã chạy xuống sông báo cho đội trưởng… Em thấy trên bàn có cái hộp chi đen đen mà có mặt gương ở giữa, em cầm lên coi, hỏi hắn: "Hộp chi mà đẹp ri?" - Hắn giật lại, nói là hộp đựng tiền, rồi bỏ mau vô bọc cài nút lại. Hắn ôm bụng kêu đau bụng, nói em cứ ăn xôi trước, hắn vô ăn sau. Rồi hắn chạy ra nhà tiêu. Em ngồi chờ hắn vô, em nghĩ… Em nhớ có lần đội trưởng kể: Tụi Việt gian hay dùng máy chụp bóng nhỏ như cái bao diêm để chụp trộm tài liệu bí mật của kháng chiến… Rứa là em sợ quá, em nghĩ: "Hay cái hộp đựng tiền nớ là cái máy chụp bóng, hắn dùng chụp trộm bản đồ bố phóng chiến khu?". Em liền chạy ra cầu tiêu tìm hắn, nhưng hắn đã chạy mất rồi. Cơi chi em biết hắn là Việt gian thì em đã giữ chặt cái máy đó, không cho hắn giựt lại. Em chạy đuổi theo hắn để bắt giữ hắn lại. Em trèo lên ngọn cây bứa, ngó về phía dồn Sơn Quả, thấy bóng hắn chạy lúp xúp đằng xa. Em liền chạy vòng đường tắt qua rú Quao, đón đầu hắn. Em chặn được hắn lại. Em đòi lại cái máy chụp bóng bắt hắn quay lui. Hắn xông vô đập em. Em chụp hòn đá, nhè túi áo hắn có đựng máy chụp bóng, em xán thật mạnh. Cái máy bể tan. Hắn vật em xuống đất, xé áo em làm dây trói em lại rồi đập em tràn cả máu mũi, máu miệng. Hắn rút khẩu súng lục dắt trong lưng quần ra, chỉ vô mặt em, bắt em phải đi theo hắn về đồn Sơn Quả. Em nằm dài ra giữa đường, giả đò đau quá không đi được. Rứa là hắn cõng em một mạch chạy về đồn Sơn Quả. Em ở lại với hắn trong đồn một đêm, nằm chung lộn với mấy thằng Bảo vệ quân. Sáng hôm sau có chiếc xe Jeep thằng Tây đen cầm máy, chở em với hắn thẳng về Huế, đến một nhà có rất nhiều lính Tây. Hắn đi vô nhà đó tự nhiên như đi vô nhà hắn. Hắn nói tiếng Tây xì xồ với tụi Tây. Rồi hắn ở lại đó luôn, còn em tụi hắn đem giam vô lao Toà Khâm, nhốt em vô cái nhà nhỏ tối câm. Em ở đó được hai ngày thì cha em đến đón em. Cha em mặc đồ Tây, đeo lon quan hai, bên hông đeo khẩu súng lục ni. - Mừng chỉ khẩu súng "côn mười hai" để trên bàn. - Tay cầm roi [bad word] bò ngúc ngoắc, ngúc ngoắc. cha em dắt em ra ngồi trên xe Jeep, vặn lái chở em về nhà riêng Phú Cam. Trong nhà có dì ghẻ em. Dì ghẻ em theo đạo, trên cổ có đeo cái thập ác với dây chuyền vàng. Trên bàn thờ có ông Chúa đứng dang tay chéo chân, với người đàn bà bồng con nít. Cha em ăn cơm thịt bò, thịt gà, ra phố mua cho em mũ dép, mấy bộ quần áo, rồi chở đi nhà thương bôi thuốc cho lành ghẻ. Cha em nói: "Con đi theo Việt Minh làm chi cho khổ, ghẻ đầy người, chỉ còn da bọc xương. Ở đây với cha, với dì ít lâu, ăn uống tẩm bổ cho lại người, chữa cho lành bệnh, rồi cha xin việc cho mà làm". Em nói: "Con nhỏ ri biết làm việc chi?" - Cha em nói: "Rứa mà Tây họ đang cần con đó. Con mà biết nghe họ, làm việc cho họ thì con muốn chi được nấy". Em hỏi: "Cha có biết chừ mạ con ở mô không?" - Cha em nói:
|
"Mạ con bị Tây bắn chết ngoài Phò Trạch rồi" - Mừng trở sống bàn tay quệt nước mắt, nức nở hồi lâu rồi kể tiếp: "Em ở nhà cha em được hơn mười ngày, cha em chở em đến chỗ cha em làm việc. Một cái nhà lầu ba tầng, có rất nhiều Tây, nhiều Việt gian đi đi lại lại. Cha em đưa em vô một gian buồng rất rộng trên vách có treo tấm bản đồ chiến khu mình, nhưng to bằng cả chiếc chiếu. Trong buồng có mấy thằng Tây, mấy thằng Việt gian xì xồ nói tiếng Tây, hút thuốc. Cha em cầm cái que gỗ tròn, dài hơn mét, chỉ lên bản đồ nói: "Con chỉ cho các quan Tây coi chỗ mô tụi Việt minh trên Hoà Mỹ đóng các cơ quan như trung đoàn bộ, tỉnh uỷ, uỷ ban tỉnh, công binh xưởng, kho đạn, kho lúa gạo, chỗ mô bố trí các ụ súng bắn máy bay, đường mô có gài mìn. Con mà chỉ trúng, các quan Tây sẽ thưởng cho con nhiều áơ quần đẹp, nhiều tiền tha hồ mà tiêu xài". Em ngó tấm bản đồ, giả đò như không biết, hỏi cha em: "Cái tờ giấy to đại chang ni là cái chi rứa cha?". Mấy thằng Tây, Việt gian kêu ồ ồ. Cha em quạu mặt nói: "Thằng Kim nói mi đọc bản đồ làu làu, mi đừng có làm bộ giả đui, giả điếc? Mi mà không chỉ thì các quan đây xách cổ mi đi bắn, cha cũng không xin được mô". Một thằng Việt gian đeo gương mát hỏi em: "Em đã nhìn thấy cái bản đồ giống như thế này bao giờ chưa?". Em nói: "Dạ có, em có nhìn thấy, cấp chỉ huy em cũng có một cái giống như ri, nhưng nhỏ chỉ bằng tờ báo, mà vẽ cũng không được khéo như ri. Hắn nói: "Theo lời thằng Kim thì chú mình đọc bản đồ giỏi như một sĩ quan tham mưu". Em nói: "Anh Kim nói chọc em chớ em ở trên chiến khu mới học i tờ tờ i ti, em làm răng đọc được cái bản đồ to mà chữ nhiều bắt loạn ri". Hắn xách tai em hỏi: "Rứa thì em ở trên đó Việt minh sai làm những việc chi?" - "Dạ, em chạy liên lạc, đưa công văn giấy má đến các cơ quan". - "Rứa chắc chú mi phải thuộc hết đường trong chiến khu?" - Em nói: "Dạ, đường thì tui thuộc, chạy liên lạc mà không thuộc đường, lạc bậy vô giữa rú, cọp hắn tha mất xác". Em cứ nói huyên thuyên rứa mà coi bộ cả tụi hắn cũng tin. Rứa là tụi hắn với cha em nói tiếng Tây xì xồ với nhau, rồi cha em nói với em: "Thôi đi về". Cha em vặn xe, chở em về nhà. Em ở nhà chơi không đến có hai tháng, nhiều lần em muốn trốn lên chiến khu, nhưng em không thuộc đường, sợ đi lạc bậy vô đồn Tây thì chết. Rứa rồi cách đây năm ngày, cha em với mấy thằng Việt gian chở em lên đồn Sơn Quả. Cha em nói: "Tây họ sắp sửa đánh lên chiến khu, bắt sống hết tụi Việt minh ẩn núp trên đó, đem về bắn cho dân Huế coi chơi. Con ở đây đợi lúc quân đội họ tấn công lên, thì họ gọi con đi dẫn đường. Con phải dắt chỉ cho họ những chỗ tụi Việt minh đầu sỏ ẩn núp, các chỗ để súng đạn, lúa gạo… Họ mà bắt trúng, họ sẽ thưởng cho con tiền ngàn, tiền vạn". Em giả đò mừng rỡ nói: "Dạ, tưởng việc chi, việc dắt đường thì con làm được. Con sẽ dắt họ đi khắp chiến khu để họ tha hồ mà bắt Việt minh". Ở đồn Sơn Quả, ngày mô em cũng đi ra đi vô cổng đồn cho tụi lính gác quen mặt em. Trưa hôm qua, cha em uống rượu với thằng đồn trưởng say mềm. Em chờ cho cha em ngủ say, em mở bao da lấy khẩu súng lục giắt vào lưng, rồi đi ra cổng đồn, thằng lính gác hỏi đi mô, em nói đi hái sim chín. Trước cống đồn có một vạt đồi sim chín rụng đầy đất, thằng gác nói: "Hái nhiều nhiều đem về cho anh ăn với nghe!". Em dạ. Em lũi vô giữa bãi sim, qua hết bãi sim đến đồi tranh. Em nhắm thẳng hướng chỉến khu em lũi. Em chạy gần thấu trạm gác thì trời đã tối được một lúc lâủ nhưng em không dám vô, em sợ các anh gác tưởng em là Việt gian, các anh bắn. Em chui vô giữa bụi lau rậm, ngồi núp ở đó cho tới sáng em mới vô. Đầu đuôi có rứa thôi anh nờ… Gần ba mươi năm sau, tôi đến thăm đại tá về hưu Lê Hường, ở khu nhà tập thể bộ đội. Bên ly rượu hội ngộ, chúng tôi cùng nhắc lại những kỷ niệm một thời tráng lệ cách mạng. Tôi ngỏ ý muốn viết lại câu chuyện về Mừng, người đồng đội tuổi thơ của tôi. Lê Hường bỗng đứng dậy mở tủ, lục lọi một hồì lâu. Anh lôi ra cuốn sổ tay dầy khoảng trăm trang. Cuốn sổ đã long bìa, các trang giấy kẻ ca-rô ố vàng như những chiếc lá rụng, nhưng chữ viết còn khá rô vì được viết bằng thứ mực xanh đen Oa-téc-men. Từ những trang giấy ố vàng tôi ngửi thấy mùi cũ xưa, mùi kỷ niệm. Anh chìa cuốn sổ ra trước mặt tôi, bàn tay cầm cuốn sổ run run: "Đây là bản ghi tốc ký lời cung khai của Mừng hôm đó. Mấy chục năm qua tôi đã đánh mất đi nhiều thứ quý giá, nhưng không hiểu sao cuốn sổ này tôi vẫn còn giữ được. Nghĩ cho cùng cũng có lý do của nó. Đã từ lâu tôi cũng mơ ước viết một cái gì đó về nhưng người đồng đội nhỏ tuổi, quá ngây thơ, quá trong sạch này. Và tôi cũng đã thử bắt tay viết một hai lần… nhưng lần nào tôi cũng bỏ dở. Bây giờ thì tôi hiểu rằng, tôi thiếu mất cái chủ yếu để thực hiện điều mơ ước. Tôi không có tài năng, nếu cậu định viết về Mừng, tôi xin tặng cậu bản ghi tốc ký này, làm tư liệu.". Đại tá Hường cẩn thận xé sáu trang sổ tay dày đặc những chữ tốc ký, trao cho tôi. Anh hỏi: "Cậu có đọc được chữ tốc ký không?" - "Tôi chưa biết đọc, nhưng tôi sẽ học. Tôi tin là cũng không khó lắm". Và đoạn văn trên là tôi dịch lại gần như nguyên văn bản tốc ký của đại tá Lê Hường, lời cung khai của Mừng buổi sáng hôm đó. Mừng kể lại một mạch, em chỉ dừng lại khi phải chùi nước mắt, và nuốt tiếng nấc nghẹn. Từ giọng kể, gương mặt và những giọt nước mắt ngắn dài chảy tràn trên hai gò má trẻ thơ của em có cái gì thật đến nỗi Lê Hường thoáng có ý nghĩ: "Hay đúng là nó bị nghi oan?". Nhưng anh đã vội gạt ngay ý nghĩ đó. Anh còn trẻ quá, mới tròn hai mươi bốn tuổi. Trong công tác chuyên môn của anh, anh đã phải nhiều lần chạm trán và phải thường trực đối phó với những âm mưu vô cùng xảo trá, lắt léo của một kẻ thù hiểm độc, già dặn. Những âm mưu đó thường được che bọc bằng lừa lọc, giả trá và hơn một lần đã cho anh những bài học bằng máu, như trường hợp cái tên đàn ông giả dạng đi mua mây. Anh là người phải chịu trách nhiệm chính trong vụ này. Do đó mà anh phải luôn luôn cảnh giác với chính tình cảm và suy đoán của anh. Anh lo lắng mình bị vấp phải sai lầm mới. Sự chân thật của Mừng đã không chọc thủng nổi lớp áo giáp phòng ngự của anh, mà năm tháng, lớp áo giáp ấy được kinh nghiệm xương máu đan dệt dày mãi lên. Mừng kể xong. Lê Hường còn lục vấn thêm nhiều chi tiết khác. Cuối cùng anh ngồi im lặng nhìn Mừng rất lâu. Ánh mắt sắc và sáng lạnh của anh như muốn xuyên suốt qua người em. Ánh nói, mắt không rời gương mặt Mừng: - Tôi đã gặp không ít những điệp viên nhà nghề, có hạng. Nhưng chú mi mới là tên điệp viên sừng sỏ, tinh quái nhất. Những âm mưu hiểm độc nguy hại cho kháng chiến lại được giấu trong cái vỏ bọc ngây thơ, ngờ nghệch của con nít, thì tôi chưa gặp bao giờ. Tôi cho chú mi hai ngày để suy nghĩ, rồi chú mi phải trả lời thật rõ ràng: "Bọn Pháp giao cho chú mi nhiệm vụ gì trong việc mò lên chiến khu lần này?". Nếu chú mi ngoan cố, nhất định sẽ bị trừng phạt theo đúng kỷ luật của thời chiến. Thật ra, về sau này, Lê Hường mới biết, ngay cả hai tiếng điệp viên Mừng không rõ nghĩa. Em chỉ đoán lờ mờ rằng đó là một tiếng xấu xa lắm, tương tự như tiếng Việt gian. Nên Mừng chỉ khóc. Và Lê Hường cho rằng đó là những giọt nước mắt giả dối của một điệp viên bẩm sinh, điệp viên thần đồng. Lê Hường viết lệnh tống giam Mừng. Anh giao Mừng cho một chiến sĩ ở trạm gác tiền tiêu, cầm súng áp giải vào Xê-ca Sáu nơi có trại giam những binh sĩ phạm tội chờ ngày đưa ra toà án quân sự xét xử. Ba ngày sau, đúng vào buổi sáng Lê Hường sửa soạn vào xê-ca Sáu để lấy khẩu cung Mừng lần thứ hai, bọn Pháp mở trận tấn công quy mô lên chiến khu Hoà Mỹ. Giặc Pháp đã tính toán khá chính xác và xảo quyệt. Chúng tấn công Hoà Mỹ đúng vào trưa ngày chủ nhật. Thường thường ngày chủ nhật vùng Tiền chiến khu Hoà Mỹ trở nên đông vui, tấp nập như ngày tết, ngày hội. Bộ đội, cáẩ bộ, công nhân, từ các lớp núi chiến khu, suốt cả tuần sống giữa rừng rậm, kéo ra Tiền chiến khu dạo chơi, ăn quà bánh, sưởi nắng, ngắm trời, ngắm sông. Các chị ở xưởng bào chế thuốc, y tá, hộ lý, tuy không đông lắm nhưng cũng đủ làm sống động, tươi mát quang cảnh nghiệt ngã của núi rừng kháng chiến. Do có các chị nên cánh đàn ông đều cố gắng ăn mặc lành lặn hơn, chải chuốt hơn ngày thường. Ngày chủ nhật, nhà Văn hoá đại chúng thường tổ chức các buổi sinh hoạt văn hoá, văn nghệ đó là mục hấp dẫn nhất, mà cả tuần làm việc, chiến dấu, mọi người đều háo hức chờ đợi… Chủ nhật hôm đó chương trình sinh hoạt nhà Văn hoá khá phong phú, đã được thông báo trước đó ba ngày. 1. Chính uỷ trung đoàn Trần Quý Hai kể chuyện về cuộc khởi nghĩa Ba Tơ. 2. Bác sĩ Lê Khắc Thiền, Giám đốc bệnh viện chiến khu nóỉ chuyện về bệnh sốt rét, những di hại của nó và cách phòng ngừa bệnh đơn giản. 2. Anh Hồ Vi nhà thơ quen biết của trung doàn, trình bày bài thơ mới nhất của anh: "Gửi người chín lăm" (Tên trung đoàn chủ lực tỉnh Quảng Trị). 4. Đội đồng ca của nhà Văn hoá đại chúng trình diễn bài hát: "Bình Trị Thiên khói lửa". Sáng tác của nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương. 5. Công binh xưởng trình diễn vở kịch ngắn một màn: "Ông già và trái thuỷ lôi". Bạn đọc khi đọc đến đoạn này chắc không khỏi nghi ngờ, đánh dấu hỏi: Một chương trình sinh hoạt văn hoá, văn nghệ bình thường làm sao sau hơn ba mươi lăm năm mà tác giả còn nhớ và kể lại khá rành mạch? Hay đó chỉ là chuyện bịa đặt, kiểu hư cấu tiểu thuyết? Người kể chuyện xin thưa: Sự nghi ngờ của bạn đọc hoàn toàn có lý. Nhưng đó là một chương trình sinh hoạt văn hoá văn nghệ gắn liền với một ngày chủ nhật khốc liệt, bi thảm, đầy máu, lửa, xác chết của đồng đội và đồng bào. Do vậy mà nó đã tạc khắc vào trí nhớ của nhiều người chứng kiến, tham dự, với một độ sâu bền mà thời gian không xoá nổi. Cách đây không lâu, trong một buổi gặp gỡ chuyện trò với đồng chí Trần Quý Hai, lúc này là trung tướng, tôi đã nhắc lại chương trình sinh hoạt nhà Văn hoá đại chúng hôm đó. Với mục đích kiểm tra lại trí nhớ của mình, tôi đã quên mất mục thứ hai của chương trình và đồng chí Trần Quý Hai đã bổ sung: "Anh còn nhớ là sau khi anh lên kể chuyện về cuộc khởi nghĩa Ba Tơ, anh Thiền lên nói về bệnh sốt rét… Và đúng lúc vở kịch "Ông già và trái thuỷ lôi" mở màn thì cả chiến khu vang rền tiếng động cơ máy bay và tiếng súng bắn máy bay". Trong hai ngày thứ sáu và thứ bảy, tin tức của các tổ trinh sát bám đich dưới đồng bằng đưa về chiến khu dồn dập: Bọn địch ở các vị trí dọc đường quốc lộ đã tập trung quân và xe pháo rất đông. Một quân đội cơ động ứng chiến từ Quảng Trị kéo vào đóng ở đồn đầu cầu Phò Trạch. Dự đoán của trinh sát: Sáng ngày chủ nhật bọn giặc có thể tấn công chiến khu. Ban chỉ huy trung đoàn ra lệnh cho các cơ quan và đồng bào ở Tiền chiến khu phải rút hết vào núi trong đêm thứ bảy. Ở Tiền chiến khu chỉ còn lại những đơn vị bộ đội có nhỉệm vụ chiến đấu bảo vệ chiến khu. Sáng chủ nhật. Cả vùng Tiền chiến khu không còn bóng một con lợn, con gà. Quán xá chỉ còn trơ lại mấy cái bàn tre. Bếp núc lạnh tanh. Những cánh cửa chống lên thông thống như muốn bảo với bọn giặc: "Chúng mày cứ việc mò vào, chẳng có xơ múi gì đâu!". Mấy chú chồn, chú sóc chắc thấy cảnh vắng lặng khác thường, lấy làm lạ, từ trong các bụi rậm chạy ra đứng nghênh ngang ngay giữa các lối đi. Mắt chúng lơ láo, ngó ngược, ngó xuôi, đuôi xù ra cái phướn múa máy, đùa giỡn. Tiếng rì rào của dòng sông Ô Lâu, tiếng kẽo kẹt các coọng nước quay nghe như rõ hơn, vang vọng hơn mọi ngày. Sương mù thưa loãng dần. Những tia nắng sớm màu vàng hoa chạc chìu, xuyên thủng lớp sương mù, trải dài trên những bãi chông lồ ô chống quân nhảy dù trên các công sự bố trí súng phòng không, lấp lánh trên các nòng thép mười ba ly hai, mười hai ly bảy trên các giao thông hào lố nhố bóng lính, mũ xanh rờn lá nguỵ trang… Nắng sớm tắm vàng các tán cây đại thụ dựng cao vút trên sườn núi. Trong những vòm lá rậm chóp cây, thấp thoáng ẩn hiện những thân hình nhỏ bé, thoảng nhìn có thể tưởng lầm là những chú vượn, chú khỉ. Đó chính là cái đài quan sát do các tổ Thiếu niên trinh sát phụ trách. Cũng giống như sương mù, không khí căng thẳng, hồi hộp, lo âu, phấp phỏng về một trận tấn công quy mô của giặc nghiền nát chiến khu, cứ thưa loãng dần cho đến lúc tan biến hẳn, khi mặt trời càng lên cao. Cả chiến khu tràn ngập màu nắng tuyệt đẹp của một ngày chủ nhật tuyệt đẹp. Cả chiến khu bắt đầu động đậy, nhấp nhổm, vội vàng, muốn tranh thủ những giờ bị mất oan của một ngày chủ nhật hứa hẹn nhiều sinh hoạt vui chơi hấp dẫn. Có một quy luật mà đứa trẻ lên ba ở vùng giặc chiếm đóng cũng biết là bọn giặc chỉ tấn công càn quét vào lúc rạng sáng, muộn lắm là khoảng tám, chín giờ. Sau đó là coi như an toàn. Nên chẳng cần lệnh báo yên, người trong núi bắt đầu đổ ra Tiền chiến khu. Dẫn đầu là các o, các chú, chủ các quán hàng. Tốp năm, tốp ba gồng gánh, tay xách nách mang, cười nói ầm ĩ, dọc các lối mòn giữa rừng cây thấp chạy men theo bìa núi. Hai chị quần xắn quá gối, gánh một con heo to tướng, cười nói bô bô: - Tui biết ngay mà? Các ông cứ đoán già đoán non rứa, chớ tụi Tây động mả động mồ chi mà đi tấn công chiến khu vào ngày chủ nhật? Rứa thì ai đi nhảy đầm, đi nhà thờ cầu Chúa cho tụi hắn? - Không nhảy đầm, không đi cầu Chúa, tụi hắn tiếc đứt ruột khác chi chị em mình mất buôn, mất bán! Người từ trong các lớp núi kéo ra Hoà Mỹ mỗi lúc một đông. Dọc bờ sông, các giao thông hào, các ụ súng phòng không, các chiến sĩ trực chiến cũng bắt đầu nhấp nhổm. Người nhảy lên bờ công sự ngồi, người vấn thuốc hút, người nghếch mặt, mắt hấp háy ngó theo mấy o bào chế, y tá, cười nói yểu điệu kéo về nhà Văn hoá đại chúng. Vừa lúc đó, Lê Thắng - đội trưởng trinh sát đi ngang qua. Bộ áo quần vải sợi đôi rách và bê bết bùn đất, cái mũ nan bọc vải dù bẹp dúm dó cắm mấy cành lá nguỵ trang, mắt thâm quầng vì mất ngủ. Suốt đêm qua, anh đôn đáo suốt dọc chiến khu, kiểm tra lại mạng lưới trinh sát. Theo sát gót anh là Bồng-da-rắn. Trông em cũng lấm lem mệt mỏi không kém đội trưởng. Mấy chiến sĩ ở đại đội liên pháo đang ngồi trên bờ công sự hút thuốc, nhìn thấy hai anh em, liền nói kháy: - Ông trùm trinh sát ơi! Tây lên thấu mô rồi để anh em còn chuẩn bị nghênh chiến? - Tin trinh trinh sát thì có ngày đổ thóc giống mà ăn. Anh Thắng cứ im lặng bước, nhưng Bồng đốp chát lại ngay: - Tin lính bắn máy bay thì có ngày ăn bom Tây no bụng! - và Bồng sẵn sàng co giò chạy nếu các anh rượt đuổi. "Ôi ta buồn ta đi lang thang bởi vì đâu.… ". Một giọng hát cao vút bỗng cất lên giữa những vồng sắn cao lút đầu người. Tất cả chưa kịp cãi lộn nhau cùng quay lại nhìn. Một cô gái khoảng mười chín, hai mươi tuổi, áo quần lành lặn nhưng xộc xệch, đầu đội vành hoa mua, hoa sim, tay cầm một nhành hoa bãi hoãi màu nắng sớm, vừa đi vừa quay nhành hoa, vừa hát. Gương mặt cô xanh xao, cặp mắt mở to, lóe sáng ánh ngây dại. "Dừng chân ta ngắm cảnh bao la sầu". Cô ngoảnh mặt về phía núi xanh, cười lên khanh khách: "Ha ha ha! Núi rừng bao la sầu đẹp quá! Đẹp quá! Ha ha ha…". Bồng-da-rắn chạy đến bên cô gái, nói giọng dịu dàng, van vỉ: - Chị Hoài Trinh ơi, chị đi vào núi nghỉ ngơi cho khỏe. Chị hát chi hát hoài rứa, làm em đứt ruột… - Ha ha ha! Hoàng tử của ta! Hoàng tử của ta! Ta ban cho chàng bông hoa thần làm ra hạnh phúc…! - Chị cầm nhành hoa bãi hoãi quệt quệt hai bên má Bồng, rồi cắm vào túi áo Bồng. Bồng đỏ mặt, quay lại, lầm lũi bỏ đi. Cô Hoài Trinh ở xưởng bào chế thuốc trước đây được coi là hoa khôi của chiến khu, sốt rét nhiều quá đã phát điên từ mấy tháng nay. Cô cứ đi lang thang khắp chiến khu mà hát như vậy. Nhà Văn hoá đại chúng đã chật ních người. Anh Hinh tỉnh đội phó, trưởng ban nhà Văn hoá lên tuyên bố buổi sinh hoạt thường kỳ tuy hôm nay bắt đầu hơi muộn nhưng hứa hẹn sẽ rất thú vị, hấp dẫn. Chính uỷ Trần Quý Hai lên kể chuyện về cuộc khởi nghĩa Ba Tơ với giọng Quảng Ngãi quen thuộc, đậm đà mộc mạc. Cách nhà Văn hoá đại chúng mấy nương sắn là dãy quán hàng. Lửa bếp quán nào cũng cháy rừng rực. Gió bay mùi xào bò, cháo bánh canh, nước lèo, đến tận đây. Khán giả đang chăm chú nghe bác sĩ Lê Khắc Thiền giảng giải về con muỗi Anôphen. Hiệu Coiffeur de luxe của anh Đỡm kẻ vào người ra tấp nập. Anh Đỡm tay lược, tay tông-đơ ngự trên cái ghế cành cây như Bảo Đại ngự trên ngai vàng, hai cẳng chân xỏ trong bao bố chống ruồi và con bu mắt. Bên kia đường mụ Táo bán hàng vừa ngắm nguýt đôi câu đối trên cột bương hiệu Coiffeur de luxe. - Rứa mà cũng đòi đối đáp! Nghe cục súc như đá quăng! Mười một giờ mười sáu phút. Trên đài quan sát phíaTây Nam chiến khu do một tổ Thiếu niên trinh sát phụ trách, tiếng kẻng báo động máy bay bỗng dồn dập vang lên. Tiếng kẻng chỉ một loáng đã lan rộng cả Tiền chiến khu. Bầu trời chiến khu vang ầm tiếng động cơ máy bay. Sáu chiếc khu trục thành đội hình chữ V, từ phía sân bay Phú Bài vèo vèo lao đến. Các cỡ đạn đại liên, trọng liên, rạch trời đón chúng. Chỉ mấy phút sau, cả vùng trời Hoà Mỹ chìm ngập trong tiếng bom, tiếng súng. Tiếng bom, súng vừa lặn được vài phút, thì từ phía biển, mười chiếc máy bay vận tải Đa-cô-ta thành một hàng ngang, lùi lũi bay đến chiếm lĩnh vùng trời chiến khu. Vượt qua khỏi sông Ô Lâu, từ bụng máy bay bung ra hàng trăm chiếc dù trắng, xanh, vàng, đỏ, như những tai nấm độc khổng lồ, ngả nghiêng giữa bầu trời. Chúng lớn dần lớn dần cho đến lúc nhìn rõ những tên giặc đen, trắng đeo lủng lẳng dưới những chiếc dù. - Tây nhảy dù! Tây nhảy dù! Tiếng gào thét, hô hoán dậy lên khắp nơi. Buổi sáng thanh bình của chiến khu Hoà Mỹ đã kết thúc trong lửa và máu, với hàng trăm xác chết của đồng bào, cán bộ, bộ đội bị bom, quân nhảy dù và quân bộ tràn qua sông Ô Lâu, tàn sát man rợ chưa từng thấy. Và những người chứng kiến cảnh tàn sát ấy rõ ràng hơn hết là các em trong đội Thiếu niên trinh sát trên các đài quan sát của chiến khu. Suốt một tuần, báo chí của địch ở Huế đưa tin dồn dập, rầm rộ về trận đại thắng của quân đội Pháp tại chiến khu Hoà Mỹ. Với những dòng chữ tít lớn chạy dài trên các trang nhất: "Chiến khu Hoà Mỹ của Việt minh Thừa Thiên bị dìm trong một biển lửa và khói". "Dinh luỹ đầu não của Việt minh Thừa Thiên đã bị nghiền nát và xoá sạch khỏi vùng núi Hoà Mỹ". "Trung đoàn trưởng Hà Văn Lâu, Chính uỷ Trần Quý Hai đã chết trong đám loạn quân". "Xác chết của binh sĩ trung đoàn 101 lấp kín dòng sông Ô Lâu v.v…" Hàng ngày, cả chục chiếc ô tô chở đầy những người áo quần rách rưới, hai tay bị trói, cùng với súng đạn, chạy vòng quanh thành phố. Dẫn đầu đoàn ô tô là chiếc xe Jeep trống kèn inh ỏi, loa phóng thanh oang oang thành phố. "Đây là quân lính Việt minh bị bắt tại chiến khu Hoà Mỹ và một phần rất nhỏ số súng đạn thu được của chúng". Nhân dân Huế chẳng còn lạ gì, miệng lưỡi láo thiên láo địa của bọn giặc. Nhưng chúng cứ ra rả suốt ngày bên tai như vậy, làm đồng bào không khỏi hoang mang, lo lắng. Sự thật, sau một tuần đánh phá, bọn giặc cũng chỉ lởn vởn được bên ngoài làng Hoà Mỹ. Mỗi ngày chúng mở cả chục đợt tấn công, có máy bay, đại bác yểm trợ, vẫn không vượt nổi dải rừng cây thấp trước thềm núi chiến khu. Ban đêm chúng co cụm lại trong các công sự đào đắp vội vàng hai bên bờ sông Ô Lâu. Chúng đặt đại bác trên các đỉnh đồi bên kia sông, bắn suốt ngày đêm vào các lớp núi xanh. Bầu trời chiến khu như cái bể rèn khổng lồ với hàng ngàn thanh sắt nung đỏ nhúng vào nước kêu xèo xèo. Đó là tiếng rít của đạn moóc-chê, đại bác và hàng trăm quả bom lớn nhỏ dội xuống các sườn núi, khe suối. Đêm, quân ta từ trong núi tổ chức các đợt phản kích đánh vào các toán giặc co cụm dọc bờ sông, mặt khác, tổ chức thu lượm thi hài chiến sĩ, đồng bào bị giặt giết trong hôm chúng nhảy dù, đưa vào núi chôn cất. Trong số này, có xác chết đã in vào trí nhớ các đội viên thiếu niên trinh sát như sắt nung đỏ. Đó là anh Đỡm thợ cắt tóc anh chết nửa nằm nửa ngồi, bị đạn tiểu liên bắn nát mặt. Hai cẳng chân đầy mụn lở loét vẫn xỏ trong cái bao tải, một tay anh níu sợi dây da đóng vào cột anh vẫn dùng để liếc dao. Hình như anh định chạy nhưng bị vướng lùng bùng trong cái bao tải nên ngã xuống. Anh níu sợi dây da gượng đứng dậy thì bọn giặc nhảy dù xông vào bắn chết. Hoài Trinh cô nhân viên bào chế, điên, bị bọn giặc lột trần truồng, hãm hiếp, rồi dùng lưỡi lê xăm nát mình. Đầu cô vẫn đội cái vòng hoa kết bằng những bông hoa sim, hoa mua. Trong túi áo của Bồng vẫn còn nguyên nhành hoa chạc chìu cô tặng em trước lúc bị giặc giết chỉ mấy tiếng đồng hồ. Đã một tuần nay rồi, mỗi lần bất chợt ngửi thấy mùi hoa rừng úa héo dâng lên từ ngực áo, hai mắt em trở nên đỏ ngầu, giàn giụa nước mắt.
|
Chương 29: Phần Thứ Tám 3 Trung đoàn trưởng đi về phía đài quan sát cây quao ở lưng chừng dốc núi Xê-ca Bảy. Chính cây quao mà Mừng đã chỉ vào bản đồ của ông, và đề nghị đặt đài quan sát ở đây. Bộ quần áo kaki màu xanh lá cây và cái mũ cối của ông cũng lấm láp bùn đất không khác gì các chiến sĩ của ông đang bố trí dọc các chiến hào. Theo sau ông là em Nghi liên lạc trung đoàn bộ, mặc quần dài xắn quá gối, đầu trần, tóc đỏ quạch đất bụi, ấo sơ mi rách tả tơi. Vai em khoác khẩu các-bin. Dọc lối đi, cây cối bị bom, đạn đại bác, đạn súng cầu vồng phạt đổ ngả nghiêng. Hố đạn bom như những vết mụn lở loét lỗ chỗ khắp sườn núi. Tiếng đạn rít xèo xèo ngang qua đầu hai anh em. Chốc chốc Trung đoàn trưởng và Nghi lại nằm rạp xuống sau các gốc cây lớn tránh đạn. Dứt đợt nổ, hai người lại đứng dậy, phủi đất bùn, lá cây, vỏ cây mà đạn ném phủ!ên người và tiếp tục đi. Đài quan sát cây quao do các em Hoà-đen, Hiền, Châu-sém và Ba phụ trách. Châu-sém làm tổ trưởng. Đây là đài quan sát độc nhất trong năm đài quan sát của chiến khu, được trang bị máy điện thoại. Điện thoại nối liền đài quan sát với hầm chỉ huy của Trung đoàn trưởng, đặt cách đó gần một cây số. Trung đoàn trưởng đến nơi đúng vào phiên trực của Hoà-đen. Em ngồi trên chạc ba ngọn cây, tay cầm ống nhòm chăm chú theo dõi bọn giặc đang lúc nhúc đi trên vùng đất Tiền chiến khu. Bên em là máy điện thoại và hộp đựng pin máy, được buộc chắc chắn vào một cành cây, ngang tầm tay với của em. Châu, Hiền và Ba ngồi dưới gốc cây, trước mắt là mấy hốcá nhân mới đào, đất rừng đắp quanh miệng hố còn tươi nguyên. Cách gốc cây chừng dăm chục thước, có ba, bốn hố đại bác sâu hoắm, có một hố sâu lút đầu người - chắc là do một trái pháo hạng nặng đào khoét. Châu-sém nhìn mấy hố đạn với cặp mắt tiếc rẻ: - Cơi chi tụi hắn bắn xích gần vô đây chút nữa thì tụi mình đỡ mệt, khỏi phải đào công sự. Đồ bắn dở ẹc! Ba em đang ngồi ăn sắn luộc. Các em nhai một cách uể oải, mặc dầu bụng đói cồn cào. Đã ba ngày nay cả chiến khu phải ăn sắn trừ cơm, mà sắn lại thiếu muối. Các em thay muối bằng ớt, thứ ớt rừng bằng hạt thóc mà cay xé lưỡi. Hiền vừa ăn vừa nghêu ngao hát: "Sống ăn sắn mà không thèm ăn phơ ở ở… Chết huy hoàng mà không khuất phục ai!" Thấy trung đoàn trưởng đi đến, các em đứng dậy: - Anh ạ! Anh ạ! Mời các anh ăn sắn cho vui! Trung đoàn trưởng cười, hỏi: - Nuốt ngó bộ gay go hí? - Ông rút trong túi quần ra một khúc sắn dài cỡ gang tay - Anh cũng được mấy o cấp dưỡng phát cho hai khúc như ri. Từ sáng tới giờ anh cũng gắng gỏi lắm mới nuốt hết một khúc. Các em chịu khó, trong vài ngày tới răng cũng có gạo dưới đồng bằng tiếp lên. Ba nói: - Dạ ăn sắn cả tuần em cũng ăn được, chỉ khiếp là không có muối. - Dạ, không biết nhịn muối độ mười ngày, có chết không anh hè? - Hiền hỏi. - Hồi anh chiến đấu ở mặt trận An Khê, nghe mấy cụ già người Thượng từng tham gia nghĩa quân Ma Trang Lơn, kể là họ đã từng phải nhịn muối cả năm liền. Châu-sém nói: - Rứa thì Vệ Quốc Đoàn mình so với các cụ, khổ đã thấm béo chi anh hè? - Ừ đã thấm béo chi! Tình hình địch có chi mới không? Anh Thắng đi mô rồi? - Dạ anh vừa ở đây xong. Anh xuống đôn đốc mấy đài quan sát ở phía Nam, chắc đến trưa mới quay về. Châu-sém báo cáo: - Dạ, cả ngày hôm qua với sáng ni tụi hắn rậm rịch đào công sự dọc bờ sông. - E tụi hắn định ở lại chơi với ta lâu dài anh hè? Trung đoàn trưởng chỉ cái thang tre cao vòi vọi bắt dựa vào thân cây để trèo lên đài quan sát, hỏi: - Có chắc không các em? Anh muốn trèo lên ngó qua một chút. - Dạ, cũng hơi chắc… Anh trèo không quen sợ bổ. - Châu-sém nhìn cái thang rồi nhìn Trung đoàn trưởng với ánh mắt lo lắng. - Mà tụi hắn hay bắn bất tử vô đây lắm… lỡ… Ba nói: - Bốn giờ chiều hôm qua hai thằng Xít-pi-phai bay qua đây, là là gần sát ngọn cây. Em tưởng tụi hắn cào em đi mất. Trung đoàn trưởng cười: - Ý là các chú không muốn cho anh trèo chớ chi? Hồi nhỏ anh cũng là tay trèo cây chúa lắm chứ các chú đừng tưởng. Trung đoàn trưởng vịn thang tre trèo lên thoăn thoắt. Hoà-đen cúi lom khom, một tay vòng ôm chặt cành cây, một tay níu khuỷu tay Trung đoàn trưởng, giúp ông trèo lên chỗ em đang ngồi. Em nép sát vào cành cây nhường chỗ và trao ống nhòm cho ông. Đại bác giặc lại dồn dập bắn vào núi. Nhiều trái rít ngang qua ngọn cây. Mỗi lần như vậy Hoà-đen đều rùng mình, cả người em căng như sợ dây đàn lên hết mức, trong tư thế sẵn sàng lấy thân mình che đạn cho người chỉ huy cao nhất của trung đoàn. Trung đoàn trưởng vẫn điềm tĩnh lia ống nhòm quan sát địa hình và bọn giặc đang đào công sự dọc bờ sông Ô Lâu. Mỗi lần có tiếng đại bác rít bay qua, ông cũng chẳng buồn cúi đầu. Đêm qua có cuộc họp giữa Ban chỉ huy trung đoàn các đồng chí lãnh đạo Tỉnh uỷ, tại Xê-ca Bốn để quyết định những vấn đề cấp thiết của chiến khu Hoà Mỹ lúc này. Cuộc tấn công bao vây chiến khu của giặc đã bước sang ngày thứ mười hai. Trong mười hai ngày qua, cường độ các đợt tấn công của giặc vào núi càng dữ dội. Tất cả các đợt tấn công đều bị quân ta đánh bật ra. Quân ta vũ khí ít, quân số không đông, nhưng được rừng cây che phủ, và bọn giặc lại không thông thuộc địa hình, nên Ban chỉ huy trung đoàn tin chắc dù chúng tấn công với lực lượng gấp đôi cũng không thể vào được trong núi. Nhưng gay go nhất vẫn là lương thực. Ba ngày qua cả chiến khu đều ăn sắn. Những lon gạo cuối cùng được vét dồn cho bệnh viện với mấy chục thương binh. Tỉnh uỷ và Uỷ ban tỉnh đã liên tiếp cử nhiều đoàn cán bộ, đêm bí mật bò qua phòng tuyến địch, vượt sông Ô Lâu, về đồng bằng hai huyện Phong, Quảng huy động lương thực tiếp tế cho chiến khu đang bị bao vây. Nhưng bọn giặc bao vây chiến khu rất chặt. Không tấn công được vào núi, chúng xoay đổi chiến thuật, vây hãm chiến khu dài ngày, cắt đứt mọi đường tiếp tế từ đồng bằng lên. Chiến khu sẽ kiệt lương thực. Việt minh tất phải ra hàng, nếu không hàng thì chết đói. Trong mười hai ngày qua, hàng chục đoàn dân công tiếp tế của các xã đồng bằng, gánh gạo, muối lên chiến khu, đã bị bọn địch phục kích tiêu diệt. Gạo, muối lẫn với máu và xác người nằm lăn lóc trên đường từ đồng bằng lên núi. Nhưng nhân dân các huyện đồng bằng vẫn gan góc, quyết liều thân với giặc để cứu chiến khu. Đoàn tiếp tế này vừa ngã xuống, xác vừa được mang về chưa kịp chôn cất, đoàn tiếp tế khác đã hăm hở lên đướng. Nhiều đoàn đã phải đi một quãng đường dài gấp năm, gấp bảy đường chính, với hy vọng lọt được qua vòng vây giặc. Họ băng qua Quảng Trị, vòng lên núi xanh, rồi từ núi xanh quặt trở lại Hoà Mỹ. Cuộc họp của Ban lãnh đạo chiến khu Hoà Mỹ đã đi đến quyết định: Rời bỏ chiến khu Hoà Mỹ. Dời toàn bộ chiến khu vào Dương Hoà, một vùng làng mạc nằm ven thượng nguồn sông Hương - phía nam tỉnh. Từ Hoà Mỹ vào Dương Hoà phải đi xuyên núi mất từ ba đến năm ngày. Các bộ phận cồng kềnh như bệnh viện, kho tàng công binh xưởng… phải đi ít nhất là mười ngày. Ngay đêm đó, một đoàn tiền trạm đã lên đường vào chiến khu mới. Tin của các chiến sĩ trinh sát từ Tiền chiến khu đưa về là bọn giặc đang sửa soạn một trận tấn công quyết định vào các Xê-ca. Báo chí, đài phát thanh giặc đưa tin quân Việt minh bắt đầu chết đói, một số không cầm nổi vũ khí, đang hẩp hối. Chúng tin chắc với trận tấn công quyết định này, chúng sẽ nghiền nát toàn bộ chiến khu. Trinh sát dự đoán mũi tấn công chính của bọn. giặc là hướng Xê-ca Bảy, nơi đóng bệnh viện. Ban chỉ huy trung đoàn quyết định tổ chức một trận phục kích bằng địa lôi lớn nhất, dữ dội nhất từ trước đến nay, với toàn bộ số mìn hiện có của chiến khu, tại bãi trống trên đường vào Xê-ca Bảy. Bãi trống này ôm vòng chân núỉ có dựng đài quan sát cây Quao. Trung đoàn trưởng đến đài quan sát để nghiên cứu lại địa hình lần cuối cùng, chuẩn bị cho trận địa lôi chiến quyết định. 4 Đợt đại bác câu sâu vào trong các lớp núi xanh vừa đứt, gần một chục đội viên Thiếu niên trinh sát nằm nép mình bên bờ suối tránh đạn, đã vùng ngay dậy. Các em phủi tóc tai, áo quần, và sờ quanh người xem có mảnh đạn nào găm vào người. Trên triền dốc bên kia suối, một đoàn người khiêng vác cồng kềnh, tay chống gậy, những ngón chân trần bấm sâu xuống đất, nặng nhọc bước đi. Những bộ phận máy móc tháo rời, những bánh xe răng cưa, những cái đe, búa tạ, đạn lép, mìn, những thùng đồ đạc… lúc lắc trên đòn khiêng, nghiến miết vai họ, làm chân người nào cũng bước đi chệnh choạng. Cuộc rút lui khỏi chiến khu bắt đầu từ tờ mờ sáng, khi đường rừng còn chưa nhìn rõ, đẫm ướt sương đêm. Tư-dát thích dùng chữ nghĩa sang trọng, gọi cuộc rút lui này là "Thiên đô về phía Nam". Những cơ quan, những đơn vị cồng kềnh được rút lui trước. Họ im lặng một cách kỳ cục. Tiếng đạn đại bác xèo xèo rít qua đầu, họ cũng chẳng thèm núp cũng chẳng buồn cất tiếng chửi rủa như mọi khi. Một vài người quạu cọ, làu bàu: "Điếc đít". Họ lầm lũi, nặng nhọc tiến mãi vào rừng sâu… Một nừa quân số đội Thiếu niên trinh sát gồm các em: Du, Đồng, Kỳ, Bé, Nuôi, Phát, Do, Tuyên, Bồng-da-rắn, được lệnh đi theo đoàn cán bộ tham mưu vào chiến khu mới để làm quen trước với địa hình, chuẩn bị cho những trận chiến đầu mới. Tư-dát, Nguyện, Trà, Lô ở hai đài quan sát cạnh đường rút lui. Các em thay mặt nửa đội còn ở lại, sẽ rút lui sau cùng, đến gặp gỡ, chia tay với các bạn rút trước. Các em chuẩn bị một bữa tiệc liên hoan chia tay khá thịnh soạn. Hơn một chục vắt cơm nhỏ xíu, mỗi vắt nửa lon gạo, đặt trên hai tàu lá chuối rừng, trên tảng đá phẳng phiu như một bàn nằm trên bờ suối. Gọi một bữa liên hoan chỉ có chục vắt cơm nhỏ xíu là thịnh soạn, người kể chuyện không hề có tí hài hước. Nếu biết được cái giá của mỗi vắt cơm đó, người ta sẽ phải nhận rằng, trên thế gian này không có thứ cao lương mỹ vị nào đắt hơn. Giá của mỗi vắt cơm là giá máu. Đảng bộ và chính quyền hai huyện Phong, Quảng đã phải tổ chức những đoàn "Vũ trang tiếp tế" để đưa bằng được gạo, muối lên chiến khu… Mỗi đoàn dân công gánh gạo, muối có một tiểu đội du kích vũ trang đầy đủ, đi mở đường và hộ tống. Họ phải đánh nhau với bọn giặc phục kích trên các nẻo đường để chọc thủng vòng vây giặc. Nhiều tiểu đội lên đến chiến khu đã hy sinh chỉ còn ba, bốn người. Nửa đêm hôm kia, một đoàn dân công huyện Quảng Điền chuyển được mấy tạ gạo lên đến chiến khu, phải mất sáu người chết và bốn người bị thương nặng. Trong số những người bị thương có một chị tổ trưởng dân công nghe đâu người làng Thệ Chí, bị đạn và mảnh lựu đạn xuyên qua đùi, bụng. Nhưng chị không chịu rời gùi gạo nặng trĩu trên vai và đồng thời chị chỉ huy tổ mình mang gạo lọt qua vòng vây giặc. Hiện tại đang nằm tại bệnh viện Xê-ca Bảy, trong tình trạng hết sức nguy kịch. Các chiến sĩ, cán bộ trên đường rút lui đều tạt vào bệnh viện thăm chị. Hôm qua Tư-dát ghé vào thăm, nhìn chị nằm thiêm thiếp hôn mê và tấm chăn đơn chị đắp ngang người đầm đìa máu, em mếu máo khóc và một ý vụt đến trong đầu: "Ôi những hạt cơm em ăn, nặng trĩu máu nhân dân!". Gương dũng cảm tiếp tế cứu chiến khu của chị chỉ hôm sau đã lan truyền khắp chiến khu. - Thôi ăn đi, rồi đi vô thấu trong đó cho được mạnh giỏi anh em hí. - Lô khai mạc bữa tiệc liên hoan vẻn vẹn một câu ngắn ngủi như vậy. - Khoan! Khoan! - Tư-dát vừa kêu vừa trịnh trọng mở gói lá chuối từ nãy tới giờ vẫn cầm lăm lăm trong tay. - Úi chao! Muối! Muối! Hoan hô Tư-dát! Hoan hô Tư-dát! Các em vỗ tay hoan hô, reo hò vang dội dốc núi. Tư-dát trang trọng đặt gói muối giữa những vắt cơm. Cả chục cặp mắt như bị hút chặt vào đó. Một đốm nắng rực rỡ lọt qua tán cây, rọi thẳng vào giữa gói muối. Những hạt muối bắt nắng, sáng lên lấp lánh như đang cười, nháy mắt với các em. Tất cả đều nuốt nước bọt. - Nằm xuống! - Võ Trà bỗng hét to thất thanh. Chưa hiểu chuyện gì nhưng tất cả đều nằm rạp xuống đất. Trên đầu các em rợn lên tiếng xèo xèo như sắt đỏ nhúng vào nước lạnh. Một tiếng nổ chói tai. Đất đá quăng rào rào lên mình bọn trẻ. Trái đạn đại bác nổ cách các em chưa đầy ba chục thước. Tất cả đứng bật ngay dậy, không kịp phủi tóc tai, mặt mũi, đã ngó ngay vào mâm tiệc liên hoan. Những vắt cơm còn nguyên, nhưng gói muối bay đâu mất? Các em tái mặt, nháo nhác ngó quanh tìm kiếm. Đoàn phát hiện ra gói muốn nằm lọt giữa khe hở hai tảng đá. Hơi đạn nổ đã hất gói muối xuống đó. Nhìn xuống khe hở, các em thấy ngọn lá nằm nghiêng trút hết muối xuống đáy khe hở. Khe hở vừa hẹp lại vừa sâu. - Để tớ! Để tớ! - Các em tranh nhau nằm ẹp xuống, thọc tay vào khe hở để nhặt muối. Nhưng vô ích. Em nào thọc được sâu nhất cũng chỉ đến khuỷu tay. Đồng cố thọc khuỷu tay bị kẹt, không rút ra được. Các em phải xúm lại giúp Đồng rút ra. Đồng kêu oai oái, nước mắt, nước mũi giàn giụa vì đau. Rút ra được khuỷu tay em bị xây xát, rướm máu. Tất cả mặt ỉu xìu, tiếc xót, mắt không rời khe đá bên dưới có chứa cả kho châu ngọc. - Có lẽ mô ta lại chịu thua? - Lô dõng dạc lên tiếng - Cạy đá ra mà lượm! Thế là tất cả xúm lại hì hục đào, khoét đất dưới chân tảng đá, làm cho tảng đá hỏng chân để cạy. Ba, bốn em nhảy xuống suối, bụm tay tát nước suối vào chân tảng đá cho đất mềm ra, dễ đào. Mấy em dùng dao găm, cành cây đào, mấy em khác dùng tay bới đất. Tất cả mồ hôi vã ra như tắm. Những manh áo rách như xơ mướp dán vào những tấm lưng gầy nhom. Tảng đá không chịu nhúc nhích mặc cho các em hò hét xô đẩy. Võ Trà nổi cáu, đạp vào tảng đá chửi um: - Tổ cha mi, mi định ăn tươi, nuốt sống gói muối của tụi tau à? Tất cả đứng lên, quệt mồ hôi trán, nhăn nhó thiểu não: - Có lẽ chịu bỏ thôi! Ăn được hột muối mà xâm xoàng mặt mũi ri thì nhịn quách cho rồi? Tư-dát tác giả gói muối, vẫn hậm hực: - Chịu đầu hàng à? Đầu hàng một lần rồi sẽ quen mùi đầu hàng mãi! Sáng kiến chợt lóe trong óc em. Em đưa mắt nhìn quanh kêu to: - Tê rồi! - Em chỉ một cái đòn khiêng ai vứt lăn lóc bên sườn núl. Tư-dát nhảy tới chụp cái đòn tre nặng chịch, vác chạy đến, miệng liến láu một câu danh ngôn: "Hãy cho ta một điểm tựa, ta sẽ bẩy cả quả đất!". Tư-dát thọc một đầu cái đòn tre vào cái hố sâu vừa đào dưới chân tảng đá. Hơn chục đôi vai tí hon ghé sát vào nhau, gánh cái đòn tre: Tư-dát la to: "Hai… ba này!". Tất cả choãi chân, rườn căng mình, gánh bật cái đòn tre lên. Hòn đá rung rinh rùng mình dưới lực của đòn bẩy, cuối cùng nặng nề đổ nghiêng về một bên. Các em xúm lại lượm từng hạt muối bỏ vào ngọn lá, mặc cho tiếng đạn đại bác gầm rú ngang đầu. Khi đã lượm hết, Tư-dát nói: - Rút kinh nghiệm ta chia cho chắc chuyện. Tớ đếm rồi, Chia đều mỗi đứa được bảy hạt, hạt nhỏ bù hạt to. Nào ngửa tay ra để tớ phân phối. - Tư-dát đếm cẩn thận từng hạt muối một bỏ phần muối vào lòng bàn tay của mỗi bạn: - Phần muối của mình, Tư-dát bỏ hết vào lòng bàn tay Đồng, cười nói: - Phần của tau, tau đền cho mi cái chỗ khuỷu tay bị tươm máu. 5 Chiến khu Hoà Mỹ bị giặc tấn công, vây hãm đã bước sang ngày thứ mười lăm. Đó là một ngày căng thẳng quyết liệt nhất. Mới tờ mờ sáng, các đỉnh núi còn chìm khuất trong sương, bọn giặc đã bắn đại bác vào các lớp núi dồn dập gần như không phút nào nghỉ. Đất đá bay rào rào, cây cối đổ rầm rầm. Tám giờ sáng, máy bay phóng pháo ào ào kéo đến hết tốp này đến tốp khác, vòng lượn, gầm rú, trút bom đạn xuống các sườn núi, khe suối mà chúng nghi có quân ẩn náu. Tin tức từ các đài quan sát dồn dập báo về hầm chỉ huy sở: Nhiều toán từ đồi Đồng Nhện, đồi Hai Lăm, vượt sông Ô Lâu sang Hoà Mỹ. Phía bắc Tiền chiến khu, giặc tập trung qưân đông đặc. Trung đoàn trưởng Hà Văn Lâu ngồi trong hầm chỉ huy đào cạnh gốc một cây kiền kiền đại thụ. Máy điện thoại đặt trong cái hốc khoét sâu vào vách hầm đổ chuông liên hồi. Anh chiến sĩ thông tin trực điện thoại chốc chốc lại đưa ống nghe cho ông: "Báo cáo? Đài quan sát cây Quao báo cáo với anh!". Qua những báo cáo của cảc đơn vị Trinh sát, Trung đoàn trưởng dự đoán bọn giặc sẽ mở trận tấn công quyết định vào núi trong ngày hôm nay. Giờ tấn công muộn nhất là haỉ giờ chiều. Và ông đã sẵn sàng đón tiếp chúng. Trận địa mìn được bố trí xong vào lúc một giờ sáng. Ba giờ hai mươi phút sáng, ông và một cán bộ tham mưu đến kiểm tra lại bãi mìn lần cuối cùng. Đài quan sát cây Quao là một trong những đơn vị quyết định sự thành bại của trận địa lôi chiến. Ông ra lệnh bổ sung thêm cho tổ Trinh sát cây Quao hai chiến sĩ nổi tiếng gan dạ của trung đoàn… Theo kế hoạch của ông, khi bọn giặc vào đến địa điểm quy định, một bãi trống lớn gần dải rừng cây thưa và thấp dưới chân núi Xê-ca Bảy, Đài quan sát cây Quao sẽ gọi điện thoại về hầm chỉ huy. Ông sẽ đích thân ra lệnh nổ mìn. Quả địa lôi phát lệnh nặng một trăm cân, do công binh xưởng chế tạo bằng một quả bom lép của địch ném xuống Xê-ca Bốn. Quả bom phát lệnh và toàn bộ bãi mìn sẽ được nổ bằng pin điện. Hầm của hai chiến sĩ công binh phụ trách nổ mìn ở cách hầm chỉ huy một tầm gọi. 6 Em Nghi áo đứt hết cúc mở phanh ngực, quần đùi xắn đến bẹn, đầu trần lấm lem đất bùn, tay xách khẩu các-bin, vừa đi vừa chạy về phía Xê-ca Bảy. Em nhảy như một con sơn dương non qua những thân cây đổ ngổn ngang, những hố đạn, hố bom chi chít dọc theo lối đi. Thỉnh thoảng em dừng lại, co chân lên, rút một cái gai dưới bàn chân, vất ra xa với vẻ mặt khinh bỉ. Em đang có nhiệm vụ khẩn cấp: Mang thư của Trung đoàn trưởng gửi bác sĩ bệnh viện trưởng, yêu cầu cho rút gấp những bộ phận cuối cùng ra khỏi Xê-ca Bảy. Trận tấn công của giặc vào Xê-ca Bảy trong ngày hôm nay sắp bắt đầu. Khu vực bệnh viện vắng lặng khác thường. Các lán đều trống không. Nhiều lán đổ sụp, hai mái lán nằm tùm hum trên mặt đất, cột kèo được rút hết làm đòn khiêng cáng bệnh nhân, thương binh. Phần lớn bệnh nhân, thương binh, y tá, hộ lý đã rút khỏi Xê-ca Bảy, chuyển về chiến khu mới từ hai hôm trước. Lúc này bệnh nhân chỉ còn lại sáu thương binh vừa được chuyển đến đêm qua và sáng nay. Bác sĩ Thiền, một anh và một chị y tá, một chị hộ lý còn ở lại chăm sóc thương binh. Tất cả được chuẩn bị sẵn sàng để di chuyển. Thương binh được đặt nằm sẵn trên cáng làm bằng đòn tre và vải bạt, chờ người đến cáng đi. Chỉ riêng trường hợp chị tổ trưởng dân công làm bác sĩ Thiền rất đỗi lo lắng, băn khoăn. Các vết thương quá nặng, chị mất quá nhiều máu, nên không hy vọng gì có thể qua khỏi ngày hôm nay. Nếu cáng đi, chị sẽ chết dọc đường, và có khả năng chết sớm hơn vì các vết thương đang chảy máu bị chấn động. Nhưng nếu để chị ở lại thì phải cử người ở lại săn sóc… Lúc Nghi bước vào lán đưa thư của trung đoàn trưởng, bác sĩ Thiền vừa tiêm cho chị một mũi thuốc trợ tim. Trong lúc ông đứng trước cửa lán đọc thư, Nghi đi về phía cuối lán thăm chị tổ trưởng dân công mà hai hôm nay em được nghe cả chiến khu nhắc nhở, bàn tán về tinh thần gan dạ vô song của chị, về cái gùi gạo chị mang trên lưng găm đầy đầu đạn, gạo trộn với máu… Chị nằm trên cáng, đắp tấm chăn đơn cũ kỹ, đầu gối cái bao tải gấp làm tám, tóc buông loà xoà phủ kín cái tải gối đầu. Nhờ mũi thuốc trợ tim vừa chích, chị dứt cơn mê sảng, bắt đầu tỉnh lại. Chị mở to mắt nhìn quanh như chưa hiểu mình đang nằm ở đâu. Khi còn cách chị vài bước, Nghi bỗng đứng sững lại, kinh ngạc kêu lên: - Ui! Thím? Nghi nhận ra, chị tổ trưởng dân công lừng danh của chiến khu, chính là mẹ của Mừng. Em đã được gặp chị trong cái đêm chở Mừng về làng Phò thăm mẹ. Hôm đó, tuy dưới ánh đèn dầu nhập nhoạng, và chỉ nói chuyện với chị có dăm phút, nhưng gương mặt chị có vẻ gì rất khác thường, in sâu vào trí nhớ của em. Nên thoạt nhìn em đã nhận ra ngay. - Thím không nhận ra cháu à? - Nghi bước đến hỏỉ. - Cái đêm ở làng Phò, cháu đi ngựa đem tin thằng Mừng về cho thím… Người đàn bà cặp mắt trân trân nhìn Nghi một lúc lâu. Gương mặt thất thần của chị vụt sống động linh hoạt hẳn lên. Chị làm một cử động như muốn cất đầu dậy, nhưng không sao cất nổi. Chị bất lực, yếu ớt khẽ kêu: - Cháu là Nghi. Thím nhớ rồi… Rứa em Mừng ở mô, có ở trên chiến khu ni không. - Dạ có! - Nghi không kịp nghĩ ngợi, buột miệng trả lời. Ánh mừng rớ tràn ngập gương mặt mất máu của chị: - Ui chao, rứa thì phúc cho thím quá! Em Mừng có ở gần đây không? Cháu làm ơn làm phước gọi Mừng lại đây cho thím chộ mặt một chút… Thím biết, thím yếu lăm rồi, thím e chẳng còn sống được bao lâu… Nước mẳt chị bỗng bật trào ra như xuối. Nghi nhìn chị, càng bối rối, em nói tuột luôn: - Nhưng… chừ hắn không còn là Vệ Quốc Đoàn nữa. Hắn trốn về Huế theo cha hắn làm Việt gian, rồi lại mò lên chiến khu làm gián điệp cho Tây. Chừ hắn đang bị giam ở trại tù chờ ngày đưa ra toà án binh xét xử. Bác sĩ Thiền kêu to. - Nghi! - Ông muốn bắt em ngừng lại nhưng không kịp. Ông không lường sự thể đến như thế. Người đàn bà rùng mình. Ánh mắt chị trở nên_ ngơ ngác, thảng thốt. - Răng? Cháu nói răng? Thằng con chị đi theo cha hắn làm Việt gian? Chừ đang bị Chính phủ giam tù? Ui chao? Ui chao? Răng mà con dại rứa con ơi! Giọng chị như trong cơn mê sảng, nghe muốn đứt ruột. Nghi biết mình đã lỡ lời, không còn cách gì chữa lại được nữa. Em đứng ngây người nhìn chằm chặp gương mặt mẹ Mửng, vừa mới tươi rạng đó, chừ đã nhăn nhúm, tái nhợt vì đau khổ, đầm đìa nước mắt, em cũng muốn oà khóc theo luôn. Môi em run, ấp úng mãi không nói được điều gì. Chị Niệm thò tay ra ngoài chăn, bíu chặt lấy vạt áo của Nghi, như chỉ sợ em bỏ chạy mất. Chị nói qua nước mắt: - Cháu đừng giáu thím mà tội thím lăm cháu nờ. Em Mừng có đúng nhừ rứa thì cứ nói cho thím biết… Mà chắc đúng thiệt rồi. Ui chao, hắn tưởng cha hắn là cái thằng Năm Ngựa… Thằng Năm Ngựa cô hồn chuyên giết người ở Huế… Ai còn lạ chi… mà cũng lỗi tại mạ hết, con ơi… - Chị bắt đầu nói lảm nhảm như đang rơi dần vào cơn mê sảng. Cả gương mặt chị vùi trong nước mắt… Bác sĩ Thiền vội vã sai chị y tá tiêm cho chị một mũi thuốc trợ tim. Chị bất chợt như vừa bừng dậy sau cơn ác mộng. Chị nói với Bác sĩ Thiền, ánh mắt van nài cầu khẩn: - Xin ông cho tui được gặp thằng con tui… Con tui hắn dại dột quá… ông thương tui, cho tui được chộ mặt thằng con tui trước khi tui nhắm mắt, xuôi tay… Bác sĩ Thiền hỏi Nghi: - Cái chú Mừng ấy chừ ở mô rồi! - Dạ ở trại giam Xê-ca Năm. Sáng ni em cũng và chạy công văn vô đó. Trại giam cũng đang sừa soạn rút khỏi chiến khu. - Chừ làm răng hè? - Bác sĩ Thiền bối rối tự hỏi. Nghi như vụt tỉnh trí lại. Em hấp tấp nói: - Chừ ri anh nì. Anh viết mấy chữ gửi anh Lanh phụ trách trại giam, xin cho Mừng được đến Xê-ca Bảy gặp mạ hắn. Em cũng thân với anh Lanh lắm, em nói thêm vô, chắc rằng anh ấy cũng cho hắn đi. Bác sĩ Thiền lấy giấy bút viết bức thư ngắn gửi trại trưởng trại giam, trao cho Nghi. Nghi gấp tư lá thư bỏ vào túi khoác khẩu các-bin lên vai, hấp tấp nói: - Em cố chạy thật mau, may ra còn kịp. Và em lao ra khỏi khu lán bệnh viện. Nghi cắm đầu chạy thục mạng về phía Xê-ca Năm, miệng lẩm bẩm: "Lạy trời may ra còn kịp!". Đại bác nổ ầm ầm quanh mình, em cũng không kịp nằm xuống núp. Hơn nửa giờ sau, Nghi đã bước vào cổng trại giam. Khoảng hai chục tù nhân toàn những Việt gian, gián điệp, những binh sĩ phạm pháp, tập họp thành một hàng dài trước sân trại giam. Tất cả đều bị trói, hai tay chắp trước bụng, mặt cúi gằm nhìn đất. Mấy anh lính gác trại giam tay xách súng, ba lô trên vai, chuẩn bị áp giải toán tù rời khỏi chiến khu. Vừa thoáng nhìn, Nghi đã nhận ngay ra Mừng đứng ở quãng giữa hàng, hai tay bị trói bằng dây điện thoại, chắp trước bụng. Mừng cũng nhận ra Nghi, em khẽ gọi: - Nghi! Nghi nghe gọi, nhưng giả bộ làm ngơ, không quay lại. Nghi đi thẳng đến lán trưởng trại, vừa thở vừa móc túi lấy bức thư đưa cho anh. Trưởng trại Lanh trạc bốn mươi tuổi, vóc dáng cao lớn, xương xẩu, gồ ghề. Anh đọc bức thư của bác sĩ Thiền trán cau lại, nói:
|
- Nhưng làm răng được chừ! Nghi vội đứng thẳng người lên, nói không kịp thở. - Anh gắng giúp cho thím ấy. Thím ấy bị thương nặng lắm, sắp chết rồi, thím ấy chỉ ao ước chộ mặt con trước khi nhắm mắt. Anh thương thím ấy đã liều chết cứu chiến khu, chớ hắn thì ai mà thương được? Giọng van nài khẩn thiết của Nghi làm cho người trưởng trại giam vốn có tiếng là lòng sắt dạ lim, cũng phải động lòng. Anh Lanh nói, mặt vẫn không thôi cau có: - Anh chẳng tiếc chi, nghĩa tử là nghĩa tận. Nhưng khổ cái là chừ không có người áp giải hắn. Số anh em canh trại còn ít quá chỉ đủ để áp giải cả bọn… - Hay anh giao hắn cho em. Em sẽ áp giải hắn đến cho mạ hắn gặp, chỉ một lúc em giải hắn về trả các anh. - Liệu em có áp giải nổi hắn không? Lỡ hắn bỏ chạy ra Hoà Mỹ với tụi giặc thì em làm răng? - Thì khẩu các-bin đây em để làm chi? - Nghi đưa khẩu các- bin ra trước mắt anh, bấm chốc rút băng đạn ra. - Đây anh coi, băng đạn còn đủ cả chín viên. Hắn mà chạy là em bắn ngay. Mà em bắn chẳng tồi đâu. - Nghi lên đạn khẩu các-bin, chỉ một chùm trái chôm chôm rừng cao vút trên ngọn cây ở góc trái sân trại, nói. Nghi đặt khẩu súng lên vai, ngắm và bóp cò. Chùm chôm chôm rơi bịch xuống đất, trái văng tung tóe. - Rứa em phải bảo đảm nghe? - Hắn mà chạy mất thì em xin thế ngay vô chỗ hắn. Anh Trưởng trại bước ra giữa sân gọi: - Tên Mừng đâu? - Dạ, em đây ạ. - Mi đi theo đồng chí này lên Xê-ca Bảy có việc gấp. Anh nhìn Mừng với cặp mắt đe doạ, nói tiếp. - Dọc đường mà mi có ý bỏ trốn thì liệu hồn, như chùm trái chôm chôm tê - Anh chỉ chùm trái chôm chôm lăn lóc trên sân. Chỉ sau hơn mười này sống ở trại giam mà Mừng đổi khác đến không ngờ. Gương mặt em hốc hác, ánh mắt buồn bã, đờ đẫn, cặp môi run run mím chặt. Bộ áo quần kaki ga-bạc-đin nhem nhuốc, lấm lem không còn ra màu sắc gì. Cả con người em toát lên nỗi cam chịu, nhẫn nhục của người biết rằng mình oan uống mà không còn cách gì minh oan được. Em ngẩng nhìn trưởng trại rồi nhìn người bạn cũ, ánb mắt thảng thốt, dò hỏi. Em cúi vội nhìn xuống đất. Em lặng lẽ, ủ rũ bước ra khỏi hàng. Hai cổ tay bị trói bàn tay chắp trước bụng. Nghi nhìn người bạn cũ với cặp mắt vừa ghê tởm, vừa thương xót. "Rốp!" Nghi lên đạn khẩu cac-bin, khoá chốt an toàn, cầm ngang khẩu súng chĩa vào sau lưng Mừng. Em ra lệnh, giọng cộc cằn: - Đi lên Xê-ca Bảy! Mừng cúi gằm mặt lặng lẽ bước đi, lưng hơi gù xuống, dáng đi quen. thuộc của kẻ tù tội. Nhìn một em bé với đáng đi đó, người rắn lòng nhất cũng thấy mủi lòng. Nghi vụt nhớ lại cái đêm ngồi chung với Mừng trên lưng. ngựa phi về làng Phò thăm mạ. "Bữa ni mình cũng đưa hắn đi thăm mạ mà hắn thì phải trói tay, còn mình cầm súng chĩa vô lưng hắn". Em nghĩ vậy và nỗi giận, thương trào lên nghẹn cổ, làm em cũng trở nên lặng lẽ, lầm lì. Đi qua khỏi dốc núi, Mừng hỏi không ngoái đầu lại. - Cậu. Anh - (Quen miệng, Mừng buột gọi Cậu, nhưng em chợt nhớ ra mình bây giờ không được phép gọi người bạn cũ là cậu, nên vội chữa là Anh) dắt tui lên Xê-ca Bảy có việc chi? - Cho mạ mi gặp mi!- Mừng sững sờ quay lại, lắp bắp hỏi: - Mạ tui? Mạ tui?… Anh đừng nôi dối mà tội tui. - Hai mắt Mừng tự đưng nhòe ướt. - Thì đúng là mạ mi… Tau thèm nói láo làm chi? - Nhưng làm răng mạ tui ở trên chiến khu được? - Mạ mi làm tổ trưởng tổ dân quân gánh gạo tiếp tế cho chiến khu. Cơn mi ăn bữa ni là gạo mạ mi đưa lên đó. Tây hắn bắn mạ mi bị thương nặng lắm. Rứa mà mi theo Tây làm Việt gian. - Ui chao, mạ ơi! Mạ! - Mừng bật kêu to rồi quay đầu vùng chạy, Nghi hớt hải lao đuổi theo. Hai tay Mừng bị trói nên chạy được một quãng, vấp phải rễ cây nằm. gồ lên mặt đát, em mất đà ngã vập mặt xuống đất. Mũí em trúng phải hòn đá, máu cam chảy loà lện. Em muốn đứng dậy chạy tiếp, nhưng không chống tay được để lấy dà đứng dậy. Nghi phải cúi xốc vai gỉúp Mừng đứng lên. Mừng đưa lưỡi liếm máu chảy tràn xuống môi, vừa khóc vừa nói: - Anh cởi trói cho tui với, tui mới chạy mau được. Anh ơi, tui sợ không tới kịp… - Nhưng lỡ mi chạy trốn thì răng? Tui còn biết chạy trốn đi mô? - Trốn xuống Hoà Mỹ theo Tây. Chừ Tây đang ở đầy dưới đó! - Tui đời mô theo Tây. Anh cũng nghi tui là Việt gian thiệt? - Cả chiến khu ni ai chẳng biết mi là Việt gian. - Ui chao, răng mà tui khổ ri trời ơi? - Mừng kêu to, loạng choạng ngồi sụp xuống đất như bị ai phang một gậy trúng giữa đỉnh đầu - Rứa thì chừ tui còn biết kêu ai! - Mừng nức nở, nước mắt đầm đìa hai má. Nghi cởi trói cho Mừng. Hai tay được tự do, Mừng đứng bật dậy, vừa quệt nước mắt vừa nói: - Chạy mau anh! Chạy mau cho tui được gặp mạ tui. Hai em chạy đến một ngã ba. Cả hai đường đều đến được Xê-ca Bầy. Đường rẽ trái gần hơn, nhưng phải vòng qua đài quan sát cây Quao. Cả lối mòn phơi mình dưới mưa đạn đại bác và súng cầu vồng, và các loại đạn bắn thẳng của giặc. Con đường rẽ trái lấp bên kia sườn núi, xa hơn nhiều nhưng an toàn hơn. Cả hai lối Mừng đều thuộc lòng, em rẽ lối trái. Nghi chạy sau, quát to: - Không đi đường đó? Quay lại! Mừng quay lại, ngạc nhiên hỏi: - Đường ni gần hơn mà anh? - Nhưng chạy xuống Hoà Mỹ cũng gần! Cặp mắt Mừng vụt lóe ánh giận dữ. Nhưng em không cãi lại. Em nhẫn nhục quay lui, rẽ sang lối phải. Em cắm đầu chạy, chân không bén đất, Nghi theo được Mừng gần đứt hơi, nhưng em không gọi Mừng chạy chậm lại, cứ ráng sức đuổi theo. "Chừ hắn là thằng Việt gian, đời mô chịu để cho hắn biết mình chạy thua hắn!". Em nghĩ vậy. 7 - Mạ ơi! Mạ! Mạ! Con đây mạ! - Từ ngoài cửa lớn, Mừng chạy ào vào, kêu to thất thanh. Tiếng gọi mạ của người chiến sĩ thiếu niên không may gặp phải chuyện oan khuất, có một âm sắc xé lòng, đến nỗi ba mươi năm sau, bác sĩ Lê Khắc Thiền còn nói: "Mỗi lần tôi bất chợt nhớ lại tiếng gọi mạ của em người tôi cứ nổi hết gai ốc!". Từ lúc Nghi xách súng chạy ra khỏi lán, chị tổ trưởng dân công mắt cứ mở trân trân nhìn ra phía cửa lán, người chị gần như bất động. Cả gương mặt chị, từ ánh mắt, từ làn da ngả dần sang màu sáp trong, từ vầng trán xâm xấp mồ hôi, cặp môi héo hắt, ngầm ngập nỗi chờ khắc khoải đến kinh khiếp. Và như kiệt sức vì đợi chờ, chị bắt đầu rơi vào tình trạng hôn mê. Có lẽ lúc này thần chết đang níu kéo chị, và chị tuyệt vọng, bất lực, cố sức trụ lại. Bàn tay chị bíu chặt thành cáng, như người sắp chết đuối bíu chặt mảnh ván thuyền. Mừng ngồi thụp xuống bên cáng, ôm chùm lấy đầu mẹ, lay lay gọi chuyển động cả gian lán. - Mạ! Mạ! Mạ tỉnh lại đi! Con đây mà mạ! Mặt em cúi gần chạm mặt mạ, vừa gọi vừa khóc như mưa như gió. Nước mắt em nóng hổi, lã chã rơi xuống mặt mạ. Có lẽ tiếng lay gọi và những giọt nước mắt nóng bỏng của con trai đã giúp người mẹ vùng ra khỏi cáng tay siết chặt, níu kéo của thần chết. Chị vụt mở bừng mắt, nhìn con trân trân. Chưa bao giờ chị nhìn mặt con sát gần đến như thế. Hình như chị vẫn chưa dứt khỏi cơn mê sảng, có thể chị tưởng là nhìn thấy con trong mơ. Và trí nhớ chị như vụt hồi phục. Cặp mắt chị sống động hẳn lên. Chị đưa hai tay ôm mặt con, kéo sát gần hơn nữa, rồi đẩy ra xa một chút để nhìn cho được rõ. Miệng chị nửa như cười, nửa như mếu. Chị nói, giọng tỉnh táo khác thường: - Con đó à Mừng? Rứa là mạ đã được chộ mặt con… - Ui chao, đời mạ răng mà rủi ro đau đớn đến nước ni, con ơi! Mạ nghe nói con đi theo thằng Năm-ngựa làm Việt gian… Con dại dột quá con ơi… Nhưng cũng do lỗi tại mạ hết… Con hư tại mạ… Chừ mạ sắp nhắm mắt, xuôi tay, mạ phải nói rõ đầu đuôi đời mạ, đời con, cho con biết. Thằng Năm-ngựa không phải cha con mô. Quê mạ con mình tận ngoài Quảng Trị tê. Cha con rủi chết từ lúc mạ có mang con được ba tháng. Cha, mạ thương nhau hung… lỡ ăn nằm với nhau mà chưa kịp cưới xin. Cha con bệnh nặng, nghèo quá không có tiền thuốc thang nên phải chết. Mạ đành mang tiếng gái chửa hoang. Xấu hổ ê chề, mạ bỏ trốn khỏi làng, lần mò vô thấu Huế, tìm đường sinh sống, chờ ngày sanh con. Mạ tứ cố vô thân, khờ dại quá, không biết làm chi ngoài việc hàng xéo, hàng xay. Mạ đi ăn mày ăn xin thì mạ không quen. Nhiều lúc mạ đã định nhảy xuống sông trầm mình cho xong một đời, nhưng nghĩ đến giọt máu cha con để lại trong bụng mạ, nên mạ phải gẳng gỏi sống mà đợi ngày… Rồi đến bước cùng quẫn quá, mạ đành phải bán thân nuôi miệng, làm gái đĩ trên sông… Bởi rứa mà có lần con chạy chơi mô vể, con kêu: "Con đĩ! Con đĩ ". Mạ thất sắc hết hồn: Mạ sinh con, đem gửi con cho mệ Lạp dưới làng Phò, thuê mệ trông nom nuôi nấng con. Tháng tháng được đồng mô mạ gom góp đưa hết cho mệ trả tiền công nuôi dưỡng con… Mệ Lạp mà con tưởng là mệ ngoại con đó. Năm con hơn một tuổi, chập chững tập đi, thì mạ gặp thằng Năm-ngựa là đứa du côn chuyên nghề đâm thuê chém mướn. Hắn lăn lóc say mê chút nhan sắc thừa của mạ, xin bỏ tiền chuộc ra khỏi tay mụ trùm, cưới mạ làm vợ. Mạ giao hẹn với hắn: Nếu anh chịu nhận thằng con tui là con đẻ của anh, thì tui xin theo không anh, chẳng cần cưới hỏi làm chi. Để con tui được có cha. Tôi xin suốt đời hầu hạ anh như đứa ở, anh muốn hành hạ chi tui cũng xin chịu… Mạ sợ con lớn lên, biết mình không có cha, con tủi hổ với bạn bè. Hắn lấy mạ, rồi đánh đập hành hạ mạ, như răng thì con biết rồi… Hắn là đứa giết người không gớm tay, là đồ bạc ác bất nhơn. Róc xương róc tuỷ mạ. Hắn đòi chi mà mạ không kịp cho thì hắn doạ: "Tao sẽ nói cho thằng con mi biết tao không phải là cha hắn, mà mi là đồ con đĩ. Con mi hắn sẽ khinh mi như con chó!". Kể đến đó, môi chị bỗng run rẩy, láp bắp cái gì đó không thành tiếng, và nước mắt bật trào chảy như xối. Chị cầm lên một. mớ tóc chùi nước mắt, rồí níu mặt con sát gần mặt mình, kể tiếp: "… Rồi hắn bỏ đi lấy vợ khác, mà vẫn không thôi quay về hành hạ mạ, róc xương róc tuỷ mạ. Mạ phải mang nợ hắn suốt đời con ơi. Hắn cướp cả đôi bông tai vàng một chỉ mà mạ để dành để dụm, để sau ni cưới vợ cho con… Rồi mặt trận Huế bùng nổ, con trốn nhà đi Vệ Quốc Đoàn. Mạ cứ tưởng con chết sông chết hói, mạ đã định ra sông trầm mình mà chết theo con. Mạ sống là vì con. Mạ phải chịu trăm cay nghìn đắng, nhục nhã ê chề, lút mày lút mặt cũng vì con. Con mà chết rồi thì mạ còn biết sống làm chi. Rồi mạ hay tin con đi Vệ Quốc Đoàn, mạ mừng biết mấy. Con theo chánh phủ, theo kháng chiến, đời con rứa là được nên người. Mạ trông ngày trông đêm cho mau đến ngày nước nhà độc lập, cho mạ con mình được gặp nhau. Rồi bể mặt trận… Vệ Quốc Đoàn ta chạy tứ tán, mạ không biết con còn sống hay chết, con còn theo Vệ Quốc Đoàn hay thất lạc đi mô… Mạ gánh gánh bún trên vai, bán mua đắp đổi qua ngày, đi. hết làng này qua làng khác từ đầu tỉnh đến cuối tỉnh, cốt để dò la tin tức con. Mạ đến làng mô, họ cũng nói: "Chị muốn tìm Vệ Quốc Đoàn thì phải lên côi xanh(1) mà tìm". Rứa là mạ xin đi tiếp tế các chiến khu - Tỉnh Thừa Thiên mình có bao nhiêu chiến khu mạ đều có đến hết. Nhưng mạ chẳng thấy tăm dạng con mô. Mạ đang ở dưới Thệ Chí thì nghe tin chiến khu Hoà Mỹ giặc nhẩy dù, bao vây chiến khu, Vệ Quốc Đoàn ta cạn lương sắp chết đói. Mạ liền đôn đáo chạy tới xin các anh du kích, cho mạ đi tiếp tế gạo, muối. Bom rơi đạn nổ mạ cũng liều… chỉ có chiến khu Hoà Mỹ là mạ chưa tới, chưa chừng con mình hắn đang theo Vệ Quốc Đoàn, đánh giặc trên đó… Mạ nghĩ rứa mà mạ bị Tây bắn nát chân, thủng bụng; mạ cũng gắng gùi gạo bò lết cho thấu chiến khu, con ơi". Rứa mà chừ mạ được gặp con thì té ra con đi làm Việt gian, bị Chánh phủ giam tù. Ôi chao, đau lòng mạ quá con ơi! Biết nông nỗi ni thì mạ đừng gặp con còn hơn!… Giọng chị vụt nghẹn tắc. Một nỗi đau đớn khủng khiếp chẹn ngang cổ chị. Cả người chị bỗng rung lên lẩy bẩy như con cá nằm trên thớt bị một lát sống dao giữa đỉnh đầu. Mấy vết thương ở bụng chị máu lại ộc ra rịn thấm qua tấm chăn đắp. Chị co giật liên tiếp rồi tay chân duỗi thẳng, đầu ngật sang một bên, bất động. Bác sĩ Thiền và mấy chị y tá, hộ lý xúm lại quanh chị, định tiêm thuốc cấp cứu. Bác sĩ Thiền vạch mi mắt chị, nhìn rồi lắc đầu: - Muộn mất rồi!… Chị đã trút hơi thở cuối cùng. Mừng hai tay ôm chặt lấy đầu mạ, mắt nhìn trân trân không chớp. Cả người em như chết lặng, nét mặt ngơ ngác, hoảng loạn. Rồi em như vụt hiểu ra: Nỗi khủng khiếp nhất đời em đã điểm? Miệng há to, đôi mắt sưng vù vì khóc, cặp môi run bần bật, em bỗng thét to đến bất ngờ: - Mạ! Mạ. Không phải! Không phải! Con không phải Việt gian! Con là Vệ Quốc Đoàn! Mạ ơi! Tiếng kêu thét của Mừng có một âm hưởng xé ruột, làm mọi người rởn hết gai ốc. Em sà vào ngực mạ, ôm đầu mạ nâng khỏi cái gối bao tải. Em vừa lay lay đầu mạ vừa ngó mặt mạ với ánh mắt đau đớn đến điên dại. Em vừa khóc vừa kêu la tuyệt vọng, lặp đi lặp lại một câu: - Con không phải Việt gian! Con là Vệ Quốc Đoàn! Những người đứng chung quanh đều nước mắt ngắn dài. Nỗi đau đớn đến điên dại và tiếng kêu la tuyệt vọng của Mừng, làm cho mọi người trong khoảnh khắc vụt có ý nghĩ: "Hay là nó bị nghi oan thật? Có lẽ nào sự giả trá lại biểu hiện được một nỗi đau đớn kinh khiếp đến như vậy?. Nhưng mọi người không kịp nghĩ thêm gì nữa, vì đạn đại bác giặc đã bắn chuyển làn. Đạn mỗi lúc rơi một dồn dập xuống khu vực quanh bệnh viện. Tiếng gầm rít của phi cơ phóng pháo giặc, xé ngang cắt dọc bầu trời chiến khu. Không thể nấn ná thêm được nữa, phải rút ngay khỏi khu vực bệnh viện như chỉ thị của trung đoàn trưởng. Các anh chị y tá, hộ lý, bác sĩ Thiền, cả em Nghi cùng xúm lại đào huyệt để mai táng mẹ của Mừng. Huyệt đào dưới gốc cây vả rừng lưng dốc núi, kề bên ngôi lán cuối cùng. Chính cây vả rừng này em Quỳnh vẫn thường ra hái lá để viết vở nhạc kịch kể chuyện Mừng đi tìm thuốc cho mạ. Xác chị tổ trưởng đân công anh hùng được bọc trong chiếc chăn đơn cũ kỹ loang lổ chính máu chị. Mừng như đã hoá điên, cứ ôm chặt lấy xác mẹ, không cho mang đi chôn. Mọi người phải gỡ em ra, ôm chặt lấy em, mới đưa được xác chị. Xác chị vừa được đặt xuống đáy huyệt, Mừng đã vùng vẫy thoát ra khỏi tay người ôm giữ. Anh y tá phải kêu lên: "Nó khỏe cách chi trời ơi!". Mừng nhào xuống đáy huyệt, ôm chặt xác mạ, nức nở kêu gào: - Con không phải Việt gian! Con là Vệ Quốc Đoàn mạ ơi! Mọi người phải khó nhọc mới kéo được em lên để lấp đất. Nghi vừa quệt nước mắt, vừa nói với Mừng: - Chừ mi phải về, không các anh chờ. Nghi khoác súng vào vai, cầm tay Mừng lôi kéo mếu máo, van vỉ: - Đi! Đi! Mi đi cho tau nhờ với! Tau đã xin cho mi đi gặp mạ, chừ mi phải biết thương tau… Mừng như người mất hồn, lảo đảo bước theo bạn. Đại bác nổ rất gần, em cũng chẳng buồn cúi núp. Mỗi lần nghe tiếng đạn rít xèo xèo, Nghi phải chụp tay Mừng, kéo nằm rạp xuống tránh đạn. Nghi nổi xung, gắt um: - Mi phải núp chứ, lỡ trúng đạn thì làm răng? Mừng khóc hu hu: - Chừ tui núp mà làm chi! Cho hắn bắn chết quách tui đi cho rồi! Máy bay giặc bắt đầu bắn và dội bom xuống cánh rừng hai em đang băng qua. Khắp bốn phía núi ùn ùn dựng lên các cột khói còn cao hơn cả ngọn cây rừng cao nhất. Núi lay, cây đổ, đất đá từng tảng lớn quăng ngược lên trời. Mửng vẫn cứ bước đi lừng lững như không hề nghe thấy gì. Em nói như trong cơn mê sảng: - Con mang phải tiếng xấu Vìệt gian. Chừ mạ cùng chẳng tin con… Mạ ghét con… Mạ nói thà mạ đừng gặp con còn hơn… Con làm răng nói cho mạ biết được chừ… Đi đến chỗ ngã ba, một quả bom đen chũi lao xuống ngay sườn núi trước mặt. Nghi hoảng hồn, nhào xuống một cái hố đại bác cạnh lối đi. Núi rung lên, lở ào. Một thân cây bằng người ôm bị mảnh bom phạt đứt đổ nằm ngang trên miệng hố. Em không núp nhanh chắc đã bị thân cây đè chết. Em chưa kịp ngẩng đầu lên, một loạt đạn đại bác đã nổ rầm rầm xung quanh. Dứt đợt nổ, Nghi nhảy lên miệng hố thì Mừng đã biến mất. Chú thích: (1) Trên núi 8 Trong lúc Nghi còn năm dưới hố đạn tránh bom Mừng như vụt bừng tỉnh cơn mê sảng, cắm đầu chạy lộn lại phía Xê-ca Bảy, theo con đường vòng qua đài quan sát cây Quao. Em chạy như trong cơn mê, không chú ý đến tiếng bom đạn gào rú quanh mình. Con đường lúc này bị bom đạn cày nát, ngổn ngang những cây đổ, những đất đá sụt từ đỉnh núi xuống chắn ngang lối đi. Em vọt qua, chui qua, trèo qua, không một chút ngập ngừng, ngạc nhiên, tưởng như em đã từng qua lại trên con đường như thế cả trăm lần rồi. Nhưng khi chạy đến chân đài quan sát cây Quao, em phải đứng sững lại. Quang cảnh bày ra trước mắt em kinh hoàng, dữ dội đến nỗi em phải đứng chết lặng, miệng há hốc như con cá bị lôi lên khỏi mặt nước. Quanh gốc cây chân đài quan sát, đất đá rễ cây, bị cày nát, xé tướt, lá tươi rụng rào rào như mưa. Nằm quanh gốc cây là năm xác người. Ba xác các bạn Châu, Hiền, Hoà-đen, và hai anh lớn. Các anh, các bạn nằm lẫn lộn với lá tươi rụng, cành cây gãy, rễ cây bị xé nát. Tất cả áo quần của năm người đều ướt sũng máu. Châu-sém bị trúng đạn đum đum, bụng mở phanh. Hiền bị đạn vào ngực. Hoà-đen bị mảnh bom phạt cụt một chân. Bạn nào cũng nằm chết trong tư thế co quắp, đầu và thân hình bị dập nát vì ngã nhào từ trên ngọn cây chót vót xuống đất. Em nhìn trật sang cái thang tre, thấy đội trưởng nằm dựa đầu vào nấc thang cuối cùng, và chỉ còn một cánh tay. Hình như anh vừa đặt chân trèo lên thang thì bị trúng đạn. Tít trên cao, chỗ đặt đài quan sát, chuông điện thoại đổ dồn leng keng không ngớt. Mừng chạy xô lại, áp tai vào ngực đội trưởng thấy tim anh vẫn còn thoi thóp đập. Em túm tóc mai anh giật giật, lay gọi anh. Anh hồi tỉnh, mở bừng mắt nhìn em đăm đăm. - Mừng đó à, răng em lại ở đây? - Mẹ em chết rồi. - Mừng nức nở cố nén không khóc. - Mẹ em cũng nghi em là Việt gian. Chừ em phải đến chỗ mẹ em… Em phải nói răng cho mẹ em đừng nghi em nữa… Tiếng chuông điện thoại từ trên ngọn cây vẫn leng keng dội xuống từng hồi, hối thúc, cấp bách… Cặp mắt đội trưởng vụt sáng lên mừng rỡ. Anh nói như reo: - Đã nối được đường dây rồi! Mừng. - Đội trưởng gọi và giọng anh trở lại giọng người chỉ huy lúc ra lệnh chiến đấu. - Em trèo mau lên ngọn cây cầm ống nghe báo cáo với Trung đoàn trưởng: Cách đây hai mươi phút đài quan sát bị địch phát hiện. Chúng tập trung hoả lực tiêu diệt đài quan sát. Đường dây bị đứt. Anh chạy đi nối lại được đường dây, về đến chân thang thì bị trúng đạn đại bác… Em chú ý quan sát, lúc thấy toán địch đi sau cùng, qua khỏi bãi trống thì báo ngay cho trung đoàn trưởng biết. Em nhớ rõ chưa? Đội trưởng chưa kịp nghe Mừng trả lời thì đã ngất đi, mê man… Mừng vùng đứng ngay dậy. Tất cả vẻ ủ rũ, đau đớn, tuyệt vọng trên toàn bộ con người em, thoắt biến mất. Em lúc này đã trở lại tư thế quyết liệt của người chiến sĩ quyết tử lúc nghe vang lên tiếng kèn xung phong trận. Tiếng máy bay gầm rú trên ngọn cây. Đạn đại bác và các loại súng cầu vồng nổ chát chúa quanh chân đài quan sát. Súng bắn thẳng bẻ, xé các cành cây trên đỉnh đài, tuốt lá tươi ném tới tấp xuống đầu cổ em, xuống xác các đồng đội đang nằm ngổn ngang quanh em. Mảnh đạn, đạn cháy, đạn đum đum, mảnh bom, bay rít quanh em như ong vỡ tổ. Và nổi bật lên tất cả là tiếng chuông điện thoại từ trên đỉnh đài quan sát đổ hồi leng keng không ngớt. Tất cả những cái đó, cùng một lúc đã làm cho khí phách chiến sĩ lúc xung trận trong em bừng sống dậy, với tất cả sức mạnh tinh thần của nó: Nó chiếm lĩnh toàn bộ con người em, từ mỗi thớ thịt, mỗi nhịp tim đập. Em thoăn thoắt trèo ngược các bậc thang tre cao ngất nghểu, cố chiếm lấy đỉnh đài quan sát trước khi bị địch bắn hạ. Khi chỉ còn cách chỗ cành cây đặt máy điện thoại mấy nấc thang cuối cùng, em bỗng lạng người, suýt ngã lộn nhào xuống đất. Một bên hông em buốt nhói ghê gớm. Em cúi nhìn thấy vạt áo bên hông trái đầm đìa máu. Nhưng em gắng hết sức để không ngã. Trèo nốt những nấc thang cuối cùng lên đến chạc ba cây, và chụp lấy cái ống nghe điện thoại. 9 Trong hầm chỉ huy, trung đoàn trưởng đã gần như tuyệt vọng. Ông nghe điện thoại áp sát tai, ông đã gọi suốt hai mươi phút liền vẫn không nghe tiếng đài quan sát cây Quao trả lời, chỉ có tiếng nổ lục bục liên hồi vang dội trong ống nghe. Tiếng đạn nổ. Ông chắc bọn địch đã đánh vào đài quan sát và các chiến sĩ trinh sát phụ trách đài đã bị giết. Hai cán bộ tham mưu ngồi cùng hầm với ông, đã được ông cử đến tăng viện cho đài quan sát mười lăm phút trước đây. Nhưng ông không hy vọng lắm họ có thể đến nơi. Ông biết con đường đến đài quan sát đang bị bọn địch tập trung đánh phá dữ dội. Trong hầm lúc này chỉ còn một mình ông. Ở hầm bên cạnh, anh chiến sĩ công binh phụ trách nổ mìn, vài phút lại hỏi vọng sang: - Đã sắp chưa anh? Ông càng thêm cháy ruột cháy gan. Mất liên lạc với đài quan sát, trận địa mìn sẽ như người khổng lồ mù mắt, nó có thể dồn tất cả sức mạnh khủng khiếp của nó đánh vào chỗ trống không. Vừa lúc đó, trong ống ghe bỗng vang lên giọng trẻ con: - A lô! A lô Trung đoàn trưởng, trung đoàn trưởng! Ông mừng đến nghẹn thở: - Làm sao hai mươi phút qua im bặt thế? - Dạ, đài quan sát bị đánh. Cả tổ quan sát hy sinh rớt hết xuống chân đài. - Đội trưởng đâu? - Dạ, đội trưởng cũng hy sinh rồi, nằm dưới chân thang. - Thế em là ai? - Dạ em là thằng Mừng… - Mừng?… Có phải chú Mừng… - Dạ, em bị cả chiến khu nghi là Việt gian… Em bị bắt giam ở Xê-ca Năm… Bất thình lình em chạy qua đây. Đội trưởng giao nhiệm vụ cho em. - Hiện lúc này em có làm sao không? - Dạ, tụi địch đang bắn vô đàỉ quan sát dữ lắm. Em bị thương ở hông, ở chân. Nhưng em vẫn quan sát được. - Bọn địch đã vào đến bãi trống chưa? - Dạ, tụi đi đầu mới bắt đầu vô. Đi trước có toán người rất đông không mang súng, chỉ mang vác các hòm đạn… - Dạ toán tiếp theo toàn Tây đen, Tây trắng, đi hàng bốn. - Dạ toán đi giữa đang đi thì đứng lại, chỉ chỏ cái chi đó… - Tụi hắn không đi mà nằm lại hai bên đường chĩa súng vô núi bắn rầm rầm. - Dạ, toán cuốì cùng rất đông… - Giọng báo cáo bỗng tắt lại có đến nửa phút. - Dạ, tụi hắn đã vô hết bãi trống… Trung đoàn trưởng đứng dậy trong hầm chỉ huy hô to: - Nổ mìn. Một tiếng nổ làm rung cả ngọn núi ông đang ngồi và tiếp liền đó là hàng trăm tiếng nổ tlếp theo như sấm sét, trùm lấp cả tiếng máy bay, tiếng đại bác giặc. Trung đoàn trưởng thét lên trong ống nghe: - A lô! A lô! Em Mừng! Em Mừng! Không có tiếng trả lời. Ông gọi lại: - Mừng! Mừng! Em còn trên đó không? Tiếng người chiến sĩ thiếu niên trinh sát bỗng đột ngột vang lên bên tai ông, yếu ớt nhưng rành rọt lắm: - Dạ em đây. Tụi Tây chết nhiều lắm. Em bị thương nặng. - Mừng! Mừng! - Anh ơi, anh đứng nghi em là Việt gian nữa anh hí! Lời cầu xin khẩn thiết cuối cùng của người chiến sĩ thiếu niên vừa tròn mười ba tuổi đời, yếu ớt và nhỏ gần như một hơi thở, nhưng trong khoảnh khắc ấy đã trùm lấp cả tiếng bom đạn giặc, và cả tỉếng sấm rền của trận địa mìn đã làm tanh bành hơn hai đại đội giặc. Cuộc tấn công tổng lực của giặc vào chiến khu Hoà Mỹ đả hoàn toàn bị bẻ gẫy. Nỗi kinh khiếp trận địa lôi chiến làm bọn giặc ngày đêm hôm đó dạt sang bên kia bờ sông Ô Lâu. Cũng đêm hôm đó. toàn bộ chiến khu đã rút khỏi vùng rừng núi Hoà Mỹ, dời thẳng về Dương Hoà một vùng đất đai núi non nằm dọc bên tả ngạn thượng nguồn sông Hương. Và làng Dương Hoà trở thành chiến khu Dương Hoà, chiến khu đầu não của tỉnh Thừa Thiên. Trước giờ lên đường vể chiến khu mới, những đơn vị rút lui cuối cùng đã làm lễ mai táng cho các chiến sĩ trinh sát phụ trách đài quan sát cây Quao. Họ đào huyệt chôn các em, các anh, gần chân đài quan sát. Riêng em Mừng, trung đoàn trưởng cho đưa thi hài em chôn bên cạnh mẹ em dưới bóng cây vả rừng cổ thụ. Cây vả rừng mà Quỳnh-sơn-ca thường hái những ngọn lá ngả màu vàng chanh làm giấy chép nhạc, viết vở nhạc kịch mộng tưởng của đời mình, kể chuyện bạn Mừng đã trèo tuốt tất cả những đmh cây cao của thành phố quê hương để tìm thuốc về chũa bệnh cho mẹ. Ngọn núi có cây vả rừng cổ thụ từ trước đến nay không có tên. Trong bản đồ tham mưu được ghi là đỉnh Chín Sáu. Sau đêm hôm đó, ngọn núi đã được có tên: Núi-Mẹ-Con-Em-Mừng. Hết Khởi thảo bên bờ Hồ Tây năm 1968 Hoàn thành trong lều cỏ giữa hồ Tịnh Tâm năm 1986.
|