Tuổi Thơ Dữ Dội
|
|
Chương 23: Phần Thứ Bảy (7) 7 Bồng-da-rắn, Châu-sém và Hiền sau ngày ở Sịa rút lên chiến khu, được đội trưởng phân công thành một tổ trinh sát chuyên việc bám vị trí địch, theo dõi điều tra tình hình địch. Ba em được giao nhiệm vụ bám vị trí Đất Đỏ. Các em trà trộn trong dân các xóm quanh đồn, nằm sát bên nách đồn, bám riết giặc suốt ngày đêm. Nhiều lần Bồng và Châu còn lọt hẳn vào bên trong đồn bằng cách đi theo những toán người bị bọn giặc lùa từ các làng, đưa về làm phu đào hào, đắp luỹ, xây công sự… Điều tra được gì, hai em về kể lại với Hiền. Hiền ghi ra giấy, vẽ thành bản đồ, đưa lên chiến khu nộp cho đội trưởng. Nửa tháng trời lăn lóc bến nách giặc, giữa lòng giặc, ba em đã trả lời khá đầy đủ những yêu cầu về trinh sát vị trí Đất Đỏ mà Ban tham mưu trung đoàn đề ra. Hoàn thành nhiệm vụ, đội trưởng ra lệnh cho tổ trinh sát rút về chiến khu. Một đêm tháng tư năm 1947, trận đánh vị trí Đất Đỏ của trung đoàn 101 đã diễn ra vô cùng gay go và ác liệt. Mãi đến ba giờ sáng vị trí mới bị quân ta tiêu diệt hoàn toàn. Lửa đốt đồn sáng rựng cả một vùng đồi núi Hoà Mỹ và khúc sông Ô Lâu lượn qua gẩn đó. Đội quân giặc thiện chiến "Tuần tiễu núi An-pơ" đã bị xoá sổ vĩnh viễn tại một làng bán sơn địa gần kề chân núi Trường Sơn. Đó là trận chiến thắng đầu tiên và vang dội nhất của trung đoàn 101 (trước kia là trung đoàn Trần Cao Vân) kể từ ngày mặt trận Huế vỡ. Trận thắng đã mở đầu cho phong trào quật khởi của chiến trường Bình Tri Thiên, được Bộ Tổng tư lệnh ghi vào Sổ Vàng kháng chiến toàn quốc. Tổ Thiếu niên trinh sát Bồng-da-rắn, Châu-sém và Hiền cũng được trung đoàn cho tham gia trận đánh, làm nhiệm vụ dẫn đường và liên lạc. Chiến lợi phẩm mà Bồng-da-rắn đặc biệt quan tâm trong trận tiêu diệt vị trí Đất Đỏ là lá cờ tam tài mới tinh, rộng gần bằng chiếc chiếu, mà cứ sáng sáng bọn giặc lại kéo lên đỉnh cột cờ trước sân đồn, trong tiếng kèn tọ tí te. Mỗi lần có dịp lẻn vào vị trí, Bồng đều nhìn lên cột cờ, ước lượng chiều dài và chiều rộng của mỗi khổ vải xanh, trắng, đỏ, may thành lá cờ. Em lân la tìm đến ông thợ may trong xóm, hỏi ông: hai mảnh vải trắng và xanh với chừng ấy chiều dài, chừng ấy chiều ngang, có may đủ một áo sơ mi và một quần soóc không? Ông thợ may nhẩm tính toán một hồi và trả lời có thể may đủ nếu biết cắt khéo như ông. Từ hôm đó, lúc thức cũng như lúc ngủ, Bồng-da-rắn không ngớt mơ đến bộ quần áo mới may bằng vải cờ của giặc. Trong đội, Bồng là một trong mấy đứa áo quần rách rưới tả tơi nhất. Nhất là cái quần đùi, rách hở trước, hở sau… Những lần phải về đồng bằng công tác, phải đi qua những xóm làng có dân ở, trời nắng cũng như trời mưa, Bồng đều phải mang cái áo tơi lá xù xù như thằng bắt trộm gà để che cái quần rách. Có lần Bồng đi về xã Phong Diêu gặp đúng lúc đội Thiếu nữ Tiền phong xã tổ chức liên hoan văn nghệ. Biết Bồng là chiến sĩ ở chiến khu về, các bạn gái nhất định mời bạn trai Vệ Quốc Đoàn lên kể chuyện chiến khu. Kể chuyện thì Bồng không sợ. Bồng có tài kể chuyện mà ngay cả Tư-dát cũng phải phục. Tư-dát mỗi lần nghe Bồng kể chuyện những chuyến đi trinh sát, đều phải tắc lưỡi nói: "Mi mà viết được ra giấy những chuyện mi vừa kể, thì có thể gửi về Huế in bán chạy không thua chi chuyện kiếm hiệp của ông Lý Ngọc Hưng"(1). Hiềm một nỗi cái quần đùi rách quá mà Bồng không thi thố được tài kể chuyện với các bạn gái. Không lẽ mang tơi lá xù xù đứng trên sân khấu mà kể chuyện? Giận cái quần đùi rách. Bồng giận lây sang các bạn gái, đội Thiếu nữ Tiền phong. Bồng sa sầm nét mặt, nói với mấy bạn gái trong ban chấp hành Đội Thiếu nữ đến mời Bồng mang tơi trong lúc nói với giọng khá cục cằn: - Tui không biết kể chuyện? Tui còn mắc việc chiến khu! Rồi Bồng vùng bỏ chạy trước những cặp mắt ngơ ngác của các bạn gái. Em chạy thục mạng ra giữa cánh đồng, chui vào một ngôi miếu cổ đổ nát. Em vứt cái tơi lá xuống nền miếu, ngồi dựa lưng vào tường miếu đổ nát, nhìn lại cái quần đùi rách hở trước hở sau, khóc tấm tức dưới bầu trời chiều giăng giăng mưa bụi. Trong giây phút đắng cay khốn khổ đó, Bồng sẵn sàng đổi một cánh tay để lấy một cái quần lành lặn. Bởi vậy, trong suốt thời gian bám vị trí Đất Đỏ, Bồng không phút nào rời mắt lá cờ tam tài trên cột cờ trước đồn giặc, với nỗi đợi chờ khắc khoải một bộ áo quần lành lặn, để có thể thi thố tài kể chuyện trước mặt các bạn gái. Hai giờ sáng hôm đó, lúc cùng với các anh lớn xung phong vào đồn giặc, giữa cảnh súng đạn nổ rầm trời, Bồng đã trèo phắt lên đỉnh cột cờ đoạt lấy lá cờ xanh trắng đỏ. Em gấp lá cờ lại, quấn tròn quanh bụng, lấy dây điện thoại buộc chặt và phủ cái áo rách ra ngoài. Thế là bộ áo quần bao lâu mơ ước đã cầm chắc trong tay? Bồng vui sướng hả hê. Tuy nhỏ nhưng Bồng là một chiến sĩ từng trải, khôn ngoan. Em biết việc này nếu để lộ ra, lá cờ sẽ bị Trung đoàn thu hồi vì đó là chiến lợi phẩm - kỷ luật chiến lợi phẩm ngày đó vô cùng nghiêm ngặt. Diệt xong đồn, thu xong chỉến lợl phẩm, thì đã gần bốn giờ sáng. Bộ đội đánh đồn được lệnh cấp tốc rút về chiến khu, đề phòng giặc phản kích. Bồng và Châu-sém lúp xúp chạy sau cùng hàng quân. Quá mải sướng vì lá cờ tam tài vừa đoạt được nên rút về gần đến chiến khu, Bồng mới sực nhớ ra điều quan trọng, hỏi Châu-sém: - Lấy được mấy khẩu Moóc-chê sáu mươi? - Ba Đang chạy, Bồng đứng sững ngay tại giữa đưởng như hai chân bị con đường mút chặt. Em trợn tròn mắt, hỏi Châu-sém gần như quát: - Răng lại có ba khẩu? Mi có chắc không? - Tau được phân công trong đội thu chiến lợi phẩm, răng lại không chắc? Bốn khẩu chứ răng lại ba? Lần cuối cùng vô trinh sát đồn, tau cũng đã đếm lại, còn đủ nguyên cả bốn khẩu. Thôi chết cha rồi? - Bồng thảng thốt la to - Đúng là mấy cha thu chiến lợi phẩm tìm không kỹ, để sót mất một khẩu! Làm ăn chi lạ! Bồng-da-rắn nổi tiếng trong đội là đứa nóng tính. Khi đã nổi nóng em không còn biết kiêng sợ ai. Cả các anh lớn em cũng quát nạt sừng sộ, đôi khi còn văng tục bạt mạng. - Chừ tau với mi phải quay lại tìm cho ra khẩu moóc-chê sót Đi mi! Tau chắc là hắn bị gạch, đất lấp kín nên các anh không ngó thấy… Lúc này các anh rút lui đã bỏ lại hai đứa khá xa. Châu-sém ngập ngừng: - Biết có tìm thấy không mà lỡ tụi hắn kéo quân tiếp viện lên thì chạy răng cho kịp? Thôi bỏ quách cho rồi. - Bỏ! Bỏ? Bồng tức tối càng la to hơn. - Khẩu moóc-chê của người ta mà mi làm như thanh mã tấu không bằng? Mi coi cả trung đoàn mình được mấy khẩu? - Bồng chụp lấy tay Châu-sém lôi kéo. – Đi! Đi! Mi mà không chạy lui tìm khẩu moóc-chê với tau thì từ giờ trở đi không có bạn bè chi hết! Hai đứa chạy lộn trở lại. Đồn giặc vẫn đang nghi ngút cháy. Chốc chốc một tràng đạn lấp trong đất đá bén lửa nổ bùng bùng làm than lửa tung lên mờ mịt. Hai đứa giẫm lên đá, lên gạch vụn lên lửa, lên than, lên những vũng máu lép nhép, bới chỗ này, móc chỗ kia. Trời vừa tờ mờ sáng, hai đứa moi lên được khẩu moóc-chê sáu mươi ly nằm lấp dưới đống gạch vụn và mấy thanh xà gỗ nghi ngút khói. Khẩu moóc-chê còn nguyên cả nòng, cả đế, cả máy ngắm. Bồng sướng quá vừa nhảy, vừa la, vừa cười ha hả: - Tau nói có sai mô! Bốn khẩu là đúng bốn khẩu! - Bồng ôm cái nòng thép vào lòng, lấy áo lau lau lớp bụi, rồi rung rung như kiểu bồng ru em, vừa cười tít mắt vừa nói nựng. - Khổ thân con chưa tề! Khổ thân con chưa tề! Chút nữa thì cha bỏ con lại cho Tây, để Tây hắn mang con ra bắn lại cha bùm bùm tề ề ề... Điệu bộ mừng rỡ nhu điên của Bồng không làm Châu-sém cười theo mà tự nhiên em ứa nước mắt. Châu-sém vác cái đế, Bồng vác cái nòng, chạy một mạch về chiến khu, vô thẳng Xê-ca Một nộp cho Ban Tham mưu Trung đoàn. Trung đoàn trưởng sai o Chanh cấp dưỡng, nấu một nồi chè đậu đen đầy mập để tưởng thưởng cho chiến công xuất sắc và bất ngờ của hai chú liên lạc. Ông ngồi nhìn hai em sì soạp húp chè, nhìn khẩu moóc-chê chiến lợi phẩm dựng ở góc lán, nòng và đế súng máy ngắm còn lấm láp bụi đất như củ sắn mới nhổ lên… Lòng ông rưng rưng cảm động. Và ý nghĩ hôm nào lại trở lại day dứt trong trí nhớ của ông: "Trên chiến luỹ kháng chiến của chúng ta xuất hiện bao nhiêu Ga-vơ-rốt! Những Ga-vơ-rốt Việt Nam chịu thương chịu khó, tần tảo, bòn mót vũ khí giết giặc như con nít nhà nghèo mót lúa bòn khoai". Húp hết hai tô con chè nóng phỏng lưỡi Bồng-da-rắn và Châu-sém người toát mồ hôi đầm đìa. Ghẻ và rận đua nhau tấn công hai em. Hai em thấy khắp người ngứa điên. Quên cả lễ phép, hai em cởi phăng luôn áo để sang bên cạnh, và tiếp tục tấn công nồi chè với tốc độ chớp nhoáng hơn, vì chè đã bắt đầu hơi nguội. Trung đoàn trưởng chỉ cuộn vải xanh, trắng, đỏ Bồng cuốn quanh bụng và buộc chặt bằng sợi dây điện thoại, hỏi: - Chú mày cuộn tấm vải gì quanh bụng mà ràng rịt cẩn thận thế? Bồng ngừng húp chè, mắt ngớ ra. Chè đậu đen hấp dẫn quá làm em quên mất lá cờ chiến lợi phẩm định thu giấu. Em đành bối rối, xấu hổ thú nhận: - Dạ… lá cờ tam tài của tụi hắn em lấy được trên cột cờ giữa sân đồn… Em định giấu các anh, lấy vải may bộ áo quần. áo quần em rách hết… - Chú mi đừng có làm tầm bậy? - Trung đoàn trưởng nói giọng quở trách, mở rộng lá cờ ra ngắm nghía. - Đây là một chiến lợi phẩm hết sức quan trọng của trận đánh, còn quan trọng hơn cả khẩu moóc-chê kia nữa? Trung đoàn sẽ gửi lá cờ này ra Bộ Tổng tư lệnh cùng với bản báo cáo trận đánh. - Dạ, em cứ nghĩ hắn chẳng có gì giá trị chi em mới dám liều giấu các anh. - Bồng ấp úng thanh minh. Trung đoàn trưởng gấp lá cờ lại để trên bàn làm việc. Ông đến đầu hồi ngôi lán, lấy ba lô của mình treo trên con sỏ tre, mở nắp lôi ra một bộ áo quần ka ki ga-bạc-đin màu xanh lá cây còn khá mới. Ông đưa bộ áo quần của mình cho Bồng và nói: - Đây anh cho chú mày. Chỉ cần nhờ các chị sửa ngắn lại một chút là chú mày mặc vừa. Bồng đang bưng tô chè húp, liền đặt vội xuống bàn. Em đứng phắt dậy, đưa bàn tay lên, trở sống bàn tay đen chũi nhanh nước chè dính quanh miệng. Em nói với vẻ mặt và giọng hết sức nghiêm trang: - Thưa anh, không phải em chê, nhưng anh cho phép không nhận. Anh là trung đoàn trưởng, phải ăn mặc tử tế. Còn tụi em ăn mặc rách rưới loàng xoàng răng xong thì thôi. Hết ạ? Bồng lại ngồi xuống tiếp tục húp chè. Trung đoàn trưởng đăm đăm nhìn em. Trong khoảnh khắc đó ông vụt nhận ra rằng trước mặt ông không phải chỉ là một chú bé mà là một chiến sĩ; một đồng đội, với tư cách hết sức đoàng hoàng, buộc những người tiếp xúc, đối thoại phải kính trọng. Ông lặng lẽ cất bộ quần áo vào ba lô. Bồng-da-rắn và Châu-sém đua nhau tấn công nồi chè đậu đen không một chút khách khí cho đến lúc no căng cả bụng, không tài nào nuốt thêm được nữa mới chịu bỏ bát đứng lên. Châu-sém nhanh nhảu thu dọn chén đem ra con suối ngay trước mặt lán rửa, còn Bồng bê nồi chè trả xuống bếp. Hình như còn có chuyện gì muốn nói với trung đoàn trưởng nên đáng lẽ ra về, Bồng đứng ngần ngừ mãi bên cái bàn nứa. Cuối cùng em ngước mắt nhìn trung đoàn trưởng, nói: - Thưa anh, em có chuyện ni nói với anh đã lâu, mà cứ sợ anh la. - Có chuyện gì chú cứ nói đi? - Dạ… cái dạo anh giao em nhiệm vụ về Huế quăng lựu đạn để phá cuộc mít tinh của tụi Việt gian ở sân vận động chợ Xép (2). Lúc rút lên chiến khu em không đi theo đường cũ. Em đi con đường ngang qua trước ngõ nhà anh. Em nhìn thấy chị. Hồi trước em đi bán bánh mỳ, mỗi lần qua nhà anh, chị thường ra mua bánh của em nên em biết mặt, mà chị cũng nhớ mặt em. Em giả đò cắt cỏ, ngó vô trong nhà. Một lúc em thấy chị đi ra, tay xách cái giỏ mây, chắc là chị đi chợ. Nhìn thấy em, chị dừng lại hỏi: "Dạo ni em không đi bán bánh mỳ nữa à?". Em nói: "Dạ em đổi nghề đi cắt cỏ bán cho mẩy ông chủ xe ngựa". Chị hỏi: "Bán cỏ rứa có đủ ăn không?". Em nói: "Dạ, cũng tạm tạm thôi chị ạ, bữa no bữa đói". Chị móc túi lấy ra hai đồng đưa cho em, nói: "Em cầm mà mua thêm đồ ăn". Hai đồng đó em vẫn còn giữ đây. - Bồng moi trong túi ngực áo ra cái gói giấy nhỏ, bên trong có tờ giấy bạc hai đồng Đông Dương còn mới, gấp làm tám. Đưa gói giấy đó cho trung đoàn trưởng xem, Bồng kể tiếp. - Em nhìn kỹ chị, nước da chị trắng xanh mà cặp mắt chị buồn quá. Em thấy thương chị ứa nước mắt. Lúc đó em chỉ muốn nói với chị: "Em không phải đi cắt cỏ ngựa mô. Em là lính trinh sát của anh Lâu đây chị ơi? Mới hôm tê ở chiến khu, anh Lâu còn giao cho em trái lựu đạn rỗng với tiền và dặn dò em công việc phải làm. Chị có muốn đi lên chiến khu với anh không, em dắt chị lên…". Nhưng em không dám nói, em sợ lộ bí mật. Em đành đứng ngó miết theo chị cho đến lúc chị đi khuất sau cái ngã tư. Dọc đường, em càng nghĩ càng thương chị, rồi em đâm giận lây sang cả anh. "Tại răng anh Lâu không cho người về đưa chị lên Xê-ca? Tụi Tây hắn biết là vợ anh, trước sau chi rồi hắn cũng bắt chị, tra tấn, đánh đập để trả thù anh đã chỉ huy bộ đội đánh tụi hắn, chị chịu làm răng cho thấu?". Em nghĩ như rứa đó mới đâm giận anh… Lúc này trung đoàn trưởng thật sự bối rối, không biết trả lời Bồng ra sao "…Chao, chú đội viên nhỏ của anh lại còn biết lo lắng đến cả cuộc sống riêng tư của anh, hạnh phúc của gia đình anh, chẳng khác chi một đồng chí lớn tuổi!". Anh thầm kêu lên trong lòng như vậy. Trong lúc đó, chính uỷ trung đoàn đi vào lán. Ông đứng ở cửa lán nghe hết đầu đuôi câu chuyện của Bồng với trung đoàn trưởng. Ông hỏi em: - Nếu anh giao cho em nhiệm vụ về Huế, đưa chị Lâu lên Xê-ca em có bảo đảm được không? Bồng đứng nghiêm lại, rắn rỏi đáp: - Báo cáo chính uỷ, nhất định em làm được. - Em thử trình bày kế hoạch của em, anh nghe xem có trúng không nào? Dạ, anh Lâu viết cho chị một lá thư. Trong thư anh dặn chị giả làm người đi về quê thăm mộ, xách một cái giỏ, bên trong đựng xôi, cuối, vàng mã, hương đèn sáp… Em sẽ mang thư về đưa cho chị. Hai chị em sẽ hẹn nhau ngày giờ, địa điểm gặp nhau. Em sẽ giả làm đứa giữ trâu, cầm roi đi tìm trâu lạc, đi trước dẫn đường. Chị đi sau em, cách chừng dăm chục bước. - Gặp tụi hắn có hỏi thì chị cứ nói là đi về quê thăm mộ. Em đưa được chị vượt qua khỏi đường quốc lộ là coi như êm… Chính uỷ gật gù: - Được, kế hoạch của em được đấy! - Rồi ông nói với trung đoàn trưởng: - Anh Lâu viết tư cho chị đi. Việc này, tôi và các đồng chí trong trung đoàn uỷ đã nghĩ tới từ lâu, không ngờ hôm nay em Bồng lại gợi ý. Ông nói với Bồng: - Bây giờ em về báo cáo lại với anh Thắng, nói với anh là đúng bảy giờ sáng mai, chính uỷ trung đoàn mời cả hai anh em vô trung đoàn bộ, nhận nhiệm vụ. Bước ra khỏi cửa lán, Bồng chợt nhớ điều gì, quay vào nói với trung đoàn trưởng: - Dạ trong thư, anh nhớ dặn chị đừng đi guốc, mà phải đi dép có quai sau. Vì đường từ Sịa trở lên núi khó đi lắm anh ạ… Một tuần sau, Bồng đã đưa được vợ của trung đoàn trưởng từ Huế lên chiến khu Hoà Mỹ an toàn. Là một nữ sinh Huế, xuất thân nhà đại gia, chị Lâu đã sống qua gần khắp các chiến khu Bình Trị Thiên trong những năm chiến tranh chống Pháp và trở thành một cán bộ kháng chiến. Chú thích: (1) Một tác giả chuyên viết chuyện kiếp hiệp thời đó. (2) Một lần chúng tổ chức một cuộc mít tinh ở sân vận động chợ Xép bắt nhân dân đến nghe "Thượng cấp hiểu dụ về mối hiểm hoạ Việt Minh trong thành phố Huế". Ta quyết phá cuộc mít tinh đó. Sáng hôm đó, một chiến sĩ biệt động - em Bồng - mới mười lăm tuổi áo quần rách rưới, gánh đôi giỏ đến cắt cỏ quanh sân vận động. Lúc nhân dân bị bắt đến đã đông, Bồng liền cầm liềm đi vào giả vờ nghe. Một quả lựu đạn tung ngay vào trước mặt bọn cảnh sát nguỵ đứng gác. Bà con nhìn thấy la lên ầm ầm như vỡ chợ: "Việt Minh! Việt Minh!" rồi xô nhau chạy. Quả lựu đạn không nổ vì ta không bỏ thuốc súng, đã giúp em Bồng hoàn thành nhiệm vụ phá vỡ cuộc mít tinh tuyên truyên, lừa bịp của địch (Trích những ngày khói lửa - Hồi ký của Trung tướng Trần Quý Hai - Nhà xuất bản Thuận Hoá - 1984). 8 Tổ trinh sát Châu-sém, Hiền và Bồng-da-rắn lại được trung đoàn giao nhiệm vụ bám vị trí Cầu Nhi - một đồn giặc nằm kề quốc lộ số Một, cách thành phố ba chục cây số về phía Tây Bắc. Trong ba em, Bồng-da-rắn ít được học hành nhất, trình độ chữ nghĩa cũng chỉ ngang ngang với Mừng - nghĩa là đọc chưa thông, viết chưa thạo. Nhưng Bồng có một năng khiếu đặc biệt là đánh hơi được rất nhanh và khá chính xác những ý đồ quân sự của cấp trên qua những yêu cầu về trinh sát mà cấp trên đề ra cho tổ. Nghe đội trưởng phổ biến xong nhiệm vụ trinh sát mà ban Tham mưu trung đoàn đề ra cho tổ mình lần này. Bồng nói với hai bạn: - Trung đoàn mình lại định nuốt lôốn "anh" đồn Cầu Nhi đây! Mà lần ni các ông sẽ nuốt lôốn tụi hắn bằng mẹo… - Mẹo như răng? - Châu-sém hỏi lại, giọng nghi ngờ. - Nếu tau biết mẹo như răng thì tau đã làm quách trung đoàn trưởng cho rồi, việc chi phải làm thằng liên lạc trinh sát, chạy như cờ lông công mà hứng đạn? Có cái chắc là lần ni tau phải đớp luôn một bộ áo quần, không dại chơi anh cờ tam tài như cái trận Đất Đỏ. Năng khiếu này của Bồng cũng gần giống năng khiếu âm nhạc của Quỳnh-sơn-ca. Em Quỳnh nghe thấy âm nhạc trong tiếng xào xạc của lau sậy, tiếng rì rào của dòng sông, tiếng kẽo kẹt của những coọng nước quay đều đều… Bồng thì ngửi thấy những ý đồ quân sự của cấp chỉ huy qua các yêu cầu về trinh sát địch. - Nhưng làm răng cậu biết được là lần ni các ông định nuất lôốn tụi Cầu Nhi bằng mẹo? - Hiền nhăn trán cố đoán mà không ra, đành phải hỏi Bồng. - Hai đứa bay không thấy trong yêu cầu trinh sát lần ni các ông cứ nhắc đi nhắc lại phải điều tra nắm chắc các đội quân tuần tiễu của địch đi lại ban ngày dọc đường quốc lộ, quân số bao nhiêu à? Lại cần phải nắm chắc tụi tuần tiễu là Tây hay Bảo vệ quân? Thường đi vô những giờ mô, sáng hay chiều; sáng thì giờ mô, chiều thì giờ mô? Mẹo của các ông chắc là nằm ở chỗ nớ. Hiền phải ngạc nhiên và phục trước đầu óc phán đoán của Bồng. Em nói riêng với Tư-dát: - Tớ nghe nói người thông minh trán phải cao, trán càng cao, càng thông minh. Rứa mà cậu Bồng trán chỉ thấp một khúc là tại răng cậu hè? Tư-dát cười, trả lời bừa: - Hắn là lính trinh sát từ trong bụng mạ. Mạ hắn phải đẻ hắn trán thấp rứa để nguỵ trang cho tụi giặc khỏi nhận ra. Một tháng sau, ban Tham mưu trung đoàn đã nhận được đầy đủ những câu trả lời của tổ trinh sát. Vào một buổi trưa trời nắng chang chang. Bồng và Châu-sém nằm ôm nhau ngủ trong cái chòi giữ rẫy che khuất giữa những vồng sắn cao lút đầu, cạnh đường quốc lộ. Hiền ngồi trong bụi cậy rậm cách đường chừng trăm mét, làm nhiệm vụ quan sát và ghi chép những đoàn xe giặc chạy ra chạy vào, và canh gác cho hai bạn ngủ. Đêm qua hai đứa phải đi gần suốt đêm để đem báo cáo về chiến khu. Từ chỗ Hiền ngồi, nhìn về phía nam em có thể thấy rõ đồn Cầu Nhi đóng trên một ngọn đồi thoai thoải. Mái tôn những ngôi nhà giữa đồn và chòi canh lấp loá dưới nắng trưa. Hiền bỗng thấy xuất hiện ở khúc đường quanh một toán lính giặc tuần tiễu đang đi về phía đồn. Khoảng ba chục tên, vừa Tây vừa Bảo vệ quân. Khi toán giặc đến gần hơn, em nhìn rõ, đi đầu toán tuần tiễu là ba thằng Tây đội mũ sắt, cầu vai áo đen lon vàng chóe. Hiền vội rời khỏi chỗ núp, cúi rạp người, len lách giữa những vồng sắn, chạy về phía chòi, đánh thức hai bạn dậy. - Tụi hắn ít khi đi tuần tiễu trên đường vào giờ ni - Hiền nói vẻ băn khoăn. - Hay là tụi hắn bữa ni có chuyện chi gấp - Đi đi! Ta ra coi coi. - Bồng vừa dụi mắt vừa giục hai bạn. Ba em lủi nhanh về phía bụi cây Hiền vừa núp. Ba em khẽ khàng chui vào bụi nằm ép sát đất, vạch lá nhìn xuống đường. Bọn giặc đã đi đến điểm gần nhất mà các em có thể quan sát, Bồng hấp háy cặp mắt híp nhưng tinh như mắt mèo rừng, khẽ kêu giọng hồi hộp: - Thằng Tây đi giữa giống hệt anh Pun-xắc bay ơi! Mà thôi, đúng rồi! Thằng đi đầu đeo lon quan hai là anh Kê-men, thằng đi thứ ba là anh Kốc. Thằng Bảo vệ đi sau anh Kốc là anh Bùi Ngọc Hoàng. Chết cha tụi Cầu Nhi rồi! Chuẩn bị mà xung phong đi thôi bay ơi! Cặp mắt híp của Bồng đã nhìn rất chính xác. Pun-sắc, Kê- men, Kốc là ba hàng binh gốc người Đức, trong đội quân Lê Dương của Pháp, vác súng chạy sang hàng ngũ quân ta từ đầu năm 1947. Và anh Bùi Ngọc Hoàng là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn mười sáu - tiểu đoàn chủ công của trung đoàn. Sau khi đã nắm chắc tình hình địch ở vị trí Cầu Nhi và quy luật hành quân tuần tiễu của giặc trên đường quốc lộ Một, Ban chỉ huy trung đoàn 101 đã tổ chức một trận kỳ tập tài tình, đầy mưu lược, tiêu diệt gọn vị trí Cầu Nhi trong vòng nừa tiếng dồng hồ. Trận kỳ tập đồn Cầu Nhi, sau này đã được Trung tướng Trần Quý Hai kể lại trong thiên hồi ký của mình (lúc đó ông là chính uỷ trung đoàn): "… Một buổi chiều, vào khoảng hai giờ, có một toán quân tuần tiễu đi đến đồn Cầu Nhi. Đi đầu là tên sĩ quan Pháp mang lon quan hai. Tất cả đều mang súng đạn đầy mình, trung liên, tôm xông, súng trường cắm lưỡi lê, lựu đạn. Chúng đi có vẻ mệt mỏi. Đứa phì phèo thuốc lá, đứa nhồm nhoàm nhai bánh kẹo, đứa xách mấy con gà kêu oang oác đứa vác trên vai buồng chuôí chín, nhựa còn chảy ròng ròng. Rõ ràng chúng vừa đi cướp bóc một xóm nào đó rồi mới tới đây Tới trước cổng đồn, tên quan hai hô lính đứng lại và nói với tên lính gác cổng với thứ tiêng Việt lơ lớ. "Tôi muốn gặp đồn trưởng. Đi tuần qua… mệt quá, muốn vào đâu nghỉ ăn trưa". Chẳng để tên lính gác trả lời, hắn đẩy cổng vô luôn. Cả toán lính vô theo. Và nhanh như chớp toán lính chia thành nhiều mũi, lao vào các nhà, các phòng làm việc, nổ súng bắn vào bọn lính đồn. Những tên sống sót quỳ xuống lạy như tế sao. Toán quân tuần tiễu đó là ai? Đó là những chiến sĩ thuộc tiểu đoàn mười sáu do tiểu đoàn trưởng Bùi Ngọc Hoàng chỉ huy. Viên quan hai Pháp là ai? Là Kê-mên, một hàng binh người Đức". Toán lính giặc đi khuất được một lúc, Hiền, Bồng và Châu-sém bỗng nghe tiếng súng, tiếng lựu đạn nổ rầm rầm. Tiếng súng nổ mỗi lúc một rát. Lá cờ tam tài phất phơ trên đỉnh cột bỗng đổ nhào như con chim lớn màu sặc sỡ bị bắn hạ. Bỗng nhảy vọt ra khỏi bụi rậm, nhìn về phía đồn Cầu Nhi, hét to: - Đánh rồi? Chết cha thằng Cầu Nhi rồi! Vừa lúc đó, ba đứa nhìn thấy các cánh quân phối hợp lá nguỵ trang đẩy mình, từ các ngọn đồi trọc xung quanh chạy như bay về phía đồn. Bồng la lên: - Xung phong thôi bay ơi! Các anh vô đồn hết rồi! - Rồi em chạy như bay ra phía đường nhựa, Hiền và Châu-sém cắm cổ chạy theo. Ba em cứ thẳng đường nhựa chạy về phía đồn như ngựa tế. Bồng chạy trước, vừa chạy vừa la hét inh đường: - Chạy mau lên bay ơi? Chạy mau lên không áo quần tốt các anh vớ hết! Chuyến ni tau phải kiếm được một bộ thật đẹp? Khi ba em vọt qua xác thằng lính gác nằm ngang trước cổng đồn là lúc các anh đang tíu tít thu chiến lợi phẩm. Tiểu đoàn trưởng Bùi Ngọc Hoàng vẫn mặc nguyên bộ áo quần Bảo vệ quân với cái lon cai trên ống tay áo, đứng trên nóc hầm ngầm la hét chỉ huy các đơn vị. Nhìn ba chú liên lạc của trung đoàn xuất hiện bất ngờ giữa sân đồn, anh liền ngoắc gọi lại, ra lệnh: - Hai chú này. - Anh chỉ Hiền và Châu-sém. - Chạy ngay ra bờ sông nói với đơn vị ngoài đó chuẩn bị gấp bè để vượt sông rút lui. Còn chú. - Anh chỉ Bồng, - chú vào các lô cốt hầm ngầm coi lại súng đạn chiến lợi phẩm còn sót khẩu mô không! Anh Hoàng vẫn nhớ đến khẩu moóc-chê sáu mươi li Bồng bới được trong trận Đất Đỏ. Hiền và Châu-sém xịu mặt, tưởng chuyến ni kiếm chác được chút chiến lợi phẩm, không ngờ bị phân công chạy ra bờ sông. Nhưng mệnh lệnh là mệnh lệnh, hai em không chút chần chừ cùng hô to: - Báo cáo, rõ! Trước khi chạy ra khỏi đồn hai em nói nhỏ vào tai Bồng: - Kiếm được chút chi nhớ phần cho anh em với nghe! - Yên chí, chia ba. Chia ba cân phân! Bồng vừa la to trả lời hai bạn vừa xông vào ngôi nhà chính giữa đồn. Em nhìn thấy cái ba lô cóc to bự nằm lăn lóc cạnh vũng máu và xác thằng lính Lê Dương. Em nhào tói, bóp bóp cái ba lô và biết ngay bên trỏng đựng quần áo, đồ hộp. Em chộp lấy và đeo luôn lên lựng bụng mừng khấp khởi: "ăn tiền rồi!". Em xục vào gian nhà bên cạnh thấy một khẩu súng trường Anh dựng ở một góc tối. Bồng chộp khẩu súng, đeo vào vai, càu nhàu: "Làm ăn như cứt! Khẩu súng sờ sờ trước mắt ri mà cũng để sót!". Em chui vào tầng dưới lô cốt bên trái đồn. Bên trong tối thui, nhưng em nhìn ra ngay xác một thằng Tây đen to như con trâu trương mặt bị lựu đạn thủng nát nằm đè lên một khẩu súng ga-răng. Ga-răng là loại súng các-bin cỡ lớn, bắn liền tám phát - ba khẩu ga-răng chụm lại bắn lợi hại không thua gì một khẩu trung liên. Bồng tức tối la lên: - Trời ơi! Các cha mắt mũi bỏ đi mô mà khẩu ga-răng cũng bỏ sót? Đúng là làm ăn như cứt? Bồng cúi xuống, hai chân dạng chân chèo, cố lôi khẩu súng nhưng không lôi nổi. Em thở hồng hộc, cố vần xác thằng Tây qua một bên để lấy khẩu súng. Nhưng cái xác nặng quá đá tảng, em đỏ mặt tía tai không sao vần nổi. Thêm cái mặt thủng be bét với hàm răng trắng nhởn, nhe ra như mõm chó sắp sủa trong cảnh tối mờ mờ làm em rùng mình, ớn lạnh dọc xương sống. Mùi máu ôi xông lên nồng nặc làm em muốn mửa. Suýt nữa thì em vùng bỏ chạy. Nhưng khẩu súng ga-răng đã giữ chân em lại. Vừa lúc đó bên trên đồn tiếng thanh la báo hiệu rút lui gióng giả vang lên từng hồi cấp bách. Em gọi to xem có anh nào trên đó xuống giúp em một tay, nhưng tất cả đang vội vã rút lui nên không ai nghe tiếng em gọi. Đồn Cầu Nhi không phải như đồn Đất Đỏ, nó nằm sát bên đường số Một, các đội ứng chiến tiếp viện của địch có thể đổ đến trong chớp nhoáng bằng phương tiện cơ giới. Cái ba lô cóc to tướng trên vai làm cho Bồng vướng víu. Em nổi xung lẳng luôn cái ba lô xuống đất, rồi dùng khẩu súng trường Anh làm đòn bẩy lật xác tên giặc sang một bên. Cuối cùng em lôi được khẩu ga-răng ra và khoác lên vai. Khẩu ga- răng nặng gấp đôi khẩu súng trường Anh, sức nặng của hai khẩu súng làm em muốn sụn vai. Lúc chui qua cừa ra ngoài, Bồng vấp phải cái thắt lưng Mỹ đeo tám băng đạn ga-răng. Em mừng rỡ nhặt lên nịt luôn vào ngang bụng. Ngoái nhìn cái ba lô vừa quăng xuống đất, biết sức không tài nào tha nổi, liền xử lý bằng cách nhổ lên đó một bãi nước miếng. Ban chỉ huy trận đánh được liên lạc báo tin một đoàn xe thuộc binh đoàn cơ động ứng chiến từ phía đồn Mỹ Chánh chạy về phía đồn Cầu Nhi. Tin này làm quân ta nháo nhào vọt ra khỏi đồn cũng nhanh như lúc vọt vào đồn. Trên vai anh nào cũng lặc lè súng đạn và những hòm lớn nhỏ chiến lợi phẩm. Tất cả hối hả rút về phía sông Cầu Nhi. Bồng rút chạy sau cùng. Nhưng vì mang đeo nặng quá, nó rơi lại mỗi lúc một xa. Khi em đến bờ sông thì các anh đã sang hết bên kia sông và đang chạy lúp xúp trên những ngọn đồi trọc xa xa. Bồng tụt xuơng bờ sông lở dốc đứng và nhào xuống nước. Sông Cầu Nhi hẹp nhưng khá sâu, nước trong xanh, chảy xiết Bồng là tay bơi lặn cự phách của đội. Bình thường em vượt qua con sông này dễ như bỡn. Nhưng lúc này phải tha theo hai khẩu súng và thắt lưng đạn nịt quanh người, nên em đuối sức sức nặng của súng và đạn cứ muốn dìm em xuống nước và đẩy xa về phía dưới. Mặc dầu vậy em vẫn không chịu buông hai khẩu súng, và có nguy cơ chết đuối. Em liền đổi chiến thuật, vừa bơi vừa lặn. Em vật lộn quyết liệt với dòng nước, bụng uống no căng nước. Đến phút em hoàn toàn kiệt sức tay không còn giữ nổi hai khẩu súng, thì chân em bất ngờ chạm nền cát và đá sỏi đáy sông, em vuốt nước trên mặt, reo to: "Thoát rồi?" Em lội ào vào bờ, trườn lên bờ dốc vác hai khẩu súng trên vai, chạy thục mạng. Chạy được mấy chục bước em vấp phải Pun-xắc người hàng binh Đức. Pun-xắc áo quần tóc tai ướt sũng nước, ngồi nép sau một mô đất ngó ra phía sông mà khóc như con nít. Anh hàng binh người Đức này mới hai mươi bốn tuổi, cao một thước chín mươi bảy phân, mái tóc vàng óng như tơ tằm và cặp mắt to xanh biếc. Anh ta đẹp trai đến nỗi các o bào chế, y tá, mỗi lần gặp anh đi ngang qua đều phải quay lại ngẩng lên nhìn vào cặp mắt xanh biếc của anh mà cười duyên. Bồng ngạc nhiên hỏi: - Răng anh lại ngồi đây mà khóc rứa? Pun-xắc nhận ra chú bé liên lạc vẫn thường gặp ở chiến khu. Anh đưa sống bàn tay quyệt nước mắt, nói tiếng Việt giọng Huế trọ trẹ: - Tôi làm mất khẩu tôm-xông rồi! - Làm mất à? Mất ở mô? - Bồng tái mặt hỏi. - Tôi bơi qua sông… Khẩu súng tuột khỏi vai… chìm xuống nước. - Ui trời? - Bồng giậm chân kêu, vừa giận dữ vừa sợ hãi. Em không thể nào tưởng tượng được một sự mất mát ghê gớm đến như thế. Bồng đã từng chiến đấu trong một trung đội Quyết tử quân chỉ có mác lào và mã tấu, nên em thấm thía cái giá của vũ khí không thua gì các anh Vệ Quốc Quân lớn tuổi. Em vẫn còn nhớ trong trận Võ Xá, anh trung đội trưởng giữ khẩu tôm-xông này, lúc rút lui làm rơi mất một băng đạn trong bốn băng của khẩu súng. Lúc đó đã quá nửa đêm, Chính uỷ trung đoàn bắt anh phải lộn trở lại con đường cũ tìm cho ra băng đạn. Đến tảng sáng hôm sau anh mới tìm ra được băng đạn đem về báo cáo với Chính uỷ. Bây giờ không phải mất băng đạn mà mất cả khẩu súng! Bồng giận run người. Em nhìn mặt Pun-xắc nói như quát: - Người ta nhỏ ri, người ta bơi qua sông còn tha được hai khẩu súng với tám băng đạn? Mình to cao như cái cột đình, mang có khẩu súng cũng để rớt! Bị một chú bé đứng chỉ cao đến thắt lưng mình la lối, quát mắng, Pun-xắc vẫn chịu ngồi im thin thít. Chính anh cũng hiểu một khẩu súng tiểu liên tôm-xông đối với bộ đội Việt Minh lúc này có ý nghĩa như thế nào. Cả đại đội biệt động - đại đội được trang bị tốt nhất tiểu đoàn - chỉ có ba khẩu tôm- xông. Và sáng nay lúc xuất phát, chính tay cô-lô-nen Lâu (1) - anh gọi trung đoàn trưởng như vậy - đã trao khẩu súng cho anh, căn dặn: "Nhớ giữ khẩu súng cẩn thận và bắn tiết kiệm đạn". Thế mà anh đã để mất khẩu súng. Anh lo sợ có thể bị cô- lô nen Lâu đưa ra toà án binh vì tội làm mất súng. Anh đã từng chiến đấu trong quân đội của Hítle. Anh hình dung kỷ luật của quân đội Việt Minh cũng nghiêm khắc ghê gớm như quân đội Hítle, nén nỗi lo sợ làm cho tấm thân cao lớn của anh gần như tê liệt, và đầu óc trở nên mụ mẫm. Anh chỉ còn biết ngồi nép mình sau mô đất nhìn ra quãng sông mình vừa đánh mất khẩu súng mà khóc như một đứa con nít. Bồng càng tiếc khẩu súng càng giận Pun-xác. Em chỉ muốn xông tới đạp cho anh ta mấy đạp. Em làu bàu: "To xác mà dở thúi!". Bồng chợt nhìn xuống bụng áo Pun-xắc. Bụng áo căng phồng như bụng đàn bà chửa. Em cúi xuống nắn nắn bụng áo, lổn nhổn toàn đồ hộp! Lúc bộ đội thu chiến lợi phẩm, Pun-xắc lọt vào khu nhà bếp. Anh quơ đại đồ hộp để trong tủ, tọng hết vào bụng áo. Bồng vỗ vào bụng áo Pun-xắc giận điên người, quát thật sự: - Cầm hèn chi? Vô đồn không chịu lấy súng lấy đạn, lại ních đầy một bụng đồ hộp ri, làm chi bơi qua sông mà không chìm, không làm rớt mất súng. Chừ lại còn ngồi đó mà chảy nước đái? Bồng ném hai khẩu súng vác trên vai xuống đất, cởi nịt đạn ném lên hai khẩu súng, mặt hằm hằm hỏi: - Làm rớt chỗ mô, ra chỉ cho người ta mò lên! Pun-xắc chạy theo Bồng ra bờ sông. Anh nhặt hòn đá ném ra quãng giữa sông, chỗ anh ta vừa đánh rơi khẩu súng. Bồng mắt ngó theo chỗ hòn đá vừa rớt xuống, hai tay tụt nhanh bộ áo quần rách nhơ xơ mướp, ném xuống đất. Em nhảy thẳng từ trên bờ dốc đứng xuống nước. Em sải tay bơi ra chỗ hòn đá vừa rơi, chúi đầu lặn. Cái mông trần tím ngắt những bọng ghẻ ruồi và hai cẳng chân em chống ngược lên khỏi mặt nước trong chớp mắt, rồi biến hút trong làn nước xanh ngắt. Pun-xắc nừa ngồi nửa quỳ trên bờ sông, hai tay chống đất, cặp mắt xanh hau háu nhìn xuống chỗ Bồng vừa lặn. Tiếng động cơ cả một đoàn xe của giặc từ phía đường quốc lộ vọng lại rõ dần. Dưới sông, Bồng nổi đầu lên. Em đưa hai tay lên cao. Hai tay không. Em há to miệng hớp hớp không khí, nhìn lên bờ, đầu lắc lắc báo hiệu chưa tìm thấy khẩu súng. Pun-xắc hớt hải, đưa hai bàn tay lên miệng làm loa, gọi to: - Bồng! Bồng! Xe bọn giặc đến gần! Nhưng dưới sông Bồng đã chúc đầu, chổng mông lặn biến xuống nước. Từng đợt vòng sóng, nở to mãi, lan vào đến tận bờ. Lần thứ hai Bồng nổi đầu lên, vẫn hai tay không. Tiếng đoàn ô tô giặc gầm rú ngay phía ngoài đường quốc lộ. Chắc chúng đã chạy đến trước cổng cái đồn vừa bị đánh tanh bành và nghi ngút lửa cháy. Tiếng phanh rít của đoàn xe vọng vào đến tận đây. Dưới sông, Bồng xua tay lia lịa về phía Pun-xắc: - Chạy đi! Chạy đi! Tụi hắn vô đây chừ đó! Pun-xắc vọt đứng lên. Anh chạy đến chỗ Bồng để hai khẩu ga-răng và chiếc nịt đạn. Anh nhặt khẩu ga-răng, giật mạnh cơ bẩm. "Rắc!". Một viên đạn vọt ra khỏi nòng súng. Băng đạn vẫn còn nguyên. Anh lượm cái nịt đạn, thắt vào ngang người và nhào trở lại phía bờ sông. Anh quỳ xuống sau một mô đất sát mép bờ sông, chĩa khẩu súng sang bên kia bờ. Từ cổng đồn vào đến đây chỉ khoảng năm trăm mét đường chim bay. Bọn giặc tiếp viện bắt đầu bắn xối xả ra bốn phía. Nhiều tràng đạn bay rít ngang qua mặt sông. Cặp mắt to xanh biếc của Pun-xắc mở trừng trừng nhìn sang phía bên kia sông, miệng anh mím chặt, toàn bộ dáng vẻ khổng lồ của anh hiện rõ quyết tâm trụ lại ở đây, líều chết để yểm trợ cho Bồng. Và dưới sông Bồng cũng quyết tâm lặn mò cho bằng được khẩu súng. Đạn mỗi lúc nổ một rát; một gần hơn. Chúng bắn đại liên và cả đại bác hai mươi li về phía bờ sông. Chúng đã đoán được con đường rút lui của quân ta. Bồng lại chúi đầu, chống mông lặn xuống nước lần thứ ba. Lần này em lặn còn lâu hơn cả hai lần trước, Pun-xắc nhìn xuống sông, lòng như lửa đốt. Một giây trôi qua anh có cảm tưởng như dài bằng cả một ngày. Và trong khoảng khắc anh đã cảm nhận vô cùng sâu sắc tinh thần cao thượng và lòng dũng cảm phi thường của đội quân mà anh đã quyết định lựa chọn để chiến đấu. Được cùng chiến đấu, cùng sống và cùng chết với những chiến hữu như chú bé đang giúp anh lặn mò khẩu súng dưới đáy sông kia, thật là một điều may mắn cho đời anh, và cũng là một niềm hạnh phúc to lớn! Anh nghĩ vậy và tự nhiên nước mắt trào ra, những giọt nước mắt vui sướng, thuần khiết, trong sạch đầu tiên trong cuộc đời binh nghiệp của anh. Bồng trồi đầu lên khỏi mặt nước và hét váng mặt sông: - Mò thấy rồi! Em đưa cao khẩu súng ròng ròng nước quá đầu cho Pun-xắc nhìn thấy, rồi vừa lặn, vừa hụp, vừa bơi về phía bờ sông. Hai chiếc ô tô G.M.C chở đầy lính Âu-Phi, trước mỗi xe đặt hai khẩu đại liên, từ phía đường quốc lộ vừa bắn vừa lao băng băng qua những dốc đồi trọc, vút thẳng đến bờ sông. Hai chiếc đã ló mũi súng trên ngọn đồi thấp cách bờ sông bên kia khoảng chừng trăm mét. Dưới sông còn hơn chục mét nữa Bồng mới tới bờ, Pun-xắc giận dữ nhằm chiếc xe đi đầu bắn liên tiếp cả kẹp đạn, và anh lắp một kẹp đạn mới, bắn tiếp. Tiếng đạn ga-răng nổ rất đanh và đường đạn khá chính xác. Hai chiếc xe hoảng hốt phanh rít. Bọn giặc trên xe vọt xuống đất nằm oẹp chĩa súng sang phía Pun-xắc bắn trả như đổ đạn. Nòng hai khẩu đại liên đặt trên xe chúc thẳng xuống mặt sông, nổ rầm rầm chát chúa. Chúng đã nhìn thấy Bồng. Em hụp sâu xuống nước, lặn một hơi tới thấu bờ. Em nhào lên bờ đất. Đạn đại liên chíu chíu quanh mình em, cắm phầm phập vào đất, và mặt sông quanh em sôi lên như tăm cá. Pun-xắc nhoài người ra sát mép sông, túm lấy tay Bồng gần như xách bổng em lên bờ đất dốc ngược. Hai người cúi rạp mình chạy ngoằn ngoèo sau những mô đất, những bụi sim mua, để tránh đạn. Ngang qua bụi cây lúc nãy, Pun-xắc lượm khẩu súng trường Anh, và giật luôn cả khẩu tôm-xông Bồng đang cầm, vác tất cả lên vai mà chạy. Đạn bay như ong vỡ tổ, rít quanh hai người. Hai anh em chạy cách bờ sông được khoảng chừng ba trăm mét, bọn giặc đã nhào đến mép bờ sông bên kia. chúng tiếp tục xả súng bắn theo hai người nhưng họ đã đứng ngoài tầm nguy hiểm. Chạy lên đến đỉnh đồi, Bồng nhìn trật xuống thấy mình trần truồng như nhộng. Bộ áo quần rách mướp vì vội quá đã quên lại trên bờ sông. Lần ni tưởng vớ được bộ áo quần đẹp không ngờ lại mất luôn cả bộ áo quần rách. Em rên lên vừa tiếc vừa tức: "Lỗ to!" trong lúc đó súng giặc vẫn nổ rền. Nổi xung, em cầm lấy chim, ưỡn người trễ về phía bọn giặc, rung rung chửi toáng: - Có [bad word] cau đây cho bắn! Có [bad word] tau đây cho bắn! Bắn cái mả cha bây đây nì! Pun-xắc đứng sững nhìn Bồng. Chưa hiểu rõ nghĩa câu chửi, nhưng anh hiểu chú bé này đang làm gì. Anh bật cười vang. Bồng ngoảnh sang nhìn Pun-xắc đang đứng cười ngặt nghẽo, liền giục: - Anh trẽ [bad word] đi! Anh trẽ [bad word] đi! - Vừa giục em vừa trỏ vào hàng khuy quần của Pun-xắc, ra hiệu. Pun-xắc lập tức giật tung hàng cúc quần, lôi cái của mình ra, bắt chước Bồng cũng cầm rung lia lịa trẽ về phía bọn giặc, hét váng cả dãy đồi: - Voa-la mông cui! Voa-la mông cui! Bồng trợn tròn mắt nhìn, phục lác mắt và kinh ngạc trước vóc dáng đồ sộ cái của Pun-xắc. Em kêu lên thích thú: - Ui chao! Hắn to chi mà to đã gớm! Như cái chày giã gạo? - Anh trẽ nữa đi! Trẽ nữa đi! To mà dài như rứa có đứng xa hàng cây số tụi hắn cũng phải ngó thấy! Pun-xắc nghe theo Bồng, càng ra sức rung mạnh, ra sức hét to! Và con người hàng binh quốc tịch Đức có vóc dáng khổng lồ này phút chốc đã hoá thành một đứa con nít nghịch ngợm. Hai anh em lại tiếp tục chạy. Khi tiếng súng giặc đã khuất hẳn sau dãy đồi vừa chạy qua, và tin chắc không còn gì nguy hiểm nữa, Bồng liền nằm dài ra đất mà thở. Mặt em tái mét vì quá mệt. Miệng em há hốc, thở như sắp hụt hơi, muốn nói gì đó mà không ra tiếng, Pun-xắc cũng ngồi xuống cạnh Bồng. Anh đặt ba khẩu súng trên vai xuống, cởi cái thắt lưng đạn đặt lên ba khẩu súng. Anh mở phanh cúc áo, xổ ra đất cả một đống đồ hộp, có đến vài chục vừa hộp vừa lon: thịt, cá, sữa đặc, sữa bột, chanh bột, cà phê, ca cao, sô cô la… Anh nhún vai nhìn đống đồ hộp quay sang nói với Bồng, giọng hối lỗi: - Chỉ vì mấy cái thứ đồ hộp khốn nạn này mà anh suýt làm mất khẩu súng quý, suýt làm cho em chết chìm dưới sông. Pun-xắc đứng phắt dậy, nhặt một hộp thịt bò lớn bên ngoài có vẽ cái đầu bò và những lát thịt màu đỏ tươi, dang mạnh tay định ném xuống cái vực dưới chân đồi. Đang nằm tay chân duỗi thẳng đờ, Bồng vụt chồm ngay dậy, hớt hải nhảy lên đánh đu vào cánh tay cầm hộp thịt của Pun-xắc, la bai bải: - Đừng vứt! Đừng vứt! Bồng giật phắt hộp thịt trong bàn tay to lớn của Pun-xắc, kêu: - Khi hồi trong đồn không vứt, chừ đã tha được về thấu đây lại đem vứt! Dại chi mà dại dữ rứa! Bồng ngồi phệch xuơng đất, níu áo kéo Pun-xắc xuống theo, vừa thở vừa nói: - Anh đục hộp thịt ra ăn đi? Em đang đói gần chết đây… Lại một chuyện bất ngờ nữa đối với người hàng binh khổng lồ này. Anh ôm đầu Bồng rị vào ngực mình, xoa xoa mái tóc bù rối của em, cảm động nói: - Làm sao trong cái đầu bé nhỏ thế này mà em lại chứa đựng được nhiều trí khôn đến như vậy! - Đục đi anh! Đục đii Em đang thèm rệu cả nước miếng đây. Pun-xắc rút con dao găm cạnh sườn, đục hộp thịt với bàn tay thành thạo. Hai anh em vừa bốc thịt ăn vừa nhìn nhau mà cười. Vừa lúc đó một tổ bộ đội từ dưới chân đồi chạy lên. Nhìn thấy hai anh em đang nhồm nhoàm nhai thịt, họ mừng rỡ kêu to: - Đây rồi! Đây rồi! Té ra khi rút về đến địa điểm tập kết, tiểu đoàn trưởng Bùi Ngọc Hoàng mới phát hiện ra thiếu Pun-xắc và Bồng. Anh liền cử một tiểu đội quay lại tìm hai người. Chú thích: (1) Trung đoàn trưởng Lâu.
|
Chương 24: Phần Thứ Bảy (8) 9 Buổi trưa. Đội trưởng Thắng đang tắm giặt dưới sông Ô Lâu. Anh cũng chỉ có độc một bộ áo quần. Trước khi tắm, anh giặt bộ áo quần phơi lên cành cây. Tắm xong, trần như nhộng, anh trèo lên tảng đá khuất sau bụi lau sậy ngồi co ro chờ áo quần khô. Thân hình gày còm nhom của anh cũng lấm tấm ghẻ ruồi. Mừng từ trên bờ dốc hộc tốc chạy xuống bến, nhìn quanh quất gọi to: - Anh Thắng ơi. Anh Thắng? - Cái chi đó, Mừng? Nhìn thấy bộ áo quần phơi trên cành cây, Mừng biết là đội trưởng đang "cuổng trời" nên chỉ đứng bên này bụi lau sậy, báo cáo với sang: - Anh lên ngay, có khách dưới Huế lên tìm anh. - Khách dưới Huế à? Lạ quá hè? Em có bỉết là ai không? - Dạ hai người, một mệ, một o. Mệ thì già, răng đen, còn o thì trẻ chỉ bằng chị Quýt bào chế, nước da trắng bóc, tóc kẹp, đi dép xăng-đan, mặc bộ áo quần đẹp lắm. Hai người xách hai cái bị chi to lắm! - Chừ họ mô rồi? - Họ đang trên đường đi đến chỗ đội mình. Một anh ở ngoài trạm gác dắt họ đi. Em chạy trước về báo cho anh biết, cả sợ lúc họ vô anh đang cởi áo bắt rận thì ôốc dôộc(1), lắm? - Em chạy lên trước đi rồi anh lên ngay. Mừng chạy về đến lán thì lính gác trạm tiền tiêu Xê-ca đeo khẩu súng mút-cơ-tông, dẫn hai người khách phụ nữ, bước vào san. - Có anh Thắng ở nhà không em? - Dạ có… Anh đang… - Mừng định nói tắm dưới sông - nghĩ thế nào em lại nói… ra công tác ngoài mấy trận địa bắn máy bay. Anh sắp về chừ… - Có hai chị ni ở dưới Huế lên cần gặp đội trưởng của chú - Anh lính gác quay sang nói với hai phụ nữ đứng khép nép sau lưng. - Mời thím và o vô trong nhà đợi. Chút nữa anh ấy sẽ về. - Thím ạ… Chị ạ… - Mừng lễ phép chào hại người rồi dẫn họ vào lán. Hai người phụ nữ Huế đứng ngây người nhìn ngôi lán trống trơn với hai dãy sạp nứa bụi mọt rơi trắng xoá, những chiếc bao tải còn đen hơn cả giẻ lau nhà, được gấp cẩn thận, nằm một dãy sát phên mà họ không biết ở đây người ta dùng để làm gì. Rồi họ nhìn Mừng áo quần rách tả tơi, ghẻ lở đến tận cổ, nước da vàng ệch, hai ống chân như hai ống quyển, đứng xa họ cả chục bước vẫn ngửi thấy mùi tanh tanh… Họ chưa bao giờ được nhìn thấy một cảnh sống cực khổ đến như vậy! - Thím với chị để tạm bị lên sạp cả nặng. - Mừng vẫn đứng cách xa họ, rụt rè nói. Người đàn bà răng đen hỏi: - Chớ em cũng là bộ đội Việt Minh à? - Dạ… Chúng em là Vệ Quốc Đoàn… Mới đổi tên là Quân đội nhân dân Việt Nam… - Rứa em có biết em Thân Trọng Quỳnh, cũng nhỏ nhỏ cỡ bằng em? - Có phải trước tê Quỳnh ở cái nhà lậu thiệt to dưới Vĩ Dạ không ạ? - Phải, đúng rồi… Nhà cụ Tuần Vi. Rứa thì bạn Quỳnh ở cùng đội với em. Bạn ấy bị sốt rét nặng nên cả tháng nay đang nằm trong bệnh viện. Vừa lúc đó đội trưởng bước vào, áo quần anh mặc vẫn còn ướt nhưng đầu tóc được chải khá cẩn thận. - Dạ thưa anh, hai chị em tui là người nhà của em Thân Trọng Quỳnh - Người đàn bà răng đen nói với anh Thắng. - Cụ Tuần Vi là cha em, sai chị em tui lên đây mang thư của cụ gửi cho cấp chỉ huy của bộ đội… Chị mở kim băng túi áo lấy ra cái phong bì được gấp nhỏ, cầm đưa cho anh Thắng bằng hai tay, rất cung kính. Có hai bức thư trong phong bì, một bức thư chữ đánh máy và bức thư viết tay. Anh Thắng đọc bức thư đánh máy trước. "Huế, ngày… tháng… năm 1947. Kính gửi Ngài Chỉ huy cao cấp Quân đội Việt Minh tỉnh Thừa Thiên. Tôi là Thân Trọng Vy, nguyên Tuần phủ cũ. Nay tôi lại được chánh phủ Nam Triều triệu ra nhận chức Phó tổng trấn Trung kỳ. Nhưng việc hôm nay tôi muốn đệ trình lên ngài là việc riêng của gia đình tôi. Cháu Thân Trọng Quỳnh là con trai út và độc nhất của vợ chồng chúng tôi. Năm nay cháu vừa tròn mười ba tuổi. Vì sự bồng bột non dạ của tuổi thiếu niên, cháu Quỳnh đã trốn nhà theo bộ đội của các Ngài từ trước ngày Mặt trận Huế. Nay tôi tha thiết đệ trình lên Ngài, vì lòng nhân đạo, xin Ngài cho cháu Quỳnh được trở về với gia đình, để cháu được tiếp tục đi học và chữa bệnh. Kính mong Ngài chấp nhận cho tôi lời đệ trình khẩn thiết của vợ chồng chúng tôi. Hai phụ nữ mang thơ này là người nhà gia đình chúng tôi, nếu lời đệ trình được Ngài chấp nhận, xin Ngài cho cháu cùng về theo. Gọi là chút lễ mọn tri ân, vợ chồng chúng tôi xin kính biếu Ngài và đồng sự một số thuốc Tây chữa bệnh, thuốc bổ và một số vật dụng cá nhân khác. Kính mong Ngài vui lòng chấp nhận. Kính cáo Thân Trọng Vy ký tên" Anh Thắng đọc tiếp bức thư viết tay: "Quỳnh con ơi! Từ ngày con bỏ nhà đi, ba mạ, các chị con ngày đêm thương khóc. Mạ gày mòn héo hắt vì thương nhớ con, không biết con còn sông hay chết. Không đêm mô mạ không nằm mê thấy con về ngồi ở đầu giường mạ. Bất ngờ cách đây ít lâu, do tình cờ mà mạ được biết con còn sông và đang ở "trên nớ"(2). Mạ lại được nghe nói con đau ốm bệnh chi nặng lắm, không đi lại được phải nằm một chỗ. Ba mạ nghe tin càng đứt ruột héo gan. Ba con đã viết thơ đệ trình lên Ngài chỉ huy cao cấp của Việt Minh Thừa Thiên xin cho con được trở về với gia đình. Ba con cũng đã đánh thơ cho chú ruột con hiện đang công cán bên nước Thuy Sĩ, nếu con về nhà thì ba sẽ gửi con sang bên đó để con chữa cho lành bệnh và học hành cho đến lúc thành tài. Chú con cũng đã có thơ phúc đáp, rằng ngày đêm mong chờ con qua để chú cháu được gặp gỡ, đoàn tụ. Biết tánh con thích nhạc, thích đàn, nên chú con đã mua sẵn cho con một cái đàn pi-a-nô nhãn hiệu Ý với giá mấy chục lượng vàng, để sẵn ở đó, chờ con qua, con chơi. Mạ gởi kèm theo đây cho thím Ba và chị Hường mang lên cho con ít đồ ăn, áo, mền, thuốc, con ưng để dùng hoặc con biếu cá bạn của con thì tùy ý con. Ba mạ, các chị con ngày đêm đỏ mắt mong con trở về. Mạ của con ký tên" Đọc xong hai bức thơ, đội trưởng ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói với hai người khách: - Tôi là đội trưởng của em Quỳnh, nhưng việc này phải do cấp trên của chúng tôi giải quyết, đồng thời cũng phải hỏi ý kiến của em Quỳnh có muốn về với gia đình hay không. Vậy thím với chị cứ nghỉ tạm ở đây, để tôi đi gặp cấp trên báo cáo lại Anh quay sang nói với Mừng: - Em ở nhà tiếp thím với chị đây. Anh vô Xê-ca Một có việc. Chú thích: (1) Xấu hổ. (2) Trên ấy - Đồng bào vùng giặc tạm chiếm gọi lóng chiến khu. 10 Xê-ca Bảy, nơi bệnh viện chiến khu đóng, có khoảng chục cái lán tranh. Sáu ngôi lán dài một mái, là chỗ nằm của bệnh nhân. Bốn cái nhà tranh mái lá phòng khám, phòng mố, phòng điều trị và chỗ ăn ở của bác sĩ, y tá, hộ lý. Tất cả nằm rải rác thành hình vòng cung men theo sườn ngọn núi mà trong bản đồ quân sự được ghi là đỉnh 96, náu kín dưới những tán cây rừng đại thụ. Một con đường mòn nối liền các lán, trại. Từ mỗi ngôi lán có lối đi đánh thành bậc xuống con suồl khá lớn chảy vòng dưới chân núi, để bệnh nhân xuống suối tắm giặt, rửa ráy. Trước khu nhà hai mái có một khoảng trống rộng chừng bốn chiếc chiếu đôi. Chính giữa khoảng trống có căng một tấm vảì màn trắng, bốn góc buộc vào bốn cái cọc, ở giữa hơi võng xuống, nhìn giống cái vó tay dựng phơi. Dưới đáy vó đặt cái chậu nhôm kê cao trên tảng đá. Cái vó màn này là dụng cụ hứng nước trời thay cho nước cất, để hoà thuốc uống, thuốc tiêm. Bệnh viện trưởng là bác sĩ Lê Khắc Thiền tốt nghiệp Y khoa ở Pháp, một người thầy thuốc nổi tiếng mê thơ và sành thơ. Ông có bài thơ "Hồn nhiên" in trong tuyển tập thơ kháng chiến của Hội Văn nghệ Việt Nam xuất bản năm 1949. Hôm các em ở đội Thiếu niên Trinh sát đưa Quỳnh vào bệnh viện, bác sĩ Thiền đang ăn cơm. Ông bỏ dở bữa ăn đi ra đón em và sai đưa em vào phòng khám. Ông ngồi xuống cạnh em, đưa bàn tay có những ngón tay dài và mềm mại đặc biệt của một bác sĩ phẫu thuật. Vuốt mái tóc tơ bù rối của em và ngắm nhìn gương mặt em rất lâu. Ông nâng cằm em lên, nhìn sâu vào đôi mắt to mênh mông của Quỳnh đang âm ỉ lửa sốt, rồi chợt hỏi như chưa thật tin lắm cái điều mình đã được biết: - Chính chú mình đã viết bài hát "Sông Ô Lâu kháng chiến"? - Dạ… - Cả nhạc và cả lời? - Dạ. Bài hát của em còn cái "pờ-rề-luýt" nữa nhưng em chưa kịp viết vào. - Quỳnh vung tay đánh nhịp và khẽ ngân nga khúc dạo đầu bài. Ông chăm chú lắng nghe, mỉm cười nói: - Bài hát của chú mình đã làm cho tôi khóc đó nghe?… Ông bế em đặt lên giường khám và làm bằng những khúc thân cây để nguyên cả vỏ, và lát bằng tre lồ ô đập dập. Trời! Em nhẹ bỗng đến ngạc nhiên, tưởng chừng như không phải làm bằng xương thịt mà bằng một chất liệu gì đó hết sức mỏng manh, hết sức dễ vỡ. Một nỗi thương xót trào lên, nghẹn cổ ông. Ông cầm bàn chân sưng tấy của em, nâng lên ngắm nghía, trán ông hơi cau lại vì lo lắng. Ông âu yếm nói: - Chú mình cứ nằm yên nghe, đợi anh mấy phút. Rồi anh sẽ chữa cho chú mình lành bệnh. Rồi chú mình sẽ tha hồ mà viết những bài hát mới… Ông trở lại lán, ăn nốt chén cơm với nước ruốc. Những tứ thơ mới lên men trong đầu ông: "Cuộc kháng chiến thần thánh của đất nước đã làm nảy sinh biết bao điều kỳ diệu? Nó giống như quặng mỏ kim loại quý với một trữ lượng vô tận, bấy lâu nằm sâu ẩn kín dưới các tầng đất, bỗng được mũi khoan của kháng chiến chạm phải, phát hiện, làm giàu sang cho nòi giống Biết bao nhiêu thiếu niên đã sống và chết như những bậc anh hùng cái thế Và chắc cũng không hiếm những chú bé hoá thành nghệ sĩ cách mạng như chú bé bệnh nhân của tôi?". Vừa chan nước ruốc đỏ lòm những ớt vào bát cơm gạo mục, ông bác sĩ bệnh viện trưởng chiến khu vừa khẽ ngâm nga một câu trong bài hát của Quỳnh: "Sông Ô Lâu ngân nga hát vang. Chảy xuyên qua cuộc kháng chiến trường kỳ…". Bưng bát cơm lên miệng và, ông vẫn không thôi nắc nỏm: - Lạ thật! Một chú nhóc mười ba tuổi mà viết nổi một câu hát như thế. Lạ thật! Cũng như hồi ở trạm quân y của mặt trận khu C. Quỳnh trở thành con cưng của cả bệnh viện chiến khu. Từ bác sĩ bệnh viện trưởng đến y sĩ, y tá, hộ lý, đến bệnh nhân, đều yêu em và đối xử với em như con đẻ, như em ruột. Những hôm em dịu cơn sốt, cái chân bớt đau nhức, em tha thẩn đi đến các lán trong khu bệnh viện. Em dạy cho họ hát bài "Sông Ô Lâu kháng chiến" của em và hát cho họ nghe những bài hát mà họ yêu cầu. Em vừa có năng khiếu âm nhạc tuyệt vời lại vừa rất khéo tay. Chỉ cần mày mò một lúc là em đã có thể biến những đồ vật tầm thường, bỏ đi, tìm thấy trong các lán trại thành nhạc cụ. Em xếp những ống nứa những ống tre lồ ô dài ngắn, to nhỏ khác nhau, hoặc những cái chén ăn cơm, những chai lọ không, đổ vào đó những mực nước khác nhau, và dùng chiếc đũa, cái muỗng sắt hoặc con dao cùn mẻ, gõ nhịp nhàng lên những vật đó, thế là tất cả hoá thành âm nhạc. Thế là ngôi lán tràn ngập những giai điệu hùng tráng, du dương, êm dịu… của những bài hát họ quen thuộc. Họ chen chúc, xúm xít quanh em, mắt không chớp, như bị hai bàn tay em thôi miên. Những gương mặt chiến sĩ vàng võ vì bệnh tật, đói khát, phút chốc rạng rỡ lên vì niềm vui của sự ngạc nhiên, thán phục. Cuộc sống gian khổ. Thiếu thốn kinh người của hoàn cảnh bệnh viện chiến khu ngày đó, từ khi có em, bỗng vơi nhẹ bớt. Tiếng rên la, cáu gắt ở các lán bệnh nhân ngày một giảm và thay vào đó là tiếng hát, tỉếng cười, ngày một nhiều hơn, bác sĩ Thiền gọi đùa em là "Chính uỷ của bệnh viện". Có lần bác sĩ Thiền vào thăm lán năm, một lán toàn những bệnh nhân nặng. Ông bắt gặp Quỳnh đang đứng trên sạp nứa bắt nhịp cho các anh chị bệnh nhân, người nằm, người ngồi, người dựa cột, dựa phên tập hát bài "Không quân Việt Nam"(1), đúng vào cái câu: " Ta là đàn chim bay trên cao xanh… ". Em dạy hát kiên nhẫn không thua gì mấy ông giáo già dạy trẻ con học vỡ lòng. Em bắt các anh các chị dừng lại nhiều lần, em hát làm mẫu rồi bắt họ tập hát lại những câu hát sau. Một lần, hai lần, bốn năm sáu lần… Mấy bệnh nhân có tiếng là khó tính, bướng bỉnh nhất lán đều răm rắp nghe em chỉ vẽ, ngoan ngoãn như những chú học trò nhỏ. Em gõ lên bộ đàn chai tự tạo hoà theo giọng hát của họ làm cho tất cả hào hứng say sưa tập. Bác sĩ Thiền dừng lại trước cừa lán, đắm chìm trong những giai điệu hùng tráng mang ý nghĩa tiên tri, báo hiệu, ngợi ca một quân chủng của quân đội cách mạng tương lai và gợi lên niềm mong ước lớn lao về sức mạnh của Nhân dân - Đất nước, được một em bé lĩnh xướng và điều khiển bắt nhịp. Ông ngắm nhìn những tấm thân gày gò, ghẻ lở, che phủ những bộ quần áo rách như tổ đỉa, những gương mặt võ vàng, xanh lét ủ đầy bệnh của các chiến sĩ bệnh nhân, tràn trề niềm phấn khích cách mạng. Lời hát hừng hực khí phách, tràn đầy chất thơ hào hùng như đang toả sáng trên gương mặt họ, như đang nâng bổng họ bay lên bầu trời mộng tưởng… "Ta là tinh cầu bay trong đêm trăng… ". Ông thấy người mình nổi hết gai ốc, và cặp mắt ông nhoà. Về sau này, nhiều năm tháng đã trôi qua, bác sĩ Lê Khắc Thiền râu tóc đã bạc phơ, vẫn còn hay nhắc lại chuyện này. Ông xúc động nói: "Lúc đó tôi vụt thấy núi rừng chiến khu, cuộc sống bi tráng của năm đầu kháng chiến, các chiến thương sắp ngã gục và không bao giờ còn đứng lên được nữa vì thiếu thuốc men và đói khát, em bé nhạc trưởng bắt nhịp hát với hai cánh tay trần mảnh như que diêm, và ca khúc không quân Việt Nam cánh bay rợp trời…" đã hoà nhập làm một. Đó là một trong những hình ảnh tráng lệ nhất của Tổ quốc lâm trận, mà đời tôi may mắn được chứng kiến". Hơn một tuần vừa qua, Quỳnh vắng mặt ở các lán. Em bỗng dưng lên cơn sốt liên miên, phải nằm liệt trên sàn. Vết thương cũ dưới gan bàn chân tái phát nặng, sưng tấy, nóng ran. Em không ăn được, mỗi bữa phải gắng lắm em mới nuốt được vài muỗng cháo loãng. Bác sĩ Thiền vô cùng lo ngại. Ông lật nhìn mi mắt em, nhìn lưỡi, bàn chân tấy đỏ, nhìn bát cháo gạo luễnh loãng với mấy con tôm khô kho mặn chát để ở đầu giường mà em chỉ ăn được vài muỗng rồi bỏ dở… Gương mặt ông vụt tối lại như có một mảng bóng râm lướt qua. Ông ứa nước mắt vì thương xót, bất lực. Tâm trạng ông lúc này giống tâm trạng một tráng sĩ dư sức đánh bại một kẻ thù, nhưng có nguy cơ bị kẻ thù hạ thủ chỉ vì trong tay thiếu một lưỡi gươm - dù chỉ là một lưỡi gươm cùn. Mỗi lần di xuống lán thăm bệnh cho em, ông lại lắc lắc đầu, lẩm bẩm: "Giá được cho chú ta mỗi ngày vài ly sữa, một ít thuốc kháng sinh thì đâu đến nỗi…". Nhưng trong tay ông lúc này chỉ có cháo gạo loãng, mấy con tôm khô kho mặn chát một ít thuốc ký ninh, viên sắt, long não… Chỗ nằm của Quỳnh trước đây ở giữa lán. Một bệnh nhân nằm cuối lán, sát phên đầu hồi, ra viện. Em xin bác sĩ chuyển chỗ nằm đến đây. Em tẩn mẩn tự tay khoét phên lán thành một khuôn cừa sổ nhỏ bằng bốn bàn tay, ngang tầm với đầu nằm. Em có thể nằm mà ngắm một khoảnh rừng núi qua cái khung cửa sổ tí xíu này. Những lúc dứt cơn sốt rét, em thường nằm nghiêng, úp gương mặt xanh xao vào khuôn cửa sổ mắt mở to ngắm nhìn cái dốc núi thoai thoải, mặt đất phủ đầy lá rụng và dây leo, xanh rợp bóng cây cỏ những đốm nắng màu hổ phách, và một mảnh suối lấp lánh dưới chân dốc… Em nằm bất động, có khi hàng giờ liền, mình đắp cái bao tải thay chăn, làm các chị y tá cứ tưởng em ngủ say. Hình như em chăm chú lắng nghe một âm thanh gì đó, rất xa, rất mơ hồ, mà chỉ một mình em nghe thấy. Thỉnh thoảng em lại chống khuỷu tay nhỏm dậy, nửa nằm nửa ngồi, hý hoáy viết cái gì đó với mẩu bút chì ngắn bằng ngón tay, lên mặt sau tờ giấy đơn thuốc bỏ đi. Em viết hết tờ này đến tờ khác. Những tờ viết rồi, em xếp thành một tập, đút dưới cái bao tải rách gối đầu, thiếu giấy đơn thuốc, em viết lên những chiếc lá cây vả rừng, thứ lá lớn bằng trang giấy vở học trò và lúc rụng ngả màu vàng chanh. Các anh chị bệnh nhân, y tá, hộ lý tò mò, rón rén đến gần, cúi nhìn trộm xem em viết gì. Em liền úp hai bàn tay lên tờ giấy hoặc ngọn lá, che lại những gì mình đang viết và nói với giọng nũng nịu, hờn dỗi: "Em không cho coi mô…ô". Cả bệnh viện đều đoán em đang viết nhạc. Và ai cũng ngong ngóng chờ đợi em lại cho ra đời một bài hát mới, hay như bài "Sông Ô Lâu kháng chiến". Họ hỏi em: "Sắp xong chưa?". Em lắc lắc đầu, cười: "Chưa mô… Cái này mất công lắm. Mà em bị sốt rét ghê quá " Họ không biết cái này là cái gì, và em cũng không nói rõ. Họ đoán già đoán non cái này chắc là một bài hát… Nhưng với bác sĩ Thiền thì em nói: "Em đang viết một vở nhạc kịch kể câu chuyện bạn em "Đi tìm thuốc cho mẹ". Anh có tin em sẽ thành công không?" - em ngước gương mặt mỗi ngày một võ vàng xanh xao, nhìn bác sĩ Thiền và hỏi. Rồi không đợi bác sĩ trả lời, em khẽ khàng nói thêm: "Mô-da viết vở nhạc kịch "Cây sáo thần", lúc ông ấy còn ít tuổi hơn em…". - Bác sĩ Thiền ghi vào nhật ký: "Hôm nay mình lại biết thêm một chuyện lạ". Một vở nhạc kịch được viết lên sau những tờ đơn thuốc bỏ đi và lên những lá cây vả rừng. Và chú bé tác giả viết "Cây sáo thần" của mình, ở quãng ngừng giữa hai đợt sốt rét". Chú thích: (1) Tác giả là nhạc sĩ Văn Cao. 11 Bác sĩ Thiền chống cây gậy làm bằng thân cây lụi, cắm cúi trèo dốc từ Xê-ca Một về bệnh viện. Ông đang có điều phải bận tâm suy nghĩ nên chốc chốc lại trượt chân, vấp vào những rễ cây, những cây giang, mây song, bò dọc bò ngang trên lối đi. Sáng nay, em Nghi liên lạc của Trung đoàn bộ đến bệnh viện đưa thư mời ông ra Xê-ca Một gặp Ban chỉ huy trung đoàn có việc khẩn, cần trao đổi. Xem thư, ông phỏng đoán Ban chỉ huy trung đoàn lại yêu cầu ông chuẩn bị thuốc men và lực lượng cứu thương cho một trận đánh mới, như mọi bận. Nhưng thật bất ngờ, chuyện Ban chỉ huy trung đoan cần trao đổi với ông là chuyện em Quỳnh, chú bé nhạc sĩ. Chính uỷ trung đoàn đưa cho ông xem hai bức thư của bà mẹ em Quỳnh, và hỏi ý xem nên giải quyết thế nào. Ông ngồi ngẫm nghĩ khá lâu, rồi nói: - Chuyện tưởng đơn giản mà hoá phức tạp các đồng chí ạ… Trước khi nói lên ý kiến của mình, bác sĩ Thiền báo cáo khá tỉ mỉ tình trạng sức khỏe và bệnh tật của Quỳnh hiện nay. Ông cũng không quên kể lại những việc em làm và tình cảm của cả bệnh viện đối với em. Và trong thời gian gần đây, em đang mê mải, say sưa viết một vở nhạc kịch mà theo em có thể hay như vở nhạc kịch "Cây sáo thần" của Mô-da nhạc sĩ thần đồng thiên tài người Áo, cách đây gần hai thế kỷ. Mà chú ta đã viết vở nhạc kịch đó như thế nào? Trên mặt sau những tờ đơn thuốc bỏ đi, và trên những ngọn lá cây vả rừng! - Tôi cũng không đoán chắc, - ông nói, - chú ta có thể thực hiện được ước mơ quá lớn của mình hay không… Nhưng niềm say mê và lòng quyết tâm ghê gớm của chú ta trong việc sáng tác vở nhạc kịch cách mạng, đã làm tôi và hầu như tất cả bệnh viện, phải xúc động sâu sắc. Nhiều hôm tôi bất chợt đi vào lán, bắt gặp chú ta đang nằm tùm hum trên sạp nứa, mình đắp cái bao tải đen thui như giẻ chùi chân, ghé sát mặt bên khuôn cửa sổ nhỏ xíu, cắm cúi viết nhạc lên lá cây, đôi môi nhỏ như vẫn còn thoảng mùi sữa mẹ, tái nhợt vì thiếu máu, thiếu dinh dưỡng, đang mấp máy khe khẽ một âm điệu gì đó… Tôi đứng lặng người quay mặt đi, lau nước mắt… Và lúc đó tôi vụt có ý nghĩ: Chú bé chiến sĩ này chính là hiện thân của mộng tưởng và ý chí của tất cả chúng ta trong giai đoạn kháng chiến bi tráng quyết liệt hiện nay… Việc này, - Bác sĩ Thiền chỉ vào hai lá thư đặt trên bàn, - theo ý tôi phải để cho em tự quyết định, lựa chọn. Nếu em muốn rời bỏ kháng chiến, trở về với gia đình, tôi chắc các anh cũng đồng ý thôi. Có điều em ở vào một "ca" khá đặc biệt: cha em là một tên đại Việt gian mà tôi chắc đã nằm trong danh sách những tên phản quốc đáng tội xử bắn. Tuy em Quỳnh còn nhỏ thật, mới mười ba tuổi như trong thư của cha em đã nói, nhưng em lại là một chiến sĩ cứu nước tình nguyện, hơn nữa em đã có đủ trí khôn và tình cảm cách mạng để viết nên một bài hát kháng chiến mà cả chiến khu đều hát. Bởi vậy, nếu quyết định lựa chọn rời bỏ chiến khu trở về với cái gia đình tội lỗi của em, sẽ trở thành một điều xúc phạm sâu sắc đối với tình cảm của cả chiến khu. Tôi đang hỏi, liệu chú bé mười ba tuổi này có đủ bản lĩnh để chống chọi với sự cám dỗ khủng khiếp này: sang Thuỵ Sĩ chữa bệnh và học hành đến lúc thành tài, chiếc đàn dương cầm nhãn hiệu Ý với giá mấy chục lượng vàng… Trong khi đó ở đây, em chỉ có bát cháo gạo loãng với mấy con tôm khô kho mặn chát, uống thứ thuốc nước ký ninh hoà nước trời, viết nhạc lên những ngọn lá vả rừng, và có nguy cơ chết đột ngột vì chứng suy tim… Đừng nói một em bé mười ba tuổi, tôi chắc nhiều chiến sĩ lớn tuổi đã từng trải, cũng phải vật lộn đau đớn trong quyết định lựa chọn… Chính uỷ trung đoàn hỏi: - Theo ý anh, em Quỳnh có thắng được "sự cám dỗ khủng khiếp" như anh nói không? - Tôi tin… Tôi cứ nghĩ đến câu hát cuối cùng trong bài hát của em: "Sông Ô Lâu đôi bờ trắng tóc lau… Hát lời thề kháng chiến đến bạc đầu…". Nhưng tôi cũng không dám hoàn toàn đoán chắc… Em đang phải đứng trước một thử thách quá lớn lao. Anh Thanh Tùng, một cán bộ của phòng chính trị trung đoàn, cũng được mời tham dự cuộc trao đổi, phát biểu ý kiến: - Theo tôi, chúng ta không nên mạo hiểm để cho chú bé này tự lựa chọn. Cách tốt nhất là giấu không để cho chú bé biết chuyện. Và chúng ta sẽ viết thư cho tên đại Việt gian ấy là quân đội kháng chiến sẵn sàng cho con trai của các người về với các người. Nhưng con các người đã cự tuyệt, quyết không rời bỏ kháng chiến để đi theo giặc. - Tôi phản đối thủ đoạn và dối trá, - bác sĩ Thiền cắt ngang lời Thanh Tùng, - mà thủ đoạn, dối trá với ai? Với đồng đội, đồng chí của mình? Không được! Giải quyết theo cách đó thật đơn giản và thật đỡ mệt. Nhưng vô tình chúng ta đã tự làm nhơ bẩn lý tưởng cao đẹp của chúng ta. Lý tưởng đó là Sự Thật! - Nhưng chúng ta phải đặt quyền lợi của kháng chiến lên trên hết? - Giọng Thanh tùng trở nên gay gắt. - Việc em Quỳnh từ bỏ kháng chiến sẽ có ảnh hưởng xấu, rất xấu là đằng khác, đối với một số cán bộ và chiến sĩ trong hoàn cảnh gian khổ hiện nay. - Ngay cả nhân danh vì quyền lợi của kháng chiến đi nữa, tôi cũng không tán thành sự dối trá. - Sự dối trá giống như cây kim bọc giẻ. Trước sau rồi người ta cũng biết. Và khi đã biết, người ta sẽ tự hỏi: Họ đã dối trá với mình từ lúc nào? Và sẽ còn dối trá đến bao giờ? Và hậu quả xấu của loại câu hỏi này sẽ khó mà lường hết được. Chính uỷ nói: - Tôi đồng ý với cách giải quyết của anh Thiền. Việc này chúng ta cứ để cho em Quỳnh tự do quyết định, lựa chọn. Trung đoàn uỷ quyền cho anh giải quyết việc này. Anh cứ đưa thư của ba mẹ em cho em đọc. Sau khi biết rõ nguyện vọng của em, anh sẽ gặp người nhà em, làm công tác tư tưởng với họ, trong cả hai trường hợp: Em xin trở về với gia đình hay quyết định ở lại chiến khu. Về đến bệnh viện, bước vào lán, bác sĩ Thiền thấy Quỳnh đang ngồi cầm thìa húp cháo. Em vừa dứt cơn sốt. Chị hộ lý ép em phải ngồi dậy ăn bát cháo nóng. Chị dỗ dành: "Cháo bữa ni ngon ghê lắm út à, có cả đậu xanh với nếp nghe. Lại có cả đường đen… Ngon chưa! Em gắng ăn nhiều vô, cho mau lành bệnh rồi còn đàn hát cho các anh các chị nghe. Cả bệnh viện tuần ni không có em đàn hát, cứ buồn thỉu buồn thiu. Quỳnh múc từng muỗng cháo húp một cách lơ đãng. Hình như vừa ăn em vừa còn mải nghĩ đi đâu. Húp được vài thìa em lại đặt bát xuống, cầm cái muỗng gõ gõ lên bộ đàn chai xếp thành một hàng dài trên miếng ván mỏng, kê sát phên liếp. Em gõ lên một hợp âm, lắng nghe, rồi cau mày, lắc đầu. Em gõ tiếp những hợp âm khác, lại cau mày lắc đầu. Khi đã tìm được một hợp âm vừa ý, em cúi xuống ghi những nốt nhạc lên mặt sau tờ đơn thuốc bỏ đi. Như mọi bận, bác sĩ Thiền dựa vai vào cột tre bương khung cừa ra vào, lặng lẽ ngắm Quỳnh mải mê sáng tác. Lòng ông rưng rưng cảm động. Ông bất chợt nhớ đến một câu nói của chính Mô-da, người nghệ sĩ thiên tài của các thế kỷ, mà chú bé bệnh nhân của ông đang quyết định đua tài: "Phải hành động cho đến khi không còn một phương tiện nào nữa mới thôi". Chú bé chiến sĩ của chiến khu Hoà Mỹ đang ngồi kia, đã hành động ngay cả khi không còn một phương tiện nào nữa? Chú đã quyết định viết vở nhạc kịch lớn đầu tiên của đời mình với những cái vỏ chai, với những tờ đơn thuốc bỏ đi, với những ngọn lá vả rừng… ông vụt liên tưởng đến chiếc đàn dương cầm nhãn hiệu Ý, chiếc ghế tròn đệm bọc nhung đỏ thắm ngồi chơi đàn, gian phòng rộng thênh thang, các cửa sổ buông rèm thêu đăng ten lọc ánh sáng. Trên những chiếc đôn sứ kê rải rác quanh buồng là những chậu hoa hồng, hoa cẩm chướng thơm ngát. Bên ngoài cửa sổ một khu vườn lảnh lót tiếng chim với những lối đi dạo rải sỏi trắng tinh. Xa xa là dốc núi thoai thoải xanh rợp bóng cây tùng, cây dẻ gai. Một mảnh hồ xanh biếc trôi bồng bềnh những áng mây của bầu trời Thuỵ Sĩ thanh bình… Tim ông tự nhiên đau nhói với ý nghĩ: "Chú bé này sắp phải quyết định lựa chọn chiếc đàn dương cầm hay những cái vỏ chai đựng thuốc, những chậu hoa hồng, hoa cẩm chướng kê trên đôn sứ hay cái bao tải rách lúc nhúc rận, mảnh hồ xanh biếc, những áng mây và bầu trời Thuỵ Sĩ thanh bình hay bát cháo gạo luễnh loãng với cục đường đen… và cứu cánh độc nhất của chú trong cuộc lựa chọn bi thiết này là "Lý tưởng cứu nước". Quỳnh chợt ngẩng lên, bắt gặp cái nhìn đăm đăm của bác sĩ bệnh viện trưởng. Em mỉm cười bối rối nói giọng người có lỗi: - Dạ, nhất định bữa ni em sẽ ăn hết chén cháo… Cháo chị Liên nấu ngon ghê. Có cả nếp, cả đậu xanh với cục đường đen… - Nhưng sao đang ăn em lại bỏ dở? - Bác sĩ Thiền làm bộ mặt nghiêm hỏi. - Dạ… đang ăn em chợt nghĩ được một nét nhạc rất đẹp cho phần mở đầu chương hai vở nhạc kịch. Không ghi ngay em sợ quên mất… Anh nghe thử hý… Em cầm cái muỗng gõ lên bộ đàn chai, tấu cái giai điệu rất đẹp mà em vừa chợt nghĩ ra: - Có được không anh? Bác sĩ Thiền ngồi xuống bên cạnh, đặt tay lên trán em, nói: - Tuyệt lắm! - Anh thấy tuyệt thật à? Bác sĩ vẫn không rời bàn tay khỏi vầng trán dâm dấp mồ hôi của em với ánh mắt đầy lo ngại. Ông gật đầu… - Cởi chi em đỡ sốt, cái chân bớt đau nhức thì em đã viết xong phần đầu của chương hai rồi… Em viết và em mơ đến lúc hoàn thành, sẽ được trình diễn trên sân khấu Văn hoá đại chúng, khán giả là cả trung đoàn… Bác sĩ Thiền âu yếm nói: - Anh cho là vở nhạc kịch của em phải được trình diễn ở Huế, trên sân khấu lớn, sân khấu nhà Ăc-cơi chẳng hạn. - Nếu trình diễn ở Huế, em sẽ viết một vở mới đồ sộ hơn. - Em đã có ý rồi… mà đến ngày đó chắc còn lâu anh hè? - Anh cho không lâu lắm đâu. Nhưng cũng có đủ thời gian cho em hoàn thành vở nhạc kịch mới đồ sộ như em mơ ước… Rồi làm như vừa chợt nhớ ra, ông nói: - À có thư của ba mạ em gửi lên cho em đây này. - ông móc túi áo lấy hai lá thư đưa cho em. Quỳnh đọc xong hai lá thư, ngồi im lặng rất lâu. Rồi nghĩ thế nào em lại cắm cúi đọc lại lá thư của ba em lần nữa. Gương mặt thơ ngây của em vụt đanh lại, già đi có đến hàng chục tuổi. Đôi môi nhợt nhạt mím chặt như đang cố nuốt một tiếng nấc nghẹn, một lời báng bổ. Em nhấc cái bao tải kê trên đầu gối để làm bàn viết, đặt sang một bên. Em nói mà không nhìn ông, mặt ngoảnh ra phía rừng như muốn giấu những giọt lệ cay đắng rưng rưng trong khóe mắt. Phó tổng trấn Trung kỳ! Đã rứa mà không biết xấu hổ lại còn viết ra như khoe? Ba tưởng Trung doàn trưởng Vệ Quốc Đoàn cũng như mấy người tổng đốc tuần phủ ngày xưa, mà gửi đồ lên lo lót cho con… Chao, ba không biết chi hết, không biết chi hết - Em thảng thốt kêu lên, giọng vang to một âm hưởng đau đớn bị nghẹt giữa đôi môi mím chặt. Những giọt lệ to, trong suốt lăn dài trên hai gò má xanh lét của em. Em vội vàng đưa nắm tay nhỏ lên quệt nước mắt. - Về việc ba mạ em xin cho em trở về với gia đình em nghĩ thế nào? Em có muốn về hay không? Ban chỉ huy Trung đoàn có ý kiến việc này để cho em toàn quyền lựa chọn. Nếu em muốn về, trung đoàn sẵn sàng bố trí để em về theo luôn với hai chị người nhà của em. - Hai chị nớ lên chiến khu đã lâu chưa anh? Chừ họ đang ở mô? Họ mới lên trưa hôm qua. Họ đang ở lại ngoài Tiền chiến khu, chỗ lán của đội em. Họ cứ năn nỉ đòi được vô gặp em… - Anh cứ để họ ngoài đó, em ra gặp cũng được. Đừng cho họ vô đây Ai biết được chừ bụng dạ họ ra răng? Bác sĩ Thiền đăm đăm nhìn em, lòng thắc mắc tự hỏi: "Cái giọng từng trải đó chú bé này đã học ai? Và học từ bao giờ vậy?" ông không tự trả lời được. Có lẽ là bản chất chiến sĩ và nghệ sĩ đã dắt dẫn em. Quỳnh tụt xuống sạp nằm, nói với ông: - Anh cho phép em ra ngoài đó gặp họ hí? - Nhưng em yếu rứa đi ra ngoài đó một mình răng nổi? - Em chống nạng, em đi thủng thẳng rồi cũng đến nơi… Anh So xạ thủ súng cối hôm đó vô bệnh viện để chích cái nhọt đồng đanh mọc ở chỗ hiểm, biết chuyện, liền xăng xái nói: - Chừ anh cũng ra ngoài đó, để anh cõng chú mình ra luôn. Anh cười hề hề, miệng nở rộng, phô những chiếc răng bàn cuốc vàng khè nhựa thuốc lá, quay sang nói với bác sĩ Thiền: - Cái số tui ri mà cũng sướng gớm lắm bác sĩ ạ. Từ ngày vô Vệ Quốc Đoàn, tui toàn được làm bạn với mấy thằng con nít ạ đời. Một thằng thì chạy rong khắp thành phố, trèo tuốt lên tất cả những ngọn cây cao chót vót tìm thuốc hen suyễn kinh niên cho mạ. Chừ lại thêm một thằng không chịu về nhà ăn nem công chả phượng mà đòi ở lại chiến khu ăn sắn, môn thục với rau tàu bay. - Nhưng làm răng mà anh biết là em Quỳnh sẽ ở lại chiến khu? - Răng lại không biết! Ngó cái mặt hắn là tui biết ngay. Mặt Vệ Quốc Quân có sạn có sỏi trong đầu! - Nhưng em sợ anh cõng nặng, mà anh đang đau… - Quỳnh vịn theo sạp nứa tập tễnh bước và nói. - Xì chú mi đừng có làm trạng. Sợ anh nặng? Thứ như chú mi, anh chỉ xách một tay, lia một cái cũng bay thấu qua bên tê sông Ô Lâu… Anh So vấn điếu thuốc lá ngọn to bằng ngón tay cái, châm lửa rít mấy hơi liền, rồi cúi xuống cõng phốc Quỳnh lên lưng, hai tay vòng ra sau lưng, bưng đỡ cặp mông con nít lục cục những xương của em. Anh nhăn mặt kêu: - Ui chao? Hắn nặng mới đã gớm! Hơn cả con gà con mới nở? Cùng ra Tiền chiến khu bữa đó với Quỳnh, có bác sĩ Thiền, mấy anh chị y tá, hộ lý mang theo xi lanh và thuốc tiêm cấp cứu, cùng với mấy chiến sĩ bệnh nhân được ra viện.
|
Chương 25: Phần Thứ Bảy (9) 12 Trong vòng chưa đầy một ngày một đêm mà cả chiến khu Hoà Mỹ, từ Tiền chiến khu đến Xê-ca Bảy và không chỉ riêng bộ đội, cán bộ, công nhân viên mà cả nhân dân làng Hoà Mỹ, đều biết chuyện em Quỳnh-sơn-ca đội viên đội Thiếu niên Trinh sát trung đoàn, tác giả bài hát "Sông Ô Lâu kháng chiến" là con trai út độc nhất, là "hũ mắm treo đầu giàn", của tên đại Việt gian, Phó tổng trấn Trung kỳ. Và chính tay tên đại Việt gian đó đã viết thơ, cử hai chị người nhà, một già một trẻ, mang lên chiến khu, gửi tận tay Ban chỉ huy trung đoàn, cùng với nhiều thuốc men; nhiều đồ lề quý giá mua từ ngoại quốc xin cho em được trở về Huế với gia đình. Sau đó em sẽ được xuất dương sang nước Thuỵ Sĩ để chữa bệnh và học hành cho đến lúc thành tài. Ban chỉ huy Trung đoàn đã cho phép em tự do lựa chọn, muốn ở thì ở, muốn về thì về. Hai chị người nhà của em hiện đang ở tại chỗ ìán của đội Thiếu niên Trinh sát với hai bị đồ đạc gánh một gánh nặng. Nếu em thuận về, họ sẽ đưa em về theo. Chuyện của Quỳnh được sôi nổi bàn tán khắp nơi chiến khu. Mọi người thi nhau phỏng đoán, đánh cuộc với nhau. Người bảo em sẽ về, người bảo em sẽ ở lại. Nhân đó, người ta nhắc lại chuyện quản Hậu, quản khố đỏ cũ, là trung đoàn trưởng đầu tiên của trung đoàn Trần Cao Vân. Mặt trận Huế vỡ quản Hậu đã bỏ trốn theo Tây. Rồi chuyện ông Tuân, trưởng ban quân nhu của trung đoàn, xách một túi bạc mấy chục vạn đi vô chiến khu Hương Thuỷ, để gửi về Huế mua thuốc men cho bộ đội. Ông ta đã để túi bạc lại chiến khu đi về đồng bằng, mượn cớ tìm bắt liên lạc với cơ sở rồi nhảy tót luôn về Huế theo Tây… Người lớn làm đến chức to như rứa còn trốn theo Tây, huống hồ đây là con nít. Chú ta xin về là cái chắc! - Cái nước Thuỵ Sĩ mà chú ta sắp qua ở là nước mô rứa hè? - Cái nước chuyên nghề làm đồng hồ đó. Đồng hồ Thuỵ Sĩ tốt nhất thế giới: Ô-mê-ga, Mô-va-đô, Vi-le, Pơ-ranh-ta-ni-a… - Mấy chú liên lạc ở đội anh Thắng tui biết hết, không biết Quỳnh là chú mô? - Cái thằng nước da trắng xanh, đi phải chống nạng mà bữa trước đi ngang qua quán, tui gọi vô cho ăn bát chè gạo, hắn cứ nắc nỏm khen hoài là ngon ghê, ngon ghê đó. - Chính thằng nớ à? Ngó hắn còn nhỏ thó, ốm o hơn cả thằng Bộ-xương-cách-trí nữa hè? - Không biết cả vạn quốc, có nước mô nhiều bộ đội con nít như ở Xê-ca Hoà Mỹ mình không hè? - Kháng chiến mình cũng thiệt lắm chuyện lạ? Bữa ni còn đang thèm cục đường đen rệu cả nước miếng, áo quần rách thì láy dây chuối buộc túm buộc tó, sốt rét thì uống nước mưa hoà ký ninh… Rứa mà chỉ cần gật đầu một cái là dã qua ngồi bên nước Thuỵ Sĩ, tay đeo đồng hồ vàng sáng giới, đi ô tô, ở nhà lầu, mặc lụa, mặc gấm, chơi đàn chơi địch… sướng hơn cả hoàng tử Bảo Long!(1) - Rứa mà chắc chi chú ta đã chịu gật? - Gật chớ chi mà không gật! - Mấy ông cách mạng nòi gặp phải trường hợp ni e cũng chênh vênh nữa là… - Cứ đợi coi mới biết, chuyện đời nhiều khi rất cắc cờ. Từ các trạm gác tiền tiêu, trong các ụ súng bắn máy bay, trong các lán trại từ Xê-ca Một đến Xê-ca Bảy, công binh xưởng, trạm quân lương, xưởng bào chế… trong các quán hàng, hiệu "Coiffeur de luxe" của ông Đỡm, quán bán bánh sắn của mụ Tào… đến đâu cũng nghe bàn tán chuyện em Quỳnh. Năm đó là năm gian khổ trầm trọng nhất của cuộc kháng chiến chín năm ở chiến trường Bình Trị Thiên. Nhiều người bền gan quyết tử, nhưng cũng không ít người xao xuyến phân vân… Có người đã bước tới mấp mé ranh giới của sự ngã lòng, khiếp nhược; trong tâm tư sâu kín đã manh nha ý muốn đầu hàng, rời bỏ hàng ngũ kháng chiến, mà danh từ hồi đó gọi là "dinh tê". Vì một sự hết sức tình cờ mà chú bé chiến sĩ mới mười ba tuổi này đã trở thành đại diện cho cả hai bên: bên bền gan và bên ngã lòng. Người ta mượn chú để công khai bộc bạch lòng mình trước giờ phút nghiêm trọng của kháng chiến. Mỗi bên đều muốn níu kéo chú đứng về phía mình để khẳng định niềm tin hoặc để biện hộ cho sự ngã lòng khiếp nhược. Người ta hồi hộp chờ đợi cái phút chú gặp mặt người nhà để nói lên sự quyết định lựa chọn của chú. Bởi vậy khi thấy anh So-moóc-chê cõng Quỳnh trên lưng, cùng với bác sĩ bệnh viện trưởng và mấy chị y tá, hộ lý, từ phía Xê-ca Một đi ra Tiền chiến khu, nhiều người đã bỏ dở công việc đang làm, đi theo coi, đông như một đám rước. Nằm nép trên tấm lưng rộng lớn lực lưỡng của anh xạ thủ moóc-chê tám mốt, Quỳnh nom càng mỏng mảnh, bé bỏng xanh xao. Nếu anh So không vòng hai cánh tay ra sau lưng ôm chặt lấy cặp giò và cái mông con nít của em, e gió thổi bay. Đoạn đường từ Xê-ca Bảy ra đến Tiền chiến khu khá xa, phải trèo qua nhiều dốc núi và lội qua nhiều con suối. Nằm trên lưng anh So, Quỳnh cũng thấy thấm mệt. Em đựa mái dầu tóc tơ bù rối vào cái cổ trần bò mộng của anh, nhắm nghiền mắt, thiu thiu ngủ. Gió thổi lộng. Đi qua kết hết lớp cây rừng che khuất, cái màu nắng chói chang rực rỡ của vùng Tiền chiến khu, và tiếng người chuyện trò bàn tán, đã đánh thức em. Em ngẩng đầu lên, mắt hấp háy vì chói nắng. Em ngoảnh lại nhìn những người đi theo sau đông như đám rước. Em tủm tỉm cười với tất cả thay cho lời chào hỏi. Cặp mắt em vốn đã to lúc này trông càng to hơn, như choán hết gương mặt hốc hác, xanh xao, mái tóc bù rối gió thổi tung và tràn ngập nắng chiến khu. Không hiểu sao có mấy anh, mấy chị ngó vào cặp mắt em, tự nhiên ứa nước mắt: - Coi hắn ngó mình tề, hắn cười tề… Cái mặt hắn răng mà dễ ghét…- Một chị vừa thút thít khóc vừa nói vậy. Những người đi theo sau, đều biết em tuy là chú bé nhưng lại là một nghệ sĩ, đã viết nổi một bài hát đẹp và quyết liệt như một lời thề của tất cả những người bền gan sống chết với chiến khu. Ánh nhìn và nụ cười của em vừa thơ dại, bé bỏng, vừa sâu sắc thâm trầm. Qua ánh nhìn và nụ cười đó, người ta đều cảm thấy chú bé này hiểu rất rõ họ muốn gì ở em, chờ đợi gì ở em… Anh So cõng Quỳnh bước vào lán, nhẹ nhàng đặt em ngồi xuống sạp nứa. Phút chốc cái lán rộng thênh thang đã chật ních những người. Họ chen chúc, vòng trong vòng ngoài. Đứng vây quanh sát bên em là đội trưởng Thắng, bác sĩ Thiền, và hai phụ nữ gia nhân của viên Phó Tổng trấn Trung kỳ. Thím Ba là vú nuôi, o Hường là chị em cô cậu ruột với Quỳnh, sống với gia đình em từ nhỏ và cùng đi học với chị Kiều Trang của em. Hai người phụ nữ cùng ôm chùm lấy Quỳnh và oà lên khóc. Qua gẩn một ngày một đêm ở chiến khu, họ lần đầu tiên đã được nếm ít nhiều mùi vị gian khổ của kháng chiến. Suốt đêm qua họ không ngủ. Họ thao thức cố hình dung đứa con nuôi, đứa em của họ, mà ngày ở nhà được nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa, bây giờ sinh sống ra sao, mặt mũi hình dạng ra sao… Nhưng họ không thể nào tưởng tượng nổi đứa con trai út độc nhất của cụ lớn Tuần Vi, giàu sang quyền thế nức tiếng của thành phố Huế, lại đến nỗi rách rưới, ốm đau, xanh xao, hôi hám như cái chú bé mà họ đang ôm riết trong vòng tay. Một nỗi thương xót ghê gớm làm cho cả hai người muốn chảy tan thành nước mắt. Trái lại, thấy vú nuôi và người chị ăn mặc sang trọng, thơm tho, béo tốt, cứ ôm chặt lấy mình mà khóc, Quỳnh có vẻ xấu hổ và ngượng với những người đang đứng vây quanh. Em hơi đẩy hai người ra, nói giọng như gắt: - Tề… Vú với chị khóc chi mà khóe hoài rứa? Làm như em chết rồi không bằng… - Ôi chao, con mà đau ốm, ăn ở cách ni rồi con cũng chết mất thôi con ơi!… Thím Ba nước mắt giọt ngắn giọt dài, rên rỉ. - Chị với vú mà còn khóc nữa là em bỏ em vô trong tê ngay. Quỳnh chỉ tay về phía núi. Câu doạ của Quỳnh thế mà hiệu quả. Hai người chặm nước mắt và vội nín khóc. Từ ngày còn ở nhà hai người đã được biết cái thằng Quỳnh của họ mặt mũi hiền lành như con gái nhưng bướng bỉnh, gan liều cả nhà phải khiếp. Nó đã định làm cái gì, thích cái gì là tìm cách làm cho bằng được. Một lẩn, chị Kiều Trang ngồi thêu, bị cái kim chích vô ngón tay, đau quá, chị khóc thút thít. Nó đang ngồi tập đàn, bỏ đàn chạy lại, nói với chị. "Cái kim chích như kiến cắn mà chị cũng khóc! ôốc dôột?". Chị bực cãi lại: "Em có bị chích mô mà em biết. Em mà bị, em còn khóc bằng mấy chị?". Nó cầm lấy cái kim, nói: "Đã rứa, em chích cho chị coi?". Tưởng nó nói doạ, ai ngờ nó chích thiệt. Nó đâm gần lút nửa cái kim vô bắp chân rồi rút ra. Bỏ cái kim còn đỏ lòm cả máu vô hộp khâu, rồi bước cà nhắc đến bên cây đàn, thản nhiên ngồi xuống tập tiếp. Rồi cái hôm cụ Tuần xé mất cuốn vở nhạc của nó, nó lầm lì nói: "Ba làm rứa, con bỏ nhà con đi Vệ Quốc Đoàn!". Cũng tưởng nó nói dọạ, ai ngờ nó trốn nhà nó đi thiệt, đi từ ngày đó cho đến nay… Vú Ba và chị Hường kể chuyện ba mạ, chuyện nhà cho Quỳnh nghe. Hai người mở bị soạn hết đồ lề của ba mạ gửi lên cho em, để đầy trên sạp nứa. Mấy bộ áo quần ka-ki, ga-bạc- đin, phơ-la-nen, mấy cái áo len dài tay, cộc tay, cái nào ở cổ cũng có đính nhãn hiệu nước ngoài, cái mền len mỏng, thuốc uống, thuốc tiêm toàn loại thật hiếm, thật đắt tiền, rồi sữa hộp, cá hộp, thịt hộp, nét-cà-phê, chanh bột hộp, sô-cô-la, bích quy, cả thuốc lá thơm Cờ-ra-ven-na… với vỏ bọc choáng lộn, màu sắc sặc sỡ, những hình vẽ và chữ đề tiếng nước ngoài… Tất cả cái đống đồ lề đó bốc lên mùi xa lạ, mùi cuộc sống của những gia đình giàu sang, quyền thế ở các thành phố giặc tạm chiếm. Nhiều người đứng vây chung quanh, mắt như bị hút chặt vào cái đống đồ lề quý giá, ngon lành đó, và gần như choáng váng vì thèm muốn. Nó hiện ra giữa cảnh sống vô cùng gian khổ của chiến khu với tất cả sức hấp dẫn ghê gớm của chủ nghĩa vật chất. Nó như một lời mời mọc, dụ dỗ về cảnh sống của một miền "địa đàng" có thật và đang ở cách họ không xa. Bên kia con sông Ô Lâu, dọc theo con đường quốc lộ rải nhựa khoảng bốn chục cây số là đến nơi… Họ hết nhìn đống đồ lề lại nhìn Quỳnh - chủ nhân của đống đồ lề: Còn Quỳnh, em đưa mắt dửng dưng lướt nhìn đống đồ lề, rồi cúi xuống đất, nhìn cái lối đi gồ ghề, cháy đen nhiều chỗ vì lửa đốt sưởi suốt mùa lạnh và những ngày chiến khu mưa. Gương mặt thơ ngây của em vụt tối và đanh lại, nom em càng vàng rõ, xanh xao đến phát sợ. Em nói, mắt vẫn nhìn xuống đất, giọng nghẹn lại vì đau đớn: - Vú và chị về nói lại với ba mạ em… Em nghe chuyện ba, em rất xấu hổ. Tội của ba với kháng chiến to lắm. Mà em còn nhỏ quá, em không đủ sức để chuộc được tội cho ba… Nói với mạ em, ở đây em chẳng cần chi hết. Em chỉ cần tiếng tốt của ba, của mạ của gia đình thôi… Nước Thuỵ Sĩ làm chi có sông Ô Lâu, làm chi có Xê-ca Một, Xê-ca Hai, Xê-ca Ba… Xê-ca Bảy?… Qua bên đó em làm chi có đứa bạn trèo hết lên các ngọn cây cao thành phố để tìm lá thuốc về chữa bệnh cho mạ… Mà em thì thích sông Ô Lâu, thích Xê-ca, thích bạn em hơn. Còn ba thứ đồ ni - em ngẩng lên, khoát tay chỉ đống đồ lề bày ngổn ngang trên sạp nứa - vú với chị dẹp hết vô bị mang về, một viên thuốc em cũng không uống, một cái bánh em cũng không ăn mô! Thân hình em bỗng rung lên từng đợt như ngọn lá trước cơn gió bất thần nổi lên. Em đang cố hết sức chống chọi với cơn sốt rét đang dâng lên từ bụng, từ ngực. Hai bàn tay em bóp chặt cái thành sạp nứa, rồi cố nói với giọng thật bình thản: - Vú với chị về đi. Khi mô Huế giải phóng em sẽ xin phép cấp chỉ huy về thăm cả nhà… Em chợt nhìn lên chỗ đầu nằm của Mừng, thấy trên cái bao tải rách, đặt một hộp sữa guy-gô sáng trắng. Em cau mặt, chỉ hộp sữa, hỏi Mừng đứng sát ngay bên cạnh: - Ở mô mà cậu có rứa? - Chị Hường cho mình sáng ni… - Mừng bối rối nhìn bạn trả lời. - Răng cậu lấy làm chi? - Mặt em sa sầm, nghiêm lại hỏi. - Thứ bột đó ăn vô là dễ mắc nghẹn làm cậu chẳng biết chi cả! - Mình lấy định mang vô cho Quỳnh mà… - Mình thích ăn quả ươi bay hơn! Cậu tệ quá, cả tuần ni chẳng thấy cậu đem vô cho mình quả ươi bay mô? Mình thèm ươi bay của cậu rệu cả nước miếng… Cậu định đem hộp đó vô cho mình thì chừ cậu đưa đây. Mừng phóc lên sạp, cầm hộp sữa đưa cho Quỳnh. Em đặt hộp sữa bột vào giữa đống đồ lề, nói: - Vú với chị mang luôn cả hộp ni về. Bạn em nó không biết, nó tưởng ăn được! Những người vây quanh nhìn Quỳnh với cảm giác gần như hoảng sợ. Trong lúc nói những câu đó, gương mặt trẻ thơ của em hiện lên vẻ sắt đá đến lạnh người. Chị Hường nắm chặt hai cổ tay gầy guộc của em, khóc không thành tiếng, nước mắt ròng ròng, làm tóc dính bết vào má, vào cằm. - Chao ôi, răng mà em sắt đá dữ rứa? Em không viết được cho ba, cho mạ, cho chị, một cái thư hay răng? - Em chẳng biết viết chi… - Quỳnh lắc đầu buồn bã. - Mà em không có sẵn giấy bút ở đây… Mừng quệt nước mắt vào ống tay áo, nói với Quỳnh: Hay cậu gửi cái tờ chữ nhạc "Sông Ô Lâu kháng chiến" về cho ba mạ, cho chị, để ba mạ với chị được ngó thấy mặt chữ của cậu? - Tưởng anh Hinh lấy tờ đó rồi? - Mình mới lên đòi lại anh bữa trước. Mừng lôi tờ báo Giết giặc để dưới cái bao tải, mở ra. Bên trong tờ báo gấp làm tư em để bản nhạc của Quỳnh được vuốt thẳng hết nếp nhăn. Quỳnh cầm lấy bản nhạc viết sau tờ đơn thuốc, đọc lại một lần, rồi rút mẩu bút chì trong túi áo, sửa lại một vài chỗ. Em ký tên dưới bản nhạc, trao cho o Hường. - Chị nói với ba mạ là thơ của thằng Quỳnh gửi cho ba mạ đó! Gương mặt em vụt trở nên xanh lét, cả hai vành tai cũng xanh. Em gần như cúi gập người để chống chọi với cơn sốt lúc này đang tràn ngập cơ thể em. Như có một sức mạnh ghê gớm từ bên trong thúc đẩy, em vụt ngồi thẳng dậy, rướn người lên hết sức như sợi dây đàn lên đến cung bậc cao nhất mà nó có thể lên. Trông dáng điệu em lúc này sao mà giống hệt con sơn ca sắp vỗ cánh bay thẳng vút lên bầu trời! Và hết sức bất ngờ em bỗng cất tiếng hát. Em hát chính bài hát của em "Sông Ô Lâu kháng chiến". Sông Ô Lâu ngân nga soi núi biếc chập chùng Soi đoàn quân quyết tử hiên ngang… Mọi người đứng lặng sững sờ, kinh ngạc nhìn em. Cặp mắt em mở to, sáng long lanh như có lửa cháy bên trong. Mọi người đều có cảm giác là không phải chỉ miệng em hát mà cả con người em, từ mái tóc tơ bù rối, vầng trán trắng xanh như cẩm thạch, cái cổ gầy ngẵng như cổ gà con, những mạch máu xanh xanh sau làn da con nít trong bủng, những ngón tay ngón chân bé bỏng, mỏng manh và dễ vỡ như đồ chơi, đến cả cái áo quân trang rộng thùng thình mà em xin được của tnột anh nào đó với những miếng vá to tướng đủ màu, đều lung linh, ngân nga và rực sáng âm nhạc… Vừa hát hết câu thứ nhất, cả gương mặt em đã chan hoà nước mắt. Cả những dòng nước mắt sáng loà, đầm đìa trên hai má em cũng đang hát! Càng hát, gương mặt em càng tái xanh như người đang mất máu. Tưởng chừng như máu trong những mạch xanh xao của em đang chảy tràn ra khỏi thân thể em theo cùng với những câu hát. Đang ngồi, em vụt đứng thẳng dậy chênh vênh bên mép sạp nứa. Khi hát đến hai câu cuối cùng: Sông Ô Lâu đôi bờ trắng tóc lau Hát lời thề kháng chiến đến bạc đầu…". Toàn thân em run bắn. Cặp mắt mở to bỗng dạỉ đi. Ánh lửa cảm hứng rực sáng trong đáy mắt em vụt tắt ngấm như một ánh chớp. Và em ngã nhào từ trên sạp nằm xuống đất, bất ngờ đến nỗi không ai kịp đưa tay ra đỡ. Một dòng máu đỏ gắt từ trong miệng trào ra, giàn giụa trên vành môi mở he hé của em. Anh So-súng-cối nhào tới, bế xốc em lên ôm chặt vào lòng. Cặp mắt ành mở trừng trừng nhìn như chết lặng, gương mặt xanh lét với cặp môi trẻ thơ he hé giàn giụa máu hồng của thằng em chiến sĩ, mà nửa giờ trước đây, anh còn cõng nó trên lưng. Anh bỗng kêu thét rung chuyển cả gian lán. - Quỳnh! Quỳnh! Bác sĩ Thiền tay run run vạch mi mắt em ra. Ông khoát tay ra hiệu cho chị y tá nước mắt đầm đìa đang run rẩy lấy thuốc ở ống tiêm vào xi-ranh: - Thôi o ạ, muộn mât rồi! Mắt em đã giãn đồng tử… Lúc đó vây quanh em có đến hàng trăm người. Phần lớn là các chiến sĩ đã quần nhau suốt năm mươi lăm ngày đêm với giặc ở mặt trận Huế. Họ đã được chứng kiến không ít những cái chết của đồng đội trong các đợt xung phong. Nhưng chưa một ai nhìn thấy một cái chết lạ lùng, đột ngột, dữ dội, như cái chết của người chiến sĩ mới mười ba tuổi ấy. Lễ mai táng Quỳnh-sơn-ca cừ hành vào sáu giờ chiều ngày hôm sau (để đề phòng máy bay giặc). Huyệt đào trên đỉnh đồi thấp tím ngắt hoa sim dại, nhìn thẳng xuống một khúc lượn của dòng sông Ô Lâu. Dưới chân đồi trải dài ra đến mép sông, xạc xào lau sậy. Không có gỗ ván để đóng áo quan, và cũng không muốn bọc thi thể em trong vải bạt áo súng, các anh ở công binh xưởng đã hạ một cây xoan rừng thân to bằng hai người ôm. Các anh cắt một khúc dài chừng hai thước, khoét thủng ở giữa, đo vừa bằng người em. Các chị y tá nấu nước lá vằng, lá bội, lá ngái rừng, tắm rửa cho em. Các chị gội đầu cho em bằng lá sả. Cái bao tải rách quân trang đông xuân của em được gấp nhỏ, kê dưới đầu em làm gối. Bộ đàn chai tự tạo, cái đũa gõ đàn, được xếp dọc hai bên mình em. Các chị xếp cả vở nhạc kịch "Đi tìm thuốc cho mẹ" em đang viết dở dang với nhừng tờ đơn thuốc bỏ đi và những ngọn lá vả rừng, lên ngực em: Các chị cúi hôn vầng trán trong như sáp, bất động của em, nước mắt lã chã. Một chị rủ rỉ nói với em, với giọng âu yếm dỗ dành như vẫn thường dỗ em gắng ăn hết chén cháo: "Chị để đờn, để giấy bút cho em đó, để về dưới nớ em viết tiếp những bản nhạc…". Trung đoàn trưởng đến viếng em, đắp lên mình em lá cờ đỏ sao vàng. Gần như cả chiến khu đến dự lễ mai táng em, đứng đen đặc cả ngọn đồi. Trước khi lấp đất, đội đồng ca nhà Văn hoá đại chúng xếp hàng bên thành huyệt, hát bài hát "Sông Ô Lâu kháng chiến". Hát đến câu thứ hai những người dự lễ cùng bật lên cất tiếng hát theo. Pun-xắc, anh chiến sĩ hàng binh người Đức, chĩa khẩu ga- răng lên trời - khẩu súng chiếm được trong trận Cầu Nhi - bắn liền một kẹp đạn. Mọi người xúm lại lấp đất, vừa lấp, vừa khóc, vừa hát. Bài hát về dòng sông gan góc, chảy bất tận trong cuộc kháng chiến trường kỳ. Chú thích: (1) Con trai của Vua Bảo Đại. 13 Ba ngày sau, các đội viên Thiếu niên Trinh sát công tác ở đồng bằng được triệu tập về chiến khu làm lễ truy điệu Quỳnh và nghe phổ biến nhiệm vụ mới của Đội. Trước ngực áo rách vá của các em đều đính một miếng băng vải đen. Có được mảnh băng tạng này là do công lao của Tư-dát. Nó ra chơi quán cắt tóc của ông Đỡm, ngồi kể lại cái chết của bạn, mụ Tào đang bán quán đằng trước cũng bỏ quán chạy qua nghe. Nó kể thế nào không biết mà mụ Tào bưng mặt khóc như chính con mụ chết. Tư-dát nói: "Mệ ơi, tụi cháu muốn để tang cho hắn mà không tìm mô ra vải đen. Mệ có miếng vải mô còn mới và sạch, cho tụi cháu một miếng làm băng tang". Mụ lột luôn cái khăn vải đen đang chít trên đầu chặm chặm nước mắt, rồi đưa cho nó, mếu máo nói: "Cháu cầm về cắt ra mà chia nhau". Tư-dát lấy kéo cắt mười tám mảnh đều nhau, phát cho từng bạn trong đội, và một mảnh to gấp đôi dành cho đội trưởng. Còn lại chừng một phần ba cái khăn em đưa cho Mừng giữ. - Mi nhớ cất cho kỹ, để khi mô đến lượt mi tao khỏi mất công đi xin. Tư-dát nói chơi mà Mừng cứ tưởng thật, em ngó tấm vải đen nói: - Nhưng nhỏ ri e sợ không đủ… Tư-dát cười, miệng méo xệch: - Không đủ thì bốc thăm. May nhờ rủi chịu… Cái chết của Quỳnh-sơn-ca đã gây một chấn động thật sâu sắc thật dữ dội, trong lòng các đội viên Thiếu niên Trinh sát - có lẽ còn sâu sắc và dữ dội hơn cả cái chết của Vịnh-sưa. Các em hỏi các chị y tá tại sao Quỳnh lại có thể chết đột ngột như thế. Các chị nói: "Em Quỳnh đang trong tình trạng sức khỏe hết sức mỏng manh, vì sốt rét và vết thương cũ ở bàn chân tái phát, tàn phá cơ thể vốn đã suy nhược của em. Gần đây bác sĩ còn phát hiện em có nhiều triệu chứng suy tim - em lại có một tâm hồn hết sức nhạy cảm. Một cơn sốc tình cảm quá căng thẳng, quá mănh liệt, làm em vỡ tim. Máu ứa ra miệng em là máu tràn ra từ trái tim bị rạn vỡ, như nước sôi tràn ra cái cốc thuỷ tinh bị nứt". Tư-dát quệt nước mắt nói với các bạn: "Hắn chết làm tao nhớ đến con chim chiền chiện bị tao ném chết ở dốc đồi gần đồn Sơn Quả dạo nọ… Bữa đó đang đi trinh sát, tao thấy con chiền chiện nhảy nhảy trên đất. Tao ngứa tay, lượm hòn đá ném chơi không ngờ lại trúng? Rứa là con chim bay vọt từ đất thẳng lên giữa trời như cái pháo thăng thiên. Từ giữa trời nó hót lên một tràng dài hay đến nỗi tao nghe phải nổi da gà. Rồi nó rớt thẳng đứng từ trên trời xuống đất, nằm chết ngay trước mặt tao. Tao lượm lên coi, thấy hai mép nó rỉ máu tươi. Lúc đó tao cứ nghĩ là tao ném trúng đầu nên mép nó mới chảy máu. Chừ thì tao tin là nó bị vỡ tim như thằng Quỳnh". Mừng mắt đỏ hoe, hỏi: - Nhưng con chim chết là tại anh ném đá, Quỳnh có ai ném chi mô và vỡ tim? - Cả đời mi không khi mô cho hết hỏi những câu ngơ ngơ. Thì cha hắn ném chứ còn ai nữa? Cha đại Việt gian ném con Vệ Quốc Đoàn, cú ấy mới nặng? Mà có phải ném gạch ném đá mô? Cha hắn ném ô tô, ném nhà lầu, ném đàn dương cầm, ném cả nước Thuỵ Sĩ vô hắn, làm chi hắn chẳng vỡ tim mà chết! " Trong đội chỉ có đội trưởng và Mừng là được chứng kiến cảnh Quỳnh chết. Các bạn bắt Mừng phải kể lại đầu đuôì. Nhưng em kể chuyện dở hết chỗ nói, cứ lặp đi lặp lại: "Quỳnh ngồi ri, nói ri, rồi ngẩng mặt ri, rồi hát ri, rồi bổ ri, rồi chảy máu ri, rồi anh So bồng lên ri…". Em vừa kể vừa cố gắng bắt chước điệu bộ cùa Quỳnh. Nhưng em bắt chước lại càng dở hơn. Các bạn phải kêu lên: "Mi kể chán quá! Toàn ri, ri, ri… y như cái thằng nói ngọng!". Mừng chỉ cho các bạn cái chỗ đất mà Quỳnh ngã xuống. Mỗi lần đi qua chỗ đó, đứa nào cũng đi vòng tránh xa, như sợ giẫm lên người bạn. Mừng kể chuyện không ra chi nhưng tình bạn của em với Quỳnh làm cho cả đội cảm động. Mỗi lần đi liên lạc vào núi, Mừng đều lượn đầy hai túi quả ươi bay. Các bạn xúm lại xin, em không cho, nhưng cũng không thấy em ngâm nước ăn. Các bạn tò mò theo dõi. Té ra, cứ chiều chiều Mừng lại chạy một mạch lên chỗ mộ Quỳnh, đặt những quả ươi bay lên nấm mộ đất còn mới, rồi ngồi đó mà khóc. Có bữa em còn cẩn thận mang theo cái ống bương, xuống sông Ô Lâu múc nước đặt trước mộ rồi bỏ quả ươi bay vô nước, ngâm sẵn cho bạn. Một lần em còn bỏ vô nước một cục đường đen, thút thít nói với bạn: "Quỳnh ơi, dậy mà ăn trái ươi bay đi Quỳnh!". Rồi em đứng sững trước mộ bạn khóc hu hu. Tư-dát biết chuyện, ngậm ngùi nói: "Chưa chắc cha mạ hắn đã thương hắn như thằng Mừng". Bồng ở đồng bằng lên, vác trên vai một tấm ván dài chừng một mét, một đầu tấm ván bị cháy đen. Em nói: "Tao đi qua cái xóm vừa bị Tây càn, nhà cửa cháy gần hết. Tao thấy một mệ lôi tấm ván ni trong đống tro ra. Tao hỏi: "Cháy còn một khúc ri thì mệ để làm chi?". Mệ nói: "Chẻ ra mà làm củi thôi chớ còn làm chi được nữa?". Tao nói: "Rứa thì mệ cho cháu vác lên Xê-ca làm cái bia cho thằng bạn cháu. Hắn chết chôn giữa núi giữa non, không có bia, sợ đến ngày độc lập e tìm không ra mộ". Mệ nói: "Cho cháu vác đi mà làm bia. Gỗ kiền kiền đó, chôn xuống đất hai chục năm không suy chuyển mô?". - Tư-dát ni! - Bồng nói - Mi chữ nghĩa hay ho, khắc tên họ hắn lên đây cho tao với. Tư-dát đáng lẽ phải khắc tên, họ, ngày sinh, ngày mất của Quỳnh như thường lệ, nhưng nó bỗng nổi hứng làm thơ. Hì hục cả tuần liền, Tư-dát khắc lên bia bốn câu thơ: "Sống, viết nhạc lên lá cây Chết, bạn cùng quả ươi bay lên rừng Sống anh dũng, chết thuỷ chung, Nơi đây yên nghỉ bạn Thân Trọng Quỳnh" 14 Chiều chiến khu. Các đội viên Thiếu niên trinh sát đang ăn cơm trước sân lán. Mâm cơm chiến sĩ năm đầu kháng chiến: một rá cơm gạo mục bốc mùi thum thủm vì gạo phải chôn dưới đất, và một tô nước ruốc đỏ lòm những ớt - mỗi đội viên được hai chén cơm lưng lửng. "Ăn rồi mà chưa ăn". Bồng- da-rắn đứng dậy, gãi bụng sồn sột và nói vậy. - Anh Kim về! Anh Kim trốn tù dưới Huế về! - Mừng từ ngoài đường xồng xộc chạy vào, vừa thở hổn hển vừa kêu, báo tin với cả đội. - Anh ấy cướp được cả khẩu tiểu liên "mát" của Tây! Cả đội bỏ hết chén đũa xuống đất, xúm lại quanh Mừng rối rít hỏi: - Hắn mô rồi? Hắn trốn về với thằng Lượm à? - Không có anh Lượm! Anh ấy trốn tù với một anh du kích xã Phong Diêu. Hai người đang ngồi ngoài trạm gác a?… - Ta ra coi đi! - Một em nào đó xướng lên. - Ta ra coi đi! Ta ra coi đi! - Cả đội hoà theo và rầm rập chạy như một đàn ngựa non, về phía trạm gác chiến khu cuối làng Hoà Mỹ. Cả đội oà vô trạm gác tiền tiêu, một cái lán tranh nép mình dưới rặng lồ ô, sát bên lối mòn đi về làng Đất Đỏ. Tất cả cùng nhảy lên, reo gọi: - Kim! Kim-điệu! - Hoan hô Kim-điệu! Kim-điệu đang ngồi trước cái bàn tre cùng với một thanh niên lạ mặt - anh du kích cùng tham gia vượt tù với Kim-điệu. Trên mặt bàn đặt dọc khẩu tiểu liên "mát" nước thép xanh biếc mà Kim đã đoạt được lúc vượt tù. Ngồi đối diện với hai người là anh tổ trưởng trạm gác. Kim-điệu đang sôi nổi kể chuyện gì đó với anh tổ trưởng. Bộ dạng, nét mặt, cử chỉ, giọng nói của Kim đúng là một tay tù vượt ngục chính hiệu. đầu tóc bù xù rối phủ kín gáy, mặt mũi có mấy vết gai xước rớm máu, bộ áo quần ka-ki rách toạc nhiều chỗ lấm lem bùn đất. Kim điệu nhảy ra khỏi cái ghế ngồi làm bằng một khúc thân cây còn nguyên cả vỏ, chạy ra sân đón các bạn. Tư-dát ôm chầm lấy Kim trước tiên, hổn hển hỏi dồn dập: - Thằng Lượm chừ mô rồi! Mi có được tin tức chi của hắn không? Mi bị bắt vô lúc mô? - Tớ đang ngồi báo cáo công tác với anh Đồng-râu thì tụi hắn bốn phía ập vô. Anh Đồng-râu đạp phên cùng với tớ vọt ra vườn. Anh núp sau cây sầu đâu, bắn chặn tụi hắn cho tớ chạy. Nhưng chạy ra đến bờ sông, chưa kịp nhảy xuống thì tụi hắn đã phục sẵn ở đó rồi… - Rứa thằng Lượm?… Nghe nói hắn bị giam ở lao Thừa Phủ, rồi sau đó chở vô Tua-ran. Còn tớ, tụi hắn đưa về giam ở lao Toà Khâm. - Làm răng cậu trốn được? - Chuyện dài mà ly kỳ lắm. Bữa mô về đội tới kể cho nghe. Mừng xắm nắm cạnh Kim. Em chỉ khẩu súng để trên bàn, hãnh diện khoe như chính em cướp được: - Các cậu coi tề! Khẩu súng đẹp chưa tề! - Chừ cậu về đội luôn chứ? - Nhiều em hỏi Kim. - Các anh bảo còn phải chờ báo cáo lại Ban tham mưu trung đoàn đầu đuôi mọi chuyện… Sáng hôm sau, Kim được đưa vào Xê-ca Một gặp các anh ở ban Quân báo trung đoàn về cơ quan bảo vệ chiến khu. Kim báo cáo miệng, sau đó viết ra giấy, trường hợp chú bị bắt, anh Đồng-râu bị bắn chết, những lời cung khai của chú với cơ quan mật thám giặc, những hành động tra tấn của giặc đối với chú. Thời gian qua chú bị giam ở đâu, bọn giặc bắt chú phải làm những công việc gì, và trong trường hợp nào chú đã vượt tù và cướp được súng của giặc v.v… Kim ở lại Xê-ca Một, năm ngày, vừa viết báo cáo vừa bồi dưỡng, nghỉ ngơi. Chú đã viết một bản báo cáo kín bốn trang giấy, với lời văn khá lưu loát và nét chữ khá đẹp. Chú kể: "Bọn giặc đã đánh đập, tra tấn chú vô hồi kỳ trận để lấy khẩu cung. Chúng đưa chú hết sở này đến ở khác: ty An ninh, sở Mật thám phòng Nhì, rồi sở Mật thám Liên bang, nhưng chú một mực chỉ khai những điều mà chúng đã biết rõ và không thể chối được. Sau đó, chúng đưa chú về giam tại lao Toà Khâm, trại gian tù binh… Ngay những ngày đầu tiên vào tù, chú đã nghĩ đến chuyện vượt ngục, trở về chiến khu. Nhưng bọn giặc canh gác hết sức nghiêm ngặt, nên mấy tháng đầu chú không có thời cơ. Nửa tháng gần đây, bọn giặc chọn một toán ba chục tù binh khỏe mạnh đi làm cỏ-vê ở một kho đạn gần đồn Hiền Sĩ. Biết chú trước đây là học sinh "đơ-dem-an-nê" ở "lít-xê" Khải Định, bọn giặc bắt chú đi làm thông ngôn vì tụi giặc bảo vệ kho đạn toàn lính Âu-Phi. Chú thông ngôn khá giỏi và tỏ ra chăm chỉ, nên dần dần bọn giặc tin cậy chú. Chú nhận định đây là thời cơ tốt nhất để trốn tù. Chú bí mật bàn với anh Lẫm - một tù binh trước kia là tiểu đội trưởng du kích xã. Anh Lẫm rất thông thạo đường sá vùng này, tính tình lại kín đáo, gan dạ. Hai người đã thống nhất kế hoạch và ngày vượt tù. Buổi chiều hôm đó, hết giờ làm cỏ-vê, bọn giặc chở tù binh từ kho đạn về nhà lao, trên hai chiếc ô tô G.M.C. Lúc lên dốc, xe chạy hơi chậm lại, chú ra ám hiệu cho anh Lẫm. Cả hai lập tức vọt xuống ô tô. Riêng chú đã nhanh tay giựt luôn khẩu tiểu liên "mát" của thằng lính Tây đen ngồi cạnh chú đang còn mải châm thuốc hút. Hai người chạy băng qua dãy đồi thấp cạnh đường số Một. Bọn giặc dừng xe lại, bắn đuổi theo như tưới đạn. Nhưng cả hai đã may mắn trốn thoát, chạy về đến xã của anh Lẫm. Nửa đêm hôm đó anh Lẫm đưa đường cho chú lên chiến khu". Lời kể của Kim hoàn. toàn khớp với lời khai của anh Lẫm (cũng được giữ lại chiến khu để thẩm tra). Phòng Quân báo Trung đoàn và cơ quan bảo vệ chiến khu trong tuần đó cũng nhận được báo cáo của cơ sở vùng hai người trốn tù, tường thuật lại sự việc đúng như vậy. Ban chỉ huy trung đoàn thông báo với các đơn vị sự việc một đội viên Thiếu niên Trinh sát là Lê Kim, trong tổ quân báo được cử về hoạt động tại thành phố, phối hợp với trận đánh đồn Hộ Thành, đã bị giặc bắt. Mặc dầu bị bọn mật thám giặc trá tấn rất dã man, nhưng em đã giữ đúng lời thề thứ năm trong mười lời thề danh dự của Vệ Quốc Đoàn: "Dù bị cực hình tàn khốc đến thế nào quyết không bao giờ phản bội xưng khai". Sau đó em đã dũng cảm, mưu trí, cùng với một chiến sĩ du kích trong đội tù giặc bắt đi làm cỏ-vê, mạo hiểm vượt tù trở về chiến khu. Đồng thời em Lê Kim còn cướp được một khâu tiểu liên "mát" của tên giặc canh gác tù. Ban chỉ huy trung đoàn đã cấp bằng khen thưởng em Lê Kim và đề nghị cấp trên tặng thưởng huân chương chiến sĩ hạng Ba. Kim-điệu chốc lát đã trở thành một nhân vật được nhiều người trong chiến khu biết tiếng. Tuần sau, Lê Kim được Ban Tham mưu trung đoàn cho trở về công tác tại đội Thiếu niên Trinh sát. Để khen thưởng tinh thần và công lao của Kim, trung đoàn quyết định thời gian chú bị tù được coi là thời gian tại ngũ. Một đồng chí ở phòng chính trị trung đoàn đã viết một bài tường thuật rất sinh động, hấp dẫn về thành tích của em Lê Kim, đăng trên báo "Giết giặc".
|
Chương 26: Phần Thứ Bảy (10) 15 Hôm sau Kim-điệu trở về đội, các đội viên khác đã phân tán hết về đồng bằng bám địch. Ở lại đội chỉ còn có Mừng. Đội trưởng giao cho Kim giữ chân thư ký đội. Công việc chẳng có gì nhiều. Thỉnh thoảng chú đọc những báo cáo của các tổ dưới đồng bằng gửi lên tập hợp tình hình và viết thành báo cáo gửi Ban tham mưu trung đoàn. Có trình độ văn hoá lại thông minh, nhanh nhẹn, Kim làm công tác thư ký đội khá giỏi. Mấy lần chú được đội trưởng biểu dương. Dạo này Kim và Mừng đã trở thành một đôi bạn khá thân. Trước đây hai đứa tuy cùng một tổ nhưng không chơi thân với nhau. Hay nói đúng hơn, Kim không thèm thân với Mừng. Trong đội, Kim chỉ chơi thân với những bạn được học hành như nó, hoặc mặt mũi sáng sủa, xinh trai. Những đứa như Hoà-đen, Mừng, Tề, Bồng-da-rắn… ngoài miệng Kim cậu cậu tớ tớ, nhưng trong bụng vẫn có ý coi khinh. "Mấy đứa nớ còn thua cả thằng Rọm, đầy tớ nhà mình!". Kim thường ngắm nghía một số bạn trong đội mà nghĩ vậy. Bồng-da-rắn là chú bé từng trải. Cuộc sống vật lộn để kiếm sống từ tấm bé đã cho em cặp mắt xét đoán người khá tinh. Em đọc chữ còn bập bõm nhưng lại đọc rất nhanh những ý nghĩ dù đã được che giấu kín đáo của những người chụng quanh. Em đánh hơi rất thính sự khác ý, sự giả dối và cả lòng chân thật vụng về ở những người em tiếp xúc. Hồi ở Huế, mới về đội được haỉ hôm, thấy Kim anh anh em em với đội trưởng và với các anh lớn khác giọng ngọt như mía lùi, Bồng đã nói riêng với Hoà-đen: "Thằng nớ dạ trước mặt nhưng trẽ [bad word] sau lưng đó mi ơi! Loại con nhà nghèo như mi với tao ở đây cùng đợi với nhau thì hắn phải cậu cậu tớ tớ rứa, chứ ở chỗ khác ạ, hắn chỉ ê một tiếng rồi ngắc tay gọi tụi mình như gọi đày tớ nhà hắn!". Hoà-đen có vẻ không tin: "Làm chi đến nỗi". Bồng cau mặt, xùy một tiếng: "Những đứa như hắn, tau còn lạ chi!". Trong đội, bạn nào gọi Bồng là Bồng-da-rắn cũng được, riêng Kim gọi, là Bồng sừng sộ ngay: "Đề nghị anh Kim kêu tên tui cho tử tế! Kêu da rắn, da trăn là không xong với tui mô!". Lượm kể với Bồng hồi làm liên lạc trung đoàn bộ ở đồn Mang Cá, Kim có cả một tá anh nuôi, chị nuôi, hầu hết là các anh chị y tá, cứu thương ở bệnh viện trunng đoàn. Và hai ông anh nuôi thân thiết nhất của Kim là Nguyễn Tri và Lê Thành. Cả hai thằng này mưu mô ăn cắp gạo của Vệ Quốc Đoàn, bị bắt tống vô cải hốì thất. Bồng nói: "Anh mô em nấy!". Cái buổi chiều Mừng chạy về báo tin với đội: Kim vượt tù, cướp súng giặc, chạy lên chiến khu, Bồng cũng chạy theo các bạn ra trạm gác. Nhưng em không vồ vập đón Kim như nhiều bạn khác. Em đứng ở vòng ngoài lặng lẽ nhìn Kim. Trên đường trở về, Bồng nói với Tư-dát: "Hắn ở tù mà coi bộ béo tất đã gớm!". Bồng nhớ đến những người tù bọn Tây đưa đến làm cỏ-vê ở mấy vị trí mà em làm nhiệm vụ bám địch; anh mô anh nấy chỉ còn da bọc xương, bị tụi lính Tây đánh đập suốt ngày bằng báng súng, roi [bad word] bò. Tư-dát nghe giọng mỉa mai của Bồng, liền bênh: "Hắn kể: may còn sống được trở về với chiến khu là nhờ có gia đình đến thăm nuôi thường xuyên". Bồng bĩu môi: "Chưa chừng vô đó hắn nhận vài thằng Tây, thằng Bảo Vệ quân làm anh nuôi cũng nên!". Tư-dát khen chuyện Kim vượt tù mà còn cướp được súng của giặc: "Hắn cũng gan cóc tía đó chớ mi?". Bồng nhăn mặt: "Chó ngáp phải ruồi chứ gan cứt chi hắn! Hồi ở mặt trận Huế mấy lần đi trinh sát, liên lạc cùng với hắn, tau còn lạ chi!". Mừng trở nên thân thiết với Kim, trước hết là vì em phục, em hãnh diện với chiến công của bạn. Chạy liên lạc vào các Xê-ca Mừng đến đâu cũng khoe: "Ở đội em có anh Kim, được cử về dưới Huế rải truyền đơn, đánh đồn Hộ Thành, bị Tây bắt đập gần chết. Rứa mà anh lập mẹo vọt khỏi ô tô lúc đang chạy, giật luôn cả khẩu súng thằng Tây gác tù, chạy lên chiến khu. "Ui chao, anh nớ gan chi mà gan đã gớm!". Mừng còn hứng chí khoe thêm: "Bữa đó, tui biết anh Kim về đầu tiên? Tui chạy một mạch về đội báo tin các bạn mới biết chạy ra đón đó chớ!". Những lúc rảnh việc, Kim đi dạo chơi vùng Tiền chiến khu Mừng đều đi theo, như bóng với hình. Em mượn được lây cái danh tiếng của Kim "Ban chỉ huy trung đoàn khen thưởng và đề nghị lên cấp trên tặng thưởng huân chương". Kim lại thường rủ Mừng vào các quán ăn mà trước đây gần như Mừng không khi nào bén mảng đến, vì em không có tiền. Kim thường cho Mừng ăn thả xăng, khi bánh bột lọc, khi chè đậu đen, khi bún bò… Được bạn cho ăn no nê, Mừng thích lắm nhưng cũng tò mò hỏi: "Ở tù mà răng anh có nhiều tiền rứa?". Kim nói: "Trước ngày định trốn tù, tau báo cho mạ tau biết. Mạ tau đến chỗ tau làm cỏ-vê, nhét vô túi tau cả một cục tiền: "Cho con để lúc lên Chiến khu mà ăn uống bồi dưỡng cho lại". Hôm đầu tiên, Kim dắt Mừng vô quán mụ Tào, nói: - Mi thích ăn chi thì ăn đi. Mừng thiệt thà: - Tui thích ăn chè. Chè chỉ có đường với gạo đập thêm tí gừng. Kim không thể nuốt trôi nửa chén. Mừng ăn luôn hai chén mà coi bộ còn thàm thèm. Kim mua thêm chén nữa đưa cho Mừng, hỏi: - Mi không được ăn chè khi mô à? - Tui làm chi có tiền mà ăn? Các cậu tê dược về đồng bằng bám địch, hay được các mệ, các chị dưới đó cho ăn đủ thứ ngon. Tui ở trên ni, cả mấy tháng cũng chẳng được miếng chè. - Mừng thành thật trả lời - Mỗi lần qua quán ni, ngửi thấy mùi chè tui rệu nước miếng cục! Khi đã thân thiết với Kim hơn, Mừng lấy số tiền mười đồng mà trung đoàn trưởng thưởng cho em, giấu trên mái lán, đưa ra khoe: Tui cũng có tiền đây chứ anh tưởng! - Ở mô mà mi có đó? Trung đoàn trưởng thưởng cho tui vì tui chỉ được chỗ đặt đài quan sát ngon lành, ở Xê-ca Bảy. Nhưng thèm chè rệu nước miếng tui cũng không đem mua ăn. Tui muốn cất để dành, khi mô Huế giải phóng, tui đem về biếu mạ tui, nói với mạ: "Của trung đoàn trưởng thưởng cho con đó mạ nớ". - Mi thuộc hết địa hình cả chiến khu hay răng mà chỉ được chỗ đặt đài quan sát ngon lành rứa? - Thuộc làu làu như thuộc bài "Bao chiến sĩ anh hùng?" - Mừng nói không giấu được vẻ tự đắc. - Tui thuộc cả đường thẳng lẫn đường tắt. Từ Xê-ca Một đến Xê-ca Bảy, cơ quan mô, đơn vị mô đóng ở chỗ mô, tui ngó vô bản đồ, tui chỉ đúng phắp phắp. Bữa đó tui ngó vô bản đồ mà chỉ đúng chỗ đặt đài quan sát trung đoàn trưởng mới thưởng đó chớ! - Rứa thì mi giỏi thiệt! - Kim khen, mắt chăm chăm nhìn Mừng, nói tiếp sau một lát nghĩ ngợi. - Tao mà ngó vô bản đồ cũng như anh mù chữ ngó vô tờ báo… Nhưng mi học cách răng mà coi được bản đồ? - Nhờ tui mê coi bản đồ nên tui mới thạo. Mỗi lần tui đi vô liên lạc chỗ ban Hoạ đồ, tui đứng coi các anh hoạ địa đồ cả buổi không chán mắt. Đội trưởng cũng có tấm địa đồ chiến khu mình như của trung đoàn trưởng, thỉnh thoảng anh cũng cho tui coi. Tui chỉ chỗ mô trúng chỗ đó, đội trưởng khen tui: "Em đọc bản đồ thạo chẳng kém chi tham mưu trưởng trung đoàn. Em gắng học vài năm nữa, anh sẽ đề nghị với trung đoàn trưởng cho em về công tác ở ban Hoạ đồ trung đoàn". Kim cười bả lả: - Chắc là mi nói trạng chơi để lòe tao? Chừ mi thử lấy cái bản đồ của đội trưởng ra đây chỉ cho tao coi tận mắt, tao mới tin! - Tui không nói trạng! Nhưng tấm địa đồ đó là tối mật, tự ý lấy coi có mà chết! Khi mô đội trưởng cho coi mới được coi! Những chuyện huyên thuyên, ngây thơ, thật thà và có đôi chút khoe khoang kiểu con nít của Mừng lại làm cho Kim đặc biệt quan tâm. Nó thường làm như vô tình, hỏi đi hỏi lại Mừng không chán, và lần nào Mừng cũng hào hứng kể lại đúng như lần trước kể. Mừng không hề một thoáng thắc mắc tại sao anh Kim lại hay hỏi chuyện về cái tài đọc bản đồ của em, và nhất là về tấm bản đồ tối mật mà đội trưởng cất kỹ trong xà cột, đi mô cũng mang theo. Mừng còn cho Kim biết tấm bản đồ tối mật là tấm bản đồ bố phòng chiến khu. Nếu Mừng có cặp mắt tinh đời như Bồng-da-rắn, có thể em sẽ tránh khỏi những tai hoạ bi thảm sẽ được kể trong những chương cuối của cuốn sách này. Và cũng có thể em sẽ trở thành một cán bộ quân đội tốt, có vợ, con, gia đình, được hưởng thụ những quyền lợi, những tiêu chuẩn, mà một chiến sĩ như em chắc phải được hưởng. Nhưng em ngây thơ quá, trong sạch quá. Em không hiểu và cũng không tin, trong cuộc sống mà em đang sống yẫn còn tồn tại cái ác, cái xấu xa phản trắc, những âm mưu lọc lừa… nên em đã phải vĩnh viễn sống mãi cái tuổi mười ba. 16 Trên thế giới người ta đã viết và kể nhiều về những tính cách gần như khó tin của những người lái buôn người Do Thái trước đây. Các lái buôn người Do Thái đẩy những xe hàng hoá, thực phẩm lẵng nhẵng bám theo những đoàn quân ra tận nơi trận mạc, xông pha giữa chốn tên bay đạn lạc, để buôn bán, đổi chác. Họ bán hàng, chào mời khách hàng với quân sĩ của cả hai phe đối địch, giữa những phút tạm ngừng giữa hai trận đánh. Giữa chiến trường ngổn ngang xác chết, họ vẫn buôn, vẫn bán, vẫn kỳ kèo bớt một thêm hai, vẫn riết róng bóp nặn khách hàng từng đồng xu một, như giữa chợ thời bình. Nhưng những ai đã được tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp ở chiến trường Bình Trị Thiên, được chứng kỉến cảnh đội ngũ con buôn đi lại buôn bán từ vùng địch tạm chiếm lên chiến khu, từ chiến khu về vùng địch tạm chiếm, họ sẽ nhận rằng đội ngũ con buôn này không một chút kém cạnh các lái buôn người Do Thái. Đội ngũ con buôn lên về chiến khu hầu hết là phụ nữ. Chiến khu càng mở rộng, phát triển, đội ngũ này càng đông đảo. Họ mua hàng hoá, nhu yếu phẩm từ vùng địch tạm chiếm đưa lên bán cho bộ đội, cán bộ ở chiến khu. Và họ mua các hàng lâm sản của đồng bào địa phương đưa về bán ở vùng địch tạm chiếm. Từ đồng bằng lên chiến khu, trong đêm tối, họ phải vượt qua cả một hệ thống đồn bốt dày đặc, vượt qua các khu vành đai trắng, vượt qua đường quốc lộ đường sắt mà không đêm nào vắng các ổ giặc phục kích. Họ phải men theo những lối mòn vắt qua những lớp lớp đồi trọc, đồi cỏ tranh có rắn rết, thú dữ, lội qua hàng chục con suối cạn, suối sâu… Họ vượt qua không phải như những người lính, chỉ một ruột tượng gạo ngang lưng, một khẩu súng hoặc một quả lựu đạn trong tay. Họ phải vượt qua với gánh hàng hoá nặng trĩu trên vai. Để kiếm được đồng tiền lãi, những phụ nữ bình thường ấy đã trở nên gan góc, liều mạng hơn cả những người lính gan góc, liều mạng nhất. Lúc phải lội qua những con suối sâu đến bụng, đến ngực, họ không chút e thẹn, cởi truồng, quần đội lên đầu để khỏi ướt. Không mấy đêm họ không chạm trán những ổ giặc phục kích. Nhiều o, nhiều chị đã ngã xuống trong chớp lửa đạn phơi xác dọc các lối mòn. Hàng hoá lăn lóc trong các vũng máu. Bọn giặc đánh hơi thấy tiền bạc, hàng hoá ngày một nhiều trên đường lên về chiến khu, chúng càng tăng cường các trận phục kích để cướp đoạt. Nhiều lần chúng để cho cán bộ, bộ đội lọt qua ổ phục kích và chờ cho đến lúc các toán con buôn xuất hiện mới nổ súng. "Bắn chết Việt Minh thì chỉ kiếm chác được ghẻ ruồi với rận!". Bọn địch thường kháo nhau như vậy. Việc buôn bán với chiến khu ngày càng trở nên nguy hiểm, khốc liệt, nhưng đội ngũ con buôn vẫn không ngừng đông đúc thêm. "Tụi hắn bắn chết, bị thương lăn ngã ra rứa mà các o, các chị không thất kinh à?". Cán bộ, bộ đội hỏi họ như vậy. Các chị, các o cười rúc rích trả lời: "Chị em tui mà nghe nói dưới âm phủ buôn bán được thì chị em tui cũng mò xuống buôn bán, nữa là lên về chiến khu!". Rồi cả địch và ta đều lợi dụng cái máu mê buôn bán của họ để phục vụ cho những yêu cầu về quân sự, chính trị. Bên ta đặt mua, những hàng hoá cần thiết cho kháng chiến như thuốc men, bông băng máy chữ, mực in, giấy, pin đèn để bắn ba-dô-ka… Còn bọn địch thì bắt họ phải cung cấp tin tức, tình hình chiến khu, bộ đội… Chúng cài vào đội ngũ này những nhân viên tình báo, chỉ điểm nhà nghề. Một số con buôn từ chỗ tham lời lãi đã trở thành tay sai giặc, làm gián điệp, tình báo. Việc chống gián điệp, tay sai giặc trong đội ngũ con buôn trở thành một vấn đề nghiêm trọng, quyết liệt của chiến khu ngày đó. 17 Lê Kim, biệt danh là Kim-điệu, đội viên đội Thiếu niên Trinh sát của trung đoàn 101, trong danh sách điệp viên của Sở Mật thám Phòng Nhì Pháp, có mật danh là "M.13". M.13 được bố trí tung lên chiến khu Hoà Mỹ - chiến khu đầu não của kháng chiến Thừa Thiên - với nhiệm vụ đặc biệt là chụp ảnh, đánh cắp bản đồ bố phòng chiến khu: Đó là một trong những nhiệm vụ khẩn cấp nhất của kế hoạch tấn công tiêu diệt chiến khu của giặc. "M.13" trong thời gian hoạt động sẽ được sự hỗ trợ, hợp tác và liên lạc với hai điệp viên khác: "B.15", một cô gái hăm mốt tuổi, chuyên buôn bán hàng lậu quan trọng cho chiến khu, có chân trong tổ chức kinh tài của kháng chiến tỉnh, và "H.21", một người đàn ông trạc ba lăm tuổi trong vai nông dân ở đồng bằng lên chiến khu, tìm mua mây, giang về làm nhà. Kim-điệu ở chiến khu thấm thoát đã gần được hai tháng. Hắn đã ba lần bắt liên lạc với "B.15", và gửi báo cáo về Sở Phòng Nhì Pháp, tình hình tiến triển của kế hoạch "F.20" (kế hoạch đánh cắp bản đồ bố phòng chiến khu). Hắn cũng nhận được lời khen và chỉ thị của cấp trên, cần phải tiến hành thật gấp kế hoạch "F.20". Cách đây mười ngày hắn nhận được hàng đặc biệt phục vụ kế hoạch, do "B.15" chuyển giao: một máy ảnh tình báo loại hiện đại nhất, súng lục, đạn và tiền. Những thứ này, Kim-điệu đựng trong một túi chất dẻo, và chôn giấu cạnh cái hố tiểu của đội, cách lán chừng trăm mét. Cái hố xí này các em đào chỉ để vậy, ít khi dùng đến. "Nhất lá me nhì khe nước chảy", cái thú đi vệ sinh ở vùng đồi núi sông suối này được các em tổng kết thành vần vè như vậy. Cây me dại có hoa tím, mọc bạt ngàn trên các ngọn đồi trọn vùng Tiền chiến khu. Lá me dày và mịn như nhung the, loại giấy vệ sinh thiên nhiên tuyệt vời. Còn gì thích thú hơn, ngồi một mình trên đỉnh đồi lộng gió, xung quanh hoa me nở tím ngắt, các cành cây như những cánh tay chìa ra cho bạn những tờ giấy vệ sinh xanh mịn như nhung the! Và cũng thích thú không kém khi ngồi dạng chân "trút bầu tâm sự" giữa hai tảng đả sạch bóng và ẩm ướt, bên dưới là dòng nước trong như lọc loang loáng, rì rào, hai bên là vách núi hoang vắng vang vọng tiếng vượn hót chim kêu… Kim-điệu đã chọn được chỗ giấu "hàng" vừa kín đáo, vừa thuận tiện, cần lúc nào có thể lấy ngay lúc đó. Đồng thời lại tránh được những cặp mắt tò mò của những người chạm trán bất ngờ. Cả đội Kim-điệu gờm sợ nhất là Bồng -da-rắn, còn gờm sợ hơn cả đội trưởng. Mỗi lần nó bất ngờ chạm phải cái trán thấp chằn chặn, hai má sần sùi những vết đen như vẩy rắn, cặp mắt húp với tia nhìn chằm chặp của Bồng, không hiểu sao Kim-điệu cứ thấy gai người và lạnh dọc xương sống. Nó có cảm giác tia mắt Bồng cứ dính chặt vào người nó, bám theo từng cừ chỉ, lời nói. Và sẽ đến một lúc nào đó, Bồng sẽ bất ngờ chỉ vào mặt nó, hét tướng lên: "Mi là thằng Việt gian!". Kim-điệu cảm thấy mừng rỡ thật sự là Bồng ít khi có mặt ở chiến khu. Chiều hôm qua, lúc ngồi ăn cơm, đội trưởng nói với Kim-điệu và Mừng: "Trong khoảng một tuần nữa, cả đội sẽ rút hết về chiến khu. Công việc bám địch nặng nhọc ở đồng bằng sẽ giao lại cho các anh lớn. Anh vừa nhận được chỉ thị của Ban tham mưu trung đoàn sáng nay". - Rứa bọn em thì làm chi? - Mừng hỏi. - Các em sẽ thay nhau làm việc tại các đài quan sát của chiến khu. Thì giờ còn lại sẽ tập trung học văn hoá để chuẩn bị đầu năm sau ra khu Bốn vào trường Thiếu sinh quân của Bộ Tư lệnh quân khu Bốn. Đội trưởng nói thêm: - Chính uỷ trung đoàn đã quyết định rút anh Thuật ở phòng Chính trị, trước đây đỗ tú tài Tây, về đội dạy văn hoá cho các em. Tuần sau đội mình tha hồ vui! Tin của đội trưởng cho biết làm Kim vô cùng lo ắng, hoảng sợ bồn chồn. Nếu đội tập trung về đông đủ, công việc của nó sẽ trở nên khó khăn nguy hiểm gấp trăm lần. Nó có thể bị bại lộ bất ngờ trước mấy chục cặp mắt của bọn trẻ thường xuyên nhìn ngó nó… Cách đây nửa tháng, Lê Mãi, một điệp viên lợi hại của ty An ninh, đã bị cơ quan bảo vệ chiến khu theo dõi phát hiện. Lê Mãi bị toà án quân sự tỉnh tuyên án tử hình và xử bắn tại chỗ. Nỗi nguy hiểm thường trực của nghề gián điệp làm cho Kim-điệu mỗi lần nghĩ đến đều toát mồ hôi hột. Nó tự trấn an: Nhưng tuy vậy tất cả những nguy hiểm ấy vẫn còn xa, còn có thể thoát khỏi nhờ vào tài trí, sự bình tĩnh và gan dạ của mình. Trong khi đó những điều hứa hẹn vô cùng hấp dẫn của Sở Mật thám Phòng Nhì Pháp lại ở ngay trước mắt, coi như gần cầm chắc trong tay. Trước hôm bố trí để nó nhảy lên chiến khu, chính tên quan ba Sô-lê đã gọi nó đến gặp, và nói: "Tên bé con ngu ngốc, cứng đầu Trần Lượm, bạn của em, chúng tôi đã bắn chết trong một vụ hắn mưu tính vượt tù mới gần đây. Còn em là một chú bé thông minh, khôn ngoan, nên em đã sống và sẽ sống hết sức sung sướng trong tương lai. Sau khi em hoàn thành kế hoạch "F. 20", em sẽ được rút khỏi chiến khu, sẽ được chúng tôi thưởng nhiều tiền. Và sau đó chúng tôi sẽ gửi em sang Pháp hoặc sang Mỹ theo học tại một trường tình báo vào loại lớn nhất. Nước Pháp cần đào tạo nhiều nhân tài cho Việt Nam". Sau hai đêm trằn trọc, thức trắng đêm trên cái sạp nứa trần trụi lạnh lẽo, cạnh thằng Mừng ghẻ lở đầy người, tanh tưởi như cá chết, Kim-điệu suy đi tính lại và quyết định phải hành động thật gấp trước ngày cả đội về tập trung. Nhưng còn một điều trở ngại làm cho nó do dự, chưa thể quyết định dứt khoát sẽ hành động vào ngày giờ nào. Nó chưa bắt được liên lạc với điệp viên "H.21". Theo chỉ thị của cấp trên trực tiếp, "H.21" sẽ lên tiếp tay cho nó trong việc chuyển tấm bản đồ chụp ảnh được ra khỏi chiến khu. Theo ám hiệu được quy định từ trước, "H.21", người đàn ông đóng vai nông dân ở đồng bằng tìm lên Hoà Mỹ mua mây giang về dựng lại nhà bị giặc đốt, sẽ mặc áo bà ba vải đà, vai áo bên trái vá một miếng vải đen, một khăn bông cáu bẩn vắt vai phải, quần xắn cao quá gối, ống trái xắn cao hơn ống phải, vai vác cái đòn có treo một cuộn dây mây. Cho đến hôm nay, đã quá mất một ngày thời hạn "H.21" phải có mặt ở chiến khu theo như quy định. Hai hôm nay, ngày nào Kim-điệu cũng thơ thẩn đi ìại trên con đường xuyên qua làng Hoà Mỹ Tiền chiến khu, hong hóng chờ người đàn ông mặc áo đà, vác đòn xóc có treo cuộn dây mây…
|
Chương 27: Phần Thứ Bảy (11) 18 Bồng-da-rắn cắm cúi mải miết đi trên con đường quanh co, khúc khuỷu từ đồng bằng lên chiến khu. Em đội cái nón lá rách tưa, khoác áo tơi lá cũ, mặc dầu trời không mưa. Cặp chân trần săn chắc, đen đúa, nổi đầy vảy đen đen như vảy rắn, bê bết bùn đất, bước từng bước ngắn và nhanh. Em đã đi suốt bốn tiếng đồng hồ, chỉ dừng lại ngồi nghỉ hai lần, mỗi lần khoảng mươi phút. Em đang có việc rất gấp, cần lên chiến khu báo cáo. Đêm qua bọn giặc tập trung quân và xe pháo khá đông ở mấy vị trí dọc đường quốc lộ trong địa bàn mà tổ bám địch của em phụ trách. Em là tổ trưởng, hai tổ viên là Võ Trà và Hiền. Bọn địch mỗi lần tập trung quân và xe pháo là để chuẩn bị càn quét một vùng nào đó. Nhưng còn quan trọng hơn là chúng có thể chuẩn bị để tấn công chiến khu. Từ vị trí bám địch lên đến chiến khu phải đi mất hơn một buổi đường. Hiền đòi đi thay em, nhưng em đã đội nón, khoác tơi, tay cầm cây roi tre, nói: - Hai gót chân mi nứt nẻ như củ sắn mì rứa, mi đi lên thấu côi đó thì mi què mất. Hai đứa bay ở lại nhớ bám sát tụi hắn nghe? Nếu thấy tụi nó còn tiếp tục tập trung thêm quân, xe pháo, thì một đứa ở lại, một đứa lên báo cáo tiếp nghe! Đi được gẩn hai tiếng đồng hồ, Bồng thấy bụng đói cồn cào. Từ sáng tới giờ, em chưa có miếng gì vào bụng. Mà em là đứa xấu máu đói, hễ đói là xây xẩm mặt mày. Và ác cái là mỗi lần lên cơn đói, là em ngửi thấy mùi bánh mì nóng, nước miếng cứ tứa ra đầy mồm, nhồ không kịp. Và cơn đói lại càng hânh hạ em khổ sở hơn. Em nổi cục, chửi: "Tổ cha hắn! Biết ri hồi đó mình đừng làm nghề bán bánh mì, mà làm quách nghề cắt cỏ ngựa cho rồi!". Nhưng bây giờ mà hối tiếc về nghề nghiệp thì đã muộn. Em có cảm giác cái mùi bánh mì nóng giòn thơm phức vẫn ngủ ở một xó nào đó trong hai lỗ mũi hếch của em. Và chỉ chờ lúc lên cơn đói là nó thức dậy, hành hạ em cho bõ ghét. Ngang qua một ruộng khoai lang tốt um, em dừng lại. Ngó trước ngó sau không thấy ai, em liền nhảy đại xuống, dùng hai tay bới trộm một bụi khoai. Em bứt củ phủi sạch đất, nhét đầy hai bọc quần. Vừa phủi đất những củ khoai nâu bóng, em vừa lẩm bẩm nói: "Không được lấy của đồng bào từ cây kim sợi chỉ. Nhưng tui có lấy kim chỉ mô, tui chỉ lấy mấy củ khoai sống ăn cho đỡ đói mà đi cho tới chiến khu thôi. Đồng bào đừng chửi tui mà tội". Rồi em nhe răng cười chữa thẹn với vồng khoai. Vừa đi em vừa cạp khoai sống, nhai rau ráu. Cơn đói dịu dần, sức lực trở lại, em sải bước nhanh hơn. Còn cách chiến khu chừng vài cây số, em chợt nghe có tiếng gọi ơi ới sau lưng: - Chú em ơi, chú em! Cho tui hỏi nhờ một chút! Em quay lại thấy một người đàn ông từ con đường kiệt bên trái đi ra. Người đàn ông đội nón, mặc áo vải đà, quần xắn đến bắp vế, vai vác đòn xóc, một đầu đòn xóc lủng lẳng một cuộn dây mây… Bồng đứng im lặng, chằm chằm nhìn ngườì đàn ông, trán cau lại. Người đàn ông sải chân bước tới gần, hỏi giọng có chút nịnh nọt: - Chớ chú em có biết đường lên Hoà Mỹ không? Chú em chỉ giúp cho tui với. Tui lên đến đây thì bị lạc. Chú em có hút thuốc không? Tui có thuốc lá Phong Lai đây… - Anh lên đó có việc chi? - Bồng hỏi, mắt không rời khuôn mặt người đàn ông. - Tui lên mua ít mây về làm lại cái nhà. Nghe nói trên đó lấy được nhiều mây song lắm, mà toàn loại mây thiệt tốt… Rứa chú em đi mô đó? - Tui đi tìm trâu lạc… - Chú em có biết đường lên trên đó không? - Cũng hơi biết biết. - Bồng trả lời lấp lửng. Tui cũng đã lên trên đó hai lần, nhưng toàn đi đêm, nên không nhờ được đường. Tui gánh đồ tiếp tế cho các eng "trên nớ"? - Anh ở xã mô dưới đó mà tìm thấu Hoà Mỹ mua mây? - Tui ở Phong Thạnh… Chú em có biết xã tui không? - Cũng hơi biết biết… Bốn con mắt bất ngờ chạm nhau. Và người đàn ông như không chịu nổi tia nhìn chằm chằm của Bồng, phải cụp vội mắt xuống, nhìn tránh chỗ khác. Anh ta móc túi áo, lấy ra hai lá thuốc nâu sẫm, bứt nhỏ, dùng một mảnh lá thuốc quấn thành điếu sâu kèm to bằng ngón cái. Y lại móc túi áo lấy ra hai lá thuốc đưa cho Bồng. - Chú em hút điếu chơi? Thuốc lá tui cháy đượm mà tàn trắng lắm. - Tui con nít làm chi biết hút thuốc! - Rứa mà ở làng tui, con nít còn nhỏ hơn chú, đứa mô cũng hút. - Tui cũng định đi lên phía Hoà Mỹ tìm trâu lạc. Anh có đi tui chỉ đường giúp… - Rứa thì may cho tui quá! Bồng đi trước, người đàn ông theo sau, Bồng cắm cúi bước, bất chợt hỏi, đầu không quay lại: - Xã Phong Thạnh, anh ở ấp mô rứa? - Tui ở ấp bốn. Cái ấp gần kề trảng cát đó. Tổ cha ba thằng Tây! Tụi hắn đốt nhà tui ri là lần thứ ba. Mà mây giang dưới tui đắt hơn vàng. - Anh tên chi rứa hè? - Tui là Hoành, chú em có dịp về xã tui hỏi Hoành du kích ai cũng biết. Ghé vô tui chơi cho biết nhà. Bồng cắm cúi, im lặng bước. Đi được một quãng khá xa, Bồng lại hỏi như để cho có chuyện: - Ở dưới đó anh có biết quán bánh canh mệ Ruồi không? - Quán bánh canh ở ấp một chớ chi? Sáng ni trước khi lên đây, tui cũng tạt vô mệ làm hai tô. Chà, bánh canh mệ ngon thiệt?… - Ừm… Cái cầu khỉ bắc ngang qua con hói trước mặt nhà mệ, dạo nó bị gãy, không biết đã làm lại chưa hè? - Sửa lại rồi. Bắc thêm mấy cây cau chừ dễ đi lắm… Chú em có biết trên Hoà Mỹ nhà bà con mô lấy được nhiều mây tốt không? Chú em chỉ giúp, tui mà mua được, xin biếu chú em vài chục bạc, ăn bánh canh chơi… - Cũng có biết một hai nhà, rồi tui chỉ giúp eng chớ tiền bạc chi… Bồng dẫn thẳng người đàn ông đi mua mây vào trạm gác Tiền tiêu chiến khu. Trạm gác có một tổ bốn chiến sĩ. Cả bốn anh Bồng đều quen biết. Lúc Bồng vào ba anh đang ở dưới bếp lúi húi sừa soạn bữa cơm chiểu - nói cho đúng hơn là bữa sắn chiều. Một anh trực ngồi trên cái ghế làm bằng khúc cây sần sùi, gác ngang trên bộ chân ghế cành cây buộc chéo, đóng xuống đất. Khẩu tiểu liên cũ kỹ, gác ngang trên đùi anh. Một tay anh cầm cái nhíp làm bằng vỏ đạn, sờ sờ cằm nhổ râu. - Nhà mấy anh ni chuyên bán mây, toàn loại tốt, mua bao nhiêu cũng có. - Bồng quay lại nói với người đàn ông đang vác đòn xóc đứng khựng trước cổng trạm gác. - Chào các eng! - Chào anh. - Anh lính gác bỏ nhíp vào túi áo, nhìn người đàn ông rồi nhìn Bồng. Bồng ngoắc tay, gọi: - Vô đây đã! Vô đây đã! Người đàn ông ngập ngừng một chút rồi bước vào sân, hai đầu gối run run… Bồng bỏ nón tơi xuơng đất, bước lại cho dỡ nhẹ đòn xóc trên vai người đàn ông. Em đỡ rất nhanh làm anh ta không kịp giữ lại rồi đem dựng cái đòn xóc ở một góc lán. Em nhìn hai đầu nhọn đòn xóc nói lấp lửng: - Cái đòn xóc mới toanh mà nhọn đã gớm, chắc đẽo rồi còn đem hui lửa. Khi cần đập lộn, lợi hại không thua chi cây mác lào? Người đàn ông tự nhiên rùng mình, và để che giấu nỗi lo sợ, anh ta moi trong túi áo ra một cuộn thuốc lá ngọn, mời chào xun xoe: - Mời eng hút điếu thuốc chơi. Thuốc Phong Lai cháy đượm mà tàn trắng… Anh lính gác hỏi Bồng: - Anh ta ở mô lên rứa? Em đưa vô đây có việc chi? Bồng ngoảnh mặt lại, chỉ vào mặt người đàn ông, trừng mắt nói: - Thằng cha ni là Việt gian mò lên dò xét chiến khu? Các anh trói lại cho tui rồi giải vô công an chiến khu xét. - Chú ăn nói chi mà hàm hồ rứa? - Người đàn ông hoảng hốt kêu lên. - Tui là du kích dưới xã Phong Thạnh lên tìm mua mây làm lại cái nhà bị Tây mới đốt. Tui mới mua được một cuộn dưới Đất Đỏ, định hỏi đường lên trên ni tìm mua thêm mấy cuộn nữa… Bồng bĩu môi, giọng hằm hằm: - Du kích cứt chi mi! Mi tưởng lừa được tau như lừa con nít à? Mi khai là người xã Phong Thạnh, nhưng hỏi chi cũng nói trật lất! Xã Phong Thạnh làm chi có quán bánh canh mệ Ruồi? Quán mệ Ruồi bên xã Phong Nhiêu tê! Làm chi có cầu khỉ bắc qua trước quán? Tau hỏi lừa mi rứa mà mi dám nói cầu sửa lại rồi lại bắc thêm cây cau dễ đi lắm… Anh tổ trưởng và hai anh trong tổ đang bóc sắn để luộc phía sau bếp, bỏ dao chạy ra, đứng vây lấy người đàn ông. Người đàn ông tái mặt lắp bắp nói: - Tui có cả giấy chứng nhận của Uỷ ban xã cấp đây chớ… Y móc túi áo trên lấy ra một giấp gấp làm tư, đưa cho anh tổ trưởng. Anh tổ trưởng đọc: "Giấy chứng nhận - Họ và tên: Nguyễn Văn Hoành - là du kích xã - Ấp Bốn, Xã Phong Thạnh. Uỷ ban hành chánh kháng chiến xã. Chủ tịch - ký thay Phó chủ tịch". Bên dưới cái dấu Uỷ ban xã, hình chữ nhật, mực đen. Nét chữ con dấu rõ và sắc. Bồng-da-rắn cũng nghển cổ xem giấy, nhưng xem con dấu đóng bên dưới là chính. Các anh chưa ai có ý kiến gì, Bồng lên tiếng: - Giấy bạc Cụ Hồ tụi hắn còn làm giả đẹp hơn, huống hồ thứ con dấu ni! Các anh cứ trói hắn lại cho em. Để em vô Xê-ca Một báo cáo với các anh ở ban Quân báo Trung đoàn. Các anh sẽ ra xét thật giả mới được. Anh tổ trưởng nhìn người đàn ông, đầu khẽ gật gật, rồi nói: - Anh chịu khó để tui trói lại. Nếu cấp trên xét đúng anh là người đi mua mây thì tụi tui thả ra… Người đàn ông mặt mày nhăn nhó, giọng kể lể thiệt thà: - Cái thân tui răng mà khổ ri không biết! Sáng ni vừa ra ngõ vấp luôn con rắn bò qua đường, tui e đi răng cũng gặp chuyện rủi ro, y như rằng! - y vừa nói vừa bứt lá thuốc cuộn hút. Một anh vô nhà lấy ra sợi dây dừa, trói giật cánh khuỷu người đàn ông, dây trói vòng qua trước ngực. Anh chỉ vào góc lán: - Anh ngồi tạm vô đó chờ người trong Xê-ca ra xét xử. Thời buổi chiến tranh, mong anh thông cảm. - Thông với cảm kiểu ni thì cũng chết tui luôn. Bồng quát: - Không nói lôi thôi? Ngồi vô xó tê! Các anh phải coi chừng hắn, chứ hắn em chắc là trăm phần trăm Việt gian! Người đàn ông đành nặng nề bước đến chỗ Bồng chỉ, ngồi xuống dựa chân cột. Anh tổ trưởng nói với Bồng: Em đi luôn vô Xê-ca Một báo cáo với Ban Quân báo trung đoàn, giúp các anh nghe. Bồng mang tơi, đội nón nhưng chưa đi vội. Em đứng nhìn người đàn ông bị trói với nét mặt lầm lì cau có Em bỗng bước lại gần, giật phắt điếu thuốc lá đang bốc khói y ngậm một bên mép, ném ra xa. Rồi không nói không rằng, em bỏ đi. Trong một khoảnh khắc, cặp mắt người đàn ông lóe lên ánh căm tức rợn như ánh dao trong tay kẻ sát nhân. Nhưng y vội dập tắt ngay, trở lại bộ mặt thật thà, sợ sệt. Y hỏi người ưnh gác: - Chờ ông nớ làm chức chi mà coi bộ dữ dằn rứa? - Là Phó Tổng chỉ huy chiến khu đó! Thật vô phước cho anh lại nhè vô ông nớ mà hỏi đường! - Anh lính gác trả lời giọng đùa tưng tửng. - Rứa mà tui cứ lầm là chú em giữ trâu đi tìm trâu lạc! - Cứ chi anh lầm? - Anh lính gác vẫn đùa tưng tửng? - Tụi Tây cũng lầm mà cả tụi đây cũng lầm? Trong câu nói đùa tưng tửng của anh lĩnh gác về Bồng-da- rắn cũng có chứa ít nhiều sự thật. Những thành tích chiến đấu và tính tình ngang bướng của người chiến sĩ thiếu niên này được cả chiến khu biết đến. Họ thường kể lại với nhau và cười ngất. Mới đây nhất là chuyện kiện cáo lôi thôi giữa đại đội trưởng Đặng Đình Đăng và Bồng. Ngày đó, một số cán bộ chỉ huy thích lấy những biệt hiệu nghe kêu choang choang như chuông: Phi Long, Phi Hùng, Phi Hổ… Đại đội trưởng Đặng Đình Đăng, đại đội tám, tiểu đoàn mười sáu, lấy biệt hiệu là Sơn Hùng. Dưới các thư từ, giấy má, công văn gửi đi gửi lại trong chiến khu, Đình Đăng đều ký tên là Sơn Hùng, với nét chữ lằng ngoằng bay bướm. Bồng-da-rắn ghét đại đội trưởng Đăng ra mặt: "Đánh giặc chẳng ra cứt chi, gan như gan thỏ, chỉ được cái to miệng hò hét bắt lính xung phong còn mình thì chạy sau cùng. Chiến lợi phẩm có cái chi tốt thì bớp trước! Mà mặt mũi lúc mô cũng vênh vênh ta đây anh hùng". Bồng bình luận về đại đội trưởng Sơn Hùng như vậy. - Sơn Hùng! - Bồng thường nhắc cái biệt hiệu ấy với các bạn trong đội bằng giọng khinh khi. - Nghe kêu choang choang như phèng la mấy cha làm xiếc ở chợ Đông Ba! Một bữa, Bồng nói với Tư-dát: - Người ta đặt biệt hiệu, tau cũng đặt biệt hiệu chơi! Tau đặt biệt hiệu là Cứt Hùng. Mi văn hay chữ tốt, viết giúp biệt hiệu lên nón cho tau với. Tư-dát khoái chí, mài đá non, viết hai chữ Cứt Hùng to tướng lên cái nón lá rách của Bồng. Ngày chủ nhật, Bồng đội cái nón đi dạo khắp Tiền chiến khu. Bộ đội, cán bộ từ các Xê-ca ra Tiền chiến khu dạo chơi khá đông. Họ đọc chữ viết trên nón của Bồng, cười hỏi: - Em viết cái chi trên nón đỏ lòe rứa? - Biệt hiệu của em đó. - Cứt Hùng, biệt hiệu chi nghe thúi hoắc? - Người ta tài giỏi, hùng, nọ, hùng tê, em đánh giặc như cứt thì đặt biệt hiệu là Cứt Hùng chớ răng. Thế là dọc các quán ăn, người ngồi trong quán đua nhau gọi: "Ê Cứt Hùng vô đây ăn chén chè chơi! Ê, Cứt Hùng, vô đây anh đãi mấy cái bánh bột lọc!". Họ gọi, họ cười vui như tết, vì họ biết Bồng định xỏ xiên ai. Cũng như Bồng, nhiều người không ưa đại đội trưởng Đăng. Bất ngờ đại đội trưởng Đăng từ trong quán đi ra cùng với mấy o bào chế, chạm trán Bồng. Hôm đó Đình Đăng diện ngất: áo quần kaki ga-bạc-đin, lưng thắt xanh-tuya Mỹ, một bên hông đeo xệ khẩu côn mười hai, hông bên kia lúc lắc cây dao găm chiến lợi phẩm. Trong trận Cầu Nhi, Đình Đăng phụ trách thu chiến lợi phẩm. Những thứ sang trọng trên người anh đều kiếm được trong trận đó. Lúc ngồi trong quán ăn bún bò, nghe gọi ầm ĩ Cứt Hùng, Cứt Hùng, Đình Đăng tự nhiên chột dạ. Mấy o bào chế đọc hai chữ đỏ choét trên nón Bồng, bụm miệng cười. Sơn Hùng giận tím mặt, chỉ cái nón hỏi Bồng: - Mi viết cái chi trên đó? - Dạ biệt hiệu của tui! Bốp! Bốp! Sơn Hùng vung tay tát Bồng hai tát liền, làm em ngã dúi, mũi chảy máu cam. Vừa tát, Sơn Hùng vừa rít lên: - Hỗn! Con nít mà hỗn! Bồng lồm cồm đứng dậy, đưa tay quệt máu mũi, mặt đỏ kè như con kỳ nhông sắp cắn nhau. Bộ đội, cán bộ đi qua, xúm quanh hai người. - Quyền chi mà anh được đánh tui? - Bồng gân mặt hỏi. - Con nít mà hỗn, tao còn đánh nữa. - Tui hỗn cái chi mà anh kêu tui hỗn? Sơn Hùng chỉ cái nón của Bồng văng bên rệ đường: Tại sao mày dám viết như thế? - Biệt hiệu của tui thì tui viết? Anh là đại đội trưởng, nhiều giấy má công văn thì anh viết biệt hiệu vô giấy. Tui là thằng liên lạc, không có giấy, thì tui phải viết lên nón chớ răng? - Sao mày dám đặt biệt hiệu kiểu đó? - Anh lấy quyền chi mà cấm tui đặt biệt hiệu kiểu nọ kiểu tê? Tui đánh giặc như cứt thì tui đặt biệt hiệu Cứt Hùng, đó là quyền của tui? Bồng cúỉ lượm cái nón, nói: - Anh đừng cậy lớn ăn hiếp con nít? Tui sẽ vô kiện với Chính uỷ trung đoàn. Em xăm xăm đi thẳng vô Xê-ca Một, gặp chính uỷ Trần Quý Hai. Chính uỷ nghe em trình bày đầu đuôi sự việc, phải cố lắm mới nhịn được cười. Chính ông cũng ghét cái mốt đặt những biệt hiệu huênh hoang của một số cán bộ cấp dưới. Trong thâm tâm ông đồng ý với chú bé liên lạc, nhưng vẫn nghiêm nghị phê bình chú không nên chọc tức người lớn. Sau đó, ông cho gọi đại đội trưởng Đăng vào trung đoàn bộ và xạc cho anh một trận nên thân về tội hành hung chiến sĩ. Cuối cùng ông nhẹ nhàng nói: "Đồng chí là một cán bộ chỉ huy, lại là đảng viên. Đồng chí phải hết sức giữ mình, tránh những hành động quá lố, làm trò cười cho quần chúng". Đại đội trưởng bị xạc, cay hơn ăn ớt. Nhưng sau hôm đó, dưới các công văn giấy tờ, anh đã trở lại với cái tên cúng cơm Đặng Đình Đăng. Chuyện đó đã tức cười nhưng chưa tức cười bằng chuyện này: Chính trị viên tiểu đoàn mười tám Hoàng Lý, trước Cách mạng đỗ bằng tú tài toàn phần. Anh tham gia cách mạng và làm cán bộ chính trị, nhìn anh cách cây số cũng đoán biết là thành phần trí thức. Người anh cao, gầy, tay chân mảnh khảnh, đeo kính cận, tóc để dài chải ốp vào hai bên đầu. Dáng anh đi hơi gù gù, súng lục đeo thõng bên hông, tưởng chừng như khẩu súng quá nặng làm cho anh phải gù lưng xuống mới đeo nổi. Một lần, anh vô quán mệ Sanh ăn bánh bèo. Mệ Sanh người Hoàng phái, trước mở quán bánh bèo gần cầu Gia Hội. Mệ theo kháng chiến, chạy lên chiến khu lại mở quán bánh bèo. Bữa đó, anh Lý ăn bốn đĩa liền, mỗi đĩa mười chiếc. Đĩa cuối anh đã no tức bụng, ăn hết có hai chiếc. Ăn không hết mà bỏ thì hơi tiếc. Anh nhìn ra đường và trông thấy Bồng đi ngang qua. Anh ngoắc tay gọi em vào. - Đãi chú mấy cái bánh bèo. - Anh chỉ đĩa bánh bèo ăn thừa. Bồng đưa mắt nhìn đĩa bánh bèo, nhìn bát nước chấm chấm dở, vụn tôm cháy lợn cợn đáy bát. Lưỡng lự một chút, em ngồi xuống, ăn ba cái bánh bèo còn lại trong đĩa. Mỗi cái em dùng đũa gấp làm đôi, không chấm nước chấm, bỏ luôn vô miệng nuốt ực như không phải bánh bêo mà thuốc ký ninh. Mệ Sanh nhìn Bồng ăn, kêu lên: - Chớ cháu ăn uống kiểu chi mà lạ rứa? Phải ăn từ từ, chấm nước chấm mới thấy ngon. Ai lại đi nuốt lôống như nuốt hột thị? Bồng miệng cười mà mặt không cười: - Dạ… cháu ăn kiểu của cháu mệ ạ. Ăn xong, Bồng chào mệ, chào chính trị viên, lặng lẽ bước ra khỏi quán. Mệ Sanh tinh ý, nhận thấy thái độ của chú bé liên lạc coi bộ khác khác. Anh Lý có lẽ vì cận thị nặng nên không thấy gì. Vả lại anh còn bận quay sang nói chuyện với một anh bên Uỷ ban tỉnh vừa bước vào quán. Sau hôm đó, cả đội thấy Bồng ky cóp để dành tiền. Trước nay em là đứa bạn hào phóng, hoang tàng, có đồng nào em rủ bạn tiêu sạch đồng ấy. Bởi vậy, thấy em ky cóp từng đồng từng hào bỏ vào cái ống tre, giấu dưới đầu nằm, các bạn đều lấy làm lạ. Cả năm đó, các bạn không thấy Bồng mua lấy cái kẹo, thậm chí cả sắn luộc. Tư-dát hỏi trêu Bồng: - Mi định để dành tiền cười vợ chắc? Bồng trả lời: - Chưa chừng mà thiệt cũng nên. - Mi định cưới ai rứa? - Cưới ông Bụng. Ông Bụng chính là ông già đã đưa đường cho đội từ chiến khu Trò lên chiến khu Hoà Mỹ. Bồng nhận ông Bụng làm cha nuôi cả đội đều biết. Ông làm nghề đốt than gánh về bán ở đồng bằng. Ông có túp lều ở gần kề chân núi, cạnh con đường đi vào Xê-ca Một. Một hôm, vào ngày chủ nhật, Bồng đập ống tiền. Em đếm tiền, lẩm nhẩm tính toán, rồi hốt tất cả cho vào bọc. Em đi dạo qua các quán hàng ăn. Dọc đường em gặp chính trị viên tiểu đoàn Hoàng Lý. - Anh ạ! - Chú mình đi đâu đấy? - Dạ em định vô tiểu đoàn bộ tìm anh, may gặp anh ở đây… Có công văn của trung đoàn à? - Dạ không… Anh với em vô quán kéo ghế đi. Chính trị viên tưởng Bồng vòi anh cho ăn quà, vỗ vỗ túi nói: - Tiếc quá, bữa ni anh bó xu?… - Dạ em mời anh mà… - Mời anh? Hách nhỉ? Bồng đưa anh Lý vào quán mệ Sanh. - Mệ ơi, mệ chày cho con chục đĩa bánh bèo. Mệ chày cho ngon vô, cho nhiều tôm cháy, tóp mỡ, rồi tính mắc hơn cũng được. Con mời chỉ huy con mà mệ! Chính trị viên trợn tròn mắt sau cặp kính cận: - Chục đĩa, làm chi nhiều thế? Liệu chú mình có đủ tiền trả không đó? - Dạ đủ chớ. Ăn xong hai anh em mình đi uống cà phê sữa chơi hí. Chính trị viên đang vui, ăn rất thiệt tình. Hai anh em ăn bay cả chục đĩa bánh bèo. - Mệ tính tiền cho con đi mệ. Bồng dốc tất cả số tiền trong túi ra bàn, đủ cả tiền đồng, tiền hào, tiền xu… Bồng đếm tiền trả, còn thừa lại mấy đồng. - Chứ chú mình lấy tiền đâu ra mà lổn nhổn đủ loại thế? - chính trị viên vừa xỉa răng vừa hỏi. - Dạ em bỏ ống gần một năm ni… - Bỏ ống cả năm đem tiêu hoang một bữa? Để dành mà mua sắm cái gì có hơn không? - Dạ em bỏ ống là cốt để mời anh. - Bồng nói giọng tỉnh khô. Em tuy là thằng liên lạc, nhưng đã mời ai là mời đàng hoàng, chứ không mời đồ ăn dư như anh mời em kỳ năm ngoái. Chính trị viên điếng người. Lúc bấy giờ anh mới sực nhớ đến đĩa bánh bèo còn thừa, mời Bồng dạo nọ. Mặt chính trị viên tái rồi đỏ. Anh phải hết sức mới giữ nổi bình tĩnh. Anh nhìn Bồng qua cặp kính cận, hỏi gần như thì thầm: - Nhưng tại sao lúc đó em lại ăn? - Dạ, em không ăn sợ anh ngượng… Có thể nói chuyện Bồng-da-rắn đãi chính trị viên tiểu đoàn Hoàng Lý làm chấn động cả chiến khu. Tôi là bạn chiến đấu của Bồng từ những năm thơ ấu. Tôi biết "cả một đờỉ" Bồng, bạn ấy chỉ phục có một người là Lê Thuyết, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 227, và sau này là Trung đoàn trưởng trung đoàn 101, lúc đó anh vừa tròn hai mươi bảy tuổi. Bồng thường nói với chúng tôi về anh Lê Thuyết: "Chăc mạ anh phải ăn gang, ăn sắt mà đẻ ra anh thì anh mới gan dạ được đến như rứa". Với nhiều người, "cả một đời", có nghĩa là bốn mươi, năm mươi, bảy mươi thậm chí trăm tuổi. Nhưng với Bồng "cả một đời" chỉ có mười sáu tuổi. Bồng đã hy sinh lẫm liệt cho Tổ quốc lúc vừa tròn mười sáu tuổi. Nhưng đó là một câu chuyện khác, và sẽ được kể lại trong một cuốn sách khác. Còn bây giờ tôi phải kể tiếp chuyện đang kể dở. 19 Bồng bước vào lán, chưa kịp bỏ tơi nón, đã nói với Mừng và Kim: - Có thằng Việt gian xớ rớ định mò lên dò la chiến khu, tao lừa dẫn vô trạm gác, trói luôn. Mừng và Kim đang lúi húi bên bếp nấu cơm chiều, nghe vậy bỏ bếp chạy lên. Mừng với vẻ mặt hớn hở của con nít sắp được nghe kể chuyện đời xưa, tíu ưt hỏi: Đầu đuôi răng mà anh bắt được, anh kể cho nghe với… Bồng sôi nổi kể với hai bạn chuyện người đàn ông vác đòn xóc Mừng miệng há hốc nghe chuyện. Em ngạc nhiên hỏi: - Nhưng làm răng anh vừa ngó thấy hẳn anh đã biết ngay hắn là Việt gian? - Tau cần chi ngó, chỉ ngửi mùi tau cũng biết? - Tài hè… Rứa mùi Việt gian như răng? - Như mùi cứt! Mừng tít mắt cười, hỏi: - Rứa Vệ Quốc Đoàn mình có mùi không? - Răng lại không có. - Mùi Vệ Quốc Đoàn thì như răng? - Mùi áo quần rách rưới cả năm mặc độc một bộ mùi ghẻ, mùi rận, mùi sốt rét, mùi sắn nước ruốc với rau tàu bay… mùi… mùi yêu nước, ghét Tây, ghét Việt gian! Như thằng Quỳnh đó, hắn nằm dưới đất đen, nhưng cứ đi qua mộ hắn là tau ngửi thấy mùi Vệ Quốc Đoàn xông lên, chảy cả nước mắt? Khi nghe Bồng tả lại dáng dấp, cách ăn mặc, cái đòn còn vác trên vai có treo cuộn dây mây, của người đàn ông bị bắt, Kim giật bắn người. Hắn thầm kêu: "Thôi chết rồi, có lẽ là H.21". Để giấu nỗi hoảng sợ, Kim vờ lúi húi chất thêm củi vào bếp, nghĩ bụng: "Nếu đúng là H.21 thì mình làm răng đây? Chừ làm cách răng để biết được thằng cha ấy có đúng là H.21… Nếu chạy ra coi, thằng Bồng có thể sinh nghi…". May lúc đó, Mừng hăm hở nói: - Tui phải chạy ra coi thằng Việt gian nớ mới được. Tui chưa được thấy mặt mũi thằng Việt gian khi mô! Tui phải bắt chước anh ngửi coi mùi Việt gian như răng. - Mặt mũi Việt gian thì cũng như mi với tau, - Bồng quẳng tơi nón xuống sạp nứa nói. - Khác chi? Có khác là mặt mày tụi chó nớ béo tốt. phương phi, không có ghẻ ruồi, da không vàng bủng, không xanh lét như anh em mình. - Anh Kim, ta chạy ra coi thằng Việt gian chơi hí? - Mừng quay sang nói với Bồng. - Anh ở nhà nấu cơm giúp nghe. Bữa ni có canh rau tàu bay, môn thục nấu ruốc. Anh phải hấp hết cả rá sắn tụi tui vừa bóc vỏ, mới đủ ăn đó. - Đội trưởng mô rồi? - Anh vô Xê-ca Bốn có việc, phải gần tối anh mới về. Tuy suýt soát tuổi nhau, nhưng Bồng bao giờ cũng đối xử với Mừng như đứa em út. Em thường nói với các bạn về Mừng: "Hắn dại quá đi! Thấy cái chi lạ cũng đòi coi, ai nói chi cũng tin. Người ta nói chơi hắn cũng cứ tưởng nói thật. Lừa hắn còn dễ hơn lừa con nít lên ba?." Kim giả bộ ngại ngùng: - Đây ra đó xa bất chết, chạy đi chạy về bở cả hơi tai. Mừng cứ nằn nì chèo quéo: - Xa chi, chạy ù cái là đến. Đi, đi coi cho vui đi anh? Kim tỏ vẻ miễn cưỡng, theo Mừng chạy ra đường. Hai đứa bước vô trạm gác. Anh lính gác đeo khẩu tiểu liên tuyn, hỏi: - Hai chú đi mô đó? Chắc lại có lệnh lạc chi của trung đoàn? - Tụi tui ra coi mặt thằng Việt gian. Việt gian coi làm chi cho nhớp mắt? - anh cười - Việt ngay đây! - Anh chỉ vào ngực mình nói - Các chú coi có hơn không? - Coi Việt ngay thì tui coi tui còn rồi! - Mừng cười, nói - Tề, tề Việt gian ngồi chách bách đó tề! Mừng giật giật tay Kim, chỉ người đàn ông bị trói đang ngồi tựa lưng vào cột lán. Mừng bước đến sát trước mặt người đàn ông, mắt ngó hau háu, mũi hít hít, thắc mắc tự hỏi to thành tiếng: - Răng không ngửi thấy mùi chi cả hè? Kim vừa ngó thấy người đàn ông, lập tức nhận ra ngay "H.21". Tất cả các ám hiệu đều đúng như quy định. Nó run rẩy vì hoảng sợ và thất vọng. Ý nghĩ đầu tiên ập đến trong óc nó: sáng mai chắc "H.21" sẽ bị công an chiến khu tra hỏi. Hắn sẽ khai ra mọi chuyện, thế là rồi đời? Mình có thể bị xử bắn, ít ra cũng phải vô tù, bị giam giữ chưa biết đến khi mô. Tiền bạc, chuyến đi du học nước ngoài mà quan ba Sô-lê vừa hứa hẹn, phút chốc tan thành mây khói… Người đàn ông ngồi ở góc lán cũng nhìn Kim chằm chằm, và khẽ nháy mắt ra hiệu. "H.21" cũng đã nhận ra đồng bọn, vì trước khi lên chiến khu, y được Sở mật thám cho xem kỹ ảnh của Kim. Kim lo sợ anh lính giặc nhận ra cái nháy mắt của "H.21", liền vờ quay lại hỏi chuyện anh: - Răng chưa giải hắn vô trong tê mà còn trói hắn ở đây, anh? - Trong tê vừa cho liên lạc ra báo là cứ giam tạm anh ta ở đây sáng sớm mai sẽ có người ra hỏi cung. - Có chắc hắn là Việt gian không anh? - Cũng không biết nữa. Phải chờ sáng mai mới rõ trắng đen. Anh lính gác chép miệng nói tiếp - Cũng tại số anh ta đen đủi lại nhè đúng cái ông thiên lôi Bồng của đội các chú mà hỏi đường nên mới ra nông nỗi ni. Lỡ không phải "Vê-giê" mà chịu trói ngồi cả đêm rứa, nghĩ cũng cực! Người đàn ông nghe lỏm chuyện, nói giọng rầu rĩ:
|