Trạm Thị Vương Triều
|
|
Mẫn Tiên Nhu ra hiệu mở ra. Dậu Dương lĩnh chỉ, mở xong liền đọc: “Chuyện làm ăn đang phải cầm cự. Đối phương thiếu ba mươi kim nhưng không thoái nhượng, e rằng hơn tháng không thể trở về.” Đọc xong, sắc mặt Dậu Dương thay đổi dữ dội: “Nương nương, đây rõ ràng chính là nói đến chiến sự ở Cự thành.”
Mẫn Tiên Nhu đột nhiên hỏi: “Hai nhà Đổng – Mã gần đây có gì dị thường không?”
Dậu Dương sững sờ chốc lát rồi lập tức bẩm: “Mã Chí Khiết mỗi ngày ngoại trừ đi nha môn thì chỉ ngây ngốc ở trong phủ không ra ngoài. Còn về phần Đổng gia, từ sau khi hoàng hậu về nhà thăm viếng thì Đổng Hoa liền đổ bệnh nằm trên giường, Đổng Thế Kiệt cũng không thường ra ngoài, chỉ tình cờ cùng vài Nho sĩ cổ hủ mua danh chuộc tiếng đến Đồng Khánh lâu uống rượu giải sầu. Nô tì đã điều tra qua đám Nho sĩ cổ hủ này đều không thấy gì dị thường.”
Mẫn Tiên Nhu xoa bóp huyệt thái dương sâu xa nói: “Bổn cung sẽ thay Trạm Hi rút dằm đâm thịt này. Gọi Vệ Tự mau đến Thượng Thư phòng. Đi chuẩn bị liễn.”
Ngân Nguyệt đứng bên vội nói: “Nương nương, sắc mặt lúc này của người đang cực kỳ tái nhợt, vẫn nên tạm nghỉ ngơi một hồi rồi hẵng đi.”
Mẫn Tiên Nhu cười nhạt: “Bổn cung nắm rất chắc trạng huống thân thể của chính mình.”
Mọi người thấy không khuyên được, chỉ đành tăng gấp bội cẩn thận từng li từng tí che chở Mẫn Tiên Nhu. Khi đến Thượng Thư phòng, đã thấy Vệ Tự đứng chờ sẵn ở đó.
Mẫn Tiên Nhu chỉ liếc mắt nhìn ông đôi chút rồi hỏi: “Trước khi hoàng thượng xuất chinh đã nói gì với ông, hẳn ông vẫn còn nhớ?”
Vệ Tự quỳ xuống dập đầu đáp: “Thần luôn tuân theo mọi ý chỉ của nương nương.”
Mẫn Tiên Nhu cũng không khách sáo, trực tiếp nói: “Bổn cung muốn điều binh.”
Vệ Tự càng dứt khoát, chỉ đáp: “Tuân chỉ.”
Lúc này Mẫn Tiên Nhu mới hài lòng gật đầu. Nếu như Vệ Tự dám to gan chần chờ một phút giây thôi, nàng sẽ lập tức bảo ám vệ bắt giam ông ngay. Bởi vì đang là thời điểm không bình thường, nàng không thể ném giang sơn của Trạm Hi vào một chút hiểm nguy nào. “Bổn cung cũng không dối gạt ông, hiện nay trong triều có người cấu kết với Mẫn Dục, tình hình ở chiến trường phương Bắc kia đang làm sao thì Mẫn Dục lúc này đều biết được cả. Y đã điều động toàn bộ quân lính cả nước đến sát biên giới tất sẽ không cam lòng tay trắng mà quay về, vì lẽ đó nơi ấy của Triệu Nham đương nhiên sẽ nổ ra một trận chiến lớn. Bổn cung muốn phái ông suất quân đi trợ giúp Triệu Nham.”
Tuy nhiên lúc này Vệ Tự có điểm do dự: “Nương nương, nếu trong triều có người cấu kết Mẫn Dục, vậy thần càng nên ở kinh thành bảo vệ nương nương. Huống chi Triệu Nham tướng quân xưa nay thành thạo mưu lược, năm đó ở Hộ thành lấy mười vạn đại quân chống lại hai mươi vạn quân tinh nhuệ của Lý Lãng đều không thua sút trận nào, hiện giờ chỉ là đám lính quèn của Mẫn Dục, Triệu Nham tướng quân nhất định có thể xoay xở đối phó ổn được.”
Hiếm khi Mẫn Tiên Nhu nghe thấy Vệ Tự nói nhiều như vậy, trong lòng tuy buồn cười nhưng ngoài miệng tán thưởng nói: “Chỉ bằng lời này của ông đã đủ thấy lòng trung thành tận tụy của ông đối với hoàng thượng và bổn cung. Cuộc chiến ở Hộ thành năm đó cùng trận chiến sắp tới không hề giống nhau. Ngày đó Lý Lãng bởi vì phụng mệnh thánh chỉ của Tấn Mạt đế mà không thể không cầm quân đi đánh chúng ta, chứ thật lòng ông ấy không phải muốn đánh bại chiếm lĩnh Hộ thành, còn nữa lúc đó Lý Lãng cũng chỉ mới cầm hai ngàn nhân mã chứ không phải hai mươi vạn. Hiện giờ Mẫn Dục lại dẫn theo năm mươi vạn đại quân kéo đến, lại một lòng mưu đoạt thiên hạ, thời cơ tốt thế này, đổi thành bổn cung thì nhất định cũng phải dốc sức đánh cược một phen. Dù Triệu Nham có thành thạo mưu lược đến đâu, chỉ dựa vào mười lăm vạn nhân mã trong tay cũng sẽ không cách nào thủ thắng được.”
Vệ Tự nói: “Không dám giấu nương nương, phần lớn Kinh Kỳ Vệ đều là từ số quân lính từ thời tiền Tấn hợp nhất mà thành, thật sự sức chiến đấu chỉ có hạn. Nếu bắt bọn họ tham gia cuộc đại chiến như vậy, e rằng không thể gánh nổi.”
“Không phải muốn ông dẫn quân đến đó thật sự tham gia cuộc chiến, mà chỉ là đi hù dọa Mẫn Dục chút thôi. Dù cho Kinh Kỳ Vệ sĩ khí ngút trời thật muốn xông pha chiến trường, Triệu Nham cũng không dám bất cẩn dùng bọn họ đâu. Trong lòng ông ấy hiểu rõ lúc này nên làm gì, ông cứ việc nghe theo lời ông ấy là được.” Mẫn Tiên Nhu nói: “Ông cần lặng yên xuất binh, trong vòng mười ngày phải đến được đó. Chỉ cần để lại năm ngàn tinh binh bảo vệ hoàng cung, rồi lưu lại năm ngàn tinh binh mai phục ngoài thành, số nhân mã còn lại thì ông cứ việc mang đi toàn bộ. Nhớ kỹ, ông phải làm sao đó để những người ngoài nhìn vào vẫn cho rằng Kinh Kỳ Vệ còn ở kinh thành.”
“Thần tuân chỉ. Chỉ là…” Vệ Tự lo lắng nói: “Kế thành không nhà trống này ngộ nhỡ bị người nhìn thấu, hậu quả khó mà lường được. Kính mong nương nương hãy cân nhắc kỹ.”
“Kế thành không nhà trống nếu là thời gian dựng kế đương nhiên sợ người nhìn thấu, nhưng nếu là thời gian làm mồi lại ước gì có người nhìn thấu đây.” Mẫn Tiên Nhu chậm rãi nói: “Ông phải nhớ kỹ. Mẫn Dục vừa thu binh lại, ông hãy lập tức mang binh trở về kinh thành, không được trì hoãn.”
Vệ Tự không hiểu được ẩn ý trong đó nhưng cũng không hỏi nhiều, lại nói: “Thần không chỉ lo lắng gian tế trong triều mà càng lo lắng Phạm Hách. Trong tay người này đang cầm đến mười vạn binh, nếu như nổi lên tâm tư xấu, nhân dịp việc phòng giữ kinh thành trống rỗng liền xua quân xuôi Nam thì Đại Đoan ta sẽ lâm nguy mất.”
“Hoàng thượng có trung thần như ông quả thật là phúc của Đại Đoan ta.” Mẫn Tiên Nhu nghiêm mặt nói: “Nếu thành Định Xương còn trong tay Phạm Hách, nhất định bổn cung sẽ không thực hiện mưu kế này. Quận Võ Uy là sào huyệt của Phạm Hách, nếu gã dám rời ổ mà ra, chẳng lẽ không sợ hoàng thượng sai người chiếm mất căn cơ của gã? Đối với Phạm Hách gã mà nói kinh thành là vùng tử địa, vì phía Bắc có đại quân của hoàng thượng, phương Nam có đại quân của Triệu Nham cùng Vệ đại nhân, bên mặt Tây tuy là Nhạn Linh Quan nhưng sau mặt Tây lại là đất Đoan, nếu bị tổng tấn công thì gã cũng chỉ còn cách nhảy vào mặt biển rộng bên bờ Đông để trốn thôi. Trừ khi gã cấu kết với Mẫn Dục rồi liều mạng đánh tan Thiên Môn Lĩnh thì lại khác. Nếu Vệ đại nhân là Phạm Hách thì phải làm sao?”
Vệ Tự suy nghĩ đôi chút mới đáp: “Hai người Hách – Dục này dường như không hợp tính nhau, nếu bắt tay hỗ trợ thì sẽ tự đưa mình vào chỗ chết, nếu thần là Phạm Hách, nhất định sẽ không về phe Mẫn Dục giúp đỡ y đoạt được giang sơn. Phạm Hách đã chinh chiến nhiều năm, thế cục này hẳn là sẽ xem rõ tường tận.” Ông bái phục thốt: “Nương nương thật đúng là thần cơ diệu toán. Nhưng mà chỉ để lại năm ngàn binh mã bảo vệ hoàng cung thì thật sự thần không quá yên lòng.”
“Nếu không như vậy thì bổn cung làm sao dụ rắn ra khỏi hang.” Mẫn Tiên Nhu cười cực kỳ dịu dàng: “Ông yên tâm. Cho dù trong tay bổn cung không có một quân đi nữa, bổn cung cũng có thể khiến Đổng Hoa không dám manh động. À mà ông để người tên Chu Võ lưu lại đây đi.”
Vệ Tự lĩnh chỉ mà đi. Còn Dậu Dương, Thân Cúc, Ngân Nguyệt cùng nhau không hiểu chỉ tròn mắt nhìn Mẫn Tiên Nhu.
“Ba cô hẵng đang nghi hoặc vì sao bổn cung nhất quyết nhận định bàn tay đen phía sau màn chính là Đổng gia?” Mẫn Tiên Nhu hơi đắc ý, nhưng cười không nói.
Thân Cúc cười nói: “Nương nương, chúng nô tì thấy rõ Đổng Hoa có hiềm nghi rất lớn. Chỉ là không biết vì sao nương nương chắc chắc Đổng Hoa chính là gian tế cấu kết với phía Nam?”
Ngân Nguyệt cũng cười nói: “Nô tì cũng nghi hoặc đây. Chỉ dựa vào chùa miếu ở làng Đồng Sơn có bồ câu đưa thư dường như cũng không thể chứng minh Đổng Hoa có quan hệ với bọn người này.”
“Bồ câu đưa thư.” Mẫn Tiên Nhu chỉ nói bốn chữ, ánh mắt khá chờ mong nhìn thẳng vào Dậu Dương.
Dậu Dương mờ mịt đáp: “Bồ câu đưa thư là dùng để liên lạc với khoảng cách xa. Thời Tấn Mạt đế, nếu người trong kinh thành muốn liên lạc với kẻ phương xa, rồi còn muốn ẩn giấu bí mật không để người ta biết thì có thể là ai? Ngoại trừ ba huynh đệ Mẫn thị, hẳn chính là Phạm Hách và Lý Lãng – hai vị đại tướng đang cầm binh quyền trong tay. Nhưng hiện nay Phạm Hách và Lý Lãng đều ở phương Bắc, tình hình chiến sự thế nào nhất định sáng tỏ trong lòng bàn tay, nên đám bồ câu đưa thư tuyệt nhiên không thể của hai người này. Mẫn Vỹ đã bị diệt trừ, Mẫn Huyễn chạy trốn xuống phía Nam, vậy bồ câu đưa thư này cũng không thể của hai người họ. Còn về phần Mẫn Dục, nương nương đã giáo huấn qua nô tì, bồ câu đưa thư chắc chắn sẽ không phải của y.” Dậu Dương cẩn thận ngẫm lại, tựa hồ trong óc có một tia linh quang chợt lóe: “Đổng Hoa nắm giữ bộ Lại, người của lão trải rộng cả thiên hạ nên cũng sẽ dùng bồ câu đưa thư. Mà Mã Cường là con cờ của Tấn Mạt đế dùng để kìm hãm ngăn chặn phe phái Đổng gia, lên nắm quyền cũng chỉ khoảng thời gian ngắn chừng mười năm, vì thế Mã gia tuyệt đối không thể có tài lực cùng nhân lực thần không biết quỷ không hay mà ở làng Đồng Sơn kiến tạo nên ba tòa chùa miếu làm nơi yểm trợ vậy được. Chỉ có Đổng gia trải qua mấy chục năm mưu tính mới có thể xây dựng nên tổ chức bí mật này.” Rồi cười nói: “Nương nương, nô tì có phái người đi ngầm hỏi qua đám hòa thượng ở nơi đó, bọn họ đều nói chưa từng thấy bồ câu đưa thư gì cả. Dù có là bồ câu huấn luyện đi nữa thì cũng là súc vật, nô tì không tin bầy súc vật này sẽ không bị mấy người tham ăn tục uống lấy ra làm thịt? Có thể thấy bọn họ đều đang nói dối.”
Mẫn Tiên Nhu hơi chút thỏa mãn: “Người bên ngoài ỷ được sủng ái mà sinh kiêu ngạo, còn Vũ Sư Đức ỷ được sủng ái mà thích khoe khoang, khắp nơi cứ khoe khoang dáng vẻ hơn người một bậc, mua chuộc lòng người quá mức thuần thục, ngoài sáng là vì triều đình nhưng ngầm bên trong lại tư tâm quá sâu. Cô không nên học cách làm người của Vũ Sư Đức, mà hãy nên học cách ông ấy giải quyết công việc.” Trong lòng Mẫn Tiên Nhu hiểu rõ, Vũ Sư Đức bị phán chết xác thật rất oan uổng, nhưng đây chính là uy nghiêm của hoàng quyền, quyết không cho phép bất cứ chuyện gì, bất luận người nào ngự trị ở bên trên. Tâm tư của người trong thiên hạ chỉ có thể để hoàng thượng tự mình lôi kéo, còn nếu ai khác tới lôi kéo, dù cho có là người trung thành vì triều đình đến đâu thì hoàng đế cũng sẽ không dễ dàng bỏ qua. Việc ngươi mua chuộc lôi kéo lòng người để cống hiến cho hoàng thượng, cống hiến cho triều đình, thì mặt khác cũng đã tạo một ân huệ để người ta cống hiến trả ơn ngược lại cho ngươi, vậy nên triều đại nào, hoàng đế nào có thể bằng lòng để yên chứ? Điểm ấy Vũ Sư Đức nhìn không thấu, cũng chỉ có thể rơi vào kết cục như thế. Tuy nhiên Dậu Dương đây lại không giống vậy, cô nàng là tâm phúc của mình, tính tình lại thận trọng, lòng trung thành tuyệt đối chuyên nhất, mình không thể để cô nàng phạm vào hồ đồ rồi lơ mơ bị phá hủy vậy được!
Dậu Dương cảm kích quỳ xuống. Những lời ngầm nhắc nhở này của Mẫn Tiên Nhu nếu người ở bên ngoài nghe thấy chỉ tưởng là lời khuyên vô thưởng vô phạt, nhưng đây rõ ràng chính là đang nói với Dậu Dương không nên công cao át chủ, cũng như gián tiếp nói với nàng nguyên nhân tại sao Vũ Sư Đức lại có kết cục như thế.
Không những Dậu Dương, ngay tiếp theo đó, Thân Cúc và Ngân Nguyệt đều cảm kích vạn phần quỳ xuống tạ ơn. Ba người đều nhạy bén tháo vát, rất nhanh liền hiểu, Nương nương có thể nói ra lời như vậy, thật sự đã xem mình là người của nương nương!
Mẫn Tiên Nhu ra hiệu ba người đứng lên, rồi nhìn vào Dậu Dương nói: “Khẳng định Đổng gia có liên quan trong chuyện này. Chuyện bồ câu đưa thư kia chỉ là một trong số đó, nội dung bức thư chính là điểm đáng nghi thứ hai. Trong thư đã viết, ‘Đối phương thiếu ba mươi kim’, chính chữ kim này rất đáng nghi. Khi dùng từ viết văn, chữ kim có thể giải thích với nghĩa là hoàng kim, cũng có thể tự hiểu thành bạc trắng. Nếu là người buôn bán, trong lúc cần tiền khẩn cấp như thế, sao có thể mất thời gian nghiền ngẫm từng chữ một viết ra một bức thư khiến người đọc phải mơ hồ vậy đây? Mấy cô đã nói, Mã Cường chưởng quản bộ Hộ thời gian cũng khá lâu, sẽ phạm vào sai lầm không đáng có này sao? Nói vậy Đổng Bình cũng lo tin này lỡ như rơi vào trong tay hoàng thượng, lại tự cho rằng người có thể nuôi dưỡng được bồ câu đưa thư liên lạc khắp nơi tất nhiên phải là mấy đại thương gia, nếu viết ba mươi lượng bạc trắng e sợ không được người đọc hiểu ý, vì vậy tiện tay viết chữ kim thay vào, cho rằng người bên ngoài khi nhìn vào sẽ hiểu ngay đến ý bạc trắng mà không biết rằng mấy vị tiên sinh trong phòng thu chi cũng không có tầm học vấn cao như ông ta. Sĩ nông công thương, hừ, thật là buồn cười! Ông ta xuất thân từ hào môn vọng tộc, làm sao biết ở trong mắt đám sĩ tử bọn họ, những thương gia đứng hạng bét nhất kia sẽ không bao giờ dùng chữ kim khi giao dịch buôn bán. Làm sao Đổng Hoa lại có đứa con trai xuẩn ngốc như thế chứ?”
Thân Cúc cười nói: “E rằng chính Đổng Hoa cũng không thể biết ấy! Thì ra nương nương đã sớm biết kẻ trong triều cấu kết Mẫn Dục chính là Đổng gia.” Thân Cúc, Dậu Dương và Ngân Nguyệt thật sự phục sát đất, từ nhỏ mấy người bọn nàng đã biết Mẫn Tiên Nhu trí tuệ vô song, cách làm việc lại hết sức cẩn thận tỉ mỉ, chỉ không ngờ rằng mấy chuyện xoay quanh đủ loại hạng người trên đời không có chuyện nào mà nàng lại không biết.
Mẫn Tiên Nhu hơi lim dim mắt, nghiêng người dựa vào giường lót bên trong điện. Thật ra nàng không phải thần tiên, cũng phải tốn vài ngày sắp xếp lại mọi chuyện mấy lượt mới ngẫm ra mọi chuyện, mệt mỏi tinh thần vô cùng. Kẻ cấu kết với Mẫn Dục, đương nhiên Đổng gia là đối tượng hiềm nghi lớn nhất, nhưng không thể loại trừ Mã gia và Phạm Hách, thậm chí cả Lý Lãng cũng phải tinh tế cẩn thận cân nhắc. Có điều đêm nay đều đã sắp xếp mọi thứ thỏa đáng, nàng hơi có thể nhẹ nhõm thả lỏng đôi chút: “Hồi cung đi. Xem ra trong thời gian ngắn Trạm Hi không thể trở về kinh thành được rồi.” Đột nhiên nàng khẽ nhíu lông mày: “Dậu Dương, cô mau báo cho Vệ Tự, bảo ông ấy hãy chuẩn bị nhanh nhất có thể để tối nay xuất phát hỏa tốc chạy đến Thiên Môn Lĩnh.”
Dậu Dương không dám trễ nải, lập tức lĩnh mệnh mà đi. Ngân Nguyệt thấy vẻ mặt Mẫn Tiên Nhu mệt mỏi, mau chóng quỳ xuống nhẹ nhàng ấn bóp hai chân của nàng, Thân Cúc cũng bận rộn bưng tới chén cháo nhỏ dâng lên, đau lòng nói: “Nương nương, mong người tuyệt đối đừng lo lắng đến bốc hỏa trong người.”
Mẫn Tiên Nhu nhấm nháp được hai muỗng cháo liền buông bát xuống, chầm chậm suy nghĩ rồi nói: “Trạm Hi gởi thư chỉ viết tìm không ra quân chủ lực của Bắc Địch trốn ở nơi nào, còn trong thư của Đổng Bình lại viết ‘E rằng hơn tháng không thể trở về’, suy luận theo cách viết này thì đã nhiều ngày quân ta không tìm được tung tích quân địch, bởi vậy Đổng Bình mới có cách viết kiểu thế. Tình hình chiến sự biến hóa trong chớp mắt, nhất định ông ta đã viết qua rất nhiều mật thư, lần này là luôn mãi nhắc nhở Mẫn Dục rằng quân ta trong ngắn hạn không thể về được. Bổn cung khẳng định Mẫn Dục đã biết chiến sự giằng co ở Cự thành từ lâu.” Hai tay nàng đặt lên phần bụng nhô lên, cười khổ nói: “Đều tại con nhóc thúi này quá dằn vặt người, khiến bổn cung nhất thời bất cẩn.”
Thân Cúc lo lắng nói: “Nương nương, theo nô tì thấy, người đừng nên nhọc lòng với đám tặc tử kia nữa mà hãy dứt khoát phái binh đến Đổng gia và làng Đồng Sơn trực tiếp tiêu diệt hết đi.”
Mẫn Tiên Nhu hơi lắc đầu: “Cách làm của cô đúng là diệt trừ tận gốc được mối nguy, chỉ là chứng cớ đâu? Hiện nay chúng ta lấy chứng cứ mưu phản của Đổng gia ở đâu ra đây? Chỉ dựa vào bồ câu đưa thư? Chùa miếu là nơi thanh tu của các Phật tử, tùy tiện phái binh tàn sát chẳng phải đã lưu lại một cái cớ thật tốt cho Đổng gia rồi sao? Như thế làm sao mạnh miệng nói lời chính nghĩa với nhân dân thiên hạ được chứ? Đổng Hoa có thể ở dưới mí mắt Tấn Mạt đế tạo dựng được một tổ chức bí mật cỡ đó, tất nhiên có chút thủ đoạn trong tay. Cô cũng nghe Dậu Dương nói rồi đấy, nơi đó có xây ba tòa chùa miếu quây lại hiện hình tam giác, có tác dụng công và thủ nương nhờ và tương trợ lẫn nhau, lại có thêm một hệ thống mật đạo ẩn giấu phía trong, vì thế nếu không thể một lưới tóm gọn mà để cá lọt lưới sẽ rất gieo vạ đằng sau. Bổn cung mặc kệ hiện nay Đổng Hoa có phải là thật bệnh hay giả bệnh, nhưng mà đợi thêm mấy ngày nữa, nhất định bổn cung phải khiến lão ta phải đổ bệnh nặng thật sự.”
.
Sau khi trở lại tẩm cung, Lý ma ma và Chu y quan lập tức bước vào kiểm tra sức khỏe của Mẫn Tiên Nhu, thấy không có gì khác thường mới thở phào nhẹ nhõm. Lý ma ma tận tình khuyên nhủ: “Nương nương, bây giờ đã là tháng Bảy, người mang thai đến tháng thứ chín rồi, thân thể này của người nói không chắc khi nào sẽ sinh đâu! Mong người có thể an tâm ở yên một chỗ chờ sinh được không? Xin đừng làm cho tâm già của lão nô cứ thấp thỏm mãi không yên mỗi ngày!”
Mẫn Tiên Nhu không hiểu hỏi: “Không phải thường là mang thai mười tháng mới sinh sao? Như vậy hẳn là còn hơn tháng nữa chứ?”
Chu y quan dở khóc dở cười: “Nương nương, cách nói mang thai mười tháng này chỉ là kiểu đọc thuận miệng của ca dao tục ngữ thôi. Bình thường đều là khi mang thai đến tháng thứ chín sau đó vài ngày sẽ đau bụng sinh rồi, còn người nào thật sự mang thai đủ mười tháng mới sinh thì là đẻ muộn đấy.”
Mẫn Tiên Nhu chậm rãi vuốt nhẹ bụng: “Không trách sao con nhóc thúi này gần đây cứ động đậy miết không chịu để yên phút giây nào, hóa ra là muốn chui khỏi bụng mẹ rồi đấy. Xem ra phải nhanh lên chút…” Nàng lại ranh mãnh cười nói: “Dậu Dương trở về chưa?”
Dậu Dương vừa vặn đi vào: “Nương nương, nô tì đã truyền xong ý chỉ của người cho Vệ Tự. Không biết người còn gì sai bảo nữa sao?”
Mẫn Tiên Nhu nói: “Báo cho hết thảy các đội ám vệ của ta, Vệ Tự đã suất quân xuôi Nam, kinh thành hiện nay đang trống rỗng, nhất định phải tăng cường đề phòng.”
Dậu Dương sửng sốt: “Nương nương, không phải người đang hoài nghi các đội ám vệ của ta có kẻ phản bội sao? Không phải người đã dặn nô tì lúc này không cần điều động nội ứng làm việc ư? Tin tức trọng yếu như vậy, ngộ nhỡ tiết lộ ra ngoài thì hậu quả này ——“
Mẫn Tiên Nhu thản nhiên nói: “Bổn cung không phải muốn thực hiện kế thành không nhà trống, mà là muốn diễn!”
“Nô tì biết rồi, nương nương là muốn làm cho tất cả mọi người thấy rõ đây là kế thành không nhà trống.” Dậu Dương cười nói: “Bẩm nương nương, nô tì thấy Vệ Tự tướng quân có chút vội vàng hấp tấp, mười bốn vạn Kinh Kỳ Vệ đột nhiên xuất phát có thể sinh ra tình thế hỗn loạn nào không đây? Dù sao phần lớn đều là quân từ thời tiền Tấn chấn chỉnh lại mà ra.”
“Nói chung cũng thông minh đấy. Khi còn ở đất Đoan, Vệ Tự chính là Trưởng thị vệ, khả năng đánh trận của ông ấy không rõ đến mức độ nào, nhưng năng lực răn đe người lại tuyệt đối là tay lão luyện, năm đó cô cũng thấy qua đội quân tinh nhuệ hộ vệ vương phủ rồi đấy thôi. Dù sao đã qua nửa năm chấn chỉnh dưới tay ông ấy, nếu như Vệ Tự không thể huấn luyện ra một đội quân nghiêm cẩn chấp hành kỷ luật, thái thượng hoàng cũng sẽ không coi trọng ông ấy như vậy.” Mẫn Tiên Nhu cười nói: “Cô đi tìm Chu Võ, bảo gã trong vòng ba ngày đem tin tức kinh thành đang tiến hành kế thành không nhà trống tiết lộ cho Mã Chí Khiết. Lại đi phái người bảo Liễu Ngọc Lăng, mặc kệ nàng ấy dùng loại phương pháp nào, nhất định phải cổ động Mẫn Huyễn chủ chiến.”
Dậu Dương ngớ ra: “Nương nương, hai người Chu Võ và Mã Chí Khiết đang hận thù nhau đến mức không thể rút gân lột da đối phương, hai người họ làm gì nói chuyện được với nhau, giờ nương nương lại bảo một người đi tiết lộ tin tức cho người kia biết? Ngộ nhỡ làm hỏng những sắp đặt của nương nương ——“ Kỳ thật chuyện Dậu Dương nghi ngờ hơn chính là tại sao phải nói cho Mã Chí Khiết biết, việc thế này thì có liên quan gì đến nhân vật đó đâu? Có điều nàng sợ Mẫn Tiên Nhu nói bản thân chuyên thắc mắc những chuyện không đâu nên không dám hỏi nhiều.
|
“Đôi khi lời nói của kẻ thù trái lại càng dễ dàng được tin tưởng hơn. Chu Võ là tên lưu manh vô lại, nếu ngay cả biện pháp lừa gạt Mã Chí Khiết còn không nghĩ ra được, vậy bổn cung cũng sẽ không để cho gã còn cơ hội lưu lại trên đời.” Mẫn Tiên Nhu than thở: “Rốt cuộc cô so với Vũ Sư Đức còn kém hơn chút, có điều Vũ Sư Đức cũng từ nhiều năm rèn luyện mới mài ra thủ đoạn bậc này, cô hãy chậm rãi đi theo bên người bổn cung dần học hỏi vậy.” Mẫn Tiên Nhu cũng biết không thể vội vàng được, dù sao Dậu Dương vốn là ám vệ, chức trách chính của Dậu Dương chính là bảo vệ nàng an toàn, hiện nay muốn Dậu Dương có thủ đoạn đa dạng đấu trí đấu dũng khẳng định không thể thích ứng với vai trò mới trong thời gian ngắn.
Vẻ mặt Dậu Dương đỏ bừng, lĩnh mệnh lui ra.
.
Giờ Tuất ngày hai mươi tám tháng Bảy, hai ông cháu Đổng gia nhận được tin tức gửi về. Đổng Thế Kiệt đã trải qua đả kích liên tiếp, từ lâu không còn suy nghĩ tùy tiện như trước, chỉ là thấy Đổng Hoa cứ mãi im lặng không nói nên không thể nhịn được hỏi: “Ông nội, thời cơ tốt vậy rồi, ông còn do dự gì nữa?”
Đổng Hoa lạnh lùng hỏi ngược lại: “Thời cơ tốt? Cháu nói thử xem.”
Đổng Thế Kiệt sợ nhất dáng vẻ âm trầm này của Đổng Hoa, không khỏi cẩn thận đáp: “Thừa dịp kinh thành bị bỏ trống, một lần đánh thẳng vào hoàng cung, đóng chặt chín cổng dẫn đến kinh thành, rồi chỉ việc chờ đại quân Mẫn Dục tiến đến, lúc đó Đổng gia chúng ta sẽ trở thành hộ quốc công thần.”
Đổng Hoa vẫn là gương mặt không chút biểu cảm: “Chẳng lẽ hoàng cung không có hộ vệ?”
Đổng Thế Kiệt cười làm lành: “Mật thám ở trong cung báo về cho chúng ta biết, lúc này hoàng thành chỉ có ba ngàn binh mã, trong khi làng Đồng Sơn có hơn ngàn tử sĩ đã huấn luyện nhiều năm, lấy một chọi mười tuyệt đối không vấn đề gì.”
Đổng Hoa híp mắt, cầm lấy chén trà âm trầm nói: “Khi nào đại quân Mẫn Dục mới đến đây? Dù cho có lật được trời, Mẫn Dục sẽ đối phó thế nào với Đổng gia ta?”
“Thời cơ trời cho, Mẫn Dục sẽ không để vuột mất không thèm để ý tới.” Đổng Thế Kiệt tự tin nói: “Cháu trai đã nhận được tin từ bồ câu đưa thư ở phương Nam, ít ngày nữa đại chiến sẽ nổ ra. Hơn nữa Mẫn Dục luôn chú trọng vào thanh danh, hẳn là sẽ không làm khó dễ khai quốc công thần, cho dù Đổng gia không được trọng dụng, chúng ta cũng có thời gian chậm rãi mưu tính, dù sao cũng tốt hơn tình thế hiện tại trở thành thớt gỗ để mặc người hiếp đáp.”
Đổng Hoa lạnh lùng ‘hừ’ một tiếng, nói: “Mùa đông năm ngoái, Trạm Hi chỉ dẫn năm vạn nhân mã vào kinh thành, thời cơ như thế, Mẫn Dục kia đem theo tận năm mươi vạn đại quân còn không phải cách một trượng trước Thiên Môn Lĩnh chưa đánh trận nào đã cuốn gói mà về đấy sao! Hiện giờ Vệ Tự lại tự mình thống lĩnh mười bốn vạn đại quân đi trợ giúp, vậy thì Mẫn Dục kia còn dám động thủ ư?”
Đổng Thế Kiệt cười nói: “Chính vì đã bỏ qua một thời cơ tốt lần đó, nên cháu trai tin tưởng Mẫn Dục lần này tất nhiên sẽ không do dự chần chừ như xưa. Phần lớn Kinh Kỳ Vệ mà Vệ Tự dẫn đi có điều đều là Ngự Lâm quân và Thủ Kinh quân chấn chỉnh đôi chút hợp nhất mà thành, nên có thể tưởng tượng được sức chiến đấu nằm ở mức độ nào. Điểm này ngay cả cháu trai còn nhìn ra, thì Mẫn Dục sao mà lại không biết? Cháu trai còn có một kế, chúng ta cũng có thể viết một phong thư cho Phạm Hách, báo với gã tình trạng kinh thành gần đây. Ông nói thử xem, một thời cơ tốt như thế này, ai sẽ không động tâm?”
Rốt cuộc Đổng Hoa lộ ra một nụ cười: “Xem ra cháu trai đã nhìn mọi chuyện được thấu triệt, chỉ là…” Ánh mắt lão đột nhiên trở nên ác liệt: “Cháu hãy thành thật nói cho ông nội nghe, cháu muốn đánh vào hoàng cung, có phải là vì yêu phụ kia không?”
“Ông nội, chả lẽ cháu trai ở trong mắt của ông lại là kẻ mê gái không chịu nổi như thế? Cháu trai cũng không dối gạt ông, nếu lần này thành công, nếu như có thể bắt yêu phụ kia vào trong tay, đương nhiên cháu sẽ kính xin ông nội hãy thỏa mãn trái tim thương nhớ suốt thời gian qua của cháu trai. Thế nhưng nếu yêu phụ dám to gan làm hỏng chuyện đại sự, thì cháu trai nhất quyết không nể mặt mũi gì đâu.” Vẻ mặt Đổng Thế Kiệt nghiêm túc, hầu như muốn giơ thẳng tay xin thề với trời.
Đổng Hoa hiền từ nói: “Anh hùng khó qua ải mỹ nhân, cháu có thể nghĩ như vậy, ông nội đã thấy vui mừng rồi. Tuy làng Đồng Sơn có hơn ngàn tử sĩ nhưng là bảo mệnh cũng như lợi thế cuối cùng của Đổng gia ta, vì thế phải cực kỳ thận trọng trước khi dùng. Phạm Hách có thể đến góp mặt trong chuyến nước đục này là việc không thể tốt hơn, nhưng kẻ tiểu nhân cỡ gã ta không thể đặt quá nhiều hy vọng. Kỳ thật ông nội có vài lo lắng cân nhắc khác. Một trong số đó, Trạm Hi làm người nham hiểm, kinh thành lại là nơi quan trọng, nếu ả bố trí sắp đặt kế thành không nhà trống cũng quá lớn mật đi! Thứ hai, Mẫn Huyễn vẫn còn sống sót, Mẫn Dục có khi nào đã sinh lòng nghi ngờ Đổng gia chúng ta vì Mẫn Huyễn mới nương nhờ vào y? Nếu là như vậy, cho dù Mẫn Dục đoạt được giang sơn, Đổng gia cũng không có tiền đồ xán lạn.”
“Trạm Hi nham hiểm đến đâu cũng chỉ mới mười tám hay mười chín tuổi thôi, một nữ tử mà lại còn trẻ như thế sẽ khó tránh khỏi nghĩ ra những kế sách nông cạn mạo hiểm. Cháu trai cũng đã từng trải qua đoạn thời gian đó, tâm tình người trẻ tuổi thế nào là quá rõ ràng đi! Đại quân từ Bắc Đoan của Trạm Hi không thể động đậy, lại e dè quân lính ở phương Nam, chỉ có thể gom quân Kinh Kỳ Vệ đi cho đủ số. Kế thành không nhà trống rõ ràng thế này, e rằng cũng là sách lược bắt buộc do binh lực trong tay Trạm Hi giật gấu vá vai không thể làm gì khác. Cháu trai cho rằng ý định của Trạm Hi là muốn hù dọa Mẫn Dục để kéo dài thời gian, chờ quân Bắc Đoan đến cứu viện liền lập tức chơi trò quay đầu ngựa bất ngờ tập kích quân địch. Chỉ là ả sẽ trăm triệu không nghĩ tới, ả có thể phái người giám thị mọi động tĩnh của chúng ta thì chúng ta cũng có mật thám ẩn nấp ở quanh chỗ của ả.” Đổng Thế Kiệt càng nói càng mạch lạc rõ ràng: “Về phần Mẫn Huyễn, hay là cháu trai tìm người giết chết hắn ta?”
Đổng Hoa gật đầu, rồi lại vung tay: “Mẫn Huyễn chết hay sống thì Mẫn Dục không thèm để ý đâu. Thứ Mẫn Dục lưu ý chính là cái nhìn của người trong thiên hạ. Nếu Mẫn Huyễn chết ở chỗ của y, không phải sẽ để trên lưng y phải gánh lấy ác danh giết đệ? Như thế chẳng phải càng khiến y thêm hận đám người chúng ta? Kế trước mắt, chúng ta chỉ có thể đưa thư gửi đến y, một mực tỏ vẻ ủng hộ người Mẫn thị xưng vương làm đế, ai trong Mẫn thị bước lên ngôi hoàng đế đều được, chúng ta nhất quyết thề một lòng liều mạng phò trợ đến cùng. Trước tiên cháu phái người truyền tin cho Phạm Hách thăm dò ý tứ của gã ra sao, sau đó lại đi hỏi rõ Mẫn Dục rốt cuộc khi nào tiến công, để người ở làng Đồng Sơn của chúng ta biết thời cơ chuẩn xác nhằm phối hợp chuẩn bị vào thành. Đúng rồi, nhớ nhắc phụ thân cháu cẩn thận nhiều hơn, cần nhất phải toàn thân trở ra.”
“Vâng.” Đổng Thế Kiệt khẩn trương hưng phấn đi ra ngoài sắp xếp.
.
Đổng Bình nhận được tin, đương nhiên vạn phần cẩn thận thời khắc cảnh giác.
Phạm Hách nhận được tin, không tỏ rõ ý kiến. Lúc này thành Định Xương ở trong tay hoàng thượng, chỉ cần gã hơi động đậy rời đi thế nào hoàng thượng cũng xua quân cướp mất sào huyệt của gã, lúc đó gã chết không có chỗ chôn. Triệu tập đám tâm phúc thương lượng bàn bạc hồi lâu, cuối cùng quyết định yên lặng xem biến đổi. Vì thế nội dung trong thư hồi âm chính là nếu Mẫn Dục đánh hạ được Thiên Môn Lĩnh, gã sẽ toàn lực đánh chiếm lại thành Định Xương, sau đó xuất binh xuôi Nam tập họp quân ở kinh thành.
Còn Mẫn Dục nhận được tin lại do dự khó quyết. Vệ Tự thống lĩnh đại quân xuôi Nam, cho dù tất cả đám lính này đều là đồ bị thịt vô dụng thì cũng có mười bốn vạn người xuất hiện phá rối. Nếu thật sự mạnh mẽ dồn sức tấn công, nhất định y phải hao binh tổn tướng. Dù cho có thể đánh hạ Thiên Môn Lĩnh, binh lính trong tay y còn lại được bao nhiêu người? Ngộ nhỡ Trạm Hi thẹn quá hóa giận mặc kệ kẻ địch phương Bắc lui về thành Định Xương rồi đại quân trực tiếp xuôi Nam, lúc đó của cải dành dụm mấy chục năm qua của y sẽ không cánh mà bay tiêu tan trong chớp mắt. Chính vì y do dự ngay thời khắc mấu chốt này mà phần lớn mưu sĩ trong tay y đều sốt ruột sôi gan, đồng lòng thúc giục Tống Diệu cùng Đường Hàm An đi gặp Mẫn Dục. Tống Diệu có tâm kế, cũng không trực tiếp khuyên bảo, ngược lại gợi nhắc đến việc lui binh vào năm ngoái, muốn Mẫn Dục đừng nên lại bỏ mất cơ hội tốt. Mẫn Dục từ lần lui binh trước, sau đó trong lòng luôn ngột ngạt khó chịu, rồi nghe mật thám chạy về báo lúc đó Trạm Hi chỉ có năm vạn nhân mã vào kinh thành, không khỏi càng thêm hối hận. Lần này lời nói của Tống Diệu kích thích y thật sâu, tức thì đáp ứng đề nghị của đám mưu sĩ.
Tống Diệu thấy Mẫn Dục đồng ý, lập tức dâng lên sách lược chia nhỏ đại quân đánh tiếp viện. Hai mươi vạn đại quân phân thành hai nhánh thẳng tiến đến hai huyện La Hồ và Tiểu Truân, lại phái hai mươi vạn đại quân mai phục tại Thiên Môn Lĩnh phía La Hồ, nắm giữ chắc con đường nhất thiết phải đi nếu muốn đến kinh thành là huyện Tiểu Truân này. Nếu như Triệu Nham phái người tới cứu viện thì sẽ một lưới tóm gọn hết đám binh tướng viện quân này; còn nếu Triệu Nham làm rùa rụt cổ không ra, chờ thời cơ chiếm lại La Hồ và Tiểu Truân thì đại quân sẽ sáp nhập một chỗ đánh thẳng Thiên Môn Lĩnh.
Những người ngoài nghe được kế sách này thấy rất tốt. Ba vị trí Thiên Môn Lĩnh, La Hồ và Tiểu Truân có địa thế tương hỗ nương nhờ nhau thành chân vạc, nếu công kích một chỗ nào đều sẽ lập tức có hai nhánh binh còn lại chạy đến cứu viện, cứ ỷ vào nhiều lính vây chặt toàn bộ địch không cho quân địch cơ hội thở lấy hơi. Thế nhưng Mẫn Dục nghe xong lại một mực lo lắng bất an, bởi làm theo cách này sẽ khiến đại quân của y tổn thất rất nhiều nên chậm chạp không chịu gật đầu. Thấy vậy, Tống Diệu lại phải phí thêm rất nhiều miệng lưỡi khuyên nhủ thuyết phục, làm Mẫn Dục tuy nội tâm không quá đồng ý nhưng không chịu nổi đám mưu sĩ hùa theo góp lời, đành phải miễn cưỡng gật đầu. Sau lại lén lút thương nghị với bề tôi mà y xem trọng là Phùng Khiêm Lương, tuy Phùng Khiêm Lương luôn bất mãn với thế lớn của Tống Diệu nhưng cũng biết chuyện này có quan hệ tới vận nước, không dám loạn nói, bằng không ngộ nhỡ hôm nào đó Mẫn Dục lại thấy hối hận, chẳng phải sẽ khai đao lên người Phùng Khiêm Lương ông cho thỏa cơn nóng giận? Mẫn Dục thấy các đại thần và tâm phúc đều đồng lòng không dị nghị, liền quyết tâm ngày mùng năm tháng Tám xuất binh tiến đánh.
Khi Đổng Hoa nhận được tin thì đã là ngày mùng hai tháng Tám, sau một hồi thương nghị với cháu trai, cũng quyết định ba ngày sau khởi sự. Trong suy tính của lão, năm mươi vạn đại quân của Mẫn Dục chỉ cần nhiều nhất một ngày đã đánh hạ Thiên Môn Lĩnh, kỵ binh tiên phong nhanh nhất sẽ là ngày mồng mười tháng Tám có thể đến kinh thành. Lão chỉ cần khống chế kinh thành phong tỏa được tin tức thì việc chờ mấy ngày cũng chẳng phải việc gì lớn. Chứ chờ đến khi quân Tấn đánh chiếm được Thiên Môn Lĩnh, lúc đó lão mới bắt tay khống chế kinh thành thì còn ý nghĩa gì nữa đâu? Đồng thời lão cũng đem hồi âm của Phạm Hách truyền báo cho Mẫn Dục để y an tâm ra lệnh tiến công.
Hai ngày sau đó, dường như không có sự dị thường nào ở kinh thành. Thế nhưng các nơi giám thị nội ứng ở cửa thành lại phát hiện đầu mối, cánh cổng phía sau kinh thành mở giờ Thìn dường như có đủ loại hạng người đi vào nhiều hơn bình thường, mà giờ Dậu đóng cổng lại có rất ít người ra khỏi thành.
Mẫn Tiên Nhu lập tức biết mọi chuyện đã được tiến hành, tinh tế dặn Dậu Dương một hồi, lẳng lặng đợi xem kịch vui.
Kỳ thật sóng ngầm trong kinh thành còn có một người cũng nhìn ra điểm kỳ lạ, người đó chính là Mã Chí Khiết. Mấy ngày trước sau khi tan ca trực, trên đường hồi phủ y bị một kẻ say xông vào cỗ kiệu. Y tức giận cho dừng kiệu đi xuống xem có chuyện gì, vừa nhìn thì ra là Chu Võ đang càn quấy. Kẻ thù gặp mặt vốn nên đặc biệt đỏ mặt tía tai, vậy mà Chu Võ lúc này mùi rượu đầy người, chính đang mượn rượu làm càn, trong miệng loạn xạ ồn ào cứ sáp sáp tiến lại gần y. Mã Chí Khiết chán ghét muốn cách xa khỏi gã, lại nghe thấy Chu Võ nói gì mà, “Tất cả đều đi rồi.”, “Xem thường người, không mang theo lão tử đi chiến trường lập công.”, toàn là những loại lời nói loạn xạ điên cuồng. Trong lòng Mã Chí Khiết hơi động, vội lệnh cho tâm phúc bí mật đi tìm hiểu chuyện của Kinh Kỳ Vệ. Đúng như dự đoán, kinh thành đã bị bỏ trống không. Từ đó trong lòng y có tính toán, phái người để ý chuyện ở Đổng phủ, nhưng mãi không chờ thấy những dị động y đã lường trước. Lại đợi thêm ba-bốn ngày vẫn không gặp động tĩnh, y có chút không giữ được bình tĩnh, Nếu quân của nàng đại thắng ở phương Bắc, mình làm sao còn hy vọng mượn đao giết Mẫn Tiên Nhu? Còn làm sao hy vọng biểu hiện một phen thật tốt ở trước mặt Trạm Hi đây?
Mã Chí Khiết nghĩ tới nghĩ lui rồi cho gọi quản gia Mã An tới, dặn dò ông mang theo một hộp cơm rỗng đến Đổng phủ thăm hỏi lão thái sư đang ngã bệnh, căn dặn ông cần phải tự mình giao hộp cơm đến tận tay lão thái sư, còn nhắn kèm một câu, Mỹ thực trong hộp là món độc nhất vô nhị ở kinh thành.
Mã An không rõ mục đích của việc này, nghĩ đến lão gia không cho phép thiếu gia gây sự, lại thấy sắc mặt thiếu gia khó coi, rốt cuộc vẫn là nhát gan kháng mệnh của lão gia. Rồi lại nghĩ thiếu gia chỉ là đi hỏi thăm sức khỏe của lão thái sư, hẳn là đồng liêu tán gẫu tỏ tâm ý, không tính là gây sự nên cũng đồng ý đi làm.
Hai ông cháu Đổng gia vừa nghe người của Mã phủ đến đây liền nhất thời hoảng sợ, đêm mai đã muốn khởi sự, lúc này Mã phủ không phải địch không phải bạn lại phái người đến, tất có điều gì đó quái lạ. Đổng Hoa dằn lòng đáp ứng cho Mã An bước vào, mở ra hộp cơm nhưng thấy bên trong không hề có thứ gì. Dù lão đã lăn lộn ở chốn quan trường chìm nổi nhiều năm, giờ phút này cũng không khỏi tay run chân mềm, sau một hồi ổn định lại tâm trạng, lão cực lực dùng giọng điệu hiền từ hỏi: “Mã đại nhân đây là ý gì?”
Mã An không biết ngọn nguồn, nhưng vẫn khiêm tốn khom lưng cúi đầu cười đáp: “Thiếu gia nhà tôi có dặn, đây là mỹ thực độc nhất vô nhị ở kinh thành, đưa tặng thái sư bồi bổ thân thể.”
“Thay lão phu cảm tạ Mã đại nhân.” Đổng Hoa ngoài cười nhưng trong không cười phất tay tiễn khách, bảo đám hạ nhân dẫn Mã An rời khỏi phủ. Đổng Thế Kiệt bước đến gần nhìn vào hộp cơm rỗng tuếch trước mắt, sợ đến mồ hôi lạnh chảy ra như tắm, lập tức khẩn trương vạn phần vội vàng hỏi: “Mã Chí Khiết có ý gì? Lẽ nào y biết rồi? Không thể nào! Việc này cơ mật như vậy, chỉ có ông nội và cháu trai mới nắm được thôi, ngay cả Tôn Đạt Lý còn không báo cho biết. Vậy làm sao Mã Chí Khiết lại biết chứ?”
Đổng Hoa mất hết sức lực, ngã ngồi ở trên ghế, nửa ngày không nói gì. Đổng Thế Kiệt nôn nóng đến độ sắc mặt tái nhợt, hoảng loạn nói: “Ông nội, ông xem… Mã Chí Khiết sao không đi mật báo, mà lại tới đây nhắc nhở chúng ta? Lẽ nào cũng muốn góp chân dựa vào chúng ta cùng nhau khởi sự?”
“Dựa cái rắm!” Đổng Hoa gào thét, trên mặt vặn vẹo hầu như hoàn toàn mất đi vẻ nhã nhặn thường ngày: “Y… y mịe kiếp, y là muốn bắt Đổng gia chúng ta đổ máu để lót đường cho Mã gia nhà y! Nhìn đi, thằng nhóc đó, sáng mai cổng thành vừa mở ra, chắc chắn sẽ ra khỏi thành, sau đó chạy đi báo tin cho Trạm Hi để tranh thủ biểu hiện một phen. Thằng nhóc đó là muốn mượn đao giết người.”
Thấy sắc mặt Đổng Hoa đỏ đến mức không bình thường, biết đây là dấu hiệu tinh lực dâng lên quá mức, Đổng Thế Kiệt sợ thân thể lão không chịu nổi, đành phải trấn an một câu: “Mã Chí Khiết muốn mượn đao giết ai? Chúng ta chỉ cần khởi sự thành công, quyết sẽ không như ước nguyện của y. Có thể y chân tâm quy thuận chúng ta, bằng không muốn báo tin cũng có thể đi trong cung là được mà.”
|
Thân thể Đổng Hoa càng run đến lợi hại: “Mấy hành động mà Mã gia đã làm từ khi Trạm Hi đăng cơ tới nay, làm sao còn có đất cắm dùi chỗ Mẫn Dục nữa đâu? Thằng nhóc đó, vào cái năm Mẫn Thuân làm tiệc mừng thọ ở Tây Hoa viên kia, đám tiểu tử tụi cháu người nào người nấy đều bị Mẫn Tiên Nhu mê hoặc đến thần hồn điên đảo, nơi nào còn nhớ được người bên ngoài. Thế nhưng lão phu đã thấy rõ ràng, ánh mắt Mã Chí Khiết khi đó không phút giây nào rời khỏi Trạm Hi. Cháu hãy mau truyền lệnh xuống, ngày mai cổng thành vừa mở ra thì lập tức rút hết toàn bộ về làng Đồng Sơn đi.”
Đổng Thế Kiệt trăm triệu không nghĩ tới sẽ là đáp án này, kinh ngạc đến không khép miệng được, nếu là như vậy, tất cả mọi thứ đều có thể giải thích thông suốt. Đột nhiên hắn phẫn hận không thôi, Mượn tay người bên mình phá hủy Mẫn Tiên Nhu, còn bản thân y lành lặn vô sự chạy đến trước mặt Trạm Hi tranh công? Thật đúng là loại hiểm ác xảo trá! Có điều nghĩ đến đây Đổng Thế Kiệt lại có chỗ không hiểu, liền hỏi: “Vậy cũng không cần rút quân ta về mà ông nội. Mặc dù Mã Chí Khiết ra khỏi thành báo tin đi nữa, từ nơi này đến Cự thành đường xá xa xôi, chờ y đưa được quân viện binh đến, e rằng quân Tấn đã sớm đến kinh thành. Nếu như hiện giờ ông nội quả thật không chút yên lòng, vậy thì cháu trai sẽ phái người bám theo giết chết y trên đường là được mà. Ông nội ơi, mong ông tuyệt đối đừng tăng xông máu tức giận như vậy. Cháu trai đã suy nghĩ qua một lượt, hành động này của Mã Chí Khiết rõ ràng chỉ đang nhắc nhở chúng ta rằng kinh thành bị bỏ trống không, chứ chưa hẳn y đã biết đến kế hoạch của chúng ta.”
Đổng Hoa thở hổn hển, môi run rẩy: “Không phải hành động của Mã Chí Khiết, mà chính là chuyện kinh thành bị bỏ trống không kia! Đây là chuyện thiên đại cơ mật, làm sao y biết được? Thế này sao lại là kế thành không nhà trống, rõ ràng chính là gậy ông đập lưng ông. Đều là tại đứa muội muội vô dụng kia của cháu cả, khiến lão phu tức giận đến mất chừng mực.”
Đổng Thế Kiệt khiếp đảm không thôi, không còn hơi sức để ý tới tình trạng của Đổng Hoa, vội vã chạy đi truyền lệnh.
Ngày hôm sau, các cánh cổng kiên cố quanh kinh thành vừa được mở, rất nhiều tiểu thương ùa ra rời khỏi thành, trên đường đi bí mật đổi sang mặc đồ tăng y rồi thẳng tiến đến làng Đồng Sơn, vậy mà vừa mới tới bên dưới chân núi Đồng Sơn liền bị rất nhiều quan binh vây bắt chặt đến nước chảy không lọt.
Nơi đây thôn trang đồng ruộng rất nhiều, những người dân dậy sớm làm lụng bất ngờ gặp cảnh quan binh bắt người đều dừng lại việc đồng áng đang làm dở trên tay, tụ tập xung quanh không xa không gần giương mắt ngóng cổ hiếu kỳ nhìn.
Kẻ cầm đầu đám tử sĩ còn muốn lý sự, giả vờ ra dáng dấp một vị cao tăng, lạnh nhạt nói: “Lão nạp dẫn người đến Vân Tịnh tự cùng Không Minh đại sư họp bàn lập một đạo trường để cầu phúc cho hoàng thượng và các tướng sĩ. Bởi vì hôm nay trong chùa có việc đột xuất mới đem người quay về, không biết các vị đây cho người vây ráp chúng tôi là vì chuyện gì?”
Một vị có vẻ là tướng quân đứng đầu quan binh ở đây chợt lớn tiếng cười lạnh nói: “Lũ tặc nhân trơ tráo đóng giả thành hòa thượng mà thôi! Bộ lão tử đây dễ dàng bị lừa gạt qua mặt như vậy? Đêm trước, bọn người chúng ta có bắt được mấy tên sâu dân mọt nước trong chùa miếu trên núi Đồng Sơn, hôm qua có một hòa thượng đến báo quan, kết quả sau khi chúng ta thẩm tra thì hóa ra là đồng bọn của các ngươi đến kiểm tra hư thực. Mưu tính của các ngươi là muốn đêm nay đột nhập vào các chùa miếu giết người cướp giật tài vật. Bổn tướng quân vừa nhìn liền biết, rõ ràng các ngươi chính là dư nghiệt tiền triều, tụ tập hơn ngàn người, muốn đóng giả làm hòa thượng chiếm chùa miếu để biến thành sào huyệt của các ngươi.”
“Muốn gán tội cho người khác sợ gì không có lý do.” Cầm đầu tử sĩ cũng biết tình thế không ổn, đưa mắt ngắm nhìn bốn phía thấy dân chúng túm năm tụm ba đứng trên gò đất quan sát, liền nảy sinh một kế trong lòng, muốn mượn cơ hội người dân đang xem tranh thủ đột phá vòng vây kiếm ra đường sống, nghĩ thế trên mặt liền cười nói: “Tướng quân đã hiểu lầm, chúng tôi đúng thật là hòa thượng đang tu hành ở chùa trên núi Đồng Sơn.” Vừa nói vừa chỉ vào một vị hòa thượng trắng trẻo bên cạnh: “Người này thường hay xuống núi chọn mua những đồ dùng cần thiết trong chùa, nơi này không ít thí chủ đều biết mặt. Không tin tướng quân có thể mời một thí chủ nào đó ở đây đến kiểm tra thử xem, ắt hẳn có thể rõ ràng chân tướng ngay mà.”
Người tướng quân kia bật cười ha ha, lớn tiếng nói: “Xem ra ngươi là không thấy quan tài không nhỏ lệ. Lão tử nói cho ngươi biết, nếu chùa miếu không có nội gián, thì các ngươi làm sao làm nên chuyện? Người này chính là nội gián của lũ các ngươi. Hôm qua chúng ta đã kiểm kê nhân số ở chùa miếu, phát hiện thấy ít đi mấy người thường hay xuống núi. Ngươi nói ngươi đến Vân Tịnh tự đi tìm Không Minh đại sư? Lão tử nói cho ngươi biết, Không Minh đại sư của Vân Tịnh tự đã đi tới làng Đồng Sơn giảng kinh ba ngày nay. Ngươi không phục đúng hay không? Người đâu, mau đi mời Không Minh đại sư cùng các vị trụ trì ở quanh các chùa miếu ở làng Đồng Sơn đến đây, cũng để cho dân chúng nơi này nhìn xem, lão tử làm sao vạch trần được bộ mặt thật của đám phản tặc các ngươi.”
Vài tiếng niệm Phật cao trong từ trên gò đất không xa truyền đến, quanh thân Không Minh đại sư như có vầng hào quang bao bọc, thanh âm vang dội: “Buông đao đồ tể, lập tức thành Phật *. Các vị không nên lạm sát người vô tội gây thêm tạo nghiệt.” Nhân dân bốn phía dồn dập quỳ gối dập đầu trước Không Minh đại sư, vị cao tăng này uy danh khắp một vùng kinh thành không người không biết.
*Câu gốc ‘phóng hạ đồ đao, lập địa thành Phật’: Buông con dao đồ tể xuống, đứng tại chỗ thành Phật. Chữ Phật dùng ở đây là để chỉ cho tâm thiện, hoặc người tốt. Ý nói người làm ác chỉ cần quyết tâm bỏ ác hướng thiện là lập tức trở thành người tốt.
Cầm đầu tử sĩ bừng tỉnh minh bạch, hung ác cười gằn: “Các ngươi đã mất công mời cao tăng chó má này tới đây rồi, còn nói phí lời nhiều như vậy làm chi? Chính là diễn trò cho nhân dân xem để còn có cớ lấp liếm được miệng lưỡi người đời trong thiên hạ.” Cầm đầu tử sĩ biết đây mới thật là tuyệt cảnh, bình thường vì giữ bí mật nên có rất ít khách hành hương đến chùa bọn họ dâng hương, những người trong số bọn họ càng tận lực không gặp người ngoài, chỉ khi nào có việc cần liên hệ với bên ngoài hoặc khi mua sắm đồ dùng cần thiết mới cử vài người thường lộ diện xuống núi. Nhưng mà bây giờ Không Minh đại sư đều đã là người trong nhóm quan binh đứng đây, vậy thì còn làm sao cổ động dân chúng kích động để nhân cơ hội hỗn loạn tìm đường trốn nữa? Càng nghĩ càng cắn răng quát lên một tiếng lớn: “Cái mệnh nát này của ta đây mấy chục năm trước nên chết rồi, những năm này cơm ngon áo đẹp đều là do ân nhân ban tặng. Ân tình cứu mạng không có gì báo đáp! Các huynh đệ đâu, hãy mau giơ cao vũ khí chiến đấu cùng bọn họ liều mạng đi! Quyết không thể mang đến phiền phức cho ân nhân.”
Người tướng quân kia nhỏ giọng cười nói: “Biết nhìn tình huống cũng tốt, dù sao cũng hơn làm quỷ hồ đồ cãi chày cãi chối làm chúng ta đây phải tốn thêm thời gian miệng lưỡi mệt thân.” Nói xong liền vung tay lên, cung tên che ngợp bầu trời trút xuống, người ngồi trên đã sớm bàn giao rõ ràng xuống, đối phó với kẻ liều mạng thì tuyệt đối đừng dùng cứng đối cứng, cứ dùng cung nỏ khoảng cách gần giết chết hết lũ liều mạng đó là được.
Ước chừng một khoảnh khắc sau khi uống một chum trà, mưa tên mới ngừng lại. Trên đất ngang dọc tứ tung đều là thi thể trở thành bia tên. Binh sĩ cẩn thận đi kiểm tra vài lượt xác định không có người sống mới về báo cáo lại. Lúc đó người tướng quân kia mới sai người đem đống thi thể quăng hết vào hố lửa đốt đến cháy đen mới nhẹ nhõm quay ngựa trở lại kinh thành phục mệnh.
Việc này đến buổi trưa đã truyền ra khắp kinh thành, Đổng Hoa nghe xong lập tức phun ra một ngụm máu tươi, nhất thời mồm méo mắt trợn ngã xuống đất không thể động đậy.
.
|
chap 29 .
Hồi II: Bình định Phần 13 .
Tại Đổng phủ vào giờ phút này cực kỳ hỗn loạn. Đổng Thế Kiệt vội vã ra lệnh cho người hầu chạy nhanh xin mời danh y Tiền đại phu của Tế Thế Đường ở thành Nam đến đây. Sau một hồi gà bay chó sủa, sắc mặt Tiền đại phu nghiêm nghị kết thúc việc chẩn đoán bệnh.
Trái tim của Đổng Thế Kiệt vội nhảy đến cuống họng, khẩn trương hỏi: “Ông nội ta bị làm sao vậy?”
Tiền đại phu lắc đầu, than ngắn thở dài: “Nếu là người trẻ tuổi trải qua trạng huống nóng ruột đến hoả khí công tâm, huyết mạch tràn ra ngoài, thì việc phun máu trái lại là chuyện tốt. Thế nhưng tuổi tác lão thái sư đã cao, vốn là khí huyết vơi thiếu, lần này khẳng định sinh lực đã chịu đại thương. Có điều việc này còn chưa phải thứ nguy cấp đáng lo lúc này, nhìn tình hình hiện tại, hẳn là lão thái sư đang có dấu hiệu đứt mạch máu não thì phải.”
“Vậy làm sao bây giờ?”
“Lão phu sẽ kê vài phương thuốc lưu thông khí huyết kèm bổ máu, lại phối hợp thêm thuật châm cứu rồi chậm rãi điều trị thôi.”
“Kính xin Tiền đại phu mau nhanh tiến hành châm cứu cho ông nội ta.”
“Không thể. Hiện tại khí huyết lão thái sư vẫn lưu chuyển bất ổn, chỉ có thể đợi đến khi giảm xuống ổn định mới có thể tiến hành châm cứu, việc này không thể vội vàng được. Theo lão phu thấy, trước tiên nên để lão thái sư điều dưỡng một thời gian, chờ tình trạng ổn chút mới châm cứu. Có điều Đổng thiếu gia cứ việc yên tâm, tính mạng lão thái sư không có gì đáng ngại.”
“Vậy làm phiền đại phu.”
Những lời đối thoại này đều truyền tới tai Đổng Hoa vô cùng rõ ràng. Sau lần phun máu ra kia, trái lại trong lòng lão trở nên sáng suốt hơn bao giờ hết. Lão rất hối hận, lúc này bình tĩnh nằm cân nhắc lại mới thấy, việc lão khởi sự muốn tấn công khống chế kinh thành này kỳ thật không quan hệ gì đến đại cục. Nếu Mẫn Dục có thể thành công đánh hạ Thiên Môn Lĩnh, kinh thành chính là vật trong túi y, vậy nên lão có nắm được kinh thành trong tay hay không chẳng có bất kỳ ý nghĩa gì. Tại sao lão lại quyết tâm nhất định phải khởi sự như vậy? Còn không phải là do bị Trạm Hi từng bước ép sát, chính bản thân lão lại từng bước tính sai, nỗi uất ức vẫn cứ mãi kìm nén đổ ở trong lòng, cuối cùng bị cháu gái chọc giận, bị cháu trai ở bên kích động, rồi đúc thành sai lầm lớn hiện giờ. Nói cho cùng, lão chính là đang nóng giận, vì muốn Trạm Hi phải nhục nhã ê chề mà định khống chế kinh thành. Lão đã quá đánh giá thấp Trạm Hi. Mà không đúng! Bỗng nhiên lão phản ứng lại, Trạm Hi đang ở rất xa tận Cự thành, làm sao thần thông quảng đại đến mức đều nắm chắc và biết rõ toàn bộ tình huống trong kinh thành? Khẳng định là có người ở trong tối ngầm giúp đỡ! Nhưng đó là ai? Lão chợt nghĩ đến chỉ có thể là Quách Trinh. Cũng không đúng! Quách Trinh nào có quyền lực lớn đến mức điều động được cả Vệ Tự cùng Kinh Kỳ Vệ. Lẽ nào là… Tất cả máu trong kinh mạch toàn thân lão dường như bị đóng băng. Ngẫm lại những chuyện trước đây, năm đó Mẫn Tiên Nhu đã có thể từ trong kinh thành được canh phòng nghiêm ngặt trốn về đất Đoan, vậy suy ra mặc dù lần này lão khởi sự thành công cũng chưa chắc có thể bắt được Mẫn Tiên Nhu vào tay. Không có nữ nhân này làm sao áp chế được Trạm Hi? Vậy thì kinh thành căn bản không còn giá trị. Đến lúc đó Trạm Hi hoặc Vệ Tự lại quay đầu ngựa xua quân tấn công chiếm lại, thì mọi người trong cửu tộc lão liền xong đời. Nếu như tất cả những thứ này thật sự là do ả yêu phụ đó bày mưu bố cục, y theo tính tình ngông cuồng và dục vọng nhớ nhung kia của cháu trai, chẳng phải Đổng gia ta sẽ gặp phải nguy hiểm? Không được, phải nói cho Thế Kiệt biết, hiện tại Đổng gia ta dù là gì cũng không thể làm, chỉ có thể giấu tài, chậm rãi chờ đợi thời cơ rồi vùng dậy sau!
Đáng tiếc, bất kể Đổng Hoa lo lắng làm sao và khàn giọng gọi thế nào, khi nghe vào trong tai Đổng Thế Kiệt đều là mấy âm thanh ú ớ lầm rầm không rõ. Hắn cho rằng ông nội lại phát bệnh, mau chóng chạy đi xin mời Tiền đại phu đến xem. Bất đắc dĩ, Tiền đại phu chỉ đành tiến hành vài điểm châm cứu để Đổng Hoa lâm vào mê man, sau đó lại gia tăng phân lượng của dược liệu an thần, rồi dặn dò người hầu trong phủ mỗi ngày vào sáng sớm và tối muộn đều phải nhớ cho lão thái sư uống thuốc.
Đổng Thế Kiệt nhìn mọi người trong phòng đi lại rối ren, nội tâm vạn phần ủ rũ, lặng lẽ lui người đi ra ngoài. Ánh mắt hắn phẫn hận nhìn về phía hoàng cung, có thể cả đời này của hắn cũng không cách nào vào được bên trong đó nhìn thấy yêu phụ mê hoặc chúng sinh kia.
.
Phía trên Đổng phủ là mây đen mù sương, nhưng trái ngược hẳn nơi đó, bên trên hoàng cung lúc này là ánh mặt trời chói sáng rực rỡ, đặc biệt là cung Thanh Y càng là không khí người người vui mừng hân hoan, bởi vì chủ nhân của bọn họ hôm nay có vẻ đặc biệt thư thái. Buổi trưa Đổng Hoa phát bệnh, giờ Mùi Dậu Dương liền đến hồi bẩm, cuối cùng lại hỏi: “Tiền đại phu hỏi nô tì, nên để Đổng Hoa nhận lấy kết cuộc gì. Nô tì kính xin nương nương gợi ý chút xem làm gì đây ạ?”
“Để lão làm người đần độn nằm liệt trên giường cũng coi như là đã tiện nghi cho lão.” Mẫn Tiên Nhu lười biếng tựa trên giường nhỏ, bây giờ trong triều không còn mầm họa ẩn nấp, một khi tinh thần an yên thì cơ thể nàng lập tức thấy mệt mỏi rã rời. Lúc nàng đang nhắm mắt nghỉ ngơi, đột nhiên nghe Thân Cúc thầm thì: “Hóa ra ở chỗ này.” Lại nghe Ngân Nguyệt nhỏ giọng nói: “Dưới chân đèn thường là chỗ tối nhất, có lúc tôi cũng tiện tay để đồ ở đấy, sau đó quay qua quay lại tìm chẳng thấy đâu.”
Trong lòng Mẫn Tiên Nhu hơi động, hai mắt vẫn nhắm chỉ mở miệng hỏi: “Gì vậy?”
Hai người cho rằng Mẫn Tiên Nhu đã ngủ, lúc này bị tiếng hỏi của nàng đột ngột vang lên làm cho giật mình. Thân Cúc mau chóng trả lời: “Tối qua khi nô tì rửa mặt cho nương nương, có để đôi bông tai san hô của nương nương đặt trên bàn trang điểm, thế mà trong chớp mắt làm thế nào cũng không tìm thấy đâu, vừa nãy mới phát hiện hóa ra là ở dưới chân đèn.”
Mẫn Tiên Nhu vẫn không mở mắt, hỏi tiếp: “Ngân Nguyệt vừa nói điều gì?”
Ngân Nguyệt vội vàng đáp: “Nô tì vừa nói, dưới chân đèn thường là chỗ tối nhất, vật để ở nơi đó không dễ dàng tìm ra.”
Đột nhiên Mẫn Tiên Nhu mở mắt, chợt có một tia sáng lóe lên, tinh thần phấn chấn sai bảo: “Đem bản địa đồ Cự thành đến đây.”
Những người xung quanh biết vị nương nương này tâm tư khó đoán, mau chóng làm theo, vội đem bản địa đồ trải ra trên bàn sách.
Mẫn Tiên Nhu gian nan đứng dậy, cầm lấy cây đèn đồng ấn trên bản địa đồ Cự thành một điểm nhỏ, sau đó lấy ra xem xét, rồi lần lượt ấn theo hình tròn lớn vây quanh Cự thành. Nàng dùng tay không ngừng mà vẽ ra những vòng tròn nhỏ dưới chân đèn đồng, cuối cùng dừng lại chỗ thành Định Xương ở phía Bắc dãy núi Tam Ngưu, đột nhiên cười ra tiếng: “Khá lắm, dưới chân đèn thì tối. Kháng Tàng Kim không hổ danh là một đời kiêu hùng, đáng tiếc bổn cung là Mẫn Tiên Nhu. Bày sẵn bút mực đi.”
Thân Cúc vội vàng mài mực đưa bút tới, liền thấy Mẫn Tiên Nhu cầm lấy lưu loát viết một mạch, rồi nghe nàng lớn tiếng truyền lệnh: “Người đưa tin hiện giờ ở đâu?”
Ngoài điện đột nhiên truyền đến âm thanh: “Nô tì, Dần Đồng, xin đợi chỉ.”
Mẫn Tiên Nhu nói: “Mau đem phong thư này hỏa tốc giao cho hoàng thượng, tin tưởng ở cô đấy.”
“Cẩn tuân ý chỉ.” Có một cung nữ không hề bắt mắt chút nào đi vào, quỳ xuống thi lễ với Mẫn Tiên Nhu, sau khi nhận lấy phong thư liền lui ra.
Mẫn Tiên Nhu lại dựa người lên giường nhỏ, mệt mỏi nói: “Xem ra trận đấu này đã sắp đến hồi kết. Dậu Dương, cô mau dặn người lặng yên đưa gia quyến của Lý Lãng đến Cự thành đi. Cần nhất phải bảo đảm an toàn.”
Dậu Dương bị lời sai bảo này của Mẫn Tiên Nhu làm đầu óc mơ hồ, nhưng thấy nàng mệt mỏi cũng không dám hỏi nhiều, vội lĩnh chỉ rời đi sắp xếp công việc.
Mẫn Tiên Nhu lại nhắm mắt nghỉ ngơi, lẩm bẩm nói: “Hiện giờ chỉ còn ngồi chờ tin tức từ phía Triệu Nham và Vệ Tự nữa thôi.”
.
Giờ phút này, Triệu Nham yên ổn nhàn nhã ngồi trong soái trướng, còn Vệ Tự lại có chút lo lắng không yên, chỉ là ông đang nghiêm khuôn mặt nên người ngoài không thấy được thôi. Thấy sắc trời dần tối, ông thật sự không còn kiềm chế nổi, bèn cất tiếng hỏi: “Triệu đại tướng quân, vì sao còn không phái binh đi? Trinh sát đã sớm đem về năm-sáu tin, hiện tại e rằng La Hồ và Tiểu Truân đã bị quân địch vây kín.” Hai ngày trước ông đã chạy tới Thiên Môn Lĩnh, mà từ ngày đó đến nay Triệu Nham chỉ ban xuống một lần quân lệnh, để Kinh Kỳ Vệ và quân thủ thành của Triệu Nham trao đổi quân phục với nhau.
Triệu Nham không nhanh không chậm hỏi: “Vệ đại nhân, trước khi ngài dẫn quân đến đây, có lẽ nương nương đã chính miệng ban khẩu dụ với ông?”
“Nương nương nói không cần ta dẫn quân ra trận, chỉ cần có mặt hù dọa Mẫn Dục là được rồi, à còn nói ngài khi nghe vậy sẽ trong lòng hiểu rõ.” Vệ Tự chắp tay nói: “Đại tướng quân, xin thứ cho Vệ Tự thất lễ. Kinh thành lúc này đang trống không, thế mà ở mặt phía Bắc còn có hàng ngũ Phạm Hách không yên phận, nên ta thật không cách nào an tâm.”
Triệu Nham cười nói: “Ta biết trên người đại nhân đang phải gánh trọng trách từ sự ủy thác của hoàng thượng, cũng biết nương nương cùng long tự trong bụng là sinh mệnh của hoàng thượng, ngài không dám thả tâm xem nhẹ bất cứ chuyện nào là nằm trong chức trách bổn phận. Nhưng mời ngài hãy vơi bớt buồn phiền, chỉ cần chúng ta bảo vệ tốt Thiên Môn Lĩnh thì Phạm Hách gã sẽ tuyệt đối không dám có dị động. Nương nương thần cơ diệu toán, thiên hạ không ai bằng đâu. Triệu Nham ta may mắn từng chứng kiến qua, nên đối với những sắp xếp của nương nương luôn tin tưởng không chút nghi ngờ.”
Vệ Tự hiếm thấy bật cười thành tiếng: “Tiên hoàng cũng từng nói như vậy.”
Triệu Nham cười nói: “Đêm nay ta sẽ dẫn quân đi hù dọa Mẫn Dục. Xin mời đại nhân hãy đóng giả dáng dấp của ta đứng trên thành lầu cố làm ra vẻ một hồi, còn ta sẽ mượn cờ hiệu của đại nhân, ăn mặc hóa trang thành đại nhân đi tấn công đại doanh Mẫn Dục.”
“Như vậy có thể được không?”
“Mẫn Dục biết sức chiến đấu của Kinh Kỳ Vệ không mạnh, mới dám bạo gan dẫn quân đến tấn công. Nếu là ——“
“Ta biết rồi, ông muốn khiến Mẫn Dục cho rằng quân đến tiếp viện không phải Kinh Kỳ Vệ đơn thuần, mà là quân Đoan lấy cờ hiệu Kinh Kỳ Vệ đến đây.”
“Không sai, đã như thế, quân ta có đến gần ba mươi vạn binh thiện chiến đối đầu với năm mươi vạn nhân mã của y. Theo cái tính sợ đầu sợ đuôi kia của y, nhất định không sớm thì muộn cũng phải thu binh.”
“Kế hay!”
.
Giờ phút này đại trướng trong quân Nam Tấn vẫn là một mảnh lặng im. Đám mưu thần đứng nghiêm trang thành hàng hai bên, thẳng tắp nhìn Mẫn Dục, chờ y hạ chỉ tiến công. Giờ Tuất, thám mã đến báo, các vị đại quân đã vào chỗ, vậy mà Mẫn Dục còn như lão tăng ngồi thiền vẫn không phản ứng. Có vài mưu thần bắt đầu không giữ được bình tĩnh, muốn ra khỏi hàng lên tiếng khuyên nhủ, có điều thấy hai đại tâm phúc của Mẫn Dục là Phùng Khiêm Lương và Tống Diệu đều không tỏ vẻ gì, đành nhịn xuống không nói. Sắp tới giờ Hợi, cũng không biết là ai đột nhiên ho khan một tiếng, lúc này Mẫn Dục mới nghiêm mặt không vui đứng lên, đang tính mở miệng nói chuyện thì thị vệ ngoài trướng lớn tiếng cấp báo: “Kẻ địch đến tập kích quân doanh!”
Mẫn Dục kinh hãi đến biến sắc, vội hỏi: “Xảy ra chuyện gì? Ba trạm kiểm soát trước đại doanh đâu rồi?”
Thị vệ chạy vào, hơi thở gấp gáp bất ổn nói: “Bẩm hoàng thượng, quân địch kéo tới quá đông, ba trạm kiểm soát kia chỉ chống chịu được một chút liền bị phá tan. Hiện nay mặt phía Bắc của quân doanh đang hết sức căng thẳng, kính xin hoàng thượng hãy mau định đoạt.”
Mẫn Dục chau mày: “Quân địch có bao nhiêu người? Là ai dẫn quân đến?”
“Phỏng chừng có hơn mười vạn. Bọn họ đang cầm cờ hiệu Kinh Kỳ Vệ của triều Đoan.”
Mẫn Dục quay sang cả giận quát lớn với đám mưu thần: “Không phải mấy ông đã nói với ta Kinh Kỳ Vệ không thể đánh trận sao?”
Tống Diệu tính trước kỹ càng, lúc này liền thưa: “Hoàng thượng, đây hẳn là Triệu Nham đang làm trò mèo ra vẻ để lừa bịp chúng ta. Thần cho rằng người tới nhất định là Triệu Nham. Đây là cơ hội trời cho, hoàng thượng nên lập tức để đại quân mai phục tiến công Thiên Môn Lĩnh, một trận chiến có thể thắng lợi trong tầm tay.”
“Thế nhưng an nguy của hoàng thượng giờ phút này sẽ do ai tới bảo vệ?” Phùng Khiêm Lương đứng bên nhỏ giọng lẩm bẩm một câu, vừa vặn để Mẫn Dục nghe thấy, cũng làm Đường Hàm An đứng đối diện nghe được rõ ràng.
Đường Hàm An vội đứng ra khỏi hàng lên tiếng đề nghị: “Nếu hoàng thượng lo lắng an nguy khi ở trong quân đại doanh, có thể chỉ điều năm vạn nhân mã đến bao vây tấn công hai huyện La Hồ và Tiểu Truân, còn mười vạn đại quân quay về đây phòng thủ, lúc đó đại doanh nhất định bình an.”
“Nếu vậy hai huyện La Hồ – Tiểu Truân kia còn có thể đánh hạ thành công ư? Hai huyện này, mỗi nơi đều có ba vạn quân đồn trú, tướng thủ thành nhưng lại là tướng lĩnh dũng mãnh nhất trong đám thuộc hạ của Triệu Nham.” Ngay tiếp theo, Phùng Khiêm Lương lại thấp giọng nói thêm: “Ngộ nhỡ Triệu Nham còn ở Thiên Môn Lĩnh đây?”
Đầu óc Mẫn Dục hỗn loạn, không nhịn được nói: “Trinh sát đến Thiên Môn Lĩnh dò tra đâu rồi? Mau tới đáp lời.”
Có một trinh sát mau chóng được đưa vào, vội quỳ xuống bẩm báo: “Khởi bẩm hoàng thượng, tướng thủ thành ở Thiên Môn Lĩnh thật là Triệu Nham, chưa từng rời khỏi đó. Còn người ra khỏi thành chính là Vệ Tự.”
Lời vừa nói xong, Tống Diệu vội vã chạy ra khỏi hàng, thưa: “Hoàng thượng, sắc trời tối tăm, hẳn là trinh sát không thể thấy được rõ ràng.” Rồi quay sang lạnh lùng nhìn vị trinh sát kia, trầm giọng hỏi: “Cậu khẳng định đã tận mắt nhìn thấy Vệ Tự ra khỏi thành?”
Nghe thế vị trinh sát kia cúi đầu im lặng không lên tiếng, nghĩ thầm, Hôm nay sao mà Tống đại nhân lại không thông tình đạt lý thế chứ? Những trinh sát lén tra xét tình hình quân địch như chúng tôi đây, đương nhiên chỉ có thể từ xa nhòm ngó, chẳng lẽ còn có thể chạy đến gần sát bên xem cho rõ ư? Lại nói, ngài cũng biết sắc trời tối tăm, chúng tôi đây không có đôi mắt thiên lý nhãn, có thể dựa vào quần áo và cờ hiệu phán đoán ra ai với ai là tốt lắm rồi, nào có thể vô cùng khẳng định được chứ?
Giọng không mặn không nhạt của Phùng Khiêm Lương truyền tới: “Không thể xác định? Nói cách khác có thể là đúng, cũng có thể là không đúng? Lẽ nào lại như vậy, an nguy của hoàng thượng có thể giao phó trong chuyện lập lờ nước đôi thế này ư?”
Đường Hàm An không phục phản bác: “Phùng đại nhân, ông ngậm miệng mở miệng đều lấy an nguy của hoàng thượng làm lý do ngăn cản. Nếu để hoàng thượng bỏ mất thời cơ tốt tranh đoạt thiên hạ, thì ông chính là tội nhân lớn nhất của triều Tấn ta. Hoàng thượng, xin mau hạ chỉ công thành đi.”
“An nguy của hoàng thượng ở trong mắt ông chỉ là lý do ngăn cản?” Phùng Khiêm Lương cả giận nói, liếc mắt ra hiệu với Mẫn Dục.
Mẫn Dục hiểu ý, buồn bực bảo mọi người lui ra. Đường Hàm An còn muốn nói tiếp để tranh luận một phen nhưng lại bị Tống Diệu nắm kéo ra ngoài.
.
Bên trong đại trướng, Mẫn Dục phiền lòng vô lực ngồi xuống, hỏi: “Bây giờ quân địch đột kích, ái khanh có diệu kế gì không?”
Phùng Khiêm Lương thở dài quỳ xuống, trịnh trọng nói: “Lời này thần nói ra có thể chính là tử tội, kính xin hoàng thượng ——“
Mẫn Dục đánh gãy lời ông: “Nói mau, trẫm tha cho ông được vô tội.”
Phùng Khiêm Lương làm như đang dồn hết mọi quyết tâm trong lòng, trên mặt lộ vẻ thấy chết không sờn, chậm rãi thưa: “Hoàng thượng, thần không nghi ngờ gì lòng trung thành của Tống đại nhân, ông ấy vì thiên hạ của triều Tấn ta đã tận tâm mưu tính, thần cũng là kính nể vạn phần. Đường đại nhân nói cũng đúng, nếu làm lỡ thời cơ tốt tranh đoạt thiên hạ, thần dù chết vạn lần cũng không thể thứ tội. Thế nhưng thần không thể gật bừa đồng ý với cách nghĩ của hai người họ. Thứ hai người họ nghĩ tới chính là thiên hạ thống nhất, còn thứ mà thần nghĩ tới lại chính là hoàng thượng.”
Mẫn Dục thở dài: “Ông cứ nói thật đi, trẫm nghe đây.”
“Xin hỏi hoàng thượng, đánh hạ Thiên Môn Lĩnh tiến thẳng kinh thành, vậy sau đó thì sao đây? Sau khi Trạm Hi soán ngôi xưng đế, đám quan lại trong triều phần lớn lại là các cựu thần từ triều Tấn ta, thế nhưng bọn họ lại giao thiệp rất thân thiết với Tam hoàng tử. Nếu hoàng thượng đoạt được kinh thành, thì ngài nên làm gì để đối phó với bọn họ đây? Đối với Tam hoàng tử thì lại nên làm gì? Còn nếu hai bên lén lút cấu kết với nhau, vậy hoàng thượng ngài nên làm sao? Bọn người Tống Diệu có thể chưa từng nghĩ tới những vấn đề này, chỉ có thần lo lắng mà thôi.” Phùng Khiêm Lương cố ý để âm thanh nghẹn ngào như từng chữ từng câu đều thấm đẫm máu và nước mắt: “Còn nữa, lúc này hoàng thượng ngài cùng Bắc Địch đồng thời xuất binh, cho dù đoạt được thiên hạ thì tai tiếng cấu kết với lũ man di này nhất định sẽ gắn chắc lên người ngài. Như thế ngài còn làm sao khiến lòng người thuận theo? Nếu lại có thêm tiểu nhân từ bên trong châm ngòi ly gián, nhân cơ hội gây sóng gió, vậy thiên hạ này của ngài còn yên ổn thanh bình được nữa ư? Cho dù như thế, từ quan điểm chiến sự hiện tại đến xem cũng không thể lạc quan nổi. Hoàng thượng có thể còn nhớ tình hình chiến sự ở phương Bắc vừa rồi đã xảy ra thế nào không? Trạm Hi bí mật điều đến mười vạn đội quân tinh nhuệ từ Bắc Đoan, đánh cho Bắc Địch không kịp trở tay, nếu ả ta giở lại trò cũ, để đội quân tinh nhuệ của đất Đoan lấy cờ hiệu của đám lính Kinh Kỳ Vệ đến cứu viện kia, vậy thì quân ta gặp nguy rồi.” Ông lặng lẽ nhẹ liếc mắt sang, nhìn thấy Mẫn Dục không nhịn được gật đầu, vội vàng nói tiếp: “Thiên Môn Lĩnh dễ thủ khó công, lại là bức tường che chắn duy nhất giữa kinh thành và đất phương Nam ta. Ngay cả khi quân cứu viện đến thật sự là Kinh Kỳ Vệ, nhất định chúng ta cũng phải liều mạng hết sức lực mới có thể công hạ, huống chi còn có Triệu Nham tự mình trấn thủ. Bởi nên quân ta không thể tránh được một hồi ác chiến. Chờ hoàng thượng hao binh tổn tướng đến được kinh thành, lúc đó lại lấy gì để bảo vệ giang sơn? Gã tiểu nhân Phạm Hách kia, loại cỏ đầu tường thế kia thì làm sao tín nhiệm? Nếu như Trạm Hi không để ý tình hình tình hình chiến trường phương Bắc rồi quay đầu xuôi Nam, chúng ta lại lấy gì che chở cho hoàng thượng đây?” Ông vừa nói vừa rơi lệ: “Tống đại nhân một lòng nghĩ đến thiên hạ, nhưng lại vô tâm để ý hoàng thượng ——“ Nói đến đây lại dừng không nói tiếp, có mấy lời nói một nửa sẽ có hiệu quả đánh động lòng người tốt hơn.
Mẫn Dục tự mình tiến đến đỡ Phùng Khiêm Lương đứng dậy, kéo tay ông, hết hít sâu lại thở than, rồi quay sang nói với người đứng gác ngoài trướng: “Người đâu! Mau truyền chỉ xuống, thu binh đi.”
Phùng Khiêm Lương cầm ống tay áo chấm nước mắt trên mặt, lại nói: “Muốn diệt bên ngoài thì trước hết phải yên bên trong. Đáng lẽ thần nên nói lời này với hoàng thượng từ trước khi có lệnh xuất chinh, nhưng mà lúc đó đa số mưu thần trong triều lại là đồng minh theo phe cánh Tống đại nhân. Thần thân cô thế cô thật xấu hổ thất trách không dám nói thật.”
“Vậy ái khanh có thượng sách gì không?” Mẫn Dục rút ra một quyển từ trong chồng tấu chương trên bàn, đưa cho Phùng Khiêm Lương: “Sáng nay, trẫm vừa nhận được quyển tấu chương này. Thật ra trong lòng còn đang nghi ngờ, nhưng mới vừa rồi nghe những lời chân tâm của ái khanh, nói chung đã để trẫm thấy rõ tên phản nghịch chướng mắt này có lòng lang dạ thú ra sao!”
Phùng Khiêm Lương mở quyển tấu chương, thì ra là bút tích của Mẫn Huyễn đề nghị nên chủ chiến. Càng đọc trong lòng ông càng thấy nghi hoặc về việc làm này của Mẫn Huyễn, Không ngờ lại có người ngu đến vậy? Nhất định phải khiến người ta hoài nghi mới cam tâm ư? Thế nhưng ông làm sao biết có vài phức tạp đan chéo bên trong đó.
.
Lúc đầu, sau khi Liễu Ngọc Lăng nhận được tin từ bồ câu đưa thư gửi đến, suy nghĩ một đêm nên làm gì. Sáng hôm sau họp bàn chút với Viên Thiếu Hoa, sau đó hai vợ chồng ngồi trong kiệu nhỏ không gây chú ý rồi một mình nàng đi vào nơi ở của Mẫn Huyễn. Tuy Mẫn Huyễn là đang âm thầm bị giam lỏng, nhưng bề ngoài ra vào vẫn bình thường. Lính gác trông giữ thấy Liễu Ngọc Lăng là nữ tử, lại thấy nàng hào phóng chi bạc liền cho đi vào.
Mẫn Huyễn nghe nói có nữ tử tìm hắn, trong lòng còn đang nghi ngờ, thấy người tới không ngờ là Liễu Ngọc Lăng càng thêm thấy kỳ quái. Rồi lại thấy vị nữ tử này càng ngày càng mặn mòi quyến rũ, thoáng chốc ai thán, Mỹ nhân như vậy lại vô duyên cùng mình! Quả thật quá đáng tiếc đi! Vì cảnh đẹp ý vui của mỹ nhân trước mắt, hắn và Liễu Ngọc Lăng vui vẻ nói chuyện phiếm hết chủ đề này đến chủ đề khác, rồi nghe nói mỹ nhân đã thành mỹ phụ, không khỏi chau mày trầm mặt xuống. Tuy nói khi gặp mặt đã thấy mỹ nhân búi tóc theo kiểu nữ tử có chồng biểu hiện thân phận lúc này, nhưng chính tai nghe nói thì rốt cuộc trong lòng mới cảm nhận được sự không vui.
Liễu Ngọc Lăng mẫn cảm phát hiện hắn đang phật ý, liền móc ra khăn lụa nức nở khóc nấc lên: “Thần thiếp vốn nên vì hoàng gia thủ tiết, chỉ là phụ thân thiếp không đồng ý. Phụ thân sắp xếp mọi chuyện trên dưới đem thiếp thân thoát ra khỏi phủ điện hạ còn không phải buộc thiếp thân lập gia đình! Thần thiếp nghe nói hoàng gia ở Mạnh Dương, ôm một tia may mắn liền gả cho người đến đây. May mà trời thương, rốt cuộc cho thần thiếp tìm được hoàng gia.” Nàng móc ra một tờ ngân phiếu để lên bàn.
Mẫn Huyễn không hề liếc mắt nhìn ngân phiếu, chỉ cười khổ nói: “Nơi này không thể so với kinh thành, lại đừng gọi hoàng gia, nơi này hoàng gia chỉ có Nhị ca ta thôi.” Lúc trước ở kinh thành dựa dẫm vào thân phận thái tử trong tầm tay, các tâm phúc vì muốn để hắn vui lòng mới ngỗ nghịch kêu hoàng gia, tựa hồ phụ hoàng cũng không có động tĩnh gì không vui nên đơn giản hắn cứ để người gọi như thế. Hiện tại hổ lạc đồng bằng không thể không cúi đầu.
Liễu Ngọc Lăng vội vàng lau đi nước mắt vương trên mi, gượng cười hỏi: “Vậy thì gọi ngài là điện hạ? Thế điện hạ ngài đã nghĩ cả đời cứ sống mãi ở chỗ này sao?”
“Không phải vậy có thể làm gì?”
“Thần thiếp nghe nói Nhị hoàng tử xuất chinh, nếu như điện hạ ngài cũng có thể viện cớ chiến sự rời xa Mạnh Dương, cho dù có đến một địa phương nhỏ an thân thì đó cũng là địa bàn tự do của ngài. Thần thiếp đồng ý giúp đỡ điện hạ để báo đáp những ân tình của ngài đối với thần thiếp. Hầy, nếu như có thể trở lại kinh thành thì tốt rồi.”
Trong lòng Mẫn Huyễn chấn động không thôi, nhưng lại chuyển đề tài hỏi: “Vị phu quân kia đối xử với nàng có tốt không?”
“Không sợ điện hạ chê cười, phu quân thiếp thân hiện giờ chính là người năm đó đính hôn cùng thiếp thân. Phụ thân nói người bên ngoài cũng sẽ không cưới thiếp thân, chỉ có thể đem thiếp thân cố gắng nhét cho người này. May mà phu quân đối xử với thiếp thân cũng không tệ lắm, có điều phu quân là con thứ, phía trên lại có hai ca ca dòng chính, nên cũng thường bị đối xử xa lánh trong gia tộc. Thiếp thân nhất định sẽ hết lòng phù trợ điện hạ, chỉ cầu về sau nếu điện hạ có chỗ đặt chân thì có thể che chở một hai cho thiếp thân cùng phu quân.” Liễu Ngọc Lăng nói đầy rõ ràng và chân thành.
Nghe thế trái lại Mẫn Huyễn thấy yên tâm, lợi dụng lẫn nhau mới có vẻ chân thực: “Nàng đã thương lượng cùng phu quân về chuyện muốn đi theo ta chưa?”
“Phu quân muốn thoát ly gia tộc nên đơn độc ra ngoài làm ăn, đang lo không tìm được chỗ dựa. Nếu điện hạ chịu thu lưu, vợ chồng thiếp thân vô cùng cảm kích.”
“Ta đây đã là một hoàng tử sa cơ thất thế, người bên ngoài còn tránh không kịp đây. Vì sao hai người còn muốn nương dựa ta?” Mẫn Huyễn nhìn chằm chằm Liễu Ngọc Lăng, nhìn đến mức trên lưng nàng rịn ra tầng mồ hôi lạnh. Vẻ mặt Liễu Ngọc Lăng lộ ra nét buồn rười rượi: “Phu quân thiếp là con thứ, lại là thương nhân hạng bét. Ai mà thèm phí công tốn sức nhìn vào hai người chúng tôi đây? Người bên ngoài không biết, nhưng thiếp thân biết rõ tài năng của điện hạ, huống chi điện hạ lại là chính thống kia mà. Giả như có thêm thời gian, nhất định có thể hóa rồng ngồi lên vị trí cửu ngũ chí tôn. Thiếp thân cùng phu quân đồng ý đi theo điện hạ.”
Mẫn Huyễn trầm ngâm một lúc lâu mới hỏi: “Vậy hai người có diệu kế gì không?”
“Đương nhiên ngài lúc này nên gửi tấu chương cho Nhị hoàng tử đề nghị nên chủ chiến. Nếu như có thể theo chân Nhị hoàng tử vào kinh thành, đến được địa bàn của ngài thì chuyện vươn mình là sớm hay muộn thôi. Bởi vì trong tay ngài có di chiếu lập làm Thái tử, nhất định người trong kinh đều chờ mong ngóng trông ngài đây. Còn nếu Nhị hoàng tử không thể vào kinh thành, vậy ngài hãy thỉnh cầu y một nhánh binh mã hứa hẹn đi thảo phạt quân đội phương Bắc. Cũng không phải thật muốn đánh trận, chỉ là tạo cớ để ngài tìm một chỗ đặt chân, bề ngoài ra vẻ đối đầu cùng triều Đoan nhưng bên trong lại ngầm phát triển thế lực của ngài.”
“Như vậy e rằng hoàng huynh sẽ không đồng ý?”
“Đánh trở lại kinh thành, khôi phục hoàng thất triều Tấn, rửa nhục cho tiên hoàng đã mất, là chức trách của các hoàng tử. Nếu như Nhị hoàng tử không đồng ý, há không phải có vẻ y là kẻ bất trung bất hiếu bất nhân bất nghĩa? Theo thiếp thân thấy, Nhị hoàng tử có lẽ sẽ đồng ý cho ngài xuất chinh, chỉ là e rằng không thể cho binh.”
Mẫn Huyễn không tỏ thái độ gì: “Đúng rồi, nàng đến đây không làm ai hoài nghi chứ?”
“Thân phận thiếp thân thế này không sợ bọn họ tra.”
Mẫn Huyễn ngẫm lại thấy cũng đúng. Trước đây nàng là tì thiếp của hắn, bởi vì nhớ đến tình cảm khi xưa mới tới đây thăm hắn, dù điều tra thế nào đi nữa thì có được gì đâu? “Nàng đi về trước đi, để cho ta ngẫm lại xem.”
Thấy Mẫn Huyễn có ý tiễn khách, Liễu Ngọc Lăng lưu luyến không rời nói lời cáo từ. Ra ngoài rồi bước chân vào kiệu mới cảm thấy nỗi sợ hãi đang lan tràn toàn thân, Viên Thiếu Hoa ngồi ở bên trong vội ôm nàng vào lòng, cứ cố ý như vô tình hỏi: “Hai người đã làm những gì mà tốn thời gian lâu như vậy? Sẽ không nối lại tình xưa đấy chứ?”
Liễu Ngọc Lăng nghe ra ẩn ý đằng sau lời nói này của hắn, vẻ mặt nghiêm lại đầy giận dữ, lạnh lùng nói: “Khi đó chàng đã tuyên thề những gì với nương nương? Bây giờ ta đã có thai ba tháng con chàng, dáng người không còn được như trước đây nên chàng bắt đầu ghét bỏ?”
Viên Thiếu Hoa vội vàng nói lời dỗ dành để nàng nguôi giận, chuyển hướng đề tài hỏi: “Nàng nói thử xem, Mẫn Huyễn sẽ nghe lời làm theo chứ?”
Liễu Ngọc Lăng không tiếp tục nói gì, xoay người vén màn kiệu lên một khe hở nhìn ra ngoài, không lâu sau thấy có người đi ra hướng về phía hoàng cung của Nam Tấn liền yên lòng. Kỳ thật sau khi Liễu Ngọc Lăng mới vừa rời đi, Mẫn Huyễn lập tức dựa vào bàn viết tấu chương, hiện nay hắn một người thân cô thế cô, Mẫn Dục muốn đặt bẫy giết hắn là chuyện quá dễ dàng. Mặc kệ Liễu Ngọc Lăng có mấy phần chân tâm thì rời xa sự giam lỏng của Mẫn Dục là điều tất yếu, bằng không đừng nói đến chuyện tranh đoạt thiên hạ mà chỉ việc chết như thế nào thôi cũng không thể biết.
.
Có thể tưởng tượng khi Mẫn Dục nhận được một tấu chương như vậy thì tâm tình tức giận ra sao, nghe xong Phùng Khiêm Lương nói những lời kia càng thêm căm hận Mẫn Huyễn. Không ra lệnh giết ngươi chính là vì nể tình huynh đệ, thế mà Mẫn Huyễn ngươi không chỉ không thấy cảm kích còn muốn đối chọi phản nghịch với ta? Thật đúng là kẻ điên cuồng mất trí! Y hận không thể ngay lập tức đem Mẫn Huyễn chém giết một phen, hối hận lúc đó không nghe theo lời khuyên của Tống Diệu ra lệnh xử tử Mẫn Huyễn tại chỗ.
Phùng Khiêm Lương nhìn thấu tâm tư này của Mẫn Dục, không nhanh không chậm nói: “Hoàng thượng xin nghe thần một lời. Thần có một kế có thể giúp hoàng thượng không tốn một binh, không cần đánh mà vẫn thắng.” Thấy Mẫn Dục bỗng nhiên lộ vẻ phấn chấn hẳn lên, ông mỉm cười nói tiếp: “Trạm Hi soán vị, cho rằng đã có quyền có thế nhưng lại không biết sớm đâm sâu mầm tai hoạ vào trong. Mầm họa không giới hạn trong triều đình mà là ở phía sau hậu cung, tại dòng dõi huyết mạch truyền thừa. Nữ cùng nữ sinh con chỉ tổ làm trò cười cho thiên hạ mà thôi! Ả ta cho rằng đổi trắng thay đen liền có thể lấp kín miệng lưỡi người đời trong thiên hạ? Hoàng thượng, xin hãy ngẫm nghĩ lại xem, Vĩnh Bình công chúa này mang thai có phải đã quá kỳ lạ rồi không? Trạm Hi là lúc nào dẫn quân tiến vào kinh thành đây? Tính toán thời gian, đứa nhỏ trong bụng này sợ là cùng vị phò mã gia kia ——“ Ông cố ý dừng lại một chút, sau mới tiếp tục nói: “Nếu việc này cả thiên hạ đều biết, đứa nhỏ mà Vĩnh Bình công chúa chưa sinh ra kia còn làm sao danh chính ngôn thuận lên ngôi nữa đây? Lúc đó để xem Trạm Hi kia còn mặt mũi nào đối diện người trong thiên hạ. Không có huyết mạch truyền thừa, dù đám bộ hạ cũ của Trạm Hi có trung thành đến đâu cũng sẽ khiến nhân tâm bất ổn. Như thế sẽ khiến Trạm Hi lại có thêm một bất trắc ngoài dự liệu, ai có thể kế thừa ngồi lên ngôi vua kia đây? Lúc đó triều Đoan nhất định nội loạn, Triệu Nham dù có thần dũng thiện chiến đến đâu cũng sẽ vô tâm bảo hộ biên cương đất đai. Đến lúc đó hoàng thượng hiệu triệu các nghĩa sĩ đứng lên đoạt ngôi lật đổ kinh thành là chuyện không cần tốn nhiều sức. Thiên hạ định rồi!”
Mẫn Dục mừng rỡ, trong lòng có tính toán vội nói: “Không dối gạt ái khanh, phe cánh Đổng Hoa đã từ lâu quy thuận trẫm. Giờ trẫm sẽ gửi một phần mưu kế này cho lão, để người bên lão ta vạch trần chuyện xấu xa này. Còn Trạm Hi, hiện lúc này ả ta đang mắc kẹt ở Cự thành, thủ vệ bảo hộ tất không thể nào bằng trong kinh thành, trẫm có thể phái người lẻn vào trong quân Đoan ám sát ả ta. Trẫm liền trú quân ở đây, chỉ chờ triều Đoan loạn lạc lên sẽ lập tức tiến công Thiên Môn Lĩnh. Tiên sinh thấy cách làm này có thể được không?”
“Hoàng thượng thánh minh.” Phùng Khiêm Lương tự đáy lòng kính phục nói: “Chỉ là việc ám sát Trạm Hi có hệ số nguy hiểm rất lớn. Có điều hoàng thượng hãy yên tâm, chỉ cần thiên hạ biết rõ bộ mặt thật lừa gạt trơ tráo của Trạm Hi, nhiều lắm không tới năm hay bảy năm thì triều Đoan tất loạn.”
“Ôi thôi! Trẫm có thể chờ, chỉ là đám thần tử của trẫm kia lại rất sốt ruột đây.” Mẫn Dục cười khổ nói.
“Bọn họ có điều là muốn mượn hoàng thượng lưu danh sử sách, nào từng chân chính vì hoàng thượng suy nghĩ bao giờ. Thần không thỉnh cầu chuyện nào cả, chỉ hy vọng hoàng thượng của thần được toại nguyện mà thôi.” Phùng Khiêm Lương than thở: “Còn về phần Tam hoàng tử, thần có một chuyện không thể không nói. Trước đây vài ngày, lúc thần ở trà lâu thưởng thức trà ngon thì chợt có người tới gần nhỏ giọng nói với thần, nếu thần có thể thuyết phục hoàng thượng giết chết Tam hoàng tử, vua Đoan liền hứa thưởng cho thần vạn lượng vàng. Hoàng thượng cũng biết, thần ở trong triều có bao nhiêu kẻ thù hằn ghen ghét, e rằng có người thiết kế hãm hại thần vì vậy cũng không coi là thật. Trước nay thần không biết việc này là thật hay giả, cũng không biết Trạm Hi cùng Tam hoàng tử có gúc mắt ân oán thế nào, có điều hôm nay nhìn thấy tấu chương của Tam hoàng tử, tự dưng thần cảm thấy có thể lợi dụng một phen. Nếu Tam hoàng tử đã chủ động xin quân đánh địch, vậy ngài cứ cho hắn ta năm ngàn người già yếu bệnh tật đóng quân tại một nơi nào đó gần Bình Huyền, cách đó không xa là An Tuệ, trong thành có đại quân của Hàn Đào tướng quân, nên ngài cứ yên tâm.”
“Hắn là hoàng tử của ai? Hoàng tử của trẫm đang ở trong cung của trẫm.” Mẫn Dục không còn ra vẻ hiền lành thiện lương, hung ác nghĩ. Mẫn Huyễn vốn luôn mơ ước Vĩnh Bình, lúc xưa Trạm Hi đã sai người cầm kiếm vào phủ thị uy, việc này ở kinh thành không người không biết. Lòng ghen tị của nữ nhân là đứng đầu. Bình Huyền cách Thiên Môn Lĩnh rất gần, lại là một địa phương nhỏ không mấy quan trọng, dù có đánh mất cũng chẳng ảnh hưởng gì đến đại sự. Có một câu nói rất hay y luôn nghĩ đến, Mượn đao Trạm Hi giết Mẫn Huyễn là không thể tốt hơn. Như thế đúng lúc cũng chặn lại những kẻ nói y chỉ biết an phận, tránh thoát được lời ra tán vào của các sĩ tử nhiễu sự, đồng thời tác thành cho y mang theo danh tiếng hiếu tử hiền huynh*. Huống chi đúng thật Bình Huyền cách An Tuệ rất gần, Hàn Đào lại là tâm phúc của y, không sợ Mẫn Huyễn nhảy nhót lung tung. Đã rời khỏi Mạnh Dương, dù Mẫn Huyễn có gặp phải thứ ‘bất ngờ’ gì cũng sẽ không tính tới trên đầu y. Làm sao lại chưa từng nghĩ tới cách này bao giờ đây? Mẫn Dục mừng rỡ thư thái nhìn thẳng Phùng Khiêm Lương lại cười nói: “Rốt cuộc vẫn chỉ có ái khanh mới biết lòng trẫm thôi!”
* Hiếu tử hiền huynh: người con có hiếu, người anh trai hiền
Trong lúc hai quân thần đang sung sướng vui vẻ trò chuyện, thì bên ngoài trướng nổ ra một trận huyên náo, tiếp sau đó thấy Đường Hàm An mất lễ nghi, nổi giận đùng đùng đi vào lên tiếng chất vấn: “Vì sao hoàng thượng lại cho lệnh lui binh?”
Phùng Khiêm Lương quát lớn một tiếng: “Sao ông có gan dám càn rỡ như thế! Trong mắt ông có còn hoàng thượng nữa hay không?”
Sắc mặt Mẫn Dục tái xanh, cả giận nói: “Người đâu! Mau đuổi cổ đánh ra ngoài.”
Đường Hàm An bị loạn côn đánh ra, cơn tức lấp đầy nơi ngực, ôm một vò rượu lớn không biết lấy từ đâu, ngồi ở trong trướng uống rượu giải sầu. Khi say đến năm-sáu phần thì chợt bị người vỗ một cái trên vai, ngẩng đầu nhìn lên thì ra là Tống Diệu.
Tống Diệu cầm vò rượu lên, ực một hớp thật mạnh, cười khổ đem đoạn đối thoại giữa Mẫn Dục và Phùng Khiêm Lương thuật lại một lần.
Đường Hàm An trợn mắt lên: “Ân sư làm sao biết được?”
“Thị vệ chịu trách nhiệm bảo hộ ngoài trướng hôm nay đã từng chịu ân ta. Cậu ấy sợ ta giống như cậu đi tìm hoàng thượng tự chuốc lấy cực khổ vào người, vì lẽ đó chạy tới báo cho ta một tiếng, hoàng thượng tâm ý đã quyết, kêu ta chớ đến khuyên can làm gì cho nhọc lòng.” Nụ cười Tống Diệu lúc này chất chứa đầy nỗi khốn khổ: “Dựa vào lời đồn, dựa vào ám sát ư? Các đời vua chúa có thể dựa vào mấy thứ ấy mà đoạt được thiên hạ sao? Chính bởi vì Phạm Hách là cỏ đầu tường nên chỉ cần chúng ta có được tiên cơ, gã ta nhất định sẽ nhanh chân chạy tới giúp đỡ chúng ta. Thế nhưng thật đáng tiếc! Hoàng thượng cứ chần chừ do dự mãi, suốt ngày chỉ lo chút của cải bản thân đã bỏ công gầy dựng bấy lâu xảy ra điều gì bất trắc.”
Thoáng chốc Đường Hàm An thấy vô cùng ủy khuất, nói: “Hoàng đế của chúng ta chỉ cần hiền minh, à không đúng, vị ấy chỉ cần thanh danh hiền minh. Đáng tiếc, sách sử lưu truyền kia là do người trong thiên hạ viết nên. Muốn được thiên hạ, còn muốn được người tung hô là thánh nhân? Từ xưa thánh nhân giáo dục cảm hoá lòng người, thế nhưng chưa từng nghe nói thánh nhân đoạt được thiên hạ làm hoàng đế. Chỉ cần tạo điều kiện để nhân dân an cư lạc nghiệp, vậy thì thiên hạ này có ai sẽ mang lòng mưu phản đâu? Những văn nhân chỉ biết múa bút làm thơ nói mấy lời đao to búa lớn kia, có ai thật lòng? Cho dù có đem hết bọn họ rút gân lột da thì cũng chẳng ảnh hưởng gì đến đại nghiệp thống lĩnh thiên hạ? Xong, xong! Ân sư, chí khí nơi nào có thể thỏa sức vẫy vùng đây?”
“Cậu đi đi.” Tống Diệu liếc mắt nhìn chằm chằm Đường Hàm An vừa là trò vừa là bạn bên cạnh, nhúng tay vào rượu viết ra một chữ Bắc ở trên bàn. “Đương kim thánh thượng của chúng ta tuy không phải là dong chủ* nhưng cũng không phải là minh chủ.” Chỉ là kẻ tầm thường không có chí tiến thủ thôi! Thế nhưng lời này ông chỉ có thể để ở trong lòng.
* Dong chủ: người lãnh đạo kém cỏi. Trái ngược với ‘minh chủ’: người lãnh đạo sáng suốt.
Đường Hàm An giật mình nhìn Tống Diệu: “Ân sư ngài?”
“Hoàng thượng đối với ta có ân tri ngộ. Làm người thì nên tri ân báo đáp.” Trong lúc nhất thời không khí quanh trướng cực kỳ yên tĩnh, một lúc lâu sau chỉ nghe Tống Diệu thở dài một tiếng: “Triệu Nham không lo nữa rồi.”
.
Triệu Nham vừa dẫn quân trở về Thiên Môn Lĩnh liền cùng Vệ Tự hoán đổi đội quân, xin mời Vệ Tự hãy lập tức trở về kinh thành. Tuy ngoài miệng ông nói không thèm để ý, nhưng trong lòng vẫn lo lắng cho sự an nguy của Mẫn Tiên Nhu.
Vệ Tự vội vã hỏi: “Nguy cấp đã loại trừ hết chưa?”
Triệu Nham nói: “Đại nhân yên tâm. Khi đánh trận dựa vào dũng khí, đánh một tiếng trống, dũng khí tăng lên; đánh hai tiếng trống, dũng khí suy giảm; đánh ba tiếng trống, dũng khí không còn. Mẫn Dục vừa ra lệnh cho binh lính lui bước trăm dặm, sớm đã đánh mất tiên cơ lại giữa đường dừng tay nên sĩ khí hoàn toàn mất hết. Nơi này của ta đã không còn gì đáng lo.” Vệ Tự gật đầu, cũng không nói nhiều thêm, mau chóng tập kết đội ngũ, vội vã cưỡi ngựa chạy nhanh trở về kinh thành.
.
Ngày mùng tám tháng Tám, Trạm Hi nhận được phong thư Mẫn Tiên Nhu gởi đến, lập tức sai phái hết thảy trinh sát đi đến vị trí Mẫn Tiên Nhu đã chỉ tra xét một phen, rồi triệu tập Lý Lãng và Mã lão tướng quân đến thương nghị. Sau khi trời về đêm, trinh sát đến bẩm, đúng là chỗ thành Định Xương ở phía Bắc dãy núi Tam Ngưu có một thung lũng không xa phát hiện được tung tích của quân Bắc Địch.
Vẻ mặt Mã lão tướng quân đầy nghiêm túc nói: “Nhất định Kháng Tàng Kim đang mưu tính nhân lúc quân ta chưa sẵn sàng sẽ tập kích thành Định Xương, rồi đem quân ta vây khốn trong chỗ trũng, sau đó tập trung binh lực cùng quân ta đọ sức ở chỗ này. Nếu không có hoàng thượng liệu sự như thần, quân ta sợ là sẽ phải ăn thiệt thòi lớn.”
Lý Lãng cũng thưa: “Một khi thất thủ ở Định Xương, Bắc Địch có thể yên tâm lớn mật hoạt động ở khu vực Cự thành này. Đến lúc đó quân ta không thể bị cầm chân giữ ở đây, cần phải toàn lực tiến công đánh chiếm Định Xương, lúc đó quân Bắc Địch có thể tập kích ở phía sau. Chúng thần vẫn cho rằng Bắc Địch đã tổn hại gần nửa số quân, nhất định Kháng Tàng Kim phải cho quân rút về Hồi Đầu quan, không nghĩ tới lão vậy mà gan to đến thế, dám mai phục ngay dưới mí mắt của chúng ta. Thật ác độc.”
“Đúng đấy. Nếu Cự thành trở thành nơi bị cô lập, tất cả còn có ý nghĩa gì? Kháng Tàng Kim tiếp tế khó khăn, muốn được ăn cả ngã về không, bố trí để trẫm lâm vào hiểm địa. Hầy, nếu Phạm Hách tận tâm, Bắc Địch làm sao dám như thế.” Đạo lý này ai cũng hiểu, nếu như Phạm Hách sẵn lòng phối hợp, dồn sức đánh từ cả hai mặt Đông và Tây, Kháng Tàng Kim nào dám nghĩ đến ý niệm này. Trạm Hi cố ý ở trước mặt thần tử nói lời này, chính là muốn thăm dò phản ứng của bọn họ, tạo điều kiện để tương lai loại trừ thẳng tay Phạm Hách.
Hai người này nào dám phỏng đoán tâm tư hoàng đế, nhất thời trầm mặc. Trạm Hi chuyển đề tài, lại nói: “Nếu theo cách nhìn của hai vị tướng quân, trận chiến này nên dùng mưu gì để đánh đây?”
Nói đến đánh trận, hai người lại khôi phục thái độ bình thường, trăm miệng một lời nói: “Hỏa công.”
Lý Lãng nói: “Bắc Địch ẩn nấp giấu quân ở thung lũng núi Tam Ngưu, nơi đó là rừng rậm cây cối nhiều, bây giờ lại là mùa hè, đúng lúc có gió Đông Nam thổi tới, nếu chúng ta dùng hỏa công thì nhất định thế lửa sẽ không ảnh hưởng gì đến thành Định Xương.”
Mã lão tướng quân liên thanh hô “Đúng!”, lại nói thêm: “Hoàng thượng đến Cự thành đã sắp hai tháng, nếu lại tiếp tục tiêu hao phí tổn thêm nữa, nhất định việc khủng hoảng lương thảo khó thể chống đỡ thêm. Việc này không nên chậm trễ, thần cùng Lý tướng quân sẽ lập tức lui xuống bố trí, tối nay liền hỏa công núi Tam Ngưu.”
“Vậy cứ theo ý hai vị tướng quân.” Trạm Hi lại thương lượng thêm vài chi tiết nhỏ cùng hai người, rồi mệnh hai người họ lui xuống chuẩn bị. Chờ đến khi trăng đêm treo cao, nàng leo lên cổng lầu giương mắt nhìn màn đêm đen thẫm phương xa, đột nhiên nói: “Tuyên Mộ Trung Nguyên đến.”
Không lâu sau, Mộ Trung Nguyên vội vàng chạy tới, quỳ xuống vấn an.
“Hãy bình thân.” Trạm Hi nhìn phương hướng núi Tam Ngưu đang lập lòe ánh lửa sáng rọi một vùng, cười hỏi: “Trẫm đây sẽ ra một câu khảo sát ông. Bắc Địch nhiều lần xua quân xâm chiếm Cự thành, vì sao không đem nơi này chiếm làm của riêng?”
Mộ Trung Nguyên sững sờ, cung kính đáp: “Bẩm hoàng thượng, vi thần cho rằng ở chuyện này có ba nguyên nhân. Thứ nhất, nhân tâm bất ổn, dân chúng tại Cự thành hết đời này đến đời khác đều hấp thụ giáo dục và nền văn hóa của nhà cầm quyền ở Trung Nguyên, thế nên làm sao dễ dàng tin phục người Bắc Địch? Huống hồ người Bắc Địch quá mức tàn bạo, tự đoạn tuyệt không muốn giao lưu bồi dưỡng tình cảm với dân chúng Cự thành. Thứ hai, phong tục bất đồng, nơi này nhiều ruộng tốt đất đai màu mỡ phì nhiêu thích hợp chuyện làm nông, thế nhưng việc này đối với người Bắc Địch lại hoàn toàn mù tịt không biết một chút gì. Thứ ba, thời cơ không đúng, nơi này là cửa ngõ ra vào Trung Nguyên, bất kể là ai ngồi lên ngôi vua đều sẽ nhất quyết không nhàn nhã đứng xem nơi đây rơi vào trong tay người Bắc Địch. Thử nghĩ một cách khác, nếu Bắc Địch thật sự chiếm được nơi này, bên trong tất có nhân dân khởi nghĩa vũ trang, phía ngoài tất có đại quân mắt nhìn như hổ đói rình mồi, bởi thế người Bắc Địch không hề có lợi ích gì nhiều khi chiếm chỗ này. Vi thần cho rằng trong mưu tính của Kháng Tàng Kim là muốn dùng nơi đây để nắm lợi thế trong việc cò kè doạ dẫm lấy được càng nhiều lương thực và tiền bạc của Trung Nguyên cống nạp thôi. Đợi đến khi bản thân lão đủ mạnh mẽ sẽ thừa thế xông lên đánh thẳng vào kinh thành, mà không phải ở Cự thành này kéo dài thế đối lập cùng Trung Nguyên để tiêu hao binh lực vô ích.”
“Nếu đem ra so sánh, Bắc Địch có tài lực, vật lực và nhân lực kém xa Trung Nguyên ta. Kháng Tàng Kim không tranh một thành một chỗ lo được mất, có thể thấy được dã tâm mưu đồ chiếm lĩnh cả thiên hạ của lão.” Trạm Hi cười nói: “Trẫm lại hỏi ông, vì sao thiên hạ đều đã phân thành trực thuộc tỉnh, mà chỉ có quận Võ Uy vẫn đi theo cơ chế hành chính của quận huyện?”
|
“Bẩm hoàng thượng, vi thần cho rằng điều này cũng có quan hệ cùng Bắc Địch. Quận Võ Uy quanh năm đều phải đối đầu với Bắc Địch, nếu trở thành trực thuộc tỉnh, một khi tỉnh và phủ bị tập kích thì châu và huyện liền mất quyền hạn quản lý, lại không thể vượt cấp bẩm lên trên, nếu như chờ triều đình phái quan viên tới xử lý thì đó là nguồn nước ở xa không giải được cơn khát ở gần, về lâu về dài tất sẽ xảy ra hỗn loạn. Nếu theo cơ chế hành chính của quận huyện lại không cần phải vậy. Tuy chức vị Thái thú trong tay quyền to cùng kiêm cả quân sự và chính trị rất không ổn, nhưng thời chiến trực tiếp quản lý châu và huyện, bất kể nơi nào bị tập kích thì Thái thú cũng có thể tùy tình hình quyết đoán chữa cháy sẽ tránh sinh loạn lạc. Theo vi thần thấy, đây cũng là nguyên nhân vì sao Cự thành không được xem xét trở thành một tỉnh.” Mộ Trung Nguyên chậm rãi nói.
Trạm Hi nhìn ánh lửa đầy trời hướng Đông Bắc, trong tai còn mơ hồ nghe được tiếng người hô ngựa hí, nội tâm không khỏi thoải mái cười nói: “Trẫm đang muốn xây dựng nơi đây trở thành một tỉnh gọi là tỉnh Hoàn Sơn, chữ Hoàn trong bốn phía bao quanh là núi sông bảo hộ chỗ này. Thủ phủ liền thiết lập tại Cự thành. Trẫm không dối gạt ông, trong kinh thành phần nhiều là đám cựu thần tiền Tấn, bọn họ và trẫm có thể không phải một lòng. Thân phận của ông rất khó xử, trẫm sợ bọn họ dựa vào đó sẽ gây bất lợi cho ông rồi tìm cách chống lại trẫm. Nếu như ông bị cuốn vào giữa cuộc chiến thị phi này, e rằng một thân tài hoa khó mà bảo toàn nguyên vẹn. Trẫm không muốn ông tâm tro thất bại với đời, trẫm đã nói nhất định sẽ đối xử bình đẳng với ông. Thật ra trẫm sớm có sắp xếp cho ông rồi. Trẫm sẽ để ông ở lại chỗ này quản lý tỉnh Hoàn Sơn này, có điều ông mới vừa có công danh, nếu đề bạt quá mức e rằng sẽ chọc người chê trách. Trước hết trẫm để cho ông làm Tri phủ ở Cự thành, nhưng sẽ kiêm nhiệm thêm chức vụ Tuần phủ, sau ba-năm năm nếu ông lập được một thành tích nào đó, chức Tuần phủ này vẫn sẽ để ông làm. Thế ông có bằng lòng không?”
Lúc bắt đầu Mộ Trung Nguyên nghe được còn có chút sững sờ, sau đó càng nghe càng kích động, lúc này quỳ xuống, chảy nước mắt nói: “Hoàng thượng thiên ân, vi thần nguyện cúc cung tận tụy đến chết mới dừng.”
“Trẫm ban cho ông có quyền mật báo tấu sự, bất kỳ dị động nào cũng phải lập tức báo cho trẫm biết.” Trạm Hi hài lòng gật đầu, kỳ thật đây chỉ là hành động bất đắc dĩ phải làm. Hiện nay trên tay nàng không có người nào bên phe mình là lựa chọn tốt hơn, nên đành phải trước tiên dùng Mộ Trung Nguyên thay thế một thời gian. Mong Mộ Trung Nguyên này là người có khả năng làm việc là tốt nhất. Nếu không thể cáng đáng, chờ một-hai năm nữa nàng sẽ đề bạt một người phe mình đến đây thay vị trí này. Nàng có chút hối hận mơ hồ, Nếu như lúc này Vũ Sư Đức vẫn còn sống thì… Thôi, không nên nghĩ đến giả thuyết đó nữa! Trong lúc đang nghĩ ngợi, Lý Lãng phái người đến báo, toàn quân Bắc Địch đều chạy tan tác, lúc này đang tìm cách trốn về Hồi Đầu quan, kính xin hoàng thượng hãy truyền chỉ cho ông được phép truy kích tàn quân, thừa thế đoạt lại Hồi Đầu quan.
Đương nhiên Trạm Hi chuẩn tấu. Mộ Trung Nguyên quỳ ở một bên càng nghe càng thấm được nhiều điều. Từ xưa đều nói, một tướng nếu đang chinh chiến bên ngoài thì dù là quân mệnh cũng có thể không nhận, huống chi tình hình chiến sự đang khẩn cấp như lúc này. Việc truy kích tàn quân đoạt lại cứ điểm quan trọng tất nhiên cần hành động càng nhanh càng tốt, làm sao còn muốn xin chỉ thị hoàng thượng? Cũng không trách Lý Lãng cẩn thận, kẻ bề trên kiêng kị nhất là người nắm binh quyền trong tay, mà ông lại ngồi ở chức vị tướng quân nên càng phải thận trọng hơn nhiều. Xem ra bản thân nên học hỏi cách làm quan của Lý Lãng đây! Bỗng nghe thấy hoàng thượng nói: “Truyền chỉ xuống, từ ngày hôm nay Hồi Đầu quan sẽ đổi tên thành Nộ Mục quan, đối với lũ man di tàn bạo cỡ này thì nơi đây phải có tên Nộ Mục quan mới đúng. Khi nào vùng thảo nguyên quy về trong tay trẫm trong tương lai, đến lúc đó trẫm sẽ trả cái tên ban đầu lại cho nơi này.”
Thân thể Mộ Trung Nguyên chấn động không thôi, Vị nữ thiên tử này không ngờ lại có chí khí hào hùng cỡ này! Không khỏi lên tiếng khen tặng: “Hoàng thượng có tài trí kiệt xuất, nhất định sẽ là bậc đế vương lưu danh nghìn năm.”
Trạm Hi cười to: “Lưu danh nghìn năm là bậc tài trí kiệt xuất có lẽ không phải số ít, có điều là nữ nhi như trẫm lại đăng cơ xưng đế thế này đúng là chưa từng có ai. Nhưng tương lai, Đại Đoan của trẫm đều chỉ có nữ nhi mới bước lên ngôi hoàng đế mà thôi.”
Không biết sao, Mộ Trung Nguyên lại đem lời nói này vững chắc khắc sâu vào lòng.
.
Sáng sớm ngày mùng chín tháng Tám, tinh thần Mã lão tướng quân đầy hăng hái chạy tới chạy lui bẩm báo chiến tích tối qua.
Trạm Hi quan tâm hỏi: “Lão tướng quân một đêm chưa ngủ, thân thể còn chịu được không?”
Mã lão tướng quân sang sảng cười đáp: “Cảm tạ hoàng thượng quan tâm. Đánh một trận thoải mái thế này, hiện tại tinh thần của thần đang cực kỳ phấn chấn. Khởi bẩm hoàng thượng, bây giờ đại cục đã định, bên trong thành Định Xương có hơn ngàn tàn quân của Phạm Hách, vậy nên xử trí thế nào đây?”
“Áp giải tất cả bọn chúng mang tới giáo trường ngoài thành đi.” Ánh mắt Trạm Hi lóe lên sát khí, nàng muốn lập uy.
Bình thường từ thành Định Xương đến Cự thành mất khoảng một ngày hành trình, nếu tăng nhanh vận tốc thì chỉ hơn nửa ngày đường đã đến nơi. Màn đêm buông xuống, các ngọn đuốc chiếu sáng cả giáo trường rộng lớn. Ngoại trừ đại quân của Lý Lãng đang đuổi bắt đám tàn quân Bắc Địch, còn lại hết thảy tướng lĩnh đều phụng chỉ đến đây. Tướng bộ hạ của Phạm Hách có tên là Chu Bính kia, lúc bắt đầu còn rất chột dạ nhưng sau thấyhoàng thượng sai người nâng một thùng đựng một trăm lạng bạc ròng đặt ở trước mặt thì lại chợt nhớ tới lời nói trước khi đi của Phạm Hách nên lòng dần an tâm hơn.
“Quân lệnh như núi, ông phụng mệnh trấn thủ thành Định Xương, chấp hành quân lệnh Phạm Hách ban xuống rất kỹ lưỡng tận tâm, đúng thật đáng là tấm gương trong quân ta, ngay cả trẫm cũng không thể gọi mở được cổng thành Định Xương. Tốt, tốt lắm, quả thật rất là tốt. Nay trẫm ban cho ông trăm lạng bạc ròng lấy đó làm phần thưởng ngợi khen.” Vốn Trạm Hi đang nhìn Chu Bính nở nụ cười đầy hiền hòa, đột nhiên lại chuyển giọng tàn nhẫn lên: “Ai cũng đều nói, một tướng nếu đang chinh chiến bên ngoài thì dù là quân mệnh có thể không nhận. Thế nhưng quân vương đã ở trước mặt ông, thế mà ông vẫn lấy quân lệnh của Phạm Hách để kháng chỉ không tuân. Rốt cuộc trong lòng ông cảm thấy quân lệnh của Phạm Hách còn quan trọng hơn thánh chỉ của trẫm? Có phải ông chỉ muốn làm thuộc hạ của Phạm Hách, chứ không muốn làm thần dân của trẫm?”
Lúc này Chu Bính mới phát hiện thấy tình huống không ổn, kinh hoảng dập đầu nói: “Hoàng thượng, mạt tướng không dám chống đối quân lệnh. Bằng không ——“
“Câm miệng!” Trạm Hi tàn nhẫn nói từng tiếng to rõ: “Trẫm ngự giá thân chinh đã chiêu cáo toàn thiên hạ. Ông biết rõ trẫm muốn ra khỏi thành chống lại Bắc Địch, thế nhưng vẫn cứ viện cớ quân lệnh rồi ngăn trở, công nhiên kháng chỉ, như vậy rõ rành rành là tâm tư phản nghịch đấy thôi. Người đâu? Mau đem người này kéo ra ngoài lập tức chém đầu. Hạ chỉ, khiển trách Phạm Hách quản lý thuộc hạ không nghiêm.”
Trên giáo trường, tất cả mọi người đều bị tình cảnh trước mắt dọa sợ kinh hãi, mỗi người biến sắc đến không dám thở mạnh. Lại nghe hoàng thượng cất cao giọng nói: “Trẫm biết, khi quân ta đối chọi với quân địch, thời cơ chiến đấu chỉ trong chớp mắt là qua, tướng quân gặp việc phải nhanh chóng quyết đoán vốn là chuyện thường. Nếu như trẫm ở xa tận kinh thành, tất nhiên mọi người không cần gặp chuyện đều đi xin chỉ thị, nhưng sau đó cũng cần dâng tấu lên nói rõ ngọn nguồn, đây là bổn phận của người làm thần tử. Mọi người ở đây là quân đội của trẫm, là con dân của trẫm, nhưng nếu có ai không trung thực hai lòng, kết cục liền giống như tên gian nịnh họ Chu này.”
Ánh mắt Trạm Hi chậm rãi đảo qua mọi người, giọng nói dần hòa hoãn lại: “Trẫm luôn thưởng phạt phân minh. Chu Bính nghiêm ngặt chấp hành quân lệnh, trẫm thưởng cho ông ta. Vì Chu Bính không tuân theo thánh chỉ, trẫm đã phạt ông ta.” Nàng vừa nói vừa đi tới trước mặt đám tàn quân đang run lẩy bẩy của Phạm Hách: “Mấy người đem số bạc này mang đến cho người nhà Chu Bính đi.”
Ai trong đám người này đều vạn phần sợ hãi. Thưởng một trăm lạng bạc ròng nhưng đánh mất tính mạng! Thể hiện quyền uy thế này không khiến người sợ sệt ư? Mấy tướng lĩnh còn lại cũng hiểu rõ dụng ý của hoàng thượng. Khi mệnh lệnh của thượng cấp xung đột với thánh chỉ, lựa chọn duy nhất của bọn họ chính là nghe theo hoàng thượng.
Mộ Trung Nguyên đứng một bên lúc này cảm xúc dâng trào, càng ngày càng thêm kính nể hoàng thượng. Ngược lại Đổng Bình và Mã Cường chỉ thờ ơ lạnh nhạt liếc nhìn.
.
Ngày mười một tháng Tám, Lý Lãng về hành cung bẩm báo, Nộ Mục quan đã chiếm lại được. Trạm Hi nhìn vị đại tướng quân đầy tràn mệt mỏi này, cười nói: “Lần này đại thắng, tướng quân có công lớn. Trẫm chắc chắn luận công ban thưởng.”
Lý Lãng mau chóng quỳ xuống: “Hoàng thượng bày mưu nghĩ kế nên quyết thắng ngàn dặm, thần có chăng là đi theo ý chỉ làm việc mà thôi. Thần thật không dám kể công.”
“Bình thân.” Trạm Hi cười nói: “Tướng quân không cần quá khiêm tốn, trẫm muốn ban cho ông một món thưởng lớn.” Nói rồi xua tay ra hiệu.
Tý Đoan đi tới trước mặt Lý Lãng: “Tướng quân xin mời đi theo tôi.”
Lý Lãng nghi hoặc xin cáo lui rời đi. Khi đi theo tới hoa viên vừa nhìn, không khỏi nghẹn ngào hầu như muốn rơi lệ, toàn bộ gia quyến của ông đều đã ở đây. Tý Đoan nói: “Khẩu dụ của hoàng thượng, trẫm từng ở Nhạn Linh Quan nói qua với tướng quân, trẫm dùng người thì không nghi người, tướng quân chính là tâm phúc trong lòng trẫm. Hôm nay một nhà tướng quân đoàn tụ, trẫm liền không cho ông bày tiệc ăn mừng.”
Mắt hổ của Lý Lãng rưng rưng, quỳ xuống tại chỗ khóc rống: “Thiên ân của hoàng thượng dành cho thần, dù muôn lần chết thần vẫn không thể báo đáp hết.”
.
Trạm Hi nghe xong lời thuật lại của Tý Đoan, không khỏi cảm khái: “Tiên Tiên của trẫm!” Ai cũng biết Mẫn Thuân luôn dè chừng Lý Lãng lại muốn dùng ông, vì lẽ đó bắt gia quyến của ông giam giữ ở kinh thành làm con tin, khiến Lý Lãng hơn mười năm nay chưa từng được thấy người nhà. Bây giờ cả nhà sum vầy, làm sao Lý Lãng có thể không cảm kích được chứ? Nói chung tâm tư của vị hổ tướng này đã bị Trạm Hi nàng thần phục hoàn toàn. Có điều Trạm Hi vẫn cứ dặn ám vệ trước đây giám thị Lý Lãng không thể buông lỏng phút giây nào, nhân tiện ngay tiếp theo cũng phải cùng nhau giám thị cả Mộ Trung Nguyên. Thêm mấy ngày nữa chính là Tết Trung thu, Trạm Hi ở Cự thành mời tất cả các quan văn võ đến dự tiệc ăn mừng đại thắng, hạ chỉ sau năm ngày sẽ khải hoàn về kinh thành.
Khi kết thúc dạ yến, Trạm Hi thả lỏng tinh thần, hỏi Tý Đoan vừa bước chân vào: “Làm sao dạo này trong kinh thành không có động tĩnh gì? Tính toán thời gian thì khoảng mấy ngày này Tiên Tiên đã chuyển dạ sắp sinh rồi nhỉ? Tại sao không ai truyền tin gì cho trẫm?”
“Nô tì không biết.” Tý Đoan bưng một cái tráp đặt trên ngự án, bẩm: “Hoàng thượng, mật báo của Quách Trinh gửi đến.”
Trạm Hi lấy ra vừa nhìn, nhất thời gương mặt hoàn toàn biến sắc, tức giận đến giơ chân đá ngự án một cước ngã lăn, đùng đùng đứng dậy nghiến răng nghiến lợi đi qua bước lại liên tục mấy vòng. Một hồi lâu sau, nàng mới bình ổn lại tâm trạng, nhíu mày nhàn nhạt nói: “Chả trách sao trong kinh thành không có tin tức, thì ra đã xảy ra chuyện đại sự bực này. Mau truyền Mã lão tướng quân, Lý Lãng, Mộ Trung Nguyên, còn có Đào Thanh Sơn tuyên đến đây.”
Chỉ mất thời gian uống cạn chén trà, bốn người này đã cùng nhau quỳ gối giữa đại điện hành cung.
“Đều hãy bình thân.” Trạm Hi sầm mặt lại nói: “Sau khi được Vũ Sư Đức điều động cải huấn ba mươi vạn quân mã rồi giao trách nhiệm trấn thủ Cự thành đã tổn hại hơn phân nửa, xem ra đã không còn sức chiến đấu. Trẫm mệnh lệnh Mã lão tướng quân từ bên trong nhân số còn lại chọn tuyển ra năm vạn tinh binh ghép lại cùng năm vạn quân Bắc Đoan, tổng cộng là mười vạn đại quân đóng giữ tại thành Định Xương. Nhất thời trẫm không có ứng cử viên thích hợp, nên vẫn còn phải làm phiền Mã lão tướng quân trước tiên giúp trẫm bảo vệ tốt Định Xương.”
Mã lão tướng quân khom người nói: “Hoàng thượng yên tâm, lão thần việc nghĩa chẳng từ. Xin hỏi hoàng thượng, nhân mã còn lại nên xử trí thế nào?”
“Năm vạn quân Bắc Đoan còn lại đương nhiên là cho trở về Bắc Đoan. Sau khi đánh xong trận đại chiến vừa rồi, Bắc Địch đã vô lực xua quân xâm lấn bờ cõi phía Nam ta, mười vạn người đóng giữ vùng biên giới Bắc Đoan là thừa sức, hơn nữa ở đó đều là bộ hạ cũ của ông, trẫm yên tâm. Còn những quân đội khác thì cho chút ngân lượng để họ giải ngũ về quê đi.” Trạm Hi than thở: “Trẫm đã bổ nhiệm Mộ Trung Nguyên quản lý khu vực Cự thành. Nơi này còn có rất nhiều việc cần phải làm, có lẽ phải bỏ ra một lượng lớn nỗ lực và công sức.” Rồi lại quay sang nói với Lý Lãng: “Nộ Mục quan có địa thế chật hẹp, hai mươi vạn nhân mã của tướng quân e rằng đóng quân không tiện?”
Giọng điệu của Trạm Hi dường như có ý nghi vấn, nhưng Lý Lãng lại nghe ra ẩn ý khẳng định đằng sau, vội vàng đáp: “Đã nhiều năm chinh chiến liên tục nên sớm có tướng sĩ lòng sinh mỏi mệt, thần cũng nghĩ trận chiến này đại thắng sẽ để bọn họ cởi giáp về quê. Thần trấn thủ Nộ Mục quan chỉ cần mười vạn nhân mã là đủ. Chỉ là…” Ông lấy hết dũng khí nói: “Kháng Tàng Kim chỉ dẫn được mấy ngàn tàn quân chạy ra ngoài Nộ Mục quan, nếu như lúc này có thể thừa thắng xông lên, tất nhiên Bắc Địch sẽ quy thuận Đại Đoan ta.”
Trạm Hi nói: “Mọi người ở đây đều là tâm phúc trong lòng trẫm. Lúc này trẫm cũng không có gì cần dối gạt mọi người, có được lương thảo và tiền bạc dùng trong trận chiến vừa rồi là nhờ trẫm ăn cắp chiếm được từ gia sản mấy đại phú thương ở tỉnh Dự Bình đấy. Xem ra trẫm cũng là hảo hán cướp của người giàu đem về giúp người nghèo khó.” Bốn người này nghe xong đều bật cười sang sảng. Trạm Hi lại nói: “Bây giờ ngân khố quốc gia của trẫm dù là một hạt gạo đều không bỏ ra nổi nữa rồi. Có điều trẫm bảo đảm, lãnh thổ Đại Đoan tương lai của trẫm chắc chắn sẽ bao gồm cả Bắc Địch.”
Mộ Trung Nguyên hỏi: “Hoàng thượng ngài lúc nào sẽ về kinh thành?”
“Khi nào thu xếp xong mọi chuyện sẽ ngay lập tức lên đường. Trẫm là bí mật về kinh, mong bốn người ở đây hãy phối hợp lẫn nhau, không cho phép tiết lộ hành tung của trẫm. Chờ khi nào nhận được mật chỉ của trẫm, mới để ngự liễn khởi giá hồi kinh.” Trạm Hi nói tiếp: “Cứ lấy long thể của trẫm bất an không khỏe làm lý do để kéo dài thời gian đi.”
Đào Thanh Sơn vội la lên” “Vậy thì an nguy của hoàng thượng làm sao bảo đảm được.”
Trạm Hi khoát tay nói: “Cậu đừng lo quá, cứ làm tốt bổn phận của cậu là tốt rồi. Nhớ kỹ, nếu một tiếng gió nào tiết lộ ra ngoài, trẫm sẽ chỉ hỏi bốn người ở đây thôi. Hành cung này của trẫm quá lớn đi, trẫm nghĩ nên phân thành hai viện, cũng chia mọi đồ vật ở đây thành hai nửa cho hai viện này. Một ban cho Mộ Trung Nguyên làm phủ nha, còn một thưởng cho Lý Lãng làm phủ tướng quân. Hầy, giờ mọi người đều lui xuống đi, à mà Lý Lãng tướng quân lưu lại chút.”
Chờ mọi người lui ra ngoài hết, Lý Lãng quỳ xuống hỏi: “Hoàng thượng có gì cần căn dặn thần ư?”
“Trẫm tước binh quyền của ông là hành động bất đắc dĩ, tướng quân không nên sinh lòng nghi ngờ. Trận chiến này một khi thắng, vùng đất phương Bắc kia cơ bản đã định đoạt được rồi. Ông lại là đại tướng của tiền Tấn, e rằng những cựu thần của triều tiền Tấn kia sẽ có tâm ghen ghét oán hận, rồi dùng chuyện bồi binh luyện tướng để nói xấu ông, nên trẫm không muốn làm ông khó xử. Dễ kiếm một ngàn binh sĩ nhưng khó tìm một vị tướng giỏi, mười vạn binh sĩ dễ cho giải ngũ nhưng cũng dễ kêu gọi hiệu triệu, nên ông đừng quá lo.”
Lý Lãng kích động đáp: “Hoàng thượng nói như vậy, để thần chẳng biết làm sao bây giờ. Thần không hề có chút oán hận nào trong lòng, nếu hoàng thượng hoài nghi thần chắc chắn sẽ không để cả nhà thần đoàn tụ, càng sẽ không để thần đảm trách nhiệm vụ bảo vệ địa thế Nộ Mục quan trọng yếu như vậy. Nội tâm thần biết nỗi khổ tâm của hoàng thượng.”
“Ôi chao, nghe ông nói được vậy thật đã để trẫm yên tâm.” Trạm Hi mệt mỏi nói, lại đi an bài thêm vài chi tiết nhỏ, sau đó mang theo ám vệ giơ roi thúc ngựa chạy nhanh về phía kinh thành.
Vừa ra khỏi thành Định Xương, đột nhiên nàng nhớ tới gì đó liền quay sang dặn dò Tý Đoan: “Tìm mấy ám vệ đi niêm phong Bất Sinh cốc lại. Trẫm quyết định lấy nơi này làm chỗ để huấn luyện ám vệ. Lại truyền một mật chỉ cho Mã lão tướng quân, bảo với ông ấy cần phải giám sát coi chừng Phạm Hách, Lý Lãng và Mộ Trung Nguyên.” Tý Đoan mau chóng sai người đi làm.
.
Đêm ngày mười tám tháng Tám, trăng tròn đã khuyết. Bên trong cung Thanh Y, Mẫn Tiên Nhu nửa nằm nửa dựa trên giường nhỏ, giương mắt nhìn bầu trời đêm ngoài cửa sổ, vỗ về phần bụng nhô lên âm thầm chua xót trong lòng, Ngày trăng rằm biết bao ngắn ngủi, Hi Hi của mình vẫn còn ở phương xa đây. Ngay khi nhịn không được muốn rơi lệ, thân thể nàng đột ngột được một vòng tay ấm áp choàng qua ôm lấy, hơi thở thân thuộc vốn luôn khắc sâu trong xương tủy lại chợt trở về bên người.
|