Sát Phá Lang
|
|
Chương 105: Cất cung
Trường Canh trầm mặc một lúc, thần sắc hơi ảm đạm, như cố ý như vô tình vuốt ve các khớp hơi gồ lên trên mu bàn tay Cố Quân, sau đó thở dài nói: “Việc này ta không cách nào ứng đối được, con người đâu thể nào tự chứng thực cho xuất thân của mình.”
Huống chi y từ nhỏ chưa từng chấp nhận thân phận của mình, dù đã thành Nhạn thân vương quyền khuynh thiên hạ.
Trường Canh cảm thấy mình có thể chống được trời đất, nhưng không nói rõ được cha mẹ là ai – Chuyện đến hiện giờ, y có Cố Quân rồi, cũng không muốn truy cứu gốc gác của mình lắm.
Tiếc thay, y không muốn truy cứu, không có nghĩa là người ta cũng có thể buông tha y.
Trần Khinh Nhứ cầm máu, thuần thục băng bó vết thương giúp Trường Canh, lại kê cho y thuốc an thần tĩnh tâm, không nói xen vào, cũng không biểu lộ cảm xúc gì, trong lòng lại đột nhiên trỗi lên một bầu bi phẫn khó mà tả rõ.
Do Ô Nhĩ Cốt, Trần Khinh Nhứ năm đó phản đối giao Lâm Uyên mộc bài cho Nhạn vương, đáng tiếc mình nàng phản đối cũng chẳng được gì, thế nên bao lâu nay, nàng đành phải dốc hết khả năng coi chừng Trường Canh, đồng thời thu hết các việc y làm vào trong mắt – Từ khi kinh thành sửa lại đến nay, Nhạn vương từng chút một ngưng tụ lại triều đình sứt sẹo này, y bôn ba tứ phương, thậm chí sa thân vào loạn đảng, suýt nữa chết ở đó, y không tiếc ra tay đụng chạm lợi ích không ai dám chạm, bởi thế một mình gánh minh thương ám tiễn của cả triều đình.
Những công lao ngàn thu này, chẳng lẽ vài câu xuất thân không rõ là có thể xóa đi?
Dù y thật sự không phải con của tiên đế, chẳng lẽ phong hỏa phiếu, Ban vận hà thậm chí mười vạn lưu dân an cư lạc nghiệp ở Giang Bắc – đều tương đương không tồn tại?
Trần Khinh Nhứ lang bạt giang hồ nhiều năm, không hề ngây thơ, đạo lý trong lòng đều biết rõ, chỉ là thỉnh thoảng vẫn sẽ có vài khoảnh khắc, bị thói đời và lòng người nơi đây làm lạnh đến giật mình.
“Đúng rồi, Trần cô nương.” Tiếng Trường Canh kéo sự chú ý của nàng quay lại.
Trần Khinh Nhứ chớp chớp mắt: “Cái gì?”
Trường Canh: “Nếu Hoàng thượng hỏi đến, chỉ sợ còn phải phiền cô giúp ta che giấu một chút.”
Trần Khinh Nhứ vội thu liễm tâm thần, gật đầu.
Cố Quân bóp mũi đứng dậy: “Được rồi, các ngươi bàn bạc đi – ban nãy bị ngươi chọc tức đến hồ đồ, hiện tại ta thật sự không tiện ở lại đây lâu, tốt xấu cũng phải qua đó xem thử.”
Trường Canh “À” một tiếng, lưu luyến buông tay y ra, nhìn Cố Quân trông mong, vừa bắt được ánh mắt Cố Quân nhìn lại liền lập tức nắm lấy cơ hội, không chút tiếc rẻ dâng một nụ cười vừa rạng rỡ vừa nịnh bợ.
Cố Quân mới đầu không thèm để ý, mặt không biểu cảm nói: “Cười cái gì?”
Trường Canh tươi cười không thu lại, vẫn không ngừng phóng ra, nếu y có đuôi chắc đã vẫy rụng trụi lông rồi. Một lát sau, Cố Quân rốt cuộc hết đanh mặt nổi, bất đắc dĩ vỗ vỗ trán y, cười mắng: “Khốn nạn.”
Lúc này mới bỏ lại Nhạn vương mặt đầy xuân sắc và Trần cô nương vẻ mặt xanh tái mà đi.
Bắc đại doanh điều tạm vào kinh bắt gọn cả ổ man tộc, cách ly giải vào thiên lao, chia ra chờ thẩm vấn, trong lúc này, có một nội thị lén lút muốn nhân loạn rời cung, bị Ngự lâm quân tuần tra bắt về, dược đồng của Trần Khinh Nhứ không mất chút sức nào chỉ nhận đây là kẻ giả truyền thánh chỉ lừa Nhạn vương vào cung yến.
Cung nhân nọ chẳng qua là tiểu nhân vật sai vặt, không đợi thẩm vấn đã bị trận trượng này dọa sợ hết hồn, hét ầm lên: “Hoàng… Hoàng thượng minh giám, chư vị đại nhân minh giám, nô tỳ không có giả truyền thánh chỉ, nô tỳ quả thật một năm một mười truyền khẩu dụ của Hoàng thượng, là Nhạn vương điện hạ tự mình muốn vào cung diện thánh…”
Còn chưa nói xong thì Giang Sung đã khoát tay cho người tuyên dược đồng của Trần đại phu đến, tiểu dược đồng kia tuy còn nhỏ nhưng đã có đặc điểm riêng của Trần gia, gặp bao nhiêu đại nhân vật mà không kích động chút nào, còn có khả năng qua tai không quên, lặp lại một lần đối thoại của nội thị và Nhạn vương không sót chữ nào.
Một đám người thành tinh nào có đạo lý nghe không hiểu?
Lý Phong còn chưa kịp nổi giận, Phương Khâm đã hằm hằm dẫn đầu chất vấn nội thị kia: “Là ai sai sử ngươi nói như vậy?”
Nội thị kia cũng khá nhanh trí, lập tức tránh nặng tìm nhẹ đáp: “Là Vương quốc cữu ạ! Vương quốc cữu thường ngày hay chỉ dạy bọn nô tỳ đạo hầu hạ thánh nhân, quốc cữu gia nói… nói… những lúc thế này, Hoàng thượng đã hỏi Vương gia, chính là muốn triệu y vào cung, bảo nô tỳ thông minh một chút, đổi lại thành…”
Lý Phong xoay ban chỉ trên tay, cười gằn nói: “Trẫm đúng thật không biết mình có ý gì nữa.”
Vương Quả quỳ thụp xuống, khi tìm khắp nơi không thấy lão Thái y nọ thì lão đã biết ngay là mình e rằng bị Phương Khâm ném ra rồi, Phương Khâm kia mặt hiền bụng ác, tình cảm và đạo nghĩa nhất loạt không đếm xỉa, nói trở mặt là trở mặt, lão nên biết từ sớm – Ban đầu họ Phương và Lữ Thường thân đến mặc chung quần, chẳng phải cũng nói bán là bán, nói đâm là đâm luôn sao?
Nội thị kia la oai oái kêu oan, chưa được mấy tiếng đã bị bịt miệng kéo sang một bên, Phương Khâm ở bên kia nói: “Hoàng thượng, Vương đại nhân là quốc cữu đương triều, thần tuyệt đối không tin ông ấy có thể làm chuyện thông đồng với giặc, xin Hoàng thượng minh xét, nhất định phải trả lại sự trong sạch cho quốc cữu gia.”
Vương Quả: “…”
Câu “oan uổng” của Vương quốc cữu ra tới miệng bị một câu của Phương Khâm chặn lại, lão vốn muốn lớn tiếng kêu oan biện bạch, đánh cuộc Hoàng thượng còn tình cảm với cữu cữu này, hoặc là không muốn đuổi tận giết tuyệt lão thần, có thể võng khai nhất diện tha cho lão một lần.
Việc này nếu làm to thì chính là giả truyền thánh chỉ, tội lớn khi quân, nhưng nếu bản thân Hoàng đế Long An không muốn truy cứu, thì cũng có thể nói là Vương quốc cữu già cả hồ đồ, nghe nhầm thánh chỉ, lại lắm miệng dông dài, gây ra một sự hiểu lầm mà thôi.
Nhưng Phương Khâm thật sự quá độc ác, hắn vừa mở miệng như thế, Lý Phong dù muốn cũng không thể che chở Vương Quả – làm vậy chính là thừa nhận quốc cữu quả thật có vấn đề – nếu Vương Quả thực sự trong sạch, lão sẽ hết sức hoan nghênh “tra rõ”, vấn đề là lão không hề trong sạch!
Người man sẽ giấu giếm cho lão sao? Quà cáp chưa kịp chuyển đi sẽ giấu giếm cho lão sao? Đám thái giám ăn cây táo rào cây sung đó sẽ giấu giếm cho lão sao?
Vương Quả lập tức quyết định liều một phen, chuyện đã đến nước này, ngoại trừ làm cho rối thêm, lão đã nghĩ không ra biện pháp gì khác.
“Lão thần tội đáng muôn chết,” Vương Quả cất cao giọng nói, “Lúc ấy nhất thời nóng lòng muốn gặp Nhạn vương, quả thật đã bóp méo ý của Hoàng thượng.”
Lý Phong hơi nheo mắt: “Trẫm thật không biết Nhạn vương từ khi nào cũng thành kì trân rồi, bình nhật ở trong triều gặp nhau suốt cũng không thấy quốc cữu thân thiện với y lắm, y xin nghỉ vài hôm, quốc cữu còn tương tư khó nén hay sao?”
Vương Quả liều một phen, dập đầu sát đất, mặt căng thẳng: “Xin Hoàng thượng cho thần bẩm, chuyện này nói ra rất dài, có nội tình khác, đó là mấy hôm trước thần đến thăm biệt viện của Phương đại nhân, say rượu lạc đường, vô tình gặp một người, lúc ấy chỉ cảm thấy quen mắt, sau mới nhớ người này năm xưa lão thần từng gặp – khi ấy ngay cả Hoàng thượng cũng còn nhỏ, lão ta là Thái y nổi bật nhất Thái y viện, quan hệ rất thân thiết với hoàng quý phi Bắc man, sau do chuyện man phi mất tích mà bị liên lụy, sợ tội bỏ trốn…”
Phương Khâm cười gằn một tiếng trong bụng, ngoài mặt lại ra vẻ e sợ nói: “Vương quốc cữu có ý gì? Chẳng lẽ nói trong biệt viện của hạ quan chứa chấp khâm phạm? Hoàng thượng, đây rõ ràng là lời nói vô căn cứ!”
Lý Phong lãnh đạm nhìn họ.
Vương Quả nhắm mắt bịt tai, tiếp tục: “Thần lúc ấy chỉ cảm thấy ngạc nhiên, trò chuyện mới biết, lão Thái y kia do chuyện con trai bị kiện cáo, mà đặc biệt cất công cầu tới môn hạ Phương đại nhân.”
Phương Khâm: “Nói vớ nói vẩn, sao ta lại làm trái pháp luật được!”
Vương Quả cười gằn nói: “Phương đại nhân đương nhiên không bị lay chuyển, nhưng lão Thái y kia lấy bí mật man nữ Tú quận chúa năm xưa khi rời cung đang có thai ra trao đổi, thì nói không chắc được! Lão thần biết với sự nhanh nhạy của Phương đại nhân, lúc này lão Thái y gì đó và gia đình chắc hẳn đều đã bị xử lý, chết không đối chứng – Nhưng thưa Hoàng thượng, chuyện năm đó Tú quận chúa ở Nhạn Hồi cấu kết Gia Lai Huỳnh Hoặc xâm chiếm biên cảnh ta chư vị ở đây đều rõ, một số tướng quân thậm chí tự thân trải qua, chân tướng ra sao, có lẽ thần không đường nào phân thuyết, song đám người man kia nhất định đều nắm được, cứ thẩm vấn là biết lão thần nói thật hay giả!”
Đây cơ hồ là đương đình nói thẳng huyết thống của Nhạn vương có vấn đề, Lý Phong chậm rãi hít sâu một hơi.
Phương Khâm nghĩ bụng: “Lão già Vương Quả này điên rồi à? Thà lôi mình vào cũng phải kéo ta xuống nước!”
Lập tức nói to: “Người man quỷ kế đa đoan, chỉ mong sao Đại Lương ta vĩnh viễn không có ngày yên bình, Hoàng thượng há có thể tin mấy lời nhảm nhí của họ? Trái lại quốc cữu gia, ông thật sự đã lén lút cấu kết với người man!”
Vương Quả cũng chẳng sá gì nữa, dập đầu như pháo kép bay lên trời, hòa với tiếng pháo rộn ràng khắp phố lớn ngõ nhỏ chốn kinh thành, chắc hẳn chỉ dựa vào thanh thế, cũng có thể khiến niên thú có đến mà không có về. (Niên thú là một ác thú trong truyền thuyết xưa, tương truyền mỗi đêm cuối năm nó sẽ đến tấn công con người.)
“Lão thần một tấm lòng trung thiên địa chứng giám, nhưng huyết mạch hoàng thất không thể lẫn lộn,” Vương Quả lớn tiếng nói, “Lão thần ôm mối nghi ngờ, khó nhịn chốc lát, bấy giờ mới ra hạ sách này, để Nhạn vương điện hạ tiến cung một chuyến…”
“Hòng từ người man kia bắt được bằng chứng Nhạn vương điện hạ không phải con ruột của tiên đế sao?” Phương Khâm cắt ngang, “Nói vậy Vương đại nhân vẫn là lo lắng cho xã tắc! Hoàng thượng, hóa ra Nhạn vương điện hạ là gian tế người man cài vào cung thất để xáo trộn huyết mạch hoàng thất, thế An Định hầu phụng mệnh tiên đế đón về từ Nhạn Hồi tiểu trấn, cũng là một hoàng tử giả vàng thau lẫn lộn? Chi bằng người triệu Cố đại soái và Thẩm tướng quân đến hỏi cho rõ, xem hai vị danh tướng triều ta có rắp tâm gì!”
Phương Khâm giống như bấm đốt ngón tay tính sẵn rồi, chưa dứt lời thì bên ngoài liền có nội thị vào báo rằng An Định hầu đến.
Lý Phong mặt trầm như nước: “Truyền.”
Cố Quân ở ngoài điện vừa vặn nghe thấy lời Phương Khâm, tiến vào cũng không khách khí, quỳ xuống nói thẳng: “Hồi bẩm Hoàng thượng, chúng thần năm đó phụng mệnh tiên đế tìm tứ điện hạ, diện mạo đặc trưng cơ thể và tuổi tác, tín vật đang giữ tất cả đều đã bẩm lên tiên đế, được lão nhân gia chấp nhận mới đón về, người cũng là tiên đế chính miệng nhận. Hơn nữa thần nhớ Hoàng thượng từng nói với thần, Nhạn vương điện hạ lúc nhỏ sống rất khổ, chịu đủ dưỡng mẫu ngược đãi, chắc hẳn man nữ kia đối đãi y cũng chẳng thật lòng gì, chẳng qua là không bỏ được huyết mạch của chị ruột mới miễn cưỡng nuôi thôi – Hổ dữ không ăn thịt con, nếu Nhạn vương điện hạ thật sự là ra từ bụng y thị, xin hỏi trên đời này có người làm mẹ ruột nào đối đãi cốt nhục của mình như vậy?”
Cố Quân mở miệng là có thể vả mặt người, Phương Khâm nở nụ cười như khóe môi rút gân.
Chỉ nghe Cố Quân một hơi nói xong lại chuyển sang Vương Quả: “Thần còn một việc muốn thỉnh giáo Vương đại nhân, xáo trộn huyết mạch hoàng thất có lợi ích gì cho ta? Nói một câu không dễ nghe, Huyền Thiết doanh ở Tây Bắc bao nhiêu năm, nếu ta thực sự cấu kết với người man, cửa ải Tây Bắc đã sớm bị phá mười vạn tám ngàn lần rồi – Trái lại quốc cữu gia, ngài luôn nhọc lòng thay người ta, mối hiềm nghi cấu kết man nữ giết hại trung lương của bản thân hơn hai mươi năm trước đã rửa sạch rồi à?”
Vương Quả thật sự sợ Cố Quân, trong sợ hãi còn có chột dạ, tính lão vốn dĩ yếu đuối, hoàn toàn là chó cùng rứt giậu liều cái mạng già mới khó khăn trụ được một hơi, lúc này vừa thấy Cố Quân, đừng nói là ngang ngược, lão ngay cả nói cũng không còn mạch lạc, mồ hôi lạnh túa ra như tắm.
Cố Quân hạ mình nói một câu với Vương Quả, dường như đã hao hết chút nhẫn nại ít ỏi mà y có, không nhìn lão thêm, trực tiếp tiến lên nói: “Hoàng thượng, Bắc man khinh người quá đáng, thần ở kinh thành đã hơn nửa năm, cát phong nhận rỉ dày hai ngón tay, thật sự không cần tàng phong nữa, thần xin đến Bắc cương!”
Cố Quân trên đường suy tới tính lui việc này, sứ tiết Bắc man hiện giờ giở trò, lại thêm lời đồn phía Thái tướng quân thám thính ra, rất có khả năng là Gia Lai Huỳnh Hoặc gà nhà đá nhau, y cần lập tức đến Bắc cương xác minh, nếu chính cục Bắc man sinh biến, chính là thời cơ tốt để xông vào, Bắc địa cái khác không có, chứ quặng tử lưu kim rất dồi dào, nếu thật có thể lấy chiến nuôi chiến, có lẽ không phải tiêu hao, mà là trợ lực.
Lý Phong lại hơi nhíu mày, thỉnh cầu này của Cố Quân tới quá gấp, hắn hơi lưỡng nan.
Một mặt, cũng là nửa giang sơn bị chiếm, đối với vương công quý tộc mà nói, “hoảng hốt dời đô rút lui” và “địa phương trời cao Hoàng đế xa bị man di chiếm đi một mảnh đất”, hai cảm thụ này là không giống nhau, cái sau có vẻ không mấy cấp bách – dù sao thì, hoang thôn “lệ tận Hồ trần lý”, hài cốt không nằm dưới lụa là gấm vóc của họ. Mà hiện giờ, quốc khố chậm rãi có được ít chân kim bạch ngân, hàng loạt lưu dân đã ổn định, cuộc sống mới hơi yên ổn, Lý Phong không hề muốn có chiến tranh vào lúc này.
Mặt khác, Lý Phong tuy gần đây chí khí tiêu mòn nhiều song vẫn rất nóng tính, nếu điều tra rõ người man thật sự tới cửa vả mặt hắn, hắn cũng không thể nuốt trôi cục tức này.
Hai ý nghĩ đấu sức bất phân thắng bại, hắn không lập tức trả lời Cố Quân, chỉ khoát tay nói: “Hoàng thúc đứng lên trước đi, việc động binh không thể lỗ mãng, thẩm tra trước rồi bàn sau – Người đâu, cởi quan phục của Vương Quả, tạm thời giam giữ chờ thẩm tra, Đại lý tự xử lý… Còn có điêu nô kia, nhất tịnh bắt luôn.”
Dứt lời, Lý Phong không cho Cố Quân cơ hội nói gì, trực tiếp đứng dậy nói: “Trẫm đi thăm A Mân một chút.”
Nhạn vương lúc đối phó Cố Quân phát huy bình thường, Trần Khinh Nhứ cảm thấy tên trâu bò này không việc gì, đang định rời khỏi thì vừa vặn đụng Lý Phong tiến vào, vội cúi đầu hành lễ, không quen lắm.
Lúc gãy chân Lý Phong đã từng gặp nàng, liền khách khí nói: “Vất vả cho Trần thần y, Nhạn vương thế nào rồi?”
Trần Khinh Nhứ thuận miệng bịa đại: “Người man dùng một loại vu độc đặc biệt, có thể mê hoặc thần trí, khả năng là muốn bắt điện hạ làm con tin để đào tẩu, may mà điện hạ phản ứng đúng lúc, tự cắt mình bị thương, kịp thời cho độc chảy ra, đã không sao rồi.”
Lý Phong những việc khác không hiểu lắm, chỉ thoáng nhíu mày, như cố ý như vô tình nói với Trường Canh: “Lấy cái gì cắt? Ngươi ra tay với mình cũng ác quá.”
Nghe thì như là quan tâm thương thế của Trường Canh, kỳ thực đang hỏi y mang đao làm gì.
Trường Canh giả bộ “ốm yếu”, vịn đầu giường chậm rãi quỳ xuống: “Thần đệ nhận được khẩu dụ của hoàng huynh khi đang ở chỗ Trần cô nương, thần vốn thích loay hoay với thảo dược, lúc ấy đang giúp nàng sắp xếp lại dược liệu trong tay, cung nhân giục gấp, liền mang tiểu ngân đao của nàng theo luôn… cũng là kế quyền biến.”
Nói đoạn, y lấy một thanh tiểu đao chưa dài bằng đầu ngón tay trên cái khay bên cạnh, căn bản là thứ dùng cắt dược liệu, không mài lưỡi, còn chưa sắc bằng dao ăn, hoàn toàn không tính là “lợi khí”.
Hiển nhiên lúc ấy Nhạn vương ra tay với mình rất ác, cắt một nhát mà đao kia đã cong đến biến dạng.
Trần Khinh Nhứ thấy thế thầm cảm khái, chậm rãi lui ra, trong phòng chỉ còn lại Lý Phong và Trường Canh hai người.
Lý Phong không nhịn được nhìn kỹ Trường Canh – ngoại hình rất được, nhưng không phải tướng phú quý trời tròn đất vuông.
Y có đôi vành mắt sâu đa tình si tình, còn có đôi môi mỏng phụ tâm bạc tình, do mới chảy máu nên hai má có vẻ nhợt nhạt đau bệnh. Nhìn kỹ hơn, mặt mày Nhạn vương tựa hồ có một chút của man phi năm đó, sống mũi thẳng giống tiên đế, song nằm chung với nhau thì nhìn y lại chẳng giống ai, là dáng bạc mệnh không thân không thích.
Lý Phong thản nhiên nhìn đi chỗ khác, nói với Trường Canh: “Bên ngoài có mấy lời đồn đại linh tinh, ngươi không cần bận tâm, cứ an tâm dưỡng thương, lão già Vương Quả kia mấy năm nay ngày càng cậy sủng mà kiêu đến quá đáng, ta nhất định sẽ bắt lão cho ngươi một cách nói.”
Lúc hắn nói “không cần bận tâm”, Trường Canh liền biết Lý Phong trên thực tế có bận tâm, vì thế chủ động đề cập: “Là hoài nghi ta không phải huyết mạch của tiên đế?”
Lý Phong dùng cách nói của Cố Quân, điềm nhiên cười bảo: “Ngươi nghĩ nhiều quá, năm đó là tiên đế chính miệng nhận ngươi, ai dám chõ mồm vào?”
Trường Canh nghĩ ngợi một tẹo, nói: “Việc thế này chẳng ai nói rõ được, đã như vậy, để tị hiềm, xin Hoàng thượng cho phép ta tạm thời từ chức thống lĩnh Sở quân cơ đi?”
Lý Phong híp mắt, không lập tức trả lời.
Trường Canh cười khổ nói: “Tân chính mới thành lập, ta ở lại vị tất có thể có bao nhiêu kiến thụ, cũng chỉ còn lại công dụng rước hận, xin hoàng huynh thương tình.”
Lời này vi diệu chọc trúng lòng Lý Phong.
Quả cân trong tay đế vương không ngoài hai chữ “thăng bằng”, dạo trước Lữ Dương hai đảng mưu phản, Ngự lâm quân làm loạn, ép hắn phải tự mình ra tay đàn áp cựu thế gia Đại Lương, mà đồng thời, tân quý mượn thế từ đại thương nhân, chớp nhoáng xông lên sân khấu, cũng ngày càng có thế phát triển lớn mạnh.
Lý Phong có thể dung nhẫn cho cây non lớn lên, cũng vui vẻ nhìn họ ngang vai ngang vế với các thế lực thế gia mắt cao hơn đầu, nhưng tuyệt không hi vọng cây non thành đại thụ chọc trời, chọc thủng nóc nhà. Thế lực này lớn mạnh thật sự quá nhanh-
Ngay cả quốc cữu đương triều cũng không thể đứng ngoài cuộc, lần này là Vương Quả, lần sau sẽ là ai? Chẳng lẽ muốn Hoàng đế xử trí sạch sẽ vương công cả triều sao? Đến lúc đó thiên hạ phải họ gì tên chi?
Tân chính phải mở ra một con đường máu, dưới kịch biến luôn có người phải hy sinh.
Lý Phong nhìn Trường Canh một cái: “Cũng tốt, ngươi gần đây thật sự lắm tai nhiều nạn, nghỉ ngơi đúng lúc cũng là điều nên làm.”
|
Chương 106: Phương Bắc
Chỉ trong một đêm, biến động bất ngờ.
Quốc cữu Vương Quả vinh sủng hai triều bị hạ ngục, nội thị trong cung dính dáng với lão rất nhiều, lần lượt bị lôi ra thẩm tra, trong cửu trùng cung khuyết lòng người hoảng sợ, nhổ củ cải kéo cả bùn lên mà tra ra một đống có và không, cựu án của Huyền Thiết doanh cũng không tránh khỏi bị lật lại, cây đổ bầy khỉ tan, cả triều đều bận phủi sạch quan hệ với nhà họ Vương, chỉ sợ dính một chút tội liên đới.
Mà sứ tiết man tộc ác ý làm loạn bị bí mật giam giữ, Bắc đại doanh luân phiên tuần tra, trận địa sẵn sàng chờ địch.
Nhưng kết quả cuối cùng của việc này ngay cả Phương Khâm cũng không liệu được-
Nhạn thân vương cái đinh trong mắt hắn lại từ chức quan, mà Hoàng đế Long An còn chuẩn!
Phương Khâm sống đến từng này tuổi, lần đầu tiên biết “thế sự khó liệu” là gì, khi hắn trăm phương ngàn kế muốn đối phó Nhạn thân vương, người ta sống khỏe re, lại suýt nữa lôi mình vào, lần này hắn hoàn toàn không định chen vào, hấp tấp phủi sạch quan hệ với Vương Quả, không tiếc đứng ở bên đối thủ… Kết quả lại thần xui quỷ khiến được như nguyện vọng!
Khó trách người xưa nói “Đế vương tâm thuật, thần quỷ bất ngôn”.
Đêm ấy đổ một trận tuyết rất to, trên hoa mai của hầu phủ kết một lớp sương trong suốt lóng lánh, ngưng đọng màu sắc trong đó, đẹp vô cùng.
Xe ngựa của người về đậu ở cổng, trên cửa hầu phủ mở hình chữ bát, đèn măng-sông bị tuyết phủ vẫn tận trung chức thủ hắt xuống một khoảng sáng nhỏ, thiết khôi lỗi giữ cửa sau một tiếng ngân dài “cót két” xoay người đi, hơi nước lặng lẽ bay ra, cửa phủ mở rộng.
Cố Quân nhảy xuống xe, xua tay với Hoắc Đan, tự mình vén màn xe nói: “Đưa tay cho ta.”
Vết thương Trường Canh cứa bằng ngân đao nhìn đáng sợ nhưng kỳ thực chưa hề thương gân động cốt, cho dù Trần Khinh Nhứ mặc kệ y, với thể chất của Ô Nhĩ Cốt cũng sẽ nhanh chóng kết vảy, đã sớm chẳng bị cái quái gì nữa rồi.
Song đối mặt với Cố Quân, không có việc y cũng sẽ tìm việc.
Trường Canh làm bộ làm tịch vịn tay Cố Quân xuống xe, thuận thế như không xương lao tới bám cứng tay và vai Cố Quân, nắm chặt tới mức hất không ra, cũng chẳng biết vết thương kiểu gì có thể giúp công lực tiến nhanh như thế.
Cố Quân biết y giả bộ, cũng biết y quả thật bị uất ức, không nhẫn tâm trách móc nặng nề, chỉ dùng tay vỗ nhẹ lưng Trường Canh, kéo áo choàng bọc lấy y, rảo bước vào cổng.
Hai người cuốn theo gió lạnh vào nhà, làm con chim trong ***g treo trên cửa sổ lạnh đến tỉnh lại.
Con chim kia đang say giấc nồng, bị gió lạnh thổi run lên, mất giấc ngủ tức quá mở miệng chửi luôn: “Khốn nạn, lạnh chết cha nó rồi… quác… quác quác… Cát tường như ý! Trăng tròn hoa thắm! Tiền vào như nước! Muốn sao được vậy!”
Cố Quân: “…”
Y và thần điểu này nhìn nhau một lúc lâu, rốt cuộc, con chim kia xấu hổ giơ một cánh lên che mặt, giống như cũng biết hình tượng khúm núm nịnh bợ của mình hiện giờ không mấy vẻ vang, chẳng còn mặt mũi gặp ai.
Trường Canh ở bên cạnh cười khẽ, Cố đại tướng quân xem như phục rồi.
“Lạnh đến đỏ bừng cả mặt,” Cố Quân sờ cằm Trường Canh, “Chịu một đao còn mất chức quan mà vui như vậy hả? Mau thay quần áo đi.”
“Không có chức quan càng nhẹ người, Trường Canh ý tứ sâu xa cười một tiếng, quay đi thay quần áo khô mát, sau đó ngồi bên cửa sổ, tóm con chim kia lại vuốt lông, con chim bị y vuốt ve đến run bần bật, sợ chết khiếp, “Này, Tử Hi à, nếu ta thật sự là do Hồ Cách Nhĩ đẻ ra, thế cha ta là ai?”
Cố Quân: “Đừng nghĩ ngợi lung tung.”
Trường Canh điềm nhiên cười nói: “Hắn tuyệt đối không phải người man, nếu không lúc ấy đã đi cùng bà ta rồi, nhưng nhất định quan hệ với man nữ không hời hợt, rất có thể tham dự vào chuyện vạch kế cho man phi lẩn trốn, sau đó tiếp quản thế lực người man trong kinh thành và cung cấm… Cho đến thời điểm kinh thành bị bao vây mới lộ ra dấu vết.”
Người y nói là Liễu Si đại sư, giống với phỏng đoán ban đầu của Thẩm Dịch.
Năm đó bị y tự tay bắn chết.
Cố Quân chẳng hề để ý mà bình luận: “Ngươi nói người Đông Doanh? Người Đông Doanh không cao được như ngươi, nhưng nếu mai kia ngươi thực sự biến thành xấu xí như lão hòa thượng miệng quạ đen đó, thì ta không thèm ngươi nữa đâu.”
Trường Canh nở nụ cười trong im lặng.
Cố Quân: “Ta đi kêu người nấu canh gừng, đừng để cảm lạnh.”
Trường Canh nghe vậy nhảy vọt lên, nhét con chim về lại ***g, với tay kéo một tấm vải đen to che lên, xấu xa nói: “Xua hàn không nhất định phải uống thứ đó, cứ để ta!”
Lúc này, người man mới bị thẩm qua một vòng bị giải vào thiên lao vây chặt mấy tầng.
Sứ giả man tộc bị đẩy vào nơi tối tăm ngột ngạt quay đầu lại, vừa vặn chạm tầm mắt Thẩm Dịch trên lưng ngựa, ánh mắt ấy khiến Thẩm Dịch căng thẳng.
Sứ tiết man tộc nhìn y thoáng nở nụ cười quỷ dị, đoạn ngâm nga một khúc ca: “Tinh linh sạch sẽ nhất, thiên phong cũng muốn hôn góc váy nàng…”
Họ ở thảo nguyên lâu năm, mỗi người đều có chất giọng tốt to rõ, giọng nam ấy hơi trầm thấp, quanh quẩn trong gió tuyết, có sự bi tráng đau buồn của sói hoang cùng đường, người đi tiếng ca còn vọng vang.
Thẩm Dịch cau mày nghe một lát, nghe thấy mùi đổi dời theo thời gian mà đến.
Tử lưu kim lặng lẽ cháy trong hộp vàng của mấy bộ trọng giáp đang tuần tra quanh thiên lao, từ bên ngoài có thể nhìn thấy một chút quầng sáng màu tím, hơi nước bay giữa trời băng đất tuyết, chớp mắt lác đác tan hết, thảo nguyên, phi mã, đao thương kiếm kích và xuy tiễn trường mâu nguyên thủy, nhất tịnh mất màu, đọng lại trong bóng lưng nặng nề đen sì như thiết khôi lỗi của trọng giáp.
Thẩm Dịch đột nhiên có cảm giác, như là một thời đại đang đi đến kết thúc ngay trước mắt y vậy.
Song y chỉ cảm khái chốc lát, mau chóng định thần lại, xốc hết mười phần tinh thần – nếu phỏng đoán của Cố Quân đúng, vậy nội bộ mười tám bộ lạc rất có thể đã chia rẽ, thời cơ chiến đấu thế này quyết không thể bỏ qua, phương Bắc rất có thể phải lập tức chiến tranh rồi.
Thẩm Dịch vừa dạo qua một vòng ngoài thiên lao, đang chuẩn bị đi về, thì đột nhiên một bóng trắng thoáng qua không xa, nhanh đến mức khiến người ta cảm thấy là mình hoa mắt. Nếu không phải Thẩm Dịch nhiều năm trên chiến trường tôi luyện ra trực giác nhạy bén thì cơ hồ không phát hiện được.
Thẩm Dịch dùng tay ra hiệu cho mấy vệ binh không hay biết gì ở quanh đó, dẫn đầu cầm cát phong nhận tiến vào thiên lao. Y càng đi càng kinh hãi, trên mặt đất vậy mà ngay cả một dấu chân cũng không có, thiên lao trống trải im ắng, hai lao đầu canh cửa thì một ngồi một đứng, đờ đẫn bất động, nhìn kỹ mới thấy đã lặng yên ngất đi.
Đột nhiên, sau đầu Thẩm Dịch chợt truyền đến một trận gió nhẹ, y lao về phía trước theo bản năng, đưa tay rút cát phong nhận sau lưng, vung về phía sau – bị hụt.
“Keng” khẽ một tiếng, cát phong nhận chạm phải thứ nào đó đặc biệt nhẹ, Thẩm Dịch không hề quay đầu lại lao về phía trước, đến góc nhảy lên, hai chân mượn lực trên tường, cả người lật lại, túm góc áo kẻ đột nhập, y thuận thế kéo xuống, mạng che trên mặt người nọ bất ngờ bị lôi xuống, lại là Trần Khinh Nhứ.
Thẩm Dịch: “…”
Y cơ bản không biết mình hạ đất thế nào, đần thối há hốc miệng, suýt nữa trẹo chân.
Ngay sau đó, bên kia vọng tới tiếng bước chân dồn dập, là vệ binh Bắc đại doanh đi theo, Thẩm Dịch định thần lại, mau chóng lắc đầu với Trần Khinh Nhứ, đẩy nàng vào một góc khuất sáng, kế đó điềm nhiên cất cát phong nhận, quay người thong thả bước ra.
Vệ binh: “Thẩm tướng quân, sao vậy?”
Thẩm Dịch nhàn nhạt nói: “Không có gì, ta nhất thời nhìn lầm, người man kia thủ đoạn quỷ quyệt, bảo các huynh đệ cảnh giác một chút.”
Chúng vệ binh không nghi ngờ y, mau chóng xếp thành mấy đội, tản đi nơi khác tuần tra.
Thẩm Dịch đứng tại chỗ một lát để bình tĩnh lại, hít sâu mấy hơi liền, tim muốn nhảy ra.
Một lúc lâu sau, y lặng lẽ lau sạch đợt mồ hôi lạnh thứ hai trên tay, quay sang chỗ Trần Khinh Nhứ ẩn thân: “Sao Trần cô nương lại ở đây?”
Trần Khinh Nhứ tới để gặp sứ tiết man tộc, nàng không muốn từ bỏ một chút manh mối của Ô Nhĩ Cốt, trước lúc đến đã nói với Trường Canh, Trường Canh vốn định nhờ người trong quân hỗ trợ, nhưng Trần Khinh Nhứ tự mình cân nhắc một chút, cho rằng mình không định cướp tù, chỉ là nhân đêm lẻn vào thiên lao đi một vòng, vấn đề hẳn không lớn, chuyện Ô Nhĩ Cốt nên càng ít người biết càng tốt.
Nàng thật sự không liệu được mình sẽ bị bắt, còn là người quen bắt, lập tức xấu hổ chắp tay nói: “Đa tạ tướng quân thủ hạ lưu tình, ta đến thiên lao là muốn xác định với sứ tiết man tộc vài việc – Thẩm tướng quân có thể xem cái này.”
Nói xong, nàng lấy từ trong lòng ra một phong thư tay của Trường Canh, trên đóng tư ấn của Cố Quân, đây là Nhạn vương mượn thế Cố Quân mở cửa sau cho nàng, Trần Khinh Nhứ ban đầu không định nhận, lúc này mới âm thầm lấy làm may mắn, may mà có thứ như vậy, không thì khó mà giải thích được.
Phong thư này nàng vẫn cất trong ngực, còn đượm hơi ấm, lúc nhận tay Thẩm Dịch run lẩy bẩy, như thể nằm mơ mà xem một lần, thật đúng là từng chữ đều như mây khói thoảng qua, một giọt mực cũng có thể tiến vào bộ óc cháy khét của y.
Thẩm Dịch ở cùng Trần Khinh Nhứ trong căn phòng nhỏ hẹp, thế mà chẳng dám ngẩng đầu nhìn người ta.
Trần Khinh Nhứ thấy y một lúc lâu không nói gì, liền nhắc nhở: “Bên trên có tư ấn của Cố hầu gia đấy.”
Thẩm Dịch như vừa tỉnh mộng: “A… À, phải, thế cô cẩn thận một chút, ơ… mời vào.”
Trần Khinh Nhứ thở phào nhẹ nhõm, đi vào thiên lao, đi vài bước phát hiện Thẩm Dịch vẫn chưa đuổi theo, lại nói: “Nếu tướng quân không yên tâm thì có thể đi cùng.”
Thẩm Dịch tiếc chữ như vàng gật đầu một cái: “Ừm, quấy rầy.”
Nói xong, y cũng chỉ im lặng theo cách Trần Khinh Nhứ năm bước, thở mạnh cũng không dám, còn yên lặng hơn cả thiết khôi lỗi không có sinh mệnh. Trong thiên lao tối đen như mực, Trần Khinh Nhứ cũng không nhìn thấy mặt Thẩm Dịch đỏ thành đít khỉ, trong lòng còn đang ngạc nhiên – Không phải đều nói vật họp theo loài à? Sao bên cạnh An Định hầu còn có một người đứng đắn cổ hủ như vậy?
Hai người không chuyện trò gì mà đi thẳng đến trước gian đơn của sứ tiết man tộc, Thẩm Dịch rốt cuộc mở cái miệng tôn quý, nói như đếm chữ: “Người này tên Xích Khố Do, là tâm phúc của Lang vương Gia Lai.”
Y đột nhiên lên tiếng như xác chết vùng dậy, Trần Khinh Nhứ giật nảy mình, đầu ngón tay tức khắc lóe ngân quang, suýt nữa lấy hung khí ra. Thẩm Dịch đương nhiên nhìn thấy, ảo não ngậm miệng lại, càng không dám lên tiếng.
Lúc này, vẫn là kẻ địch giải cứu Thẩm tướng quân sắp chui vào qua kẽ tường thiên lao, Xích Khố Do trong gian đơn nghe y giới thiệu liền thong thả tiếp lời: “Người khác đều nói ta là phản đồ bên cạnh Lang vương, vị tướng quân này trái lại tuệ nhãn như đuốc.”
Thẩm Dịch vừa gặp hắn thì mồm mép liền lưu loát hơn: “Phản đồ? Nói vậy đồn đãi quý bộ nhị vương tử soán vị là thật?”
Xích Khố Do lắc đầu, đến nông nỗi này rồi, cũng chẳng còn gì để giấu giếm, thản nhiên nói: “Nhị vương tử chẳng qua là một đứa trẻ, còn chưa tới tuổi sinh dã tâm, nhưng mà mười tám bộ lạc dưới Lang vương chỉ có ba vị vương tử, thế tử đã bị họ nhốt, tam vương tử… Ha ha, là một kẻ ngốc ăn mặc đi lại đều cần người hầu hạ, cũng chỉ còn nhị vương tử có thể miễn cưỡng làm con rối cho bọn họ mà thôi.”
Thẩm Dịch nhạy bén bắt được hai chữ “bọn họ”, những tâm nhãn đó chỉ cần không ở trên người Trần cô nương là có thể xoay chuyển nhanh chóng, lập tức kịp phản ứng – Man tộc phương Bắc tên là “liên minh mười tám bộ lạc”, vốn đã không phải là một thể, muốn làm vua bầy sói, ngoại trừ cho mọi người ăn no mặc ấm ra, còn phải có răng nhọn cắn đứt được cổ kẻ khác.
Thẩm Dịch híp mắt, thăm dò: “Sao? Lang vương vậy mà có thể dung nhẫn ư?”
Xích Khố Do cười khẩy một tiếng: “Anh hùng ngút trời chung quy cũng có ngày già nua, nếu không làm sao đến phiên chó hoang ra mặt?”
Thẩm Dịch đã hiểu, Gia Lai Huỳnh Hoặc không phải bị thương thì là bị bệnh, chỉ sợ đã mất đi quyền khống chế mười tám bộ lạc.
Y buông cát phong nhận bên hông xuống, mũi đao cách vỏ, cầm trên tay y vừa vặn có thể chống đất, đồng tử Xích Khố Do hơi co lại – Huyền Thiết doanh vĩnh viễn là bóng ma bao phủ trên đầu ba đời mười tám bộ lạc.
Thẩm Dịch dùng giọng điệu văn nhã hàn lâm nói: “Lang vương quý bộ tính tình rất cực đoan, mấy năm nay liên tục gây chiến, chắc hẳn các tộc nhân cũng chẳng được mấy ngày yên ổn, hiện giờ Tây Bắc ta có trọng binh canh gác, dũng sĩ trên tay Lang vương vị tất còn có tâm và sức để chiến một trận, thứ cho ta ngu dốt, vì sao quý sứ phải trăm phương ngàn kế chui vào đoàn sứ tiết phá hoại việc đàm hòa? Chẳng phải là liên lụy tam vương tử một đứa trẻ vô tội?”
Xích Khố Do bình tĩnh nhìn y một cái: “Tướng quân nói có lý, những người đó trong liên minh mười tám bộ lạc chỉ sợ cũng đều nghĩ như vậy, nhưng đây không hề là tâm nguyện của vương ta. Ta từng thề với trường sinh thiên là trung với vương ta, cho dù gánh tội danh bội tín phản đồ, cũng phải giúp vương hoàn thành tâm nguyện.”
Thẩm Dịch: “Xin chỉ giáo.”
“Mãnh thú phải có dáng vẻ của mãnh thú, nếu mười tám bộ lạc tương lai rơi vào tay đám người vẫy đuôi nịnh bợ kia, bị Đại Lương dạy thành một con chó đào tử lưu kim, chẳng thà để họ bị diệt luôn từ đây, chết trên đường phấn võ chiến đấu.” Xích Khố Do nhìn Thẩm Dịch nói, “Tướng quân quạ đen, ta hỏi ngươi, ngươi muốn sống trong cảnh thảm hại, hay chết trong liệt hỏa.”
Xích Khố Do này nói chuyện như bọn khốn nạn, Trần Khinh Nhứ vốn tưởng Thẩm Dịch chẳng thèm để ý tới, không ngờ Thẩm Dịch nghe hỏi, vậy mà thật sự trả lời đàng hoàng: “Bản thân ta thì muốn chết trong liệt hỏa, nhưng cũng biết đạo lý ‘kiến còn tham sống’, người nhập ngũ thủ biên cương, bảo vệ những người càng muốn sống hơn là đương nhiên, ta không hề cho rằng cuộc sống ngư tiều canh độc bình yên có gì thảm hại cả – nếu tộc nhân thực sự sống rất thảm hại, đó cũng là lỗi của người thượng vị cầm lợi khí.”
Thẩm Dịch nói xong, cảm thấy mình đại khái đã có được một chút tin tức, liền lui ra phía sau một bước, nho nhã lễ độ đưa tay làm động tác “mời” Trần Khinh Nhứ: “Nhạn vương nhờ vị cô nương này hỏi ngươi một câu, hai ta bớt tán dóc đi.”
Lúc nghe thấy hai chữ “Nhạn vương”, biểu cảm của Xích Khố Do hơi thay đổi, tựa hồ có chút cổ quái, lại phảng phất là cảm khái, không đợi Trần Khinh Nhứ mở miệng, hắn đã nói trước: “Cô là vì Ô Nhĩ Cốt mà đến sao?”
Khi Trần Khinh Nhứ đến, Trường Canh nhờ nàng chuyển một câu tới Xích Khố Do, “Giao ra bí mật của vu độc man tộc, ta sẽ cho thứ ngươi muốn”, lúc trước Trần Khinh Nhứ không hiểu ý câu này là gì, hiện giờ nghe đối thoại ông gà bà vịt của Xích Khố Do và Thẩm tướng quân, cuối cùng đã hiểu đôi chút, liền nói ra lời này.
Xích Khố Do nghe thế, trên mặt hiếm thấy có một chút suy tính, sau đó thái độ hết sức nghiêm trang hồi đáp: “Về Ô Nhĩ Cốt, ta chỉ biết cách kích phát và khống chế, về phần luyện chế như thế nào, chỉ có thủ lĩnh và thần nữ mới biết, đó là bí mật bất truyền, thứ cho ta không thể hứa hẹn.”
Trần Khinh Nhứ: “Thế còn cách giải?”
Xích Khố Do nghe vậy sửng sốt: “Cô nói cái gì? Cách giải?”
Hắn thở dài, bĩu môi nói: “Nữ nhân Trung Nguyên, Ô Nhĩ Cốt không phải là mấy thứ độc dược kém cỏi của người Trung Nguyên các cô, ăn xong không chết, nuốt giải dược vẫn sống được – Ô Nhĩ Cốt luyện thành chính là Ô Nhĩ Cốt, y đã thoát thai hoán cốt, không còn là người nữa, cô muốn đánh y về nguyên hình, cũng giống nhét chó con đã đẻ ra về bụng mẹ, để nó sinh lại thành thỏ, đó là không khả thi.”
Trần Khinh Nhứ không dễ lừa như vậy: “Cái gọi là ‘thoát thai hoán cốt’, lừa người ngoài nghề còn được, nếu quý sứ thực sự có thành ý, tốt nhất đừng dùng mấy lời nhảm nhí này để gạt ta.”
Xích Khố Do đảo mắt, giảo hoạt cười nói: “Thật không khéo, ta chính là một ‘người ngoài nghề’ – Hồ Cách Nhĩ thần nữ cuối cùng đã chết hai mươi năm, trước khi chết đem cấm thuật của thần nữ truyền cho vương ta, tam vương tử chính là Ô Nhĩ Cốt ngài tự tay tạo nên… Tuy rằng bị tư chất của kí chủ hạn chế, Ô Nhĩ Cốt này không hề hoàn chỉnh, nhưng nếu các ngươi muốn bí mật của Ô Nhĩ Cốt, có thể đi tìm ngài – chỉ cần quạ đen của các ngươi có thể giết hết đám chó hoang tù vây Lang vương.”
Man sứ này quỷ kế đa đoan, rành rành ý đồ gây sự dẫn chiến, nhưng tốt xấu gì cũng xác định một việc – nếu tam vương tử thật sự là Ô Nhĩ Cốt thì ở chỗ Gia Lai Huỳnh Hoặc quả thực có cấm thuật của thần nữ hoàn chỉnh, đây là một phương hướng.
Trần Khinh Nhứ không nói thừa nữa, quay đầu đi ngay, ngày hôm sau liền để thư lại rời khỏi kinh thành.
Thẩm Dịch cơ hồ phát điên, chỉ hận không thể lập tức mọc cánh bay đến tiền tuyến phương Bắc, ngày ngày chạy tới quấy rầy Cố Quân, Cố Quân không chịu nổi làm phiền, liên tục chạy vào cung.
Rốt cuộc, ngày mùng ba Tết, Lý Phong đồng ý, lệnh cho Cố Quân âm thầm đến tiền tuyến phương Bắc, cẩn thận hành sự, tra xét động hướng của mười tám bộ lạc, nhưng không thể tùy tiện động binh.
Nhạn vương không tiện đi theo tới tiền tuyến, tiễn người một mạch đến ngoài Bắc đại doanh, trong lòng tự dưng trỗi lên sự nôn nóng vô lý do.
Y ngoảnh lại thoáng nhìn phương hướng tầng tầng cung khuyết, thấp giọng phân phó xa phu: “Đến Vọng Nam lâu.”
|
Chương 107: Rắc rối
Đêm đầu tiên Cố Quân rời khỏi kinh thành, vừa gắn kính lưu ly lên thì kẹp đột nhiên gãy lìa một cách lạ lùng, kính từ mũi y lăn thẳng xuống, vừa vặn đập lên kiên giáp bằng huyền thiết, nứt toác.
Tướng quân sắp xuất chinh, vật tùy thân hư hại là điềm xấu, thân binh giật nảy mình, sợ Cố Quân kiêng kỵ.
Cố Quân dụi mũi: “Chậc, ta đây là không thầy tự thông Kim chung tráo và Thiết bố sam rồi?”
Thân binh nhanh trí nói: “Đây là ‘toái toái bình an’, Đại soái, để ta đi lấy cho ngài cái khác.” (Toái đồng âm với tuế, nghĩa là năm nào cũng được bình an)
Thân binh chăm lo cuộc sống hàng ngày của y, biết trong tay nải của y nhất định có kính lưu ly dự phòng, nhưng trong quá trình tìm kiếm, bất ngờ nhìn thấy trong quần áo tùy thân của Cố Quân có kẹp một phong thư to, cầm lên thấy rất dày, gắn bằng xi, trên viết mấy chữ “Gửi Cố soái”.
An Định hầu trăm công nghìn việc, nhất định không có sở thích tự viết thư cho mình, thứ này xen lẫn trong quần áo, nhìn kiểu nào cũng thấy hơi có ý “da thịt thân cận”, tự nhiên có cảm giác thân mật mờ ám.
Ai sẽ là người sắp xếp quần áo cho Cố Quân?
Ngoại trừ đám lão hạ nhân râu bạc của hầu phủ, e cũng chỉ còn lại hồng nhan tri kỷ.
Xi chưa mở, có lẽ bản thân Cố Quân vẫn chưa phát hiện, tiểu thân binh chợt thông minh, hăm hở đem cả kính dự phòng lẫn phong thư đến cho y, cười gian nói: “Đại soái, trong quần áo của ngài kẹp một phong tín hàm quan trọng, mau xem đi, đừng quên mà lỡ việc.”
Cố Quân đeo kính thần sắc là lạ xem qua nét chữ quen thuộc trên phong thư, nhìn lên thấy bộ dạng nháy mắt bỉ ổi của tiểu thân binh, cười mắng: “Nhìn gì mà nhìn, mau cút đi.”
Thân binh cười “hì hì”, không thò đầu dòm nữa, làm mặt quỷ chạy mất.
Phong thư ấy cầm trong tay khá nặng, nhấc lên như một quyển sách dày, nếu là thư tình thì chắc phải bắt đầu viết từ hồi Nhạn vương điện hạ còn mặc tã, Cố Quân vừa xé ra vừa nghĩ lung tung: “Khế nhà? Khế đất? Phong hỏa phiếu? Bạc? Hay bí tịch trường sinh bất lão?”
Song khi mở ra xem nội dung bên trong, y cơ hồ chấn kinh vì thứ trong đó.
Đó là một tập bản vẽ dày cộp, toàn là giấy Hải Văn mềm dẻo, giấy Hải Văn nước lửa không xâm, nhưng một số chỗ vẫn ố vàng cong mép, hiển nhiên đã vẽ nhiều ngày, nét mực trên giấy đậm nhạt không đều, đại khái là nguyên chủ nhiều lần chú thích, không phải vung lên mà thành.
Đè trên cùng là một tờ bản đồ toàn cảnh Đại Lương rất to, mở ra có thể che kín cả nền nhà, tam giang ngũ hồ, Man Kinh Âu Việt… không phân lớn nhỏ, nằm hết trên giấy, trên bản đồ còn lít nhít chữ tiểu Khải cực nhỏ làm dấu – muốn phá núi ở nơi nào, muốn dựng nhà xưởng khắp nơi nào, non xanh nước biếc nào cá gạo ê hề, cảng nào thích hợp mở rộng mà hướng mặt ra tứ hải, nơi đâu có thể để hải giao chân chính bay xa vạn dặm, chỗ nào có thể mở một con đường chuyên dùng cho tử lưu kim…
Vùng nào phải sửa quan đạo, vùng nào phải dùng cự diên và đại điêu đã cải tiến nối liền, còn có đường ray vẽ trên giấy như động mạch bò khắp toàn cảnh – đó là đường ray của loại xe hơi nước Tây Dương mà Trường Canh từng nói, chạy ngoằn ngoèo như hàng rồng rắn, có thể đi ngàn dặm một ngày.
Phía dưới bản đồ kèm một bản thiết kế ray xe hơi nước, kèm thêm chú giải chuyên nghiệp của Phụng Hàm công, và tính toán về vận lực lẫn tiền bạc lương thực Đỗ tài thần viết bên cạnh.
Ngoài ra, trong xấp giấy Hải Văn dày cộp này còn có thuyết minh lại chế Đại Lương tương lai, “Sở quân cơ” và “Ban vận hà” đã thực hiện, nhưng vẫn còn rất nhiều chức vụ Cố Quân chưa nghe bao giờ, tầng cấp rõ ràng, hiệu suất cực cao.
Những ví dụ như thế không phải là ít-
Nếu Cố Quân năm năm trước nhìn thấy mấy thứ này, không chừng phải cho là ý nghĩ hão huyền của thoại bản sư dân gian, mà nay, dù rằng rất nhiều việc chưa hoàn thành, nhưng đã sống động như thật, thành và không thành đều không còn là thần thoại nữa.
Mà dưới những bản vẽ tựa như ảo tưởng này còn kẹp một bức vẽ, bút pháp không hề tinh vi, hiển nhiên người vẽ không rành môn này, nhưng ý cảnh rõ nét, vài nét ít ỏi, phác họa ra một đứa trẻ bắn pháo ven đường, đằng sau có một gốc cây ăn quả không biết mọc cái gì, chi chít rực màu ở đầu cành, chẳng biết là hoa hay quả – mà nơi xa sơn thủy tầng tầng lớp lớp nhuộm lên rìa, có vẻ vừa vui mừng, vừa yên bình.
Trên bức họa không đề tên cũng chẳng đề thơ, chỉ đề “thiên hạ thái bình” như ghi chú.
Giang sơn vô biên như gấm, đều nằm trong bút mực.
Ngực nóng lên, Cố Quân theo bản năng đè tay lên, lúc này mới phát hiện mình vậy mà vô thức nín thở, không nhịn được đỡ trán nở nụ cười trong im lặng, Tiểu Trường Canh giỏi làm nũng đáng thương đáng yêu, song Nhạn vương chấp bút xã tắc mới làm y động dung.
Chớp mắt, Cố Quân và Thẩm Dịch đã đến tiền tuyến Bắc cương, đồng thời bí mật điều động một phần Huyền Thiết tam bộ hội hợp phía sau thành phòng quân phương Bắc, thống lĩnh thành phòng Bắc cương ban đầu đã chết trận khi người man xâm chiếm, Bắc cương trọng địa không thể không có lão tướng, vẫn liên tục do Thái tướng quân tạm thay.
Thái Phân già thật rồi, mỗi năm một già hơn, lần trước khi Cố Quân liên thủ tiễu phỉ, cảm thấy lưng ông còn chưa cong như bây giờ, tay ông còn chưa run nhiều như bây giờ.
Kỳ thực cũng phải thôi, một nam nhân cả đời có thể có bao nhiêu năm tháng thẳng tiến không lùi? Có thể có bao nhiêu nhiệt huyết tùy ý đổ cũng không nguội lạnh một phần? Thời điểm hai ba mươi tuổi tung hoành sa trường, công danh trĩu nặng, chờ già rồi, mệt rồi, dù cho thần hồn rèn đúc từ sắt thép còn đó, cũng chỉ có thể bắt đầu phí tâm huyết, chẳng phải sẽ như hồng nhan khó mà lâu bền sao?
Chiến trường Bắc cương liên tục giằng co, song không như tiền tuyến Giang Bắc cách Trường Giang, tuy người man không dám có động tác lớn, nhưng hằng ngày vẫn xung đột không ít, giữa người Trung Nguyên và người man dăm ba hôm sẽ có một chiến dịch cỡ trung hoặc cỡ nhỏ, toàn quân trên dưới đều phải gối giáo chờ sáng, tuần tra suốt đêm không dám lơi lỏng. May mà đôi long phượng thai nhỏ nhất dưới gối Thái Phân đều đã sắp tròn hai mươi, con cái phần lớn đã thành nhân, “quân Thái gia” đã rất ra dáng, ít nhiều có thể san sẻ gánh nặng, không để lão tướng quân chết mệt.
Hiện giờ dọc đường thôn quách thành trấn gần Bắc cương đã mười nhà trống chín, vốn đã không mấy trù phú, lại thêm chiến họa liên tục, đạo tặc hoành hành, không nỡ bỏ nhà cửa, vậy thì chỉ có thể bỏ mạng.
“Từ sau khi man sứ vào kinh đàm hòa mới hơi yên ổn,” Thái Phân ho khan vài tiếng, nói, “Thám báo tới nói người man đang gom góp chuẩn bị tử lưu kim cống nạp theo điều kiện đàm hòa, chắc cũng chỉ một hai ngày này, nếu thật là như vậy, sợ rằng lần đàm hòa này không phải là không có thành ý – Đại soái đến vì tử lưu kim cống nạp của họ à?”
Tin tức man sứ bị giam ở kinh thành còn phong tỏa, bọn Cố Quân đi quá nhanh, cho dù bí mật bị lộ, lúc này vẫn chưa truyền đến tiền tuyến, Thái Phân còn chưa biết đàm hòa xảy ra biến cố.
Cố Quân và Thẩm Dịch liếc nhìn nhau, y tổng lĩnh toàn cảnh, trong lòng đều nắm được, nhưng để bảo đảm, vẫn tỉ mỉ hỏi lại một lần các loại tình huống của mười tám bộ lạc.
“Không sai,” Thái Phân nói, “Phương Bắc năm nay nạn bão nghiêm trọng, bò dê chết không ít, thịt không đủ, chút ít nuôi trồng ở bản địa nhất định không đủ ăn, càng miễn bàn tới đánh trận. Sau khi Đại soái đánh hạ Tây Vực, cơ bản cũng chặt đứt đường vận chuyển tiếp viện của người man, song ta nghe nói người Tây Dương ở Giang Nam sống cũng chẳng tốt lắm, cho dù không đứt, vị tất có bản lĩnh lo cho họ.”
Thẩm Dịch nói: “Ta từ một đường khác biết được, nhị vương tử phía Thiên Lang soán vị tựa hồ không phải xuất phát từ bản ý, mà là liên minh mười tám bộ lạc xảy ra vấn đề.”
Thái Phân nghĩ ngợi, gật đầu nói: “Thẩm tướng quân nói có lý, kỳ thực lúc mới vào mùa đông năm nay, đã có một số người man trộm đào tử lưu kim đổi lấy cái ăn, xem số lượng chỉ sợ vị tất là dân thường làm riêng lẻ, khi đó ta đã cảm thấy mười tám bộ lạc e rằng phải tan, quả nhiên, chưa bao lâu đã xảy ra chuyện nhị vương tử nhốt cha anh.”
Thẩm Dịch nhìn Cố Quân một cái, Cố Quân hơi gật đầu.
Thái Phân nhận thấy khác thường, nghi hoặc hỏi: “Đại soái, sao vậy?”
Thẩm Dịch lúc này mới kể vắn tắt tiền căn hậu quả vụ man sứ bị giam trong kinh.
Thái Phân lấy làm kinh hãi, giây lát sau thần sắc nghiêm trọng lắc đầu: “Đại soái, Thẩm tướng quân, dù cho mười tám bộ lạc có lục đục, Gia Lai Huỳnh Hoặc muốn dẫn ngoại vào để an nội, hay nổi điên muốn ngọc nát đá tan cũng thế, hà tất mất công phái người trà trộn vào kinh thành? Cho dù đến trú địa Bắc cương ta phóng hỏa, hiệu quả cũng trực tiếp hơn, chẳng lẽ trong tay hắn trừ một thị vệ ra thì không còn ai khác để điều phối?”
Thẩm Dịch lắc đầu: “Như vậy tuy thuận tiện, song người cầm quyền thực tế của Thiên Lang bộ hiện tại rất có thể sẽ đẩy một hai kẻ chết thay ra, làm thế chẳng giải quyết được gì.”
Mười tám bộ lạc thống nhất dưới cờ Lang vương đã mấy trăm năm, gia tộc Lang vương trong lòng tộc nhân có uy vọng rất cao, đã hơi giống hoàng thất Trung Nguyên, những kẻ có dị tâm đó ngoài mặt vị tất dám động vào Gia Lai, cho nên mới trăm phương nghìn kế đẩy nhị vương tử ra làm con rối. Mà nếu thật như man sứ Xích Khố Do tính toán, ở trên đại điện dẫn phát Ô Nhĩ Cốt, khống chế Nhạn vương, Đại Lương dù làm cho thiên hạ bách tính xem, cũng phải bức thẳng vùng trung tâm mười tám bộ lạc, yêu cầu Lang vương giao giải dược – Gia Lai muốn bức phản đồ đến hoàn cảnh “hoặc nghênh chiến Đại Lương”, “hoặc trở mặt giao Lang vương ra mà gánh bêu danh”.
Thái Phân nhíu mày: “Gia Lai Huỳnh Hoặc là một con chó điên, nhưng vị tất điên đến mức ấy, có thể nhẫn cũng sẽ nhẫn, hiện tại dẫn chiến, hắn dựa vào cái gì? Người chết đói trong mười tám bộ lạc?”
Thẩm Dịch bị hỏi thế không trả lời được.
Cố Quân lại đi đến bên cạnh sa bàn, chắp tay sau lưng đứng một hồi: “Hắn quả thật có chỗ dựa – nếu người Tây Dương ở Giang Nam muốn chúng ta chuyển dời trọng điểm chiến lược đến phương Bắc.”
Thẩm Dịch và Thái Phân cùng lấy làm kinh hãi.
Cố Quân đưa tay lướt qua sa bàn: “Đường vận chuyển vật tư bị chặn, đạn tận lương tuyệt, tiếp tục lần lữa chỉ có một con đường chết, không phải đầu hàng thì là tử chiến đến cùng, trừ phi nam bắc liên hợp liều một phen, không cho Đại Lương nghỉ xả hơi, bất ngờ xâm nhập nội địa, đánh cho trở tay không kịp, dùng sức mạnh lại lần nữa đả thông liên lạc, như vậy sẽ có sinh lộ. Nếu ta là Gia Lai Huỳnh Hoặc, chưa chừng cũng sẽ chó cùng rứt giậu như vậy… Tiền đề là người Tây Dương bằng lòng phối hợp.”
Thái Phân: “Ý Đại soái là…”
Thẩm Dịch choàng tỉnh ngộ: “Người Tây Dương chiếm ốc thổ nửa giang sơn ta, liên tục lấy chiến nuôi chiến, nạo ba thước đất cướp đoạt mồ hôi nước mắt nhân dân, còn bắt rất nhiều lao động đi khai thác mỏ chở về nước, hòng duy trì trao đổi với trong nước, cũng đang có ý định ‘nghỉ ngơi lấy lại sức’. Gần đây Chung tướng quân không ngừng điều chỉnh bộ thự thủy quân, Linh Xu viện lại đưa một loạt hải giao mới đến tiền tuyến Giang Bắc, động tác ấy làm người Tây Dương bất an, cho nên Giáo hoàng kia lừa Gia Lai dốc toàn lực động thủ, đẩy mười tám bộ lạc ra làm khiên, một khi trọng điểm chiến lược của chúng ta dời về hướng Bắc, tất nhiên không rảnh chú ý phương Nam, đến lúc đó Giáo hoàng đưa tới tín hiệu đàm hòa, triều đình bịt mũi cũng phải nhận, không chừng phía Nam Trường Giang sẽ danh chính ngôn thuận rơi vào tay họ!”
Thái Phân ngẩn người: “Đại soái, thế phải làm sao bây giờ?”
Cố Quân bật cười: “Chờ, đâu phải chỉ người Tây Dương biết dẫn họa thủy về đông.”
Ba ngày sau, Huyền Thiết doanh bí mật tập kết ngang nhiên xuất hiện ở tiền tuyến Bắc cương, tiền tuyến vốn trong bầu không khí “đàm hòa” mờ ám đột nhiên căng thẳng hẳn.
Mười tám bộ lạc đối với Huyền Thiết doanh có sự sợ hãi từ trong xương tủy, ngay hôm ấy liền ngồi không yên, một kỵ binh chạy như bay tới hỏi, Cố Quân trực tiếp sai người trói sứ giả lại, gióng trống khua chiêng thả ra tin tức man sứ Xích Khố Do làm loạn, cùng lúc đó, Huyền Thiết hổ phù truyền lệnh cho trú địa Giang Bắc phong kín thủy vực, dừng việc tuần tra hằng ngày, rút về phần lớn người của Linh Xu viện ở miền Nam, ra vẻ hai bờ sông đang đàm hòa.
Người man ở phía Nam tự có tai mắt, chẳng mấy chốc tin tức ven bờ Lưỡng Giang liền truyền tới.
Mười tám bộ lạc om sòm lên, người nằm vùng của Thái tướng quân ở Bắc man tới báo, liên minh mười tám bộ lạc một ngày xung đột hai lần, vương trướng của Gia Lai Huỳnh Hoặc bị vây chật như nêm cối, không ai được tới gần.
Hôm sau, người man liền đưa hai cái đầu người và hốt hoảng gom góp một phần tử lưu kim đến tiền tuyến Bắc cương, Cố Quân nhận đồ, sứ giả thì ném ra, đồng thời cho Huyền Thiết doanh tiến lên mười dặm, rõ ràng không chịu để yên.
Nội loạn của địch nhân đã hiện rõ.
Thẩm Dịch lại quýnh lên, xông thẳng vào soái trướng của Cố Quân: “Bên phía Trần cô nương phải làm thế nào?”
Cố Quân đang nói chuyện với Hà Vinh Huy và Thái Phân, nghe vậy dù bận vẫn ung dung ngẩng đầu hỏi: “Trần cô nương nào?”
Chuyện bát quái thế này Cố đại soái dĩ nhiên phải cùng hưởng, Hà Vinh Huy và Thái Phân hiển nhiên đã biết rõ, Hà Vinh Huy cười khẽ, Thái lão tướng quân thì lắc đầu.
Thẩm Dịch chẳng để ý nhiều thế, nói thẳng: “Đừng làm bộ! Chỉ sợ Trần cô nương hiện tại đã đến mười tám bộ lạc rồi, chỗ họ loạn như vậy…”
Còn chưa dứt lời thì một người đội mũ từ bên ngoài đi vào.
Thẩm Dịch: “…”
Trần Khinh Nhứ vén mạng che mặt ra, lấy làm lạ hỏi: “Thẩm tướng quân nói ta à?”
Lâm Uyên các tự có chim gỗ truyền tin, Trần Khinh Nhứ trên đường nhận được tin tức, chạy thẳng tới chỗ trú quân Bắc cương.
Chúng tướng cười ầm lên, Hà Vinh Huy cười đỏ cả mặt, tiến tới bá vai Thẩm Dịch, chuẩn bị sẵn một bụng trêu ghẹo.
Đúng lúc này, bên ngoài đột nhiên đáp xuống một huyền ưng, khi hạ đất không biết không vững thế nào mà suýt chút ngã dúi mặt, bụi đất tung cao, tí nữa thì lật nửa soái trướng, nếu không phải có bộ phận giảm xóc trong ưng giáp, e là người sẽ đi tong luôn.
Huyền ưng đều được huấn luyện chuyên nghiệp, rất ít xuất hiện sự cố thế này, các tướng quân im lặng một chớp mắt, lại cười vang một trận, nhao nhao hỏi đây là tân binh của đội thám báo nào, lúc này mặt Hà Vinh Huy đỏ đến tím lên, hắn ngượng ngùng buông Thẩm Dịch ra, tính mở miệng quát tháo.
Không đợi hắn mở miệng, huyền ưng ngã dưới đất lấm lem ngẩng đầu lên, Hà Vinh Huy sững sờ tại trận – người này là tay lão luyện trong ba đội thám báo, từng có tên ở chỗ hắn.
“Đại soái,” Thám báo huyền ưng kia không để ý sự trêu ghẹo của những người khác, lấy một văn kiện khẩn cất trong lòng, gấp gáp nói, “Công văn khẩn đến từ Sở quân cơ!”
Công văn khẩn Sở quân cơ truyền đến trú quân các nơi bình thường chia làm ba loại, phần đuôi ống đựng có một sợi đai gấm, màu vàng là quân lệnh, màu xanh lục là bản sao công văn khi triều đình xảy ra đại sự, màu đen là quân vụ, màu đỏ thì là quân vụ khẩn cấp – thí dụ như khi ngoại địch xâm phạm, ống đựng phong hỏa lệnh Cố Quân gửi đến các nơi chính là đánh dấu đỏ.
Huyền ưng nâng trong tay một ống thư đánh dấu đỏ, khiến người ta ngứa ran da đầu, Cố Quân đứng bật dậy, ngực đột nhiên trống hoác – giống như tim đập vốn vững vàng chợt gặp vật cản, sau đó lên xuống lộn xộn, y vô cớ thấy miệng khô khốc. Hà Vinh Huy không dám chậm trễ, đã nhanh nhẹn nhận lấy ống thư kia, hai tay trình lên.
Phong thư đánh dấu đỏ ấy chẳng biết viết mấy chữ, mà khiến Cố Quân nhìn suốt một nén nhang, mọi người đều thò đầu ra, nhất thời ý nghĩ kinh thành lại lần nữa bị vây cũng có, mới thấy y chậm rãi bỏ lá thư xuống.
Hà Vinh Huy tính nóng nảy, vội hỏi: “Đại soái, không phải tin khẩn đánh dấu đỏ sao? Rốt cuộc có chuyện gì vậy?”
|
Chương 108: Phương Bắc
Mùng hai tháng Hai năm Long An thứ chín, ngày Long Sĩ Đầu, đại doanh Giang Bắc gửi công văn khẩn về Sở quân cơ – Chung Thiền tướng quân trên đường tuần doanh đột nhiên ngã ngựa, hôn mê bất tỉnh.
Quân y cả đại doanh Giang Bắc đều tụ tập trong doanh trướng, người chỉ sợ không ổn.
Sở quân cơ sau khi cấp tốc xác nhận tình hình, lập tức quyết định gửi văn kiện khẩn đánh dấu đỏ cho Cố Quân, thư chưa gửi đi thì văn kiện khẩn thứ hai của đại doanh Giang Bắc đã đến.
Chung Thiền tướng quân mất.
Ông chết ở tiền tuyến, nhưng không chết trên chiến trường, mà như vạn ngàn lão nhân tầm thường trên thế gian, không bệnh không tật mà chết.
Cái chết như vậy làm người ta cảm thấy trống vắng, bởi chẳng có cừu nhân để thống hận, chẳng có thù hận để phát tiết, mà cũng không hề là ốm đau liệt giường.
Một người bỗng nhiên mất đi, tạo cảm thấy rất không thật.
Cố Quân cầm văn kiện khẩn xem suốt một nén nhang, chậm rãi thở ra một hơi từ ***g ngực hỗn loạn, mới định thần lại – không phải nằm mơ.
Trong soái trướng yên lặng giây lát, sau đó không biết là ai khởi đầu, nhao nhao nói “Nén bi thương”.
Thẩm Dịch thấp giọng an ủi: “Đại soái, lão tướng quân bảy mươi sáu tuổi, đã thất tuần rồi, cũng là hỉ tang, ngươi đừng quá để trong lòng.”
“Ta biết,” Cố Quân im lặng ngồi một lúc, khoát tay, “Ta biết, không có việc gì, nhưng tình thế Giang Bắc vi diệu, lúc này chủ soái xảy ra chuyện, Trọng Trạch lại mới tiếp nhận chức Tổng đốc Lưỡng Giang, khó mà kiêm cố, chỉ sợ sinh biến, ừm… để ta nghĩ xem…”
Song miệng y nói “ta nghĩ xem”, lòng lại trống hoác chốc lát, giống như nhất thời tất cả mạch suy nghĩ đều đứt hết, không mò được đầu mối.
Thẩm Dịch nhìn sắc mặt không đau không ngứa của y, nhỏ giọng đề xuất: “Đại soái, thủy quân Giang Bắc là do Chung lão tướng quân và Diêu đại nhân một tay tập hợp huấn luyện đến bây giờ, người khác chỉ sợ áp trận thủy quân không được.”
Y mở đầu như vậy, Cố Quân cuối cùng có phản ứng, thong thả tiếp lời: “Diêu Trọng Trạch và phó tướng của Chung lão tạm thời còn có thể ứng phó, chỉ là Diêu đại nhân sợ là phải thay chức Tổng đốc Lưỡng Giang đến cuối cùng, Dương Vinh Quế mới xảy ra chuyện chưa đến nửa năm, vất vả lắm mới ổn định được…”
Câu kế tiếp, Cố Quân không tiện thẳng thừng bày ra trước mặt chúng tướng quân – thế cục Giang Bắc vất vả lắm mới ổn định, lưu dân, thương hộ và quan địa phương mới về các vị trí, rất nhiều nơi nhà xưởng vừa dựng, người vẫn chưa ở nóng nhà…
Mà Nhạn vương không lâu trước mới từ quan, tuyến vận hà Giang Bắc ai tiếp quản đây?
Là lại phải có một trường tinh phong huyết vũ tranh quyền đoạt thế, hay bao nhiêu cố gắng trước đây sớm mai đi theo một mồi lửa.
Có người sinh không gặp thời, có người chết không gặp thời, Chung lão tướng quân chết không đúng thời cơ.
Cố Quân dừng một chút: “Ta phải qua đó xem thử, bên này…”
Thái Phân vội nói: “Hà tướng quân và Thẩm tướng quân đều ở đây, Đại soái yên tâm, Bắc cương không xảy ra nhiễu loạn đâu.”
Cố Quân gật đầu, dặn thân binh thu dọn, bản thân nhanh chóng trải giấy bút ra, viết tấu cho triều đình.
Trước tiên phải phái người truyền tin, còn phải bàn giao quân vụ, hì hục tận tới khi đèn đã đốt, Cố Quân còn đang kéo Thẩm Dịch lại dặn dò: “Gia Lai Huỳnh Hoặc người này, phần lớn thời gian là một kiêu hùng, phần nhỏ thời gian là con chó điên, lần này mười tám bộ lạc nội loạn, không khéo sẽ có hậu quả gì, ngươi biết chứ?”
Thẩm Dịch gật đầu: “Man tộc sẽ suy vong từ đây.”
Từ khi Bàn Cổ khai thiên lập địa đến nay, bao nhiêu tông tộc huyết mạch đều chôn vùi trong dòng thời gian mênh mang, hoặc thiên tai, hoặc chiến loạn, hoặc huyết thống bị đồng hóa trong thông hôn dài lâu… Một số như Thái Sơn sập, một số như gió thổi cát, long trời lở đất, sau đó lặng lẽ mất dần.
Thẩm Dịch rốt cuộc hiểu được cảm thụ trong tiếng ca của Xích Khố Do ngày đó nghe thấy trong thiên lao, man tộc đang đi đến mạt lộ – dù rằng họ hấp hối giãy giụa, vẫn phảng phất bị một bàn tay vô hình đẩy đi.
Hôm nay là man tộc, mà nếu năm đó kinh thành bị công phá, có lẽ đi đến mạt lộ sẽ biến thành Đại Lương.
“Trong lòng ngươi hiểu là được,” Cố Quân nói, “Loại người điên con ruột cũng có thể làm thành Ô Nhĩ Cốt như Gia Lai Huỳnh Hoặc và Hồ Cách Nhĩ, giây phút cuối cùng không ai biết họ có thể làm gì, nhất thiết không thể xem thường. Thái lão lớn tuổi rồi, Hà Vinh Huy tính lại quá nóng nảy, Quý Bình, bên này khả năng chủ yếu dựa vào ngươi.”
Cố Quân lúc rảnh cũng ưa lải nhải, song trên chính sự không phải là người dông dài, dặn dò như thế y đã thấy là lắm mồm rồi – nhưng y không có biện pháp gì, thật sự không yên tâm chút nào.
Thẩm Dịch: “Giao cho ta đi, nếu Bắc cương xảy ra chuyện, ta xách đầu đi gặp ngươi.”
“Ta cần đầu ngươi làm gì?” Cố Quân lắc đầu cười nói, “Ta chưa bao giờ ăn thịt thủ heo.”
Thẩm Dịch: “…”
Cố Quân chạy tới khoảng cách an toàn trước khi y kịp nổi giận, tiện tay rút một thanh cát phong nhận gác nghiêng trên lưng: “Ta đi đây.”
“Khoan đã, Tử Hi!” Thẩm Dịch đột nhiên gọi giật lại, “Ngươi dẫn Trần cô nương theo đi.”
Sau khi tin Chung lão tướng quân chết truyền đến, Cố Quân bàn giao quân vụ rành mạch gọn gàng, còn lần lượt dặn dò bộ tướng, thậm chí có thể điềm nhiên nói đùa, trong mắt người ngoài, phản ứng này bình tĩnh đến gần như bạc bẽo, Thẩm Dịch lại âm thầm lo lắng – năm xưa khi y từ miệng Gia Lai Huỳnh Hoặc nhận được manh mối biến cố Huyền Thiết doanh, ban đầu cũng điềm nhiên như thế.
“Ta dẫn nàng ấy đi làm gì?” Cố Quân chẳng thèm quay đầu lại nói, “Ngươi thực sự cho là Trần gia bán tiên đan, người hạ táng cũng có thể cứu sống à?”
Còn chưa dứt lời thì người đã mất tăm, hệt như chạy đi đầu thai vậy.
Mà cùng lúc đó, trên đời chẳng có bức tường nào gió không lùa qua, tuy phía Đại Lương đã cố hết sức không làm lớn, song khi hai quân đối đầu chủ soái xảy ra chuyện là không thể hoàn toàn giấu được, lúc Cố Quân nhận được tin tức chạy tới trú địa Giang Bắc ngay đêm ấy, quân Tây Dương Giang Nam cũng đèn đuốc sáng trưng, suốt đêm không ngủ.
Nhã tiên sinh nhận nước thuốc trên tay kẻ hầu, phân phó: “Ta mang cho bệ hạ, ngươi đi bảo họ đừng đến quấy rầy.”
Kẻ hầu cung kính cúi đầu, nhanh chóng chạy mất.
Chưa đến gần cửa, Nhã tiên sinh đã nghe thấy tiếng cãi vã bên trong trước.
“Không được, quá tham lam,” Giọng nói khàn khàn thỉnh thoảng kèm vài tiếng ho của Giáo hoàng vọng ra, “Ta không đề nghị làm như vậy, ngươi không thể nuốt thứ to hơn miệng mình được, tham lam như thế, sớm muộn cũng phải xảy ra chuyện!”
Một kẻ khác dùng giọng trơn tuột như động vật bò sát trả lời: “Thứ cho ta nói thẳng, bệ hạ, đây không hề là tham lam, mà là lợi ích thò tay là chạm tới – Nếu ta muốn một hơi nuốt cả một ngôi sao, như vậy là tham lam, nhưng vừa vặn ngược lại, ta chỉ muốn thêm một cái bánh nhỏ, mà nó đang ở ngay cạnh tay ta…”
Nhã tiên sinh nhíu mày, thô lỗ gõ cửa: “Quấy rầy, thuốc của bệ hạ đến rồi.”
Kẻ đang giằng co với Giáo hoàng phút chốc ngậm miệng, đưa tay vuốt râu, nhún vai một cách vô lễ.
Vị sứ giả thánh địa phái tới này, đã vì các nguyên do mà ở lại Đại Lương hơn nửa năm, hoàn toàn không có ý định quay về, mọi người đều biết rõ, vị này là do Quốc vương và đám quý tộc lão gia thánh địa phái tới quản sổ sách.
Quốc vương bên phía thánh địa gấp không chờ nổi mà muốn thu gom đất đai và vương quyền, chỉ mong sao Giáo hoàng rơi đài, mới đầu, thánh sứ không hề có ý tốt, trăm phương ngàn kế muốn chứng minh cuộc chiến tranh lần này hoàn toàn là một sai lầm, song dần dần, theo tiền của và khoáng sản cướp bóc được chuyển về nước ngày càng nhiều, những âm thanh khó nghe trong nước đều nhỏ đi.
Lòng tham không đáy của thánh địa bị sự trù phú của đất đai phương Đông triệt để đốt bùng lên, đám quý tộc muốn nhìn Giáo hoàng xám xịt cút về bắt đầu thay đổi thái độ, bất cứ ai cũng tích cực thúc đẩy lợi ích của quân Tây Dương ở Đại Lương hơn hẳn lúc trước, chỉ hận không thể mở cái miệng bé tí, ý nghĩ hão huyền mà nuốt trộng vật khổng lồ này!
Lần này lợi dụng phương Bắc dời đi trọng điểm chiến lược của Đại Lương, lại nhân lúc người Trung Nguyên không rảnh chú ý việc khác mà đục nước béo cò, chính là do thánh sứ dốc hết sức thúc đẩy.
Giáo hoàng vốn dĩ cực lực phản đối, bởi vì giữa hai chiến trường nam bắc có khu phương Bắc Trung Nguyên mênh mông bát ngát, từ sau khi đường truyền tin phía Tây bị đứt, hiệu suất liên lạc của song phương cực thấp, Giáo hoàng năm đó chỉnh hợp dã tâm gia tứ phương vây khốn tứ cảnh Đại Lương, lợi dụng sai khác thời gian do tin tức bị chặn, biết rõ quân cơ thoáng cái là mất. Huống chi trong mắt ngài, Gia Lai Huỳnh Hoặc phương Bắc trong xương cốt có một mặt cực đoan điên cuồng, không đủ bình tĩnh, căn bản không thích hợp để hợp tác lâu dài.
Đáng tiếc, Giáo hoàng mặc dù có quyền chỉ huy nhánh quân đội này, nhưng xét đến cùng quyền sở hữu là thuộc về Quốc vương và giới quý tộc của thánh địa, vật tư có thể cướp đoạt từ bản địa, tử lưu kim lại không thể – Giang Nam ngay cả một giọt cũng không có, phải dựa vào trong nước vận chuyển tới, ngài vô hình trung thiếu rất nhiều lợi thế.
Hiện tại quả nhiên bị Cố Quân tương kế tựu kế dẫn phát nội loạn man tộc, vô hình trung thậm chí tăng thêm nguy cơ man tộc bị diệt.
Giáo hoàng cố nhiên không muốn hợp tác với Gia Lai Huỳnh Hoặc, nhưng cũng tuyệt không muốn để Huyền Thiết doanh vùng Tây Bắc về Nam, mà một khi Đại Lương chiếm được hàng loạt quặng tử lưu kim của mười tám bộ lạc, chiến trường Giang Nam sẽ rơi vào cục diện hết sức bị động.
Đúng vào lúc lưỡng nan này, họ nhận được tin tức chủ soái đại doanh Giang Bắc qua đời, thánh sứ lại lần nữa giở trò.
Nhã tiên sinh đặt thuốc lên bàn, cung kính nói: “Nếu ngài chú ý sẽ thấy, người Trung Nguyên tuy liên tục tăng binh Giang Bắc, nhưng vị tất thật sự muốn đánh nhau, họ cũng muốn thừa cơ nghỉ ngơi, trong tình huống như vậy, việc đàm hòa song phương chúng ta có thể khống chế, vì sao nhất định phải làm chó cùng rứt giậu, dùng sinh mạng các dũng sĩ đi mạo hiểm?”
Thánh sứ cười giễu một tiếng, chuyển hướng sang Giáo hoàng: “Bệ hạ, trợ thủ đắc lực của ngài cực kỳ có tài hoa, nhưng theo ta thấy, hắn vẫn quá trẻ – Song phương ngồi vào một bàn đàm phán ký một hiệp ước, thoạt nhìn đều là thực hiện thủ tục ký tá của các bên, nội dung lại khác biệt một trời một vực, đãi ngộ của bên ưu thế và bên liệt thế chênh lệch xa như từ thánh địa đến Trung Nguyên vậy, thường thức này chẳng lẽ cần ta nhấn mạnh lần nữa? Chủ soái thủy quân Giang Bắc chết rồi, lẽ nào không phải cơ hội trời cao ban cho chúng ta? Nếu chúng ta do sự hèn nhát của mình mà bỏ lỡ, ta có dự cảm, sau này nhất định sẽ phải hối hận.”
Nhã tiên sinh mặt không đổi sắc: “Ngài nói rất đúng, chủ soái thủy quân Giang Bắc chết rồi, nhưng Cố Quân còn chưa chết, hắn nhất định sẽ đến.”
Thánh sứ âm trầm nhìn hắn một cái: “Thế chúng ta có thể nhân khi họ chuyển giao quân quyền mà tập kích, biến hắn thành một người chết – Chẳng phải bệ hạ nói Cố Quân lợi dụng chúng ta, để Thiên Lang tộc phương Bắc tin rằng liên minh đã rạn nứt à? Thế tại sao chúng ta không dùng hành động thực tế chứng minh cho Thiên Lang bộ thấy? Làm sao ngươi biết minh hữu cũ trong quá khứ sẽ không cho chúng ta một niềm kinh hỉ?”
Nhã tiên sinh nghĩ bụng: “Đúng là vớ vẩn!”
Nhưng nhất thời không cách nào cãi lại, lập tức á khẩu.
Giáo hoàng nuốt bát thuốc như uống thuốc độc, run rẩy cầm một miếng vải lụa lau khóe miệng, sau đó thở dài: “Thánh sứ, chiến tranh quy mô thế này, không thể vì cái chết của một hai người mà có thay đổi gì từ trên căn bản, hơn một năm qua, thủy quân Giang Bắc đã kiến lập chế độ tương đối hoàn chỉnh, ngài có nghĩ tới chưa, nếu tập kích không thể đạt được hiệu quả như mong muốn thì sẽ thế nào?”
Nụ cười của thánh sứ lạnh đi: “Ngài nói không sai, chiến tranh quy mô thế này, một hai người không đáng kể, đã như vậy, vì sao các vị còn kiêng kị Cố Quân đến thế?”
Sau đó không đợi người ta phản bác, thánh sứ chợt đứng dậy: “Ta thừa nhận khả năng ngài nói quả thật tồn tại, nhưng dù thật sự xảy ra tình huống tệ nhất, ít nhất chúng ta đã biểu lộ thái độ cứng rắn, là một sự cổ vũ đối với chiến trường phương Bắc, chúng ta vẫn có thể giành được nhiều lợi ích hơn – Bệ hạ, ta phải nói rằng, ngài cẩn thận quá rồi, chúng ta ở vùng ven sông có ưu thế tuyệt đối trên thủy chiến, cho dù thủy quân của người Trung Nguyên đã kiến thành lại có thể thế nào? Một năm? Hai năm? Còn đang bú mẹ thôi! Nếu ta là ngài, căn bản sẽ không để kệ chiến trường Lưỡng Giang trầm mặc thời gian dài như vậy, ta sẽ khiến quân Giang Bắc của người Trung Nguyên căn bản không kịp kiến lập!”
Khóe mắt Nhã tiên sinh giật nhẹ, từ thuở chào đời lần đầu tiên hắn sinh ra nhận thức trực quan như vậy với “cuồng vọng” và “tham lam”.
Giáo hoàng đứng dậy, nghiêm nghị nói: “Thánh sứ tiên sinh, ngài nói như thế là rất vô trách nhiệm.”
Thánh sứ hợp hai tay, hất cằm: “Bệ hạ, lệnh điều phối tử lưu kim ở trong tay ta, thánh địa giao cho ta sứ mệnh, để ta thời khắc mấu chốt nhất có thể ra lệnh thay ngài!”
Nhã tiên sinh phẫn nộ tiến lên một bước, tay đặt trên chuôi kiếm bên hông: “Ngươi!”
Ánh mắt hung ác nham hiểm của thánh sứ dừng ở hắn, Giáo hoàng kéo tay áo Nhã tiên sinh-
Ba người giằng co chốc lát, tầm mắt thánh sứ hơi chuyển đi, hắn nhếch thành một nụ cười, dối trá nói: “Ta chưa bao giờ hoài nghi sự cơ trí của bệ hạ, xin ngài cân nhắc cẩn thận đề nghị của ta, cáo từ.”
Nói xong, hắn lấy cái mũ dạ bên kia, ngạo mạn đội lên đầu, quay người bỏ đi.
Nhã tiên sinh: “Bệ hạ, tại sao phải kéo tôi lại? Thỏa hiệp sao?”
Giáo hoàng trầm mặc một lúc: “Cũng chỉ có thể khẩn cầu thần linh phù hộ-“
Phù hộ thủy quân Giang Bắc thật sự như thánh sứ nói, còn đang trong thời kỳ bú mẹ, phù hộ Gia Lai Huỳnh Hoặc trên chiến trường phương Bắc đủ điên cuồng, có thể kiềm chế chặt chẽ người Đại Lương, may ra họ có thể cầu một kết quả tốt đẹp trong hiểm lộ.
Khi nội bộ quân Tây Dương Giang Nam lục đục và ấp ủ một âm mưu mới, Cố Quân chạy tới Giang Bắc, vừa hạ đất liền lập tức ra lệnh gia cố phòng tuyến, tháp theo dõi hai canh giờ thay ca một lần, toàn thể bày trận sẵn sàng, sau đó trấn an cảm xúc trong quân, lập đội lần nữa, để chúng tướng sĩ về các vị trí – Diêu đại nhân dẫu sao cũng là quan văn, tuy rằng áp được trận cước, nhưng không thể có quyền uy lệnh hành cấm chỉ như Cố Quân, không có hiệu suất chỉ đâu đánh đó.
Bận rộn từ giữa trưa đến chập tối, Cố Quân mới có thời gian uống một ngụm nước, cổ khô muốn bốc khói, cơ hồ có thể nếm được mùi máu tươi, cũng chẳng quan tâm trà hay không nước hay không, vớ đại một bát nước lạnh uống luôn. Năm nay Giang Bắc vào xuân đặc biệt muộn, mấy hôm trước mới đổ một trận mưa tuyết, bốn bề lảng vảng sự âm u lạnh lẽo thấu xương, một bát nước lạnh này làm Cố Quân lạnh triệt để từ trong ra ngoài, y rùng mình, mù mờ nghĩ thầm trong lòng: “Còn chuyện gì sắp đến?”
Lúc này, Diêu Trấn đi tới nói: “Đại soái, lúc ấy gửi công văn khẩn về Sở quân cơ, triều đình lập tức trả lời ít ngày nữa phái người đến, chắc chỉ trong một hai ngày tới thôi. Vừa mới nhận được tin tức nói là Nhạn vương thay mặt Hoàng thượng đến.”
Nhạn vương tuy từ quan nhưng thân phận còn đó, lại có một đoạn duyên phận sư đồ với Chung lão tướng quân, để biểu hiện vinh sủng, cho y thay mặt hoàng gia đi một chuyến cũng là hợp tình hợp lý.
“Ừm, y cũng nên đến xem thử.” Cố Quân rốt cuộc nhớ ra mình còn quên chuyện gì, “À… Trọng Trạch, linh đường bày ở chỗ nào, mau dẫn ta đi xem.”
Diêu Trấn đưa y đến linh đường.
Linh đường so với nơi khác còn lạnh lẽo âm u hơn, quan tài của Chung Thiền nằm ở giữa, khói hương vấn vít.
Cố Quân đến cửa linh đường đột nhiên dừng bước – Mấy ngày nay quá rối ren, y chạy giữa nam bắc hai nơi, việc lớn việc nhỏ đều phải nhọc lòng lo liệu, một cách tự nhiên liền ngăn một sự thật lại, mãi đến giờ khắc này, một ý nghĩ mới bất ngờ đánh trúng ngực y.
Y nghĩ: “Lão sư của ta mất rồi.”
Diêu Trấn lấy làm lạ quay đầu lại hỏi: “Đại soái, sao vậy?”
Cố Quân hít sâu một hơi, lắc đầu, đi vào thắp một nén nhang cho Chung Thiền: “Đi lo việc của ngươi đi, ta nán lại đây với ông ấy một lúc, có việc cứ gọi ta bất kỳ lúc nào.”
Diêu Trấn thấp giọng khuyên, “Sinh lão bệnh tử ai cũng có, xin Đại soái hãy nén bi thương, soái trướng đã dọn dẹp xong, chờ lát nữa nguôi nỗi thương nhớ thì đi nghỉ ngơi sớm một chút, ta cho người canh ngoài cửa, Đại soái có việc thì phân phó.”
Cố Quân gật đầu, cũng chẳng biết có nghe thấy không.
Chờ linh đường chẳng còn ai, ánh mắt y mới chậm rãi dừng trên mặt Chung Thiền, do là không bệnh mà mất, nét mặt Chung lão tướng quân không hề dữ tợn, nhưng cũng không thể nói là an tường – Mặt người chết đều xám xịt, da mặt như làm bằng sáp, không giống lúc còn sống lắm. Thần hồn đã đi, xác chính là xác, trống rỗng.
Cố Quân ngồi bên cạnh, khuỷu tay chống mép quan tài, lẳng lặng nhớ tới Chung Thiền ngày bé làm lão sư của y.
Khi ấy Phiêu Kỵ Đại tướng quân còn chưa bị tuổi tác bào mòn, không gầy gò như vậy, là sự dũng mãnh uy phong lẫm liệt, trong mắt luôn như có hai thanh đao, lúc nhìn chằm chằm ai đó, là mũi đao có thể lộ ra.
“Tiểu Hầu gia, học thuộc binh thư không thể chứng minh ngài biết đánh trận, há không phải nghe bọn quần là áo lượt cổ đại ‘luận binh trên giấy’? Nếu ngài tự mãn như vậy, chỉ sợ ngay cả tổ chức bọn nít ranh đầu đường đánh nhau một trận cũng không thắng được.”
“Tiểu Hầu gia, công phu chính là hai thứ, một là ‘công phu’, một là ‘đau’, hiện giờ lão Hầu gia và công chúa đều không còn, ngài thân phận thanh quý, trừ Hoàng thượng ra, không ai dám tổn thương quý thể, nếu ngài muốn thoải mái, muốn chiều chuộng mình, không ai có thể ép ngài tiến lên, sau này muốn thế nào, ngài phải tự mình suy nghĩ cho rõ.”
“Vinh hoa phú quý không phải chốn về của võ tướng, Hoàng thượng đã khăng khăng chim hết cất cung, trước mắt dù sao thiên hạ cũng thái bình, cứ để y cất đi, sau này mạt tướng không thể thường đi theo, tiểu Hầu gia phải tự lo liệu lấy.”
“Sơn thủy tự có lúc gặp lại, sau này còn gặp nhau!”
Trường Giang sóng sau đè sóng trước, trăm đời phong hoa có lúc già.
Tai Cố Quân dần ù, mắt cũng không thấy rõ lắm, không tự chủ được nheo lại dưới ánh nến, mà y hoàn toàn chưa nhận ra, phảng phất vẫn đắm chìm trong chuyện cũ năm xưa. Tướng quân một thời có thể sống đến thất tuần còn không bệnh không tật mà mất, chính là đại hạnh, không biết bao nhiêu người hâm mộ, quả thật là hỉ tang, Cố Quân cảm thấy mình không thể nói tới buồn thương hay không, chỉ là ngực hơi ngột ngạt.
Trường Canh cũng chạy một mạch tới, lúc đến đại doanh Giang Bắc thì trời đã tối rồi, đến nơi chưa kịp nghỉ ngơi, nghe nói Cố Quân ở linh đường liền cho người hầu lui hết mà tới thẳng đó.
Thân binh canh ở cửa linh đường biết Trường Canh, từ xa trông thấy liền lập tức thông minh đi vào báo tin, Trường Canh cũng không kịp gọi lại.
Thân binh kia báo một tiếng: “Đại soái, Nhạn vương điện hạ đến rồi.”
Cố Quân không hề phản ứng, Trường Canh đoán là y bận quá quên uống thuốc, liền vén góc bào dợm bước muốn vào: “Không sao.”
Thân binh dè dặt vỗ vỗ vai Cố Quân: “Đại soái?”
Cố Quân đột nhiên bị kinh động, dở mù không thấy rõ người tới, trong lòng thoạt tiên căng thẳng, còn tưởng đã xảy ra chuyện gì, từ trên ghế đứng bật dậy, ***g ngực vẫn bị cái gì đó chặn kín đột nhiên đau nhói như kim châm muối xát.
Một búng máu thình lình phun ra.
|
Chương 109: Mười năm
Thân binh sợ tới mức hồn phi phách tán, đứng đực ra đó, bị Trường Canh đẩy ra. Trường Canh dựng hết lông tơ, tay chân còn lạnh hơn cả mùa đông Giang Bắc.
Cố Quân mới đầu chỉ là ngực đau, phun ra búng máu này ngược lại dễ chịu hơn, có điều ho không ngừng được, vạt trước dính đầy máu, y cũng không thấy rõ xung quanh có cái gì, tùy tiện khoát tay: “Đừng làm ầm lên… khụ, không… khụ khụ…”
Trường Canh cố kéo lại thần trí bên rìa sụp đổ, đang muốn ôm lấy y, bỗng nghe thấy Cố Quân gọi mình một tiếng: “… Trường Canh…”
Y vội hít một hơi thật sâu, lắng tai nghe: “Sao?”
Cố Quân mũi toàn mùi máu tươi, lúc này ngay cả khứu giác cũng không dùng được, toàn thân chỉ còn lại đầu óc còn rõ ràng như nỏ mạnh hết đà, đứt quãng nói: “Trường Canh… Nhạn vương sẽ đến trong mấy hôm tới, việc này không được truyền ra, đặc biệt là không thể… cho y biết…”
Tim Trường Canh muốn nứt ra, y đỏ bừng mắt quát thân binh bên cạnh: “Gọi quân y tới.”
Thân binh co cẳng chạy đi.
Diêu Trấn thật sự phải lao tâm lao lực quá mức, khóc không ra nước mắt, quả thực hoài nghi là đại doanh Giang Bắc phong thủy không tốt, vừa ngã một vị lại tiếp một vị, còn là vị tổ tông không thể có chuyện, lập tức không nhịn được nói với Liễu Nhiên đại sư đến theo Trường Canh: “Ngài tới cúng bái cho Chung lão nhỉ? Cúng bái không vội, chi bằng ngài tụng kinh trừ tà trước đi?”
Liễu Nhiên đại sư lực bất tòng tâm nhìn hắn, ra dấu: “Người câm không biết tụng kinh.”
Trường Canh vốn tưởng rằng mình đi theo Trần cô nương học y thuật một thời gian, có thể coi là nửa đại phu rồi, nhưng đến thời điểm khẩn cấp mới phát hiện, có một bệnh nhân y thật sự thúc thủ vô sách, nhìn thấy máu của người ấy thì trong đầu y liền trống rỗng, sách thuốc đã học tựa hồ trả hết cho Trần cô nương, càng khỏi nói tới trị liệu.
Tất cả quân y giỏi nhất đại doanh Giang Bắc đều tập trung trong soái trướng vừa dọn dẹp xong còn chưa kịp có ai ở, mỗi người đi ra đi vào đều hết sức căng thẳng, Trường Canh nắm chặt Cố Quân không buông, cũng không thấy mình vướng víu, cứ thế im lặng ngồi đó, khiến các quân y đều nơm nớp lo sợ.
Liễu Nhiên hơi sầu lo đứng ngoài cửa nhìn Nhạn vương, hắn từng nghe nói năm đó khi kinh thành nguy hiểm, Trường Canh bị châm thành một con nhím như thế nào, lúc này thật sự sợ y phát tác ở đại doanh Giang Bắc – nơi đây ngay cả một người áp chế được y cũng không có.
Song ra ngoài dự kiến của hắn, Trường Canh từ đầu đến cuối đều cực kỳ bình tĩnh, chẳng mảy may có vẻ như sắp điên, câu “không thể cho y biết” của Cố Quân lúc mơ mơ màng màng như một cây Định hải thần châm, ghim chặt linh hồn y trong thể xác.
Trường Canh đột nhiên cảm thấy mình đòi hỏi quá nhiều từ Cố Quân, hơn nữa trong lúc không để ý ngày càng tham lam vô độ, thậm chí chưa bao giờ để y có một ngày yên tâm, thương mới thương cũ trên người y làm sao mà có, mình đều bị giấu kín như bưng, Trường Canh cơ hồ có thể tưởng tượng ra Cố Quân có bao nhiêu lần ở nơi mình không nhìn thấy thương bệnh cùng lúc, còn phải dặn người bên cạnh chặn kín tin tức, không cho mình biết.
“Điện hạ,” Một quân y dè dặt tiến lên nói, “Đại soái lần này có một nửa nguyên nhân là do lao lực lâu ngày thành tật, còn có… ừm… thương một hai năm nay ở tiền tuyến tích lại, từng bị thương đến phế phủ, máu bầm mãi không ra, lần này tuy nhìn thì hung hiểm, nhưng vị tất toàn là chuyện xấu.”
Trường Canh nghe thế, im lặng đặt tay lên mạch đập lộn xộn của Cố Quân, miễn cưỡng để tâm tư rối như tơ vò bình tĩnh lại, bắt một lát vẫn không tìm ra nguyên do, đành phải tin chẩn đoán của những quân y này, “Ừ” một tiếng rồi hỏi: “Dùng thuốc như thế nào, chư vị có kết luận chưa?”
Quân y nọ hơi chần chừ, nói: “Ừm… với tình hình của Đại soái, tốt nhất là đừng dùng thuốc quá nhiều, chủ yếu lấy nghỉ ngơi tĩnh tâm làm chính.”
Nói xong chính hắn cũng biết mình nói thừa, dè dặt nhìn bàn tay Trường Canh nắm chặt Cố Quân đến lồi gân xanh, chỉ lo Nhạn vương trút lên mình, nhưng thấp thỏm đợi cả buổi, Trường Canh lại không nói gì, chỉ ngơ ngẩn ngồi ở bên cạnh một lúc.
Sau đó y nho nhã lễ độ chắp tay nói: “Đa tạ, mong chư vị làm hết sức.”
Mấy quân y thụ sủng nhược kinh, nối đuôi nhau ra, đều đi tận tâm tận lực. Liễu Nhiên hòa thượng lúc này mới lặng lẽ vào cửa, mặt ủ mày ê đứng trước mặt Trường Canh một lúc, tìm không ra việc gì để làm, đành phải như tận chút lực bạc mà chìa tay lướt qua ấn đường hơi nhíu lại của Cố Quân, tụng một tiếng Phật hiệu trong im lặng.
Trường Canh thở dài: “Đừng tụng, đại sư, y có thù với Phật tổ, ngươi đọc kinh trước mặt y, tính chọc y tức đến tỉnh lại à – Có mang mộc điểu theo không? Viết phong thư cho Trần Khinh Nhứ đi.”
Liễu Nhiên ngẩng lên nhìn y.
Trường Canh mặt không cảm xúc: “Hỏi thử xem, nàng ta đã giúp Cố Tử Hi giấu giếm ta bao nhiêu việc.”
Liễu Nhiên ra dấu: “Vương gia có ổn không?”
Trường Canh cựa nhẹ bả vai, trong phút chốc, Liễu Nhiên hòa thượng cảm thấy y chừng như suy sụp, nhưng Trường Canh không suy sụp, y cúi đầu nhìn Cố Quân một lúc, rồi làm một việc suýt dọa Liễu Nhiên đại sư phát khóc – Y vừa nắm tay Cố Quân không buông lơi, vừa ở ngay trước mặt Liễu Nhiên chậm rãi cúi xuống, đặt một nụ hôn lên trán Cố Quân, hôn nghiêm túc và thành kính, gần như trang nghiêm túc mục.
Liễu Nhiên trợn mắt há hốc mồm rùng mình một cái.
Trường Canh không rời mắt khỏi Cố Quân, cũng không biết là thấp giọng nói một câu với ai: “Còn tạm, yên tâm đi.”
Liễu Nhiên đại sư bị giật mình, niệm “không tức thị sắc, sắc tức thị không”, co cẳng chạy mất, chỉ còn lại Trường Canh im lặng trông chừng Cố Quân.
Sau nửa đêm, Cố Quân từ hôn mê chuyển thành ngủ mê mệt, tựa hồ sa vào ác mộng, thỉnh thoảng sẽ bất an cựa quậy. Trường Canh nhớ rõ năm ấy khi Cố Quân sốt cao không giảm, cũng là nằm kiểu nào đều không được, nhưng hình như nếu để y cảm nhận thấy bên cạnh có người bầu bạn, y có thể yên ổn hơn không ít, thế là dựa giường ôm y suốt.
Ánh lửa yếu ớt trong linh đường của Chung tướng quân vẫn đang sáng, chẳng hiểu nếu ông ấy ở dưới suối vàng biết chuyện, trở về báo mộng, sẽ nói gì với Cố Quân.
Trường Canh siết chặt hai tay, dùng tư thế tương tự như bảo vệ mà ôm Cố Quân, lần đầu tiên, trong lòng y không có ỷ lại tiểu nghĩa phụ, không có dục vọng với người yêu thương, ngược lại như là trân trọng ôm một đứa trẻ tuổi nhỏ yếu ớt vậy.
Trong những ngày cầu mà không được ấy, Trường Canh từng vô số lần ảo tưởng, nếu mình sinh ra sớm mười năm, hai mươi năm, vậy giữa mình và Cố Quân sẽ là tình cảnh thế nào?
Hiện giờ, nơi tiền tuyến Giang Bắc ẩm ướt u ám, quãng thời gian mười năm trông được mà không chạm được đã rút ngắn lại, bị y một bước vượt qua.
Tiếc thay y ở đây một đêm mười năm, cũng không làm lỡ chuyện mờ ám của người Tây Dương.
Đêm nay, thánh sứ và Giáo hoàng hoàn thành nội đấu, kết thúc bằng thắng lợi tạm thời của thánh sứ, nhất trí ý kiến đánh lén thủy quân Đại Lương.
Kế hoạch vốn định trong cái đêm âm u này, nào ngờ chưa kịp hành động thì tháp theo dõi đột nhiên truyền đến tin tức, nói Đại Lương thắt chặt phòng tuyến Giang Bắc, cấp cảnh giới điều chỉnh đến tình huống nghiêm túc nguy cấp nhất.
Nhã tiên sinh lao vọt vào chủ hạm động lực sẵn sàng chỉ chờ xuất phát: “Bệ hạ! Cố Quân tới quá nhanh, thủy quân Đại Lương hiển nhiên không phải quân đội trẻ con còn bú mẹ, đối phương đã nâng cao cấp phòng ngự, chúng ta cứng đối cứng như vậy không phù hợp kinh tế…”
Hắn còn chưa dứt lời thì thánh sứ sắc mặt khó coi đã rảo bước xông tới: “Không ai được phép thay đổi kế hoạch của ta!”
Thánh sứ có thể thay mặt quốc vương và các đại quý tộc giao thiệp trước tòa thánh và quân đội, chống lưng nhất định rất mạnh, là vị thiếu gia rất được tín nhiệm, tài hoa hơn người, tính tình ngạo mạn lại cuồng vọng, mấy ngày đầu hắn còn từng thổi phồng cửa biển, căn bản không coi thủy quân Đại Lương và vị chủ soái Huyền Thiết doanh kia ra gì, nào ngờ vừa mở miệng đã bị bẽ mặt.
Việc khác tạm thời không bàn, riêng lòng tự tôn của thánh sứ đã không chấp nhận được.
Giáo hoàng cũng gấp lên: “Xin ngài thu bớt cảm xúc cá nhân lại, chiến tranh không phải là tranh hơn thua và đùa giỡn!”
Thánh sứ đỏ mặt tía tai tranh biện: “Không ai lấy chiến tranh ra đùa giỡn cả, bệ hạ! Nếu kẻ địch chỉ phô trương thanh thế, thì chứng minh cái gì? Đây vừa vặn là thời cơ tốt nhất để chúng ta tiến công!”
Nhã tiên sinh lập tức hỏi vặn lại: “Nếu không phải phô trương thanh thế thì sao?”
“Không có khả năng đó,” Thánh sứ âm trầm lườm hắn một cái, “Thủy quân yếu ớt này căn bản không có sức chiến đấu, các ngươi chẳng qua là lo lắng phải mạo hiểm-“
Nhã tiên sinh: “Rõ là ngụy biện chẳng hợp lý tí nào!”
“Hãy chú ý ngôn ngữ của ngài, tiên sinh,” Thánh sứ lạnh lùng nói, sau đó tầm mắt dời đi, lấy từ trong lòng ra một cuộn da dê, “Ta không phải đến thương lượng, các tiên sinh, nửa giờ trước ta đã ký vào lệnh điều động cao nhất đại diện cho thánh địa, đây là bản dự phòng, mời xem cho rõ.”
Nhã tiên sinh đỏ mặt tía tai, còn chưa kịp phản đối thì “hải quái” chủ hạm đột nhiên phát ra một tiếng ngân nga như thở dài, vậy mà lại hành động luôn không giải thích gì!
“Ngươi điên rồi?” Nhã tiên sinh gầm lên, theo bản năng rút bội kiếm bên hông, “Mau dừng lại!”
Thánh sứ cũng không yếu thế, lập tức rút trọng kiếm kỵ sĩ sáng loáng ra: “Vì Quốc vương và vinh diệu vô hạn mà chiến đấu đến chết là quang vinh của chúng ta, chúng ta ra tiền tuyến, không phải để co đầu rút cổ trong cảng mà quỳ lạy cầu nguyện!”
Nhã tiên sinh: “Ngươi nói cái…”
Giáo hoàng: “Đủ rồi!”
Thánh sứ nét mặt mỉa mai cười khẩy: “Sao nào, bệ hạ còn điều chi phân phó?”
Hai má Giáo hoàng hơi co giật theo tính thần kinh, rốt cuộc đứng trên chủ hạm đã rời cảng, vô kế khả thi mà thỏa hiệp: “Nếu nhất định phải làm theo kế hoạch vớ vẩn của ngươi, thế chí ít trên chiến trường phải do người của ta chỉ huy.”
Thánh sứ không thể đồng ý hơn – Lỡ như hành động thất bại, Giáo hoàng đại nhân chính là một con cừu thế tội có sẵn, hắn đắc chí nhìn Nhã tiên sinh mà cười khẩy, thu kiếm lại, lớn tiếng ra lệnh: “Chạy hết tốc lực!”
Đêm ấy, một đoàn “hải giao hạm đoàn” Tây Dương qua ngụy trang chậm rãi tản ra chiến tuyến Lưỡng Giang dài lê thê, im ắng vòng qua đại doanh Giang Bắc, chuẩn bị tắm mình trong vinh quang thần thánh của cuộc đổ bộ.
Mà ở Bắc cương cách xa ngàn dặm, mười tám bộ lạc cũng phái nhóm sứ giả thứ hai tiếp xúc với Đại Lương.
Tào Xuân Hoa tự mình chạy tới Bắc cương, hắn và Trần Khinh Nhứ đều từng xâm nhập vùng man hoang Bắc bộ, rất thông thuộc bộ lạc Thiên Lang, sóng vai bảo vệ thế cục Bắc cương vi diệu lúc này, cùng Thẩm Dịch ở ngoài phòng tuyến Huyền Thiết doanh gặp sứ giả Bắc man.
Xuyên qua thiên lý nhãn có thể trông thấy sứ tiết Bắc man lần này vẫn không tới tay không, phía sau kéo theo một xa đội, từ vẻ ngoài của xa đội cùng vết bánh xe nông sâu mà nhìn, tựa hồ là đặc biệt vận chuyển tử lưu kim.
Một nam nhân trẻ tuổi tầm hai lăm hai sáu được đoàn sứ giả bao vây chính giữa, trông như đầu lĩnh của nhóm người này, song nhìn kỹ lại thì thấy người trẻ tuổi ấy sắc mặt nhợt nhạt, hoảng sợ bất an rõ rệt, bị mấy thớt ngựa kẹp bên trong, trái lại như là bị ép tới.
Thẩm Dịch không dám chủ động bắt chuyện với Trần Khinh Nhứ, đành phải thấp giọng hỏi Tào Xuân Hoa: “Kẻ đó là ai?”
Tào Xuân Hoa nhìn qua thiên lý nhãn, trả lời: “Nhị vương tử của Gia Lai Huỳnh Hoặc.”
“Cái gì?” Thẩm Dịch nhíu mày, “Xác định chứ, ngươi không nhìn lầm?”
Tào Xuân Hoa ném mị nhãn, dùng lan hoa chỉ chọc ngực Thẩm Dịch: “Ôi Thẩm tướng quân, Thẩm tiên sinh à, ta đời này chỉ có hai thứ nhớ không sai, một là mặt người, một là giọng điệu nói chuyện, ngài cứ tin ta đi.”
Lúc hắn còn nhỏ, Thẩm Dịch còn từng dạy hắn học, khi đó cảm thấy người này là một tiểu cô nương khá bình thường, ai ngờ sau khi lớn lên, hắn “khôi phục” thân nam nhi, lắc mình biến thành cái vẻ này. Thẩm Dịch là một nam tử chưa kết hôn theo kiểu học cứu lớn tuổi, thật sự không nhìn nổi cũng không chịu nổi sự khiêu khích bưu hãn của Tào Nương Tử, lập tức nổi hết da gà da vịt, vô thức nhích sang hướng Trần Khinh Nhứ một bước, né tránh ngón tay sàm sỡ kia.
“Tiểu Tào.” Trần cô nương trợn mắt, lạnh lùng mở cái miệng tôn quý cảnh cáo Tào Xuân Hoa.
Người của Lâm Uyên các đắc tội ai cũng không dám đắc tội Trần thần y, Tào Xuân Hoa lập tức ngậm miệng, ngồi nghiêm chỉnh trên lưng ngựa, ra vẻ đàng hoàng phân tích cho Thẩm Dịch: “Tướng quân, ta thấy mười tám bộ lạc lần này là thật lòng rồi, nộp ‘Lang vương’ thật sự là quá mất mặt, chắc họ muốn đẩy tội man sứ gây ra ở kinh thành lên đầu con rối nhị vương tử này hòng yên chuyện.”
Ngón tay Thẩm Dịch gõ nhẹ hàm thiếc: “Cứ chờ trước, đừng vui mừng quá sớm, ta luôn cảm thấy người man nhún nhường đến quá dễ dàng.”
Y và Bắc man Tây Vực từng qua lại không ít, biết tính bọn mười tám bộ lạc khốn nạn ra sao.
Đám trâu bò thả rông này phần lớn chưa thấy quan tài chưa đổ lệ, mà lúc này Huyền Thiết doanh chỉ mới uy hiếp một chút, vẫn chưa đến trận địa Bắc man, càng chưa động thủ, Thẩm Dịch cứ cảm thấy mười tám bộ lạc còn nên ngoan cố chống cự một thời gian.
Tào Xuân Hoa nhìn tử lưu kim dường như rất nhiều, liếm môi hỏi: “Thế phải làm sao đây? Cho người ta vào hay không?”
Thẩm Dịch rất cẩn thận nói: “Tất cả cung tiễn thủ bạch hồng tiễn nhắm thẳng, nghiêm cấm đám người man này tiếp cận, gọi nghiệm kim sư đến lần lượt mở ra kiểm tra.”
Tào Xuân Hoa biến sắc, ngoảnh đầu lại bắt gặp ánh mắt Thẩm Dịch, hai người đồng thời nhớ tới cự diên rắp tâm hại người trên Nhạn Hồi tiểu trấn năm ấy.
Nếu là người khác, chí ít hổ dữ không ăn thịt con, nhưng Gia Lai Huỳnh Hoặc không thể dùng đạo lý của phàm nhân để suy đoán, hắn thật sự có thể làm được chuyện lấy tính mạng con ruột ra lừa quân địch mở cửa lắm.
Thẩm Dịch vừa ra lệnh thì Huyền Thiết doanh lập tức giương cung bạt kiếm, cả Bắc địa sát ý tăng vọt, bao quanh sứ tiết Bắc man.
Nhị vương tử trên lưng ngựa run rẩy chực ngã, kế đó một đội nghiệm kim sư huấn luyện nghiêm chỉnh chạy đến, trước mặt sứ tiết Bắc man lần lượt mở rương kiểm tra.
Mấy xe tử lưu kim khiến người ta thèm nhỏ dãi cứ thế phơi ra trước mặt bọn Thẩm Dịch.
Nghiệm kim sư không dám qua loa, lần lượt kiểm tra độ tinh khiết của mỗi một xe tử lưu kim, lại thò gậy đặc chất vào thùng xe kín bưng, kiểm tra lượng tử lưu kim.
Mấy cái cây dài dính đầy tử lưu kim trình đến trước mặt Thẩm Dịch, nấc trên đó cơ hồ lên hết, nghiệm kim sư nhanh nhẹn báo cáo: “Tướng quân, độ tinh khiết không thành vấn đề, đạt tới cấp cống nạp.”
Thẩm Dịch “Ừm” một tiếng, vẫn chưa thôi nghi ngờ, ngẩng đầu nhìn nhị vương tử một cái, trên trán nhị vương tử có một vết màu tím thảm hại như bị roi quất, mặt tèm lem nước mũi nước mắt, mở miệng làm động tác tru lên mà không thành tiếng.
Trần Khinh Nhứ thấp giọng nói: “Thẩm tướng quân, ngài xem trên trán hắn có một vết tím, lúc ở mười tám bộ lạc ta từng nghe qua về nó, đó là một loại vu độc dùng để diệt khẩu, hắn hiện tại toàn thân cứng ngắc, tương đương với bị cố định trên ngựa, một tiếng ho cũng không phát được, qua vài khắc nữa, chờ vết tím kia đậm màu hóa đen, sẽ ngã xuống đất mà chết, cho dù khám nghiệm tử thi cũng chỉ có thể nghiệm ra hắn là kinh sợ quá độ, vỡ mật mà chết.”
Thẩm Dịch chẳng màng đỏ mặt ngại ngùng, vội quát lên ra lệnh: “Từ từ, bảo họ đứng lại!”
Huyền ưng trên trời quát lên một tiếng chói tai: “Dừng lại!”
Ngựa của nhị vương tử man tộc kia đột nhiên dừng lại, cả người hắn nhào về trước như trọng tâm bất ổn, cái ủng cứng ngắc vừa vặn đập lên góc xe chở dầu bên cạnh, tạo thành một tiếng “Coong” vọng vang.
Trên xe dầu có một góc là trống!
Đồng tử Thẩm Dịch chợt co lại: “Lui về sau!”
Y chưa dứt lời thì một người man trong đoàn sứ tiết chợt lao tới một xe chở dầu, bị huyền ưng tay mắt lanh lẹ bắn chết, cả Huyền Thiết doanh lặng ngắt như tờ lui lại bằng tốc độ cực nhanh, Thẩm Dịch kéo cương ngựa của Trần Khinh Nhứ, thuận tay đuổi ngựa của nàng ra sau trận.
Trong tích tắc, hỏa hoa phụt lên trời.
Thì ra là dưới xe chở dầu còn nấp một thiếu niên Thiên Lang tộc nhỏ thó, trong tay vung vẩy cây đốt lửa, đốt một kíp nổ giấu dưới xe, âm trầm nhìn lên thiên không mà cười.
Chỉ một khắc sau, cỗ xe chở tử lưu kim thứ nhất nổ tung, thiếu niên kia tan thành tro bụi ngay trên không.
Lực chấn động mạnh từ điểm ấy bùng ra, ngọn lửa màu tím mấy chục trượng trùng trùng điệp điệp phóng lên trời, không khí chung quanh chớp mắt sôi lên, sóng nhiệt vô hình cuồn cuộn kéo đến, lưng hắc giáp lạnh lẽo của chiến sĩ Huyền Thiết đoạn hậu bị đốt đỏ, bị hộp vàng bốc cháy nổ tung như dây chuyền.
|