Họa Quốc Tập 1
|
|
Chiêu Doãn chăm chú nhìn nàng, trong ánh mắt lộ vài phần bi thương: “Trẫm biết nàng thiệt thòi rất nhiều…”. Hy Hòa đáp lại bằng một tiếng cười nhạt. Chiêu Doãn không đếm xỉa đến tiếng cười châm biếm của nàng, tiếp tục nói: “Cho nên, trẫm sẽ bù đắp cho nàng những chuyện khác. Có những chuyện, chỉ cần nàng cảm thấy vui, trẫm đều sẽ làm theo ý nàng”. “Ví dụ như cung lưu ly này, đầm ngọc vỡ này?”. “Còn có…”, Chiêu Doãn ngừng lại một lát, mỗi chữ đều nhả ra rất chậm, “Khương Trầm Ngư”. Hy Hòa ngẩn ra, quay đầu lại nhìn y, bóng hai người in trong mắt nhau lay động, mơ hồ thành sóng nước lăn tăn. Ngày hôm sau, trong cung truyền lời, đòi Khương Trầm Ngư tiến cung dạy Hy Hòa phu nhân chơi đàn. Toàn bộ Khương gia đều không thể lý giải được điều này, không rõ chuyện này sao lại rơi lên đầu Trầm Ngư. Theo lý mà nói, phi tử muốn học đàn, tự mình có thể mời sư phụ của Thiên Nhạc Thự[2] dạy cho, nếu không, tìm cung nữ biết chơi đàn trong cung, có thế nào cũng không đến lượt con gái của hữu tướng. Hy Hòa này nổi tiếng kiêu ngạo ngang ngược, dạy nàng ta chơi đàn, hễ không cẩn thận, chuốc họa vào thân dễ như bỡn. [2] Tên của cơ quan thuộc Bộ Lễ, chuyên về lễ nghi, âm nhạc của hoàng cung. Khương phu nhân nghĩ rất lâu, nói: “Trầm Ngư, hay là con giả bệnh đi?”. Tẩu tẩu nói: “Đúng thế, hay là tìm một lý do từ chối đi, chuyện này tuyệt đối không thể nhận được”. Đến Khương Trọng cũng nói: “Chuyến này e rằng nguy hiểm, vẫn không nên đi thì hơn”. Nhưng cuối cùng Khương Trầm Ngư lại cười nhạt, nói: “Cha, mẹ, tẩu tẩu, Hy Hòa phu nhân truyền triệu con, chắc chắn trong lòng đã ra quyết định, cho dù chuyến này con giả bệnh từ chối, lần sau phu nhân vẫn sẽ mượn cớ khác tìm con, là phúc không phải họa, là họa tránh không nổi. Cho nên, con quyết định rồi, con đi. Bởi vì con cũng rất muốn biết, rốt cuộc nàng ta muốn làm gì”. Như thế, ngày hôm sau Khương Trầm Ngư vào hoàng cung. Kiệu dừng trước Bảo Hoa cung, nàng được cung nhân dìu vào trong đại sảnh, giữa màn lụa trướng điều, Hy Hòa đang ngồi tựa trước cửa sổ im lặng thẫn thờ, ánh nắng phác họa đường viền gương mặt nghiêng nghiêng gần như hoàn mỹ của nàng, mày đậm mi dài. Không biết tại sao, nhìn lại đau thương như thế. Hóa ra mỹ nhân kiêu ngạo ngông cuồng này cũng biết đau thương. Khương Trầm Ngư nhún người thi lễ. Hy Hòa quay đầu lại, sóng mắt trong veo mang theo ba phần kinh ngạc, ba phần thăm dò, ba phần xét đoán, xen lẫn một phần cay đắng, nhìn nàng, nhìn nàng thật kỹ, cuối cùng thở dài một tiếng. Sau đó, Hy Hòa cách dăm ba hôm lại truyền Khương Trầm Ngư vào cung dạy đàn, tiếng là dạy đàn, nhưng thực chất Trầm Ngư chỉ phụ trách đàn, nàng phụ trách nghe, cơ bản không hề nói chuyện. Khương Trầm Ngư cảm thấy Hy Hòa đang quan sát mình, nhưng không rõ nguyên nhân, vì thế chỉ có thể cố gắng hết sức cẩn thận lời nói, cử chỉ. Trong khoảng thời gian này, Hoàng Kim Bà không hề nuốt lời, quả nhiên đã đem được canh thiếp của Cơ Anh trở về Canh thiếp bằng giấy màu tím nhạt, có in hoa văn màu bạc hình vẽ vẫn là Bạch Trạch. Ngoài bát tự ra, phía trên còn viết một vế đối: Anh quân tử hoa, triêu bạch ngọ hồng mộ tử, ý nan vong nhất dạ thính xuân vũ. (Hoa Anh quân tử, sáng trắng trưa đỏ chiều tím, lòng khó quên một đêm nghe mưa xuân.) Chữ phóng khoáng như người, thanh tú lạ thường. Khương Trầm Ngư nghĩ một lát, đối lại như sau: Ngu mỹ nhân thảo, thanh xuân hạ lục thu hoàng, vu trung hảo lục thái kết đồng tâm. (Cỏ Ngu mỹ nhân, xuân xanh hạ lục thu vàng, đẹp bên trong sáu màu kết đồng tâm.) Hoàng Kim Bà tấm tắc khen rằng: “Không hổ là Khương tiểu thư, đối rất hay, đối rất tuyệt!”. Tẩu tẩu cười nói: “Hoa Anh quân tử này của y có lồng chữ “Anh” vào; Trầm Ngư lại đối lại cỏ Ngu mỹ nhân, lấy được âm “Ngư”[3], đúng là đối rất hay!”. [3]Chữ “Ngư” trong tên Khương Trầm Ngư và chữ “Ngu” trong cỏ Ngu mỹ nhân có cùng âm đọc là “yu”. Mọi người cười nói một hồi rồi tản đi. Khương Trầm Ngư về tới khuê phòng, lại bắt đầu rầu rĩ: Vế đối này của công tử dường như có ý khác, bỏ qua nửa câu đầu không nói tới, “ý nan vong” đó là ý gì? Còn hai chữ “mộ tử” ẩn dụ không tốt lành, thực sự khiến người ta nghĩ mãi mà không hiểu nổi. Nhưng nàng cũng chỉ có thể tự trăn trở trong lòng, không dám nói với mẫu thân. Nhưng đêm nay trời chuyển lạnh, tuyết rơi dày, ngày hôm sau, nàng đến hoàng cung dạy đàn, mới bước vào Bảo Hoa cung đã nghe thấy cung nữ nói phu nhân bị bệnh rồi. Một cung nữ tên là Vân Khởi dẫn nàng vào trong, trong phòng đốt lò sưởi, trong không khí có mùi thuốc nhàn nhạt. Trong trướng gấm thất bảo, Hy Hòa ngồi trong chăn, sắc mặt trắng bệch, nhìn khá là yếu ớt. Nàng vốn muốn cáo từ, nhưng Hy Hòa lại nói: “Ngươi đến rất đúng lúc. Ngươi có biết đàn bản ‘Thương giang dạ khúc’ không?”. Khương Trầm Ngư ngẩn ra một lúc, đáp: “Có ạ”. Rồi lập tức gẩy đàn. Tiếng đàn thánh thót, như Trường Giang chảy miết, kéo dài đến ngã giao Từ Chiết, bỗng một trận mây ập tới, mưa lớn dâng tràn, sóng sông ầm ào, dấy lên hàng ngàn con sóng lớn. Trong màn đêm trời nước một màu, mây mù bao phủ, một con rồng xanh từ trong mây lao vào biển lớn, cuộn mình uốn lượn. Cổ khúc này sôi sục cuộn trào, lại rất trọng tiểu tiết, nhưng nàng chậm rãi khẽ gẩy, quen tay đàn lên, lại không hề tốn sức. Hy Hòa vừa nghe vừa nhìn, mắt bắt đầu ngân ngấn, cuối cùng đã rơi lệ. Khương Trầm Ngư cả kinh, phút phân tâm, dây đàn đột nhiên đứt đoạn, nàng vội vàng quỳ xuống mà rằng: “Trầm Ngư đáng chết, xin phu nhân thứ tội!”. Hy Hòa không nói lời nào, chỉ là vẫn cứ nhìn nàng, trong ánh mắt dường như ẩn chứa nỗi niềm thê lương vô hạn, cuối cùng toàn thân đột nhiên run lẩy bẩy, phun ra máu tươi. Không sai không lệch, toàn bộ đều phun trúng lên mặt nàng. Cung nhân bên cạnh kinh hãi kêu lên: “Phu nhân! Phu nhân người sao rồi!”. Hy Hòa ngã về phía sau, lập tức mê man. Mà Khương Trầm Ngư máu tươi đầy đầu đầy mặt, sợ đến không biết mình đang ở nơi nào. Sao lại như thế này? Những chuyện phát sinh sau đó giống như một vở kịch, còn nàng quỳ trên mặt đất, trơ mắt xem vở kịch đó, từ khi bắt đầu đến khi kết thúc, cảm nhận được một sự rối loạn tột độ. Trước tiên là Vân Khởi gọi thái y, tiếp theo hoàng đế cũng đến, căn phòng nhỏ trong chốc lát có bao người vây quanh, mùi thuốc nồng nặc nặng nề sộc tới, khiến nàng cảm thấy gần như nghẹt thở. Bên tai có rất nhiều tiếng nói, loáng tháng nghe rõ được mấy tiếng: “Bệnh này kỳ quái… e rằng tính mệnh đáng lo… vi thần bất tài…”. Trong tầm nhìn của nàng, vô số vạt áo qua bay lại, sắc vàng là hoàng đế, sắc đỏ xanh chàm lam là phi tử, màu tím nhạt là cung nhân, cuối cùng, đột nhiên xuất hiện một sắc trắng. Đồng thời, bên ngoài có người truyền: “Kỳ Úc hầu tới…”. Khương Trầm Ngư ngẩng đầu lên, cách bức rèm lụa thêu tranh mỹ nhân, nàng nhìn thấy Cơ Anh đang quỳ ở gian ngoài, áo trắng rõ ràng, tựa như cứu tinh. Vành mắt nàng hoe đỏ, giống như một người ngã xuống nước nhìn thấy một cây gỗ nổi, toàn thân đều run rẩy, nhưng dù trong cơn run rẩy lại biết rất rõ, bản thân sẽ không xảy ra chuyện gì. Chỉ cần chàng đến, nàng tuyệt đối sẽ không xảy ra chuyện gì. Chiêu Doãn quay người, trên mặt lộ vẻ an tâm, cất cao giọng nói: “Kỳ Úc, ngươi đến thật đúng lúc, lũ thái y bỏ đi này không có tên nào nhìn ra Hy Hòa mắc bệnh gì, ngươi mau đến xử lý, trẫm muốn tước hết chức vị của bọn chúng!”. Cơ Anh vẫn trấn tĩnh, ngữ điệu không gấp không chậm, giọng nói cũng không cao không thấp, nhưng lọt vào tai lại khiến người ta cảm thấy dễ chịu không thể tả xiết: “Xin hoàng thượng bớt giận. Vi thần nghe tin phu nhân bị bệnh liền vội vã tới đây, hơn nữa, còn dẫn theo một vị thần y cùng đến”. Chiêu Doãn sáng mắt lên: “Mau tuyên!”. Một người áo xanh theo sau La Hoành bước vào, quỳ xuống bên cạnh Cơ Anh: “Thảo dân Giang Vãn Y, tham kiến bệ hạ!”. Một lão thái y trong phòng toàn thân chao đảo, gương mặt đầy vẻ kinh ngạc. Chiêu Doãn nói: “Ngươi là thần y?”. Người áo xanh đáp: “Thần y là do hương dân mến gọi, không dám tự xưng”. “Nếu như ngươi có thể chữa khỏi bệnh của Hy Hòa, trẫm sẽ ban tặng ngươi danh xưng thần y! Mau mau vào đi”. Người áo xanh tên Giang Vãn Y đó vâng một tiếng, khom mình tiến vào, bắt đầu bắt mạch cho Hy Hòa. Từ góc nhìn của Khương Trầm Ngư, chỉ thấy hắn ngũ quan đẹp tựa tĩnh nữ, toàn thân trên dưới toát lên một khí chất nho nhã, không giống đại phu mà giống thư sinh hơn. Còn lão thái y bên cạnh nhìn hắn, vẻ mặt càng thêm hoảng sợ, bàn tay giấu trong tay áo run rẩy không ngừng. Giang Vãn Y ngẩng đầu, mỉm cười với ông ta: “Phụ thân, đã lâu không gặp, gần đây người có khỏe không?”. Lão thái y dường như bị tắc thở trong lồng ngực, hoàn toàn không nói nổi nên lời, còn những người khác kinh ngạc, không ngờ thần y mà Kỳ Úc hầu mời tới lại là con trai độc nhất của đề điểm thái y viện Giang Hoài. Nghe lời hắn vừa nói thì dường như cha con đã nhiều năm không gặp mặt, mà nay tái ngộ lại lạ lùng như thế, càng khiến người ta đoán không ra nội tình. Chiêu Doãn chẳng thèm để ý quan hệ phức tạp bên trong, chỉ cuống quýt hỏi: “Thế nào thế nào? Hy Hòa rốt cuộc bệnh gì? Tại sao đột nhiên thổ huyết, hôn mê bất tỉnh?” Giang Vãn Y nhíu cặp mày đẹp lại, trầm ngâm không nói. Chiêu Doãn lại nói: “Mấy ngày trước nàng từng bị phong hàn, mắc chứng trong nóng sốt, ngoài lạnh ngắt.” Giang Vãn Y thả tay Hy Hòa ra, đứng thẳng lên hành một lễ thong thả nói: “Hồi bẩm hoàng thượng, phu nhân không phải mắc chứng hàn tà”. Bỗng tim Khương Trầm Ngư đập thình thịch, báo hiệu điềm chẳng lành. Dường như để chứng minh cho cảm giác của nàng, câu tiếp theo của Giang Vãn Y là: “Sự thực là phu nhân đã bị trúng độc”. “Trúng độc”. Chiêu Doãn chợt biến sắc. “Vâng, hơn nữa nếu như tại hạ không đoán sai, tên của chất độc này là Sầu Tư. Theo cái tên này, người uống phải thân thể sẽ gầy yếu, nguyên khí tổn thương, ngày càng héo mòn, cuối cùng bệnh nặng qua đời”. Chiêu Doãn đứng ngây ra hồi lâu rồi cuống quýt hỏi: “Đã biết tên độc, có cách giải độc không?”. “Hoàng thượng xin hãy an tâm, phu nhân là quý nhân, tự có trời giúp, sẽ bình an qua được kiếp nạn này, chỉ là…”. “Chỉ là gì?”. “Chỉ là phu nhân trúng độc đã sâu, liên lụy đến bào thai trong bụng, cho nên, cái thai này e rằng không giữ được”. Cả người Chiêu Doãn chấn động nặng nề, giọng run run: “Ngươi nói gì? Nói lại lần nữa cho trẫm”. Khương Trầm Ngư lo lắng dán mắt nhìn Giang Vãn Y, trong lòng có một giọng nói kỳ quái đang kêu gào: Đừng nói, đừng nói, tuyệt đối đừng nói!
|
Hồi thứ ba: Duyên lỡ
Tối hôm đó, Khương Trầm Ngư về tới nhà, kể chuyện này với phụ thân và huynh trưởng, Khương Hiếu Thành trợn tròn mắt, kinh hãi nói: “Muội nói gì? Muội và Họa Nguyệt cùng công chúa đến Càn Tây cung thăm Tiết Minh, còn đồng ý giúp nàng ta cứu Tiết Thái?”. Khương Trầm Ngư gật đầu. Khương Hiếu Thành suýt nữa nhảy dựng lên, phản ứng đầu tiên chính là: “Muội điên rồi à? Muội biết rành rành hoàng thượng bây giờ muốn trừ bỏ tận gốc Tiết gia, muội còn dám cướp người trong vuốt hổ? Muội chán sống rồi phải không?”. So với sự kích động của Hiếu Thành, Khương Trọng thâm trầm mưu kế vẫn bình tĩnh hơn nhiều, trầm ngâm nói: “Trong gia tộc Tiết thị, Tiết Hoài tuy là thần tướng, nhưng tuổi đã già; Tiết Minh tuy là hoàng hậu; nhưng đã bị phế truất; Tiết Hoằng Phi tuy thiện chiến, nhưng chỉ là nghĩa tử… Đúng là chỉ còn lại Tiết Thái. Có điều, tuổi vẫn còn quá nhỏ, khó nói được tương lai ra sao. Tại sao con phải giữ lại huyết mạch Tiết thị cho bằng được?”. Khương Trầm Ngư ngẩng đầu, nói rành rọt, dứt khoát hai tiếng: “Lập địch”. “Lập làm kẻ địch của ai?”. “Khương gia, Cơ gia, còn có… hoàng thượng”. Khương Trọng bỗng ngộ ra: “Hóa ra là thế… Con muốn dùng Tiết gia để kiềm chế Cơ gia, không để họ tiếp tục lớn mạnh?”. “Chính là thế, trong ba đại thế gia, hễ Tiết gia diệt vong, chỉ còn lại hai nhà Khương, Cơ, cho dù nhìn từ mặt nào, Khương gia chúng ta cũng không phải là đối thủ của Cơ gia, mà hoàng thượng vừa không tín nhiệm cũng chẳng gần gũi chúng ta, suy yếu chỉ là chuyện sớm muộn. Tuy hoàng thượng coi trọng Cơ thị, nhưng có tấm gương tày liếp thế mạnh lấn chủ của Tiết gia, ngài chắc chắn sẽ không để cho Cơ gia lớn mạnh. Cho nên, từ điểm này mà nói, chúng ta thực ra cũng giống như hoàng thượng, đều cần một mắt xích để kiềm chế Cơ gia. Thử hỏi, hiện nay còn có thứ gì thích hợp hơn đứa con côi của họ Tiết?”. Lúc này, đến Khương Hiếu Thành cũng hiểu ra, ánh mắt bắt đầu sáng lên, nhưng vẫn u mê hỏi: “Tiết Thái còn nhỏ thì có thể làm được gì? Sao có thể kiềm chế được Cơ Anh? Huynh không tin”. Khương Trầm Ngư cười nhạt một tiếng: “Nếu như hoàng thượng ban Tiết Thái cho Cơ Anh thì sao?”. Khương Hiếu Thành ngẩn ra một lát, rồi nhảy lên nói: “Sao có thể?”. “Sao lại không thể? Nếu như hoàng thượng không giết Tiết Thái, vậy thì đối với ngài mà nói, còn có chỗ nào an toàn hơn, cũng nguy hiểm hơn ở bên cạnh Kỳ Úc hầu? Ngài ban hắn cho Cơ Anh, bởi vì ngài tín nhiệm Cơ Anh, cho nên mới giao mối lo lắng cho thần tử mình tín nhiệm nhất, tin rằng người đó nhất định sẽ trông chừng Tiết Thái cẩn thận, không để hắn tự ý làm bừa; nếu như hoàng thượng không tín nhiệm Cơ Anh, vừa hay có thể mượn việc này để thử thách lòng trung thành của Cơ Anh, xem xem công tử đối đãi với Tiết Thái ra sao, là bồi dưỡng hắn thành tài, hay là vùi dập hắn?”. “Nhưng hoàng thượng không có lý do gì để không giết Tiết Thái cả!”. Ánh mắt Trầm Ngư sầm xuống, giọng chắc nịch: “Vậy chúng ta hãy tìm cho ngài một lý do không thể không giữ Tiết Thái lại”. Khương Trọng ngần ngừ rất lâu, cuối cùng mới than thật khẽ: “Kế này tuy hay, nhưng vi phụ luôn cảm thấy không ổn. Bởi vì, nếu là do chúng ta ra mặt cứu Tiết Thái, há chẳng phải tuyên bố với hoàng thượng, chúng ta không trung thành với ngài? E rằng không đợi Cơ gia lớn mạnh, hoàng thượng đã khai đao với chúng ta trước rồi…”. Khương Hiếu Thành bỗng mở miệng cười ha ha. Khương Trọng nhíu mày, nói: “Con cười cái gì, Hiếu Thành?”. “Lo lắng của cha thật buồn cười, chỉ dựa vào chúng ta, có thể cứu được Tiết Thái sao?”. Gương mặt già nua của Khương Trọng trong giây lát tối sầm lại, thằng nhãi này quả nhiên ngốc đến mức sẽ phá đám người nhà mình. Khương Trầm Ngư biết ý, vội vàng xoa dịu: “Cha đừng giận, điều ca ca nói đúng là sự thực. Chuyện của Tiết Thái, đương nhiên chúng ta không thể ra mặt, kỳ thực, Trầm Ngư đã nghĩ đến lựa chọn tốt nhất”. “Ai?”. Khương Trầm Ngư nói: “Kỳ Úc hầu”. Khương Trọng lắc đầu: “Không thể nào, cho dù hoàng thượng có lý do tha cho Tiết Thái, Cơ gia cũng không vì lý gì mà cứu nó, một khi Tiết thị bị diệt, trong triều sẽ không có người đối kháng với Cơ gia, y hà tất làm chuyện thừa thãi, tự gây phiền phức cho mình?”. “Cha có muốn… đánh cược với con một lần không?”. Khương Trầm Ngư ngẩng đầu lên, hai mắt sáng rỡ, kiên định lạ thường, cũng tự tin lạ thường, “Con gái đặt cược vào công tử, chàng nhất định sẽ cứu Tiết Thái!”. Cùng với câu nói này, mọi việc đã được định đoạt. Ngày hôm sau, một phong thư được cung kính đưa đến phủ hầu gia, giờ Mùi, cỗ xe ngựa thêu hình Bạch Trạch y hẹn xuất hiện tại phía ngoài Thanh Cương tự cách kinh thành mười dặm. Rèm xe khẽ vén lên, quả nhiên là Cơ Anh bước ra. Hai nhà sư dẫn đường cho chàng đến thẳng sân sau chùa mới khom mình lui ra. Trong sân, dưới bóng cây cổ thụ, trên mặt bàn đá là một bình trà mới vừa châm. Đồi bàn tay thon thả nhấc ấm trà kỳ lân hoa lê hoa cúc trên lò lên, dùng ngón cái, ngón trỏ nâng chén, ngón cái ấn nắp, nhấc ấm lên, gạt nhẹ một cái men theo khay trà, gạt bỏ những giọt nước bám đáy ấm, lại rót trà mới pha màu xanh nhạt vào trong chén. Khi thực hiện một loạt động tác này, tay áo màu tím nhạt nhẹ nhàng phất phơ, tư thế mỹ lệ tựa tiên nữ, chẳng khác người trong tranh. Cơ Anh chăm chú nhìn người đó, bất động. Người đó quay đầu lại mỉm cười với chàng, nói: “Bình sinh vu vật chi vô thủ, tiêu thụ sơn trung thủy nhất bôi[1]. Chẳng hay loại trà Ngưỡng Thiên Tuyết Lục ngâm trong mai tuyết lâu năm này có hợp khẩu vị của công tử không?”. [1] Hai câu thơ của Khổng Nhất Nguyên, người thời Minh, đây được coi là danh cú về trà, dịch nghĩa là: Bình sinh chẳng lấy thứ gì, Chỉ cầu được hưởng một chén trà trong núi sâu. Dưới những gốc mai nhấp nhô, chỉ thấy người đó eo Sở tóc Vệ, mày ngài mi xanh, dịu dàng yểu điệu, khiến người ta ngắm nhìn mà kinh ngạc. Không phải ai khác, đó chính là Khương Trầm Ngư. Cơ Anh “Chà” một tiếng, chợt mỉm cười: “Trà ngon như thế, Anh đương nhiên phải tạ lĩnh”. Khương Trầm Ngư đưa tay ra mời, lại đẩy chén trà đã rót đến trước mặt chàng. Tuyết đã ngừng rơi, trời cao xanh ngắt, chỉ cảm thấy ở nơi này, hồng trần thế tục hết thảy đều cách xa. Hai người cứ thế mặt đối mặt, lặng lẽ thưởng trà, một lúc lâu không ai nói gì. Cuối cùng, vẫn là Trầm Ngư lên tiếng trước: “Trầm Ngư vượt phận, mạo danh gia phụ để hẹn công tử tới đây, dám mong công tử lượng thứ”. Cơ Anh cười nhàn nhạt: “Tiểu thư hẹn Anh tới, tất có chuyện, đã là có chuyện, là ai hẹn cũng có quan hệ gì đâu?”. Khương Trầm Ngư không tiếp lời ngay, nàng cúi xuống nhìn chén trà trong tay, lại im lặng một lúc, cuối cùng hít một hơi thật sâu tựa như đã hạ quyết tâm, ngẩng đầu lên nói: “Công tử có biết tên của Thanh Cương tự này là từ đâu mà có không?’’. Cơ Anh hơi ngẫm nghĩ một chút rồi nói: “Nếu như ta nhớ không nhầm… chùa này là do Băng Ly công tử đặt tên”. “Không sai, cái tên này, thậm chí cả hoành phi trước chùa, cũng đều từ Tiết Thái mà ra. Năm Băng Ly công tử lên bốn, cùng người nhà ra ngoài du xuân, không cẩn thận đi lạc trong núi, đương lúc đói đến sắp ngất đi, ngẫu nhiên gặp một giai nhân. Giai nhân này soi đèn đưa hắn đến đây, hòa thượng trong chùa phát hiện ra một đứa trẻ bị ngất ở ngoài cửa, liền cứu hắn. Sau khi tỉnh dậy, hắn cảm cái ơn đó, nhớ đến người kia tự xưng là Thanh Cương, bàng hoàng tỉnh ngộ, hóa ra nàng là Thanh Cương nữ – yêu quái cuối cùng trong “Sơn hải kinh”[2], bèn tặng chùa này cái tên đó”. Khương Trầm Ngư nói đến đây, ngừng lại một lát mới tiếp: “Đứa trẻ bốn tuổi có thể có được duyên kỳ ngộ như thế, thật khiến chúng ta hâm mộ”. [2] “Sơn hải kinh”: Là bộ cổ tịch quan trọng thời kỳ Tiên Tần của Trung Quốc, cũng là một bộ kỳ thư cổ nhất, viết về thần thoại truyền thuyết. Tác giả của cuốn sách này không rõ là ai, các học giả hiện đại đều nhận định đây không phải là bộ sách được hoàn thành trong một thời điểm, và cũng không chỉ do một tác giả biên soạn. “Sơn hải kinh” có sức ảnh hưởng rất rộng lớn và sâu sắc đối với nền văn hóa Trung Quốc nói chung và văn học Trung Quốc nói riêng. Cơ Anh cười nói: “Cho dù là duyên kỳ ngộ, nếu chẳng phải một kỳ nhân như hắn, thì cũng không thể thành giai thoại”. Khương Trầm Ngư chỉ khối đá bên cạnh nói: “Vậy công tử có biết gốc tích của khối đá ‘Bão Mẫu’ này?”. “Đương nhiên, nói ra vẫn là có liên quan đến Băng Ly công tử. Hắn được tăng nhân trong chùa cứu sống, sau đó ngày ngày ngóng người nhà đến tìm, nhớ nhung ơn mẹ, viết thành bài ‘Bão mẫu ngâm’ vang danh bốn nước, khối đá này được đặt tên như vậy là để kỷ niệm bài thơ đó của hắn”. “Anh anh trĩ nhi, phát sơ phúc ngạch. Thực mẫu chi nhũ, nhân mẫu hỉ lạc. Kiệt kiệt đồng tử, kỵ trúc cao ca. Mẫu hoán quy gia, yếm mẫu hà trách. Lãng lãng thanh sam, dị hương chi khách. Tụ khai bào liệt, ức mẫu châm hạp. Thương thương lão ông lệ vô hà già, mộ tiền khô thảo, dĩ một hành xa…”(Trẻ thơ non nớt, tóc vừa để chỏm, uống sữa của mẹ, vì mẹ mừng vui. Ngây thơ con trẻ, cưỡi tre hát vang. Mẹ gọi về nhà, chê mẹ trách móc. Áo xanh sáng ngời, lữ khách tha hương, áo rách tả tơi, nhớ đường kim mẹ. Ông già tóc bạc, lệ tràn khóe mi, cỏ khô trước mộ, đâu nào dấu xe). Khương Trầm Ngư thong thả nói, “Thuở sơ sinh bám lấy mẫu thân, thuở còn thơ lại chê mẫu thân phiền hà, khi trưởng thành rời xa mẫu thân, già rồi trở về khó mà gặp mẫu thân… Sáu mươi tư chữ ngắn ngủi đã nói hết một đời của một cặp mẹ con. Mà hắn khi đó chỉ mới bốn tuổi”. Lần này đến lượt Cơ Anh trầm ngâm. Trà trong ấm sôi ùng ục, đẩy nắp ấm kêu lục cục, thảng có cơn gió thổi qua núi rừng, xào xạc xào xạc. Khương Trầm Ngư chăm chú nhìn chàng, trong mắt chất chứa muôn vàn tình cảm, tựa như cân nhắc vạn điều, cuối cùng mới kết thành một câu: “Công tử, xin ngài… cứu hắn”. Nói rồi, nàng quỳ xuống. Cơ Anh nhìn nàng, đáy mắt dường như bình tĩnh, nhưng lại có sự mơ hồ khó che giấu, cuối cùng khẽ thở dài một tiếng. Khương Trầm Ngư cắn môi nói: “Công tử tai mắt vô số, tất nhiên đã biết chuyện hôm qua ta cùng tỉ tỉ và công chúa đến lãnh cung thăm hoàng hậu. Khi ngài nhận được thư mời hẳn đã đoán được chúng ta tìm ngài là vì việc gì. Công tử vốn có thể không đến, nhưng công tử đã đến, có nghĩa là chuyện này có thể thành, đúng không?”. Cơ Anh đưa mắt nhìn khối đá có tên “Bão Mẫu”. “Công tử, ngài môn khách ba ngàn, dưỡng hiền nạp sĩ, vô cùng quý trọng người tài, thậm chí không tiếc bản thân tôn quý, đích thân đẩy xe. Bây giờ, một thần đồng bốn tuổi đã viết ra ‘Bão mẫu ngâm’, năm tuổi bắn hổ, sáu tuổi đi sứ Yên quốc bị liên lụy vì gia môn, vô tội mà chết, ngài sao có thể nhẫn tâm khoanh tay đứng nhìn, bỏ mặc không cứu, như vậy há chăng phải là làm cho học sĩ trong thiên hạ sờn lòng sao?”. Cơ Anh đáp: “Mời tiểu thư đứng dậy”. Khương Trầm Ngư không đứng lên, tiếp tục nói: “Nếu là người khác, ta cũng sẽ không cầu xin. Nhưng duy chỉ có ngài, chỉ có ngài, ta biết ngài có thể cứu hắn, cho nên mới to gan miệng. Công tử, với hoàng thượng mà nói, Tiết Thái chẳng qua chỉ là một đứa trẻ ranh trong nhà một kẻ nghịch thần, nhưng đối với thiên hạ mà nói, lại là chí bảo kỳ trân, chém đầu hắn sẽ không thể có được một kẻ thứ hai”. Cơ Anh dường như bị câu cuối cùng làm lay động tâm tư trên gương mặt lóe lên một thoáng dị thường, khi nhìn nàng, trong ánh mắt dường như chất chứa thêm rất nhiều thứ, những thứ đó sáng lóa, nhảy nhót, cuối cùng ngưng kết thành sự tiếc thương: “Nàng nói không sai, Tiết Thái đúng là chỉ có một…”. Cơ Anh nhắm mắt rồi lại mở mắt ra, đứng dậy nói: “Đời người trăm năm, thù nước hận nhà, đối với dòng sông lịch sử mà nói, chẳng chỉ là một hạt thóc giữa biển xanh, chớp mắt đã biến mất. Nhưng văn thái phong lưu lại có thể lưu danh muôn đời, trường tồn mãi mãi. Anh tuy bất tài, cũng không thể nhìn Hòa bích Tùy châu[3] tan thành cát bụi. Ta nhận lời nàng, Khương tiểu thư, ta sẽ cứu Tiết Thái”. [3] Hòa bích Tùy châu: Hòa bích chỉ ngọc Biện Hòa, Tùy châu tức là dạminh châu, Hòa bích Tùy châu dùng để ví với ngọc quý.
|
Ta sẽ cứu Tiết Thái. Năm tiếng này, từng tiếng cương nghị, vang lên rành rọt. Khương Trầm Ngư ngẩng đầu lên, nhìn chàng chằm chằm, trong mắt loang loáng ánh lệ. Canh bạc này… nàng thắng rồi. Bởi vì, công tử chuộng tài, mà Tiết Thái chính là ngọc chất lương tài trăm năm khó gặp. Cái nàng cược chính là tấm lòng quý trọng nhân tài của công tử, mà chàng quả nhiên không phụ sự kỳ vọng của nàng, cuối cùng đã nhận lời cứu giúp. Nàng biết, kỳ thực với địa vị thân phận của chàng, với hoàn cảnh của chàng, cần quá nhiều hy sinh mới có thể đồng ý chuyện này, tuy nàng đoán được chàng sẽ mềm lòng, nhưng vẫn cảm động vì sự mềm lòng này. Công tử à, không hổ là công tử mà nàng vẫn ngưỡng mộ nhung nhớ bấy lâu… khoan dung đại độ như thế, vứt bỏ tư lợi như thế, phẩm đức hoàn mỹ không tì vết như thế, chỉ có chàng… Nhưng, nhưng, nhưng mà… Mây mù trùng trùng giăng bủa, Khương Trầm Ngư nghĩ, có lẽ nàng sắp khóc đến nơi rồi. Trong lòng như bị dao cứa, một nơi nào đó đang ứa máu, bởi vì cảm động, bởi vì yêu thương, càng bởi vì hổ thẹn: Công tử, chàng cứu Tiết Thái tuy là đại nghĩa, Khương Trầm Ngư ta lại là vì tư tâm. Bởi vì, nếu Tiết gia bị diệt, Cơ gia tất thịnh, Khương gia sẽ suy, cứ như vậy, liên hôn hai nhà Khương, Cơ sẽ mất đi ý nghĩa tồn tại. Mà ta làm sao có thể trơ mắt nhìn hôn sự này chết yểu? Cho nên, ta chỉ có thể nhân khi mối hiểm nguy này chưa xuất hiện mà triệt để phá hủy, nắm chặt không buông. Công tử, ta không thể buông tay. Nếu ta buông tay là sẽ mất chàng! Ta phải gả làm vợ của chàng, nương tựa bên nhau, sống đến bạc đầu. Nhưng tất cả đều phải được xây dựng trên cơ sở bình bẳng. Ta không cần với cao Cơ gia, cũng không muốn những kẻ khác coi thường, cho rằng ta không xứng với chàng. Ta muốn chàng coi ta là vinh quang, ta muốn rực sáng vô song đứng cạnh bên chàng, ta muốn tất cả người trong thiên hạ đều nói: Trầm Ngư của Khương gia và Kỳ Úc của Cơ gia đúng là một cặp trời sinh! Cho nên, ta chỉ có thể làm ra chuyện đê tiện này. Ta chỉ có thể cản trở tiền đồ của chàng như thế này. Xin lỗi, công tử, xin lỗi… Bởi vì yêu chàng, vì ta yêu chàng, vì… ta yêu chàng một cách vừa cố chấp vừa hèn mọn như thế… Khương Trầm Ngư cụp mắt, hàng mi không ngừng run rẩy tựa cánh bướm, trong lòng khó nén nổi nỗi bi thương. Nhưng chính lúc đó, nàng nghe thấy Cơ Anh nói: “Hóa ra nơi này có cây hạnh…” Nàng ngẩng đầu, thấy Cơ Anh đứng cạnh bàn, chăm chú nhìn một gốc hạnh cách đó không xa, khi ấy đông lạnh vừa qua, tiết trời vẫn chưa hoàn toàn ấm áp, cành cây trơ trụi, không hề đẹp mắt. Nhưng dường như chàng lại nhìn thấy cảnh tượng tươi đẹp hoa xuân nở rộ vạn vật tốt tươi, ánh mắt trở nên vô cùng vô cùng dịu dàng. Trong lòng nàng run lên, không kiềm được hỏi: “Công tử thích hoa hạnh ư?”. “Ừ”. Sau âm mũi trong, mềm đó, lại nhấn mạnh bổ sung một câu, “Vô cùng thích”. Hóa ra công tử thích hoa hạnh, không biết tại sao cảm thấy có chút kỳ lạ, nàng luôn cảm thấy công tử tao nhã cao quý như thế, đáng lẽ sẽ thích một loại hoa nào đặc biệt hơn mới đúng. “Có chút bất ngờ, ta tưởng rằng công tử thích hoa anh đào”. “Lẽ nào nàng thực sự thích cỏ Ngu mỹ nhân?”. Cơ Anh hỏi ngược lại, xem ra chàng cũng nhớ đến câu đối trong canh thiếp đó. Khương Trầm Ngư mím môi, cười nói: “Lãnh diễm toàn khi tuyết, Dư hương tạc nhập y”[4]. [4] Trích bài “Tả Dịch lê hoa” (Hoa lê vườn Tả Dịch) của Khâu Vi đời Đường, Vũ Minh Tân dịch “Đẹp lạnh, coi khinh tuyết, Đẫm hương lồng áo ai”. “Hóa ra nàng thích hoa lê…”. Cơ Anh nhìn cây hạnh đó, chậm rãi nói: “Thật tốt, qua một tháng nữa, hai loài hoa đều nở”. Trong lòng Khương Trầm Ngư thoáng xao động, bèn nói: “Tháng tư hàng năm, đế đô đều có lễ thưởng hoa long trọng, vạn sắc nghìn hương, trong đó Hồng viên là đẹp nhất. Năm nay công tử, liệu có muốn… đi cùng ta không?”. Cơ Anh dường như sững người một lát, khiến nàng trong chốc lát có cảm giác hối hận vì mình đã đường đột, mình chủ động mời một nam tử đi thưởng hoa như thế, liệu có quá… bạo dạn chăng? Nhưng công tử đúng là công tử, hiển nhiên, chàng tuyệt đối không để người khác khó xử, đặc biệt là làm nữ tử khó xử, thế nên chàng nhếch khóe môi, dịu dàng nói: “Đây là vinh hạnh của Anh”. Trái tim của Khương Trầm Ngư nhảy thình thịch mấy nhịp, sự bất an và bối rối trong nháy mắt đã lui đi, thay vào đó là một tình cảm dịu dàng khó tả thành lời. Nàng nhìn nam tử đứng trước mặt, chỉ cảm thấy toàn thân chàng từ đầu xuống chân, không chỗ nào là không hoàn mỹ, mọi thứ đều phù hợp với tâm ý của nàng, khiến nàng vui mừng. Còn một tháng… một tháng nữa, nàng sẽ có thể cùng công tử sánh vai đi ngắm hai loài hoa mà họ thích nhất. Đến lúc đó, lê trắng hạnh đỏ, chiếu rọi lẫn nhau, tất sẽ giống như chàng và nàng, liên châu hợp bích, hoa nở đã rực rỡ lại càng thêm rực rỡ… Mười ngày sau, quân chủ Bích quốc Chiêu Doãn đóng quân ở phía bắc sông Hoài đang chuẩn bị tấn công chính diện vào đại quân của Tiết Hoài, đột nhiên nhận được thư do quân chủ Yên quốc – Chương Hoa gửi tới, trong thư cầu xin cho Tiết Thái, khẩn thiết xin giữ lại tính mạng của hắn. Đế vương thiếu niên đọc xong phong thư đó, ngọn lửa phẫn nộ bùng lên trong đôi mắt, xé bức thư thành hai mảnh, khiến cho đám tướng lĩnh bên canh nhất loạt quỳ sụp, miệng hô vạn tuế. Lồng ngực y phập phồng nhấp nhô, qua một thời gian rất dài, mới từ từ bình tĩnh trở lại, mở miệng nói: “Các ngươi lui hết ra, trẫm muốn yên tĩnh một lúc”. Đám tướng lĩnh lục tục lui ra, trong doanh trướng chỉ còn lại mình y. Ánh mắt y lóe sáng, gọi: “Điền Cửu”. Một bóng đen từ trên mái nhà bay xuống, phủ phục dưới đất, thưa: “Có”. “Chuyện này là thế nào?”. Chiêu Doãn ném bức thư xuống trước mặt hắn. Điền Cửu nhặt hai mảnh giấy lên, ghép lại đọc một lượt, thấp giọng nói: “Nghe nói Khương quý nhân và công chúa từng đến lãnh cung thăm hoàng hậu”. Chiêu Doãn cười lạnh: “Ngươi cho rằng hoàng hậu viết thư cầu xin Yên vương? Nếu nàng ta thực sự có thể liên hệ với thế giới bên ngoài, đám thị vệ trong cung đều không cần sống nữa”. Điền Cửu biết hoàng thượng đang nổi giận, một câu trả lời không thận trọng sẽ vạ lây muôn người, lập tức đáp: “Thiên hạ đều biết Yên vương yêu thích Tiết Thái, vì thân phận đặc biệt, không thể thu nhận làm nghĩa tử, mà hắn tuổi còn quá nhỏ, không thể chiêu nạp làm con rể, vì chuyện này Yên vương nuối tiếc đã lâu. Hẳn là nghe được chuyện về Tiết thị, nên mới đặc biệt cầu xin…”. Chiêu Doãn trầm ngâm, cuối cùng “Hừ” một tiếng. Điền Cửu dè dặt nói: “Hoàng thượng định làm thế nào?” “Trẫm còn có thể làm thế nào? Bức thư này bề ngoài là khách sáo cầu xin, kỳ thực là uy hiếp. Yên vương rõ ràng biết nước ta nội loạn, tuy e ngại bang giao hai nước nên không tiện vọng động, nhưng trong lòng không chừng đã nghĩ nên chia bát canh này như thế nào! Nếu ta không nhận lời giữ lại Tiết Thái, e là ngày mai hắn sẽ tuyên bố giúp Tiết Hoài thảo phạt tên hôn quân là ta!”. Sắc mặt Chiêu Doãn cực kỳ khó coi, y đảo mắt, biểu tình càng u ám hơn. Điền Cửu không dám tiếp lời, đành cúi thấp đầu. Yên lặng như thế một lúc, Chiêu Doãn chợt nhếch môi cười nói: “Cũng được. Các ngươi đều hy vọng trẫm giữ lại nó, vậy thì trẫm giữ lại nó thôi”. Điền Cửu vẫn cẩn thận giữ yên lặng như trước, hắn theo Chiêu Doãn đã bảy năm, quá hiểu tính cách của vị chủ tử này, nếu thực sự trừng mắt trợn mày nổi giận vẫn còn tốt, sợ nhất là bộ dạng nửa cười nửa không như lúc này, mỗi lần hoàng thượng có dáng vẻ này, tức là có người sắp gặp xui xẻo. “La Hoành”. Chiêu Doãn truyền gọi đại thái giám thân cận: “Thay trẫm tuyên chỉ, nói Tiết Hoài tuy làm phản, tội liên lụy đến con cháu, nhưng trẫm niệm ân xưa, đặc biệt mở một con đường sống, miễn tội chết cho Tiết Thái, ban hắn làm nô lệ cho Cơ Anh, mong công tử hãy thay trẫm quản giáo cẩn thận”. La Hoành hơi do dự một lát: “Hoàng thượng…”. “Cái gì?”. Ban Tiết Thái cho Cơ Anh, liệu có thỏa không.. Chiêu Doãn cười nhạt với La Hoành, mày mắt cong cong, “Thế ban cho ngươi chắc?”. La Hoành đột nhiên toát mồ hôi lạnh, không dám nhiều lời, vội vàng lĩnh chỉ lui ra. Chiêu Doãn ra quyết định này xong, sắc mặt dễ coi hơn rất nhiều, xua tay ngầm bảo Điền Cửu có thể ẩn thân rồi, thế là bóng đen trên mặt đất loáng một cái đã mất tăm. Y chầm chậm ngồi xuống, chầm chậm giở địa đồ hành quân trên bàn ra, truyền Phan Phương vào yết kiến. Không lâu sau, Phan Phương đã đến. Chiêu Doãn vẫy Phan Phương đến bên bàn, nói: “Ái khanh, chúng ta đã đến sông Hoài, mà giặc Tiết cũng sắp đánh đến sông Hoài, theo khanh, chúng ta sẽ giao binh ở đâu?”. Phan Phương chỉ vào một thành nhỏ bên sông, nói: “Đương nhiên là Lạc thành”. “Chính là nơi bêu đầu Tiết Túc?”. “Thưa vâng”. “Tại sao?”. “Thứ nhất, thành này tuy nhỏ, nhưng là chốn trọng địa của nhà binh, xưa nay đều là nơi các lộ quân mã phải tranh đoạt, thành cao mười trượng, ba mặt giáp sông, dễ thủ khó công, thành này nếu mất, coi như thua một nửa”. “Còn thứ hai?”. “Hai là…”. Phan Phương chỉ vào một nơi được khuyên đỏ trên địa đồ, “Hầu gia đã bố trí thiên la địa võng trong thành, thần dám lấy đầu ra đảm bảo, chỉ cần giặc Tiết vào thành chắc chắn sẽ chết!”. Ánh mắt Chiêu Doãn sáng lên, không suy xét kỹ nguyên nhân, đứng dậy vỗ vỗ vào vai Phan Phương, nói: “Được, đợi diệt giặc Tiết xong, trẫm sẽ mời tướng quân ba chén, để cảm tạ trời cao đã ban một viên hổ tướng như ngươi cho Đồ Bích”. Phan Phương quỳ sụp xuống: “Hoàng thượng chém Tiết Túc là báo thù cho người vợ chưa cưới của vi thần, vi thần dù gan óc lầy đất, cũng khó báo đáp hoàng ân! Đến nay, thần chỉ còn một tâm nguyện chưa hoàn thành!”. “Nói”. Phan Phương cắn răng, giọng nói gần như nghẹn ngào: “Chính là nỗi oan của gia phụ…”. Chiêu Doãn gật đầu: “Ngươi an tâm, trận này đại thắng, trẫm ắt sẽ trả lại công bằng cho lệnh tôn”. “Tạ ơn hoàng thượng”. Phan Phương dập đầu thật mạnh ba cái. Chiêu Doãn đưa tay đỡ Phan Phương đứng dậy, cười nói: “Trận này thành công, thiên hạ ai chẳng biết ngươi… Lệnh tôn trên trời có linh thiêng, cũng sẽ ngậm cười nơi chín suối. Ngươi chớ để trẫm thất vọng…”. Nhìn vẻ cảm động toát lên trên gương mặt Phan Phương, Chiêu Doãn mỉm cười, nhưng đôi mắt vẫn lạnh băng không gợn nét cười, y nghĩ, người này bề ngoài là thần tử của trẫm, nhưng bên trong vẫn là người của Kỳ Úc. Nhưng không sao, nếu có một ngày không thể không chọn lựa, người này sẽ biến thành người của trẫm. Chỉ là nếu như có thể vẫn hy vọng sẽ không có ngày đó. Chiêu Doãn cười, ánh mắt chợt hoang lạnh. Quân của Tiết gia cắm trại bên ngoài Lạc thành, ai ai cũng nhìn ra nơi đây sẽ diễn ra chiến dịch then chốt quyết định thắng bại, có thể đoạt được Lạc thành hay không có lẽ sẽ quyết định được thắng thua sau cùng. Một bên là Tiết Hoài danh tướng trăm năm có một, bảo đao chưa cùn, một bên là đế vương thiếu niên đắc ý, hành xử quyết đoán. Ai thắng? Ai thua? Không chỉ người Bích quốc tâm trí thấp thỏm, mà đến ba nước xung quanh cũng chú ý sát sao, thầm cảm thấy bất an. Nhờ vào mạng lưới tình báo rộng lớn của hữu tướng phủ, Khương Trầm Ngư và phụ thân, huynh trưởng đã nhanh chóng biết tin về chiến dịch: Nghe nói, quân của Tiết gia dọc đường thuận lợi đánh đến sông Hoài, khi nhìn thấy trên tường thành Lạc thành bêu đầu Tiết Túc, vị thần tướng tuổi gần lục tuần, tóc đã điểm sương đó đã rơi lệ. Nhưng cho dù kích động, cho dù hận chỉ muốn lập tức báo thù cho con trai, nhưng kinh nghiệm cầm quân lâu năm và chút lý trí cuối cùng đã mách bảo ông lệnh cho quân sĩ cắm trại ngoài thành, tạm thời án binh bất động. Mà trong trận công thành trước đó, nghĩa tử Tiết Hoằng Phi vì cứu ông, vai trái trúng tên, đương phải dưỡng thương. Nhìn thấy nghĩa phụ rơi lệ, đau lòng đến mức không ăn nổi cơm, bèn khuyên nhủ: “Người xưa đã mất, người sau này còn có thể tìm. Nghĩa phụ đại nhân an tâm, ngày công phá Lạc thành, hài nhi nhất định sẽ treo thủ cấp của Chiêu Doãn lên tường thành, để bẩm với anh linh của nghĩa huynh trên trời!”. Khi ấy, Khương Trọng nói: “Đứa con nuôi này còn hữu dụng hơn cả con đẻ của Tiết Hoài, Tiết Túc nếu tốt được bằng một nửa hắn, Tiết gia có lẽ cũng không đến ngày hôm nay…”. Ánh mắt Khương Trầm Ngư lại lay động, giọng có chút thê lương: “Lời này nói ra, Tiết Hoằng Phi… chắc chắn là không sống được”. Khương Hiếu Thành không cho là vậy: “Hắn đi theo lão tặc Tiết Hoài, mười năm nay bàn tay đẫm máu vô số, vốn đáng giết, cha và muội muội thương tiếc loại người này làm gì?”. Khương Trọng lắc đầu than: “Tiết Hoằng Phi thiếu niên anh tài, văn võ song toàn, lại một lòng trung thành với Tiết gia, nếu con có một nửa tài năng của hắn, vi phụ ta cũng không đến nỗi lo lắng thế này”.
|
Ba ngày sau, Tiết Hoài hạ lệnh bắt đầu công thành. Khi mà ai ai cũng nghĩ trận đại chiến này chắc chắn sẽ đánh đến mức trời long đất lở, nhật nguyệt tối đen, máu chảy thành sông, thây chất đầy đồng, sinh linh lầm than, thì nó đột nhiên kết thúc. Và còn kết thúc bằng một cách bất ngờ nhất, giản đơn nhất. Trong thư phòng, khi ám vệ thuật lại sự tình, giọng nói cũng không còn bình tĩnh như trước, mà mang theo không ít kích động: “Chính lúc trận đánh diễn ra kịch liệt nhất, Tiết Hoằng Phi vai trái còn quấn băng đã thúc ngựa chạy đế bên Tiết Hoài, vừa hét lớn ‘Nghĩa phụ, con đến giúp người’ vừa rút bảo đao bên hông ra, một đao vung lên, đầu người rơi xuống…”. “Đầu của ai?”. Ba người trong thư phòng đồng loạt thất kinh hỏi. “Tiết Hoài”. Đáp án này không khác gì sét đánh giữa trời quang, Khương Hiếu Thành u u mê mê một lúc mới hiểu ra, nhảy dựng lên nói: “Ngươi nói gì? Tiết Hoài? Tiết Hoằng Phi chém đầu Tiết Hoài? Tiết Hoằng Phi chém đầu… của Tiết Hoài?”. Y liên tiếp lặp hai lần, đến khi nhìn thấy ám vệ gật đầu, vẫn không dám tin. Đến Khương Trọng cũng hỏi đầy vẻ kinh ngạc: ‘Tại sao Tiết Hoằng Phi lại làm như vậy?”. “Hắn đột nhiên làm loạn giữa trận, một đao chém rơi đầu Tiết Hoài, tất cả đều bị biến cố này làm cho ngây dại, toàn bộ đều dừng tay. Hắn lại nhảy lên xe chém gãy quân kỳ chữ Tiết, hét lớn: ‘Đồ Bích mênh mông, quy về thiên mệnh, giặc Tiết tạo phản, phải giết không tha’. Quân của Tiết gia mới sực tỉnh biết hắn đã bán đứng họ, dùng mưa tên bắn chết hắn. Tiết Hoằng Phi trước khi chết ngửa mặt cười lớn: ‘Phụ thân, mẫu thân, còn có các huynh đệ tỉ muội của ta, Thắng nhi rốt cuộc đã báo thù cho mọi người rồi!’”. Khương Trầm Ngư nhíu mày hỏi: “Báo thù?”. “Đúng thế. Bọn thuộc hạ vừa mới điều tra ra, hóa ra hắn vốn không phải tên là Hoằng Phi, mà là Chu Thắng, con trai của thành chủ Lạc thành – Chu Khang. Chu Khang là người chính trực, không nịnh bợ a dua, đắc tội với Tiết gia, bốn mươi chín mạng người Chu gia đều chết dưới tay Tiết Túc. Để báo thù, Chu Thắng nhận giặc làm cha, nhẫn nhục mười năm, cuối cùng đã được coi trọng, nhân lúc Tiết Hoài không phòng bị, một nhát đâm trúng…”. Tim Khương Trầm Ngư nhói một cái, những chuyện trước đây nghĩ không ra trong khoảnh khắc này toàn bộ đều được giải đáp. Khi nàng đoán định hoàng thượng dám đích thân chinh phạt, tuyệt đối đã nắm chắc phần thắng, hóa ra quân cờ ngầm của ngài chính là Tiết Hoằng Phi. Nghĩ đến người này nhẫn nhục mười năm, không kìm được cảm khái: “Hắn vốn là người Lạc thành, cuối cùng đã chọn Lạc thành là nơi kết thúc tất cả”. Khương Hiếu Thành nói: “Chẳng trách ngày đó Kỳ Úc hầu dặn dò đưa đầu Tiết Túc đến Lạc thành, ta lại cho rằng y chỉ đơn thuần là muốn thay hoàng thượng thị uy, bây giờ nghĩ lại, rõ ràng là đưa cho Tiết Hoằng Phi, à không, Chu Thắng một chỉ thị ngầm – một đầu đổi lấy một đầu”. “Hay cho câu một đầu đổi lấy một đầu!”. Khương Trọng khen ngợi, “Tiếc thay cho một nhân vật như thế!”. Khương Trầm Ngư lắc đầu nói: “Hắn đúng là một nhân tài nếu được triều ta sử dụng, ắt sẽ làm nên nghiệp lớn. Nhưng, người như vậy, sống chỉ vì một mục đích duy nhất là báo thù, đến nay thù lớn đã báo, lại thêm Tiết Hoài tuy là kẻ thù, nhưng mười năm làm cha con, ít nhiều cũng có tình cảm, hắn tự tay giết chết người đề bạt hắn coi trọng hắn, e rằng đối với hắn mà nói, cái chết lại là sự giải thoát tốt nhất”. Khương Trọng đứng ngẩn hồi lâu, lại nhìn nàng, thần sắc trở nên phức tạp: “Sự cố chấp cương nghị của Chu Thắng tuy khiến người ta xúc động, nhưng tài trí của Cơ Anh lại khiến người ra run sợ. Ngày đó, hoàng thượng bỗng nhiên đối chọi với Tiết gia, ta còn cho rằng việc lần này quá gấp gáp, gần như lỗ mãng, bây giờ nhìn lại, bọn họ rõ ràng đã tính toán kỹ từng bước. Đầu tiên là lấy cớ thái hậu bệnh nặng để cách ly; lại bắt giam hoàng hậu, nổi giận chém quốc cữu để khích Tiết Hoài; cuối cùng lợi dụng nghĩa tử được Tiết Hoài tín nhiệm nhất, một chiêu rút củi đáy nồi, nhẹ nhàng mà phá tan cơ nghiệp trăm năm của Tiết gia. Những thứ mà chúng ra nhìn thấy rõ ràng chỉ có ngần đó, còn những thứ mà chúng ta không biết còn nhiều hơn nữa… Làm quan cùng triều với những người như thế, đúng là có chút đáng sợ…”. Khương Hiếu Thành cười hì hì, nói: “Không sao không sao, dù sao chúng ta cũng sắp kết thành thông gia rồi, chỉ cần thành người mình, tất cả đều dễ nói, đúng không, muội muội? Muội muội như hoa như ngọc, băng tuyết thông minh của ta, lẽ nào không xứng với Kỳ Úc hầu sao?”. Khương Trầm Ngư mỉm cười, không nói gì, nhưng cảm giác bất an trong lòng càng lúc càng dâng lên. Nàng sớm đã biết công tử tài trí vô song, bây giờ nghĩ lại, lại thấy chàng cơ trí gần như yêu ma. Công tử thông minh như thế, lẽ nào thực sự nhìn không ra màn kịch nhỏ của nàng sao? Hay là, rõ ràng đã nhìn ra rồi, nhưng vẫn cố ý không bóc trần? Khi mình bày binh bố trận, có phải kỳ thực là đang từng bước rơi vào cạm bẫy không thể đoán định nào đó không? Nàng bỗng cảm thấy có chút sợ hãi. Bên tai nghe thấy tiếng ca ca nói: “Cho dù thế nào, kết cục này cũng không tồi. Tiết Hoài đã chết, nỗi lo trong tâm đã trừ, hoàng thượng sẽ mau chóng về triều, đến lúc đó, lập tức sẽ bàn đến hôn sự của Trầm Ngư”. Trong lòng nàng lại run rẩy, mí mắt giật không ngừng, khi tâm thần còn bất định, bên ngoài có a hoàn gõ cửa, là tiếng Ác Du: “Tam tiểu thư, tam tiểu thư…”. “Có chuyện gì?”. “Hoàng Kim Bà đến rồi, bây giờ đang ở ngoài đại sảnh, phu nhân hỏi tiểu thư có qua xem một chút không”. Khương Hiếu Thành bước qua mở cửa phòng, cười nói: “Xem cái gì?”. Ác Du cười đáp: “Đương nhiên là xem hoàng lịch, chọn ngày lành Hoàng đạo”. Mặt Khương Trầm Ngư ửng hồng, thấy phụ thân và ca ca đều nhìn mình, mặt ca ca nở nụ cười trêu chọc, còn phụ thân ánh mắt đầy ân cần, mong đợi, đành gật đầu nói: “Được, ta đi”. Đến đại sảnh, quả nhiên thấy Hoàng Kim Bà đang tươi cười ngồi đó, Khương phu nhân nghe tiếng quay đầu lại, mỉm cười với nàng: “Trầm Ngư đến rồi, mau qua đây”. Khương Trầm Ngư nhìn về phía trước, chỉ thấy trên hoàng lịch bày trên bàn khuyên tròn ba chỗ. Hoàng Kim Bà đứng bên cạnh giải thích: “Sáng sớm tôi đến phủ hầu gia, họ đưa ra ba ngày để nhà ta chọn lựa, xem xem ngày nào là tiện nhất. Ba ngày này đều là ngày tốt, lần lượt là mùng bảy tháng tư, mười lăm tháng năm và hai mươi ba tháng bảy. Theo ý kiến của tôi, càng sớm càng tốt, nhân dịp hoàng thượng thắng trận, nhân không khí vui vẻ thu xếp xong hôn sự. Chọn ngày mùng bảy tháng tư đi, còn hai mươi ngày nữa, hoàn toàn tặng kịp thư lễ, nến lễ, pháo lễ”. Khương phu nhân gật đầu, nói: “Ta cũng ưng ngày này, Trầm Ngư, ý con thế nào?”. Khương Trầm Ngư cúi đầu: “Xin mẫu thân làm chủ”. Khương phu nhân cười nói: “Vậy được, vậy phiền Hoàng Kim Bà đưa tin, chúng ta chọn ngày mùng bảy tháng tư”. “Tôi đi ngay đây”. Hoàng Kim Bà hoan hỉ cáo từ. Hoàng Kim Bà đã ra về, hai a hoàn Hoài Cẩn, Ác Du liền tiến lên vừa cười vừa hành lễ, nói: “Chúc mừng tiểu thư, chúc mừng phu nhân!”. “Khéo miệng lắm”. Khương phu nhân cười vang thưởng cho hai a hoàn, quay lại thấy Khương Trầm Ngư sắc mặt buồn bã như đang nghĩ ngợi gì, bèn đẩy nàng một cái, hỏi: “Nghĩ gì thế, chuyện vui như thế, sao con lại có vẻ mặt đó?”. Khương Trầm Ngư khẽ nói: “Mẹ… con hơi sợ…”. Khương phu nhân ôm nàng, đến trước cửa sổ, nói: “Ngốc ạ, sợ cái gì chứ? Con gái lớn thì phải gả chồng, hơn nữa chồng tốt như thế, trượng phu tốt như thế, nhân duyên tốt cầu còn không được, con sợ cái gì?”. “Con SỢ…”, có lẽ giọng nói của mẫu thân quá dịu dàng, lại có lẽ cảnh sắc hoa xuân hé nở bên ngoài cửa sổ quá diễm lệ, Khương Trầm Ngư chìm đắm trong xúc cảm dịu dàng, nói ra những lời thật lòng nhất, “Con sợ công tử cưới con là họa không phải là phúc”. Khương phu nhân sững người: “Gì cơ?”. “Bởi vì con là con gái của Khương gia”. Khi nói câu này, trên gương mặt Khương Trầm Ngư hiện lên vẻ bi thương, vẻ bi thương đó nhàn nhạt nhưng quấn chặt, lau cũng không hết. “Nếu liên hôn lần này có thể khiến hai nhà Khương, Cơ cùng hưởng vinh hoa thì tốt, nếu không, hễ hai nhà nảy sinh xung đột, con sợ là con sẽ hy sinh công tử, chọn nhà mẹ đẻ”. Giống như lần này nàng cố ý giữ lại Tiết Thái để khống chế chàng, dùng tiền đồ của chàng để thành toàn cho tiền đồ của Khương gia. Chuyện này có lần thứ nhất, thì sẽ có lần thứ hai, lần thứ ba, và vô số lần khác. Nàng rất sợ hãi, nàng sẽ hết lần này đến lần khác đứng về phía gia tộc, lựa chọn phản bội chàng, phản bội tình yêu mà nàng tự hào. “Sao có thể như thế được?”, Khương phu nhân an ủi, “Liên hôn vốn là chuyện hai bên đều có lợi, sau khi con trở thành thê tử của hầu gia, hầu gia và cha con sẽ càng đồng tâm hiệp lực phò tá hoàng thượng, sao có thể nảy sinh xung đột? Đừng nghĩ nhiều quá, con ấy, nên nghĩ thoáng ra, có thời gian rảnh rỗi nghĩ những chuyện này chi bằng nghĩ xem làm thế nào để thành tân nương đẹp nhất”. Mẹ không biết gì cả… Khương Trầm Ngư trong lòng bi ai, thầm nghĩ, mẹ của nàng cái gì cũng không biết. Cho nên, cho dù thân như mẹ con, cũng không thể nào thực sự đồng tâm. Tâm sự của nàng mẹ không hiểu, nên lời an ủi của bà không hề có tác dụng với nàng. Ai ai cũng nói Khương Trầm Ngư tốt bụng, nhưng tại sao nàng lại chẳng có nổi một người bạn tốt tri kỷ? Có phải vì… trái tim của nàng cất giấu quá sâu, không dám cũng không chịu để lộ ra với người khác? Vậy thì, công tử có phải cũng như vậy không? Công tử có ba nghìn môn khách, người hầu vô số, nhưng, chàng cũng không có bằng hữu… Ngoài cửa sổ, mưa bỗng rơi lất phất. Khương Trầm Ngư chăm chú nhìn những hạt mưa bụi đó, khẽ nói: “Mưa rồi… Đây là mưa đông, hay là mưa xuân?”. Khương phu nhân cười đáp: “Bây giờ là tháng ba, đương nhiên là mưa xuân rồi. Mùa xuân năm nay đến sớm hơn năm ngoái”. “Vậy…”, Khương Trầm Ngư lẩm bẩm, “Sau trận mưa này, hoa hạnh và hoa lê đều sắp nở rồi…”. “Hử? Hẳn là sẽ nở…! Sao đột nhiên con lại hỏi chuyện này?”. Khương Trầm Ngư nhếch khóe môi, lần này là cười thật, “Con và công tử đã hẹn nhau đi ngắm hoa”. Khương phu nhân đầu tiên sửng sốt, sau đó cười nói: “Ồ? Thật sao? Ha ha, không tồi…”. Ác Du bên cạnh trợn tròn mắt nói: “Tiểu thư và hầu gia sắp thành thân, người ta nói phu thê chưa cưới trước hôn lễ không thể gặp mặt, nếu không sẽ không cát lợi đâu… ai da!”. Lời còn chưa dứt, bị Hoài Cẩn vỗ mạnh một cái.
|
Hồi thứ bốn: Hoa trong gương
“Cành hoa hạnh này bao nhiêu tiền?”. Bóng tối vô biên theo câu nói này mà sáng bừng lên. Ánh sáng đầu tiên là một đốm nhỏ như đom đóm, sau đó bùng lên như ngọn lửa, tỏa thành vầng sáng, dần dần lan rộng ra. “Mười văn tiền”. Trong mông lung, có một giọng nữ trong trẻo mà non nớt đáp lại. Giống như tình tiết viết trong sách từ trăm nghìn năm trước, diễn ra theo cái cách nàng vừa quen thuộc vừa xa lạ đó. Và rồi, trong vầng sáng đó xuất hiện một cành hoa, cành hoa màu đất, đài hoa màu đỏ sậm, cánh hoa trắng muốt, đóa đóa chen chúc, có đóa chúm chím ngậm hương, có đóa nở rộ xinh đẹp. Vì còn đọng nước, nên nhìn càng long lanh diễm lệ. Nàng nhìn thấy một bàn tay đưa tới, đón lấy cành hoa đó. Những ngón tay thon dài như ngọc, tay áo màu trắng phơ phất bay bay. Trong màn đêm, không nhìn thấy gương mặt người đó. Nàng bỗng cảm thấy sốt ruột, muốn kéo ống tay áo đó, bóng hình đó rõ ràng gần trong gang tấc, trong nháy mắt đã trôi ra xa mười trượng. Khoảng cách mười trượng như là cách cả một đời. Đừng đi. Đừng đi! Đừng đi… Nàng nhìn thấy bàn tay mình kéo thật dài, thật dài, vượt qua khoảng cách dài tựa kiếp phù sinh, nắm chặt lấy chàng. Một khát vọng nào đó trào ra khỏi lồng ngực, cùng với nó còn có nước mắt, trong bóng sáng, người áo trắng đó tách biệt với thế gian, tựa như một vị trích tiên[1], mà nàng nắm thật chặt, bất chấp tất cả, cứ nắm chặt, không dám buông tay. [1] Trích tiên: Tiên bị lưu đày xuống hạ giới. “Ta hy vọng…”, nàng nghe thấy giọng nữ trong trẻo, non nớt đó nói bằng một thanh âm già nua trong chớp mắt: “Ta hy vọng trong chốc lát mình sẽ tới sáu mươi tuổi, mọi cay đắng phải nếm trên đời đều đã nếm hết, chỉ cần phút cuối yên lặng đợi chờ cái chết”. “Không, trước tiên nàng nên đợi đến năm mười sáu tuổi”. Người áo trắng từ phía trước quay đầu lại, rõ ràng không nhìn rõ dung nhan, nhưng có thể cảm thấy rõ rệt ánh mắt của chàng rất dịu dàng, “Khi nàng mười sáu tuổi, ta sẽ cưới nàng”. Trái tim nàng run rẩy, tràn ngập kinh sợ lẫn vui mừng, bắt đầu mỉm cười, cười đến lộ xỉ, cười đến cong mày, cười đến nhảy nhót, sau đó chạy về phía chàng: “Là chàng nói nhé, lời chàng đã nói, nhất định phải giữ lời! Không được chối bỏ đâu đó!” Vầng sáng lan rộng ra, sương mù đen tối trùng trùng dần tan đi, để lộ hình dáng hoàn chỉnh của người đó, nàng nắm lấy tay chàng, xoay người chàng lại, nói: “Vậy ta đợi chàng đến năm ta mười sáu tuổi, năm mười sáu tuổi chàng…”. Giọng nói ngưng bặt. Ánh sáng chiếu trên gương mặt người đó, mày mắt cong cong, cười thâm tình, nhưng không phải là chàng. Người đó lên tiếng, giọng nói đê mê: “Không sai, trẫm lấy nàng năm nàng mười sáu tuổi, trẫm không nuốt lời”. Nàng kinh hãi liên lục lui về phía sau, lại bị y kéo lại, đầu kề sát đầu, mũi đối mũi, gần đến mức có thể cảm nhận được hơi thở của nhau. “Không chỉ như thế”, người đó nói, từ phía sau rút ra một chiếc vương miện bằng vàng sáng lóa, không do dự đội lên đầu nàng, “Trẫm còn phong nàng làm hậu. Hy Hòa, nàng sẽ là hoàng hậu của Bích quốc”. Chiếc vương miện bằng vàng đó nặng tựa núi, đè ụp xuống. Nàng bật lên tiếng kêu thảm thiết, đột nhiên choàng tỉnh. Đêm lạnh như nước, ánh đèn ảm đạm, trong không khí lan tỏa mùi hương băng xạ long diên[2], nát rữa mà ngọt ngào. [2] Băng xạ là băng phiến và xạ hương, long diên là long diên hương, một chất đốt tạo mùi thơm ngọt. Hy Hòa quấn chiếc chăn lụa mềm mại, đôi mắt thẫn thờ, một lúc sau mới biết mình đang ở đâu. Cuối cùng khi nàng nhớ ra đây là Bảo Hoa cung, nàng đang nằm trên chiếc giường bằng ngà voi của mình, liền thét lên một tiếng chói tai nhảy xuống giường, điên cuồng lao ra ngoài. Cung nhân bị tiếng thét đánh thức, vội vàng thắp đèn mặc áo xúm lại, thấy nàng đầu bù tóc rối từ trong nội thất lao ra, không khỏi kinh sợ kêu lên: “Phu nhân, phu nhân đi đâu thế? Phu nhân, xảy ra chuyện gì vậy? Người đi đâu vậy…?”. Hy Hòa vẫn mở cửa như thể không nghe thấy, chạy ào ra sân, như một đứa trẻ hết chạy từ đông sang tây, lại chạy từ tây sang đông, giống như đang tìm thứ gì đó. Cung nhân thấy nàng xiêm y mỏng manh, đi chân trần, sợ nàng nhiễm lạnh, cuống quýt khoác cho nàng một chiếc áo khoác, vừa thắt đai áo vừa nói: “Phu nhân, người tìm gì?”. Hy Hòa ngây dại nhìn khoảng sân trống trải, hỏi: “Cây, cây hạnh…”. “Cây hạnh?”. Một cung nhân trong đám đó nhíu mày, kinh ngạc tột độ nói: “Ngày thứ hai sau khi vào Bảo Hoa cung, phu nhân đã sai người chặt hết sạch cây hạnh trong hoàng cung, phu nhân quên rồi sao?”. “Chặt, chặt, chặt hết rồi ư?”. “Thưa vâng”. Cung nhân nói xong câu đó, liền nhìn thấy chủ tử của họ chầm chậm quỳ xuống, ánh mắt vẫn đờ đẫn nhìn về một hướng nào đó, sau đó… Đột nhiên gào khóc. Mấy canh giờ sau, ánh nắng ban sớm chiếu vào khung cửa màu xanh lục, Khương Trầm Ngư dậy sớm đang ngồi chải đầu, Hoài Cẩn từ bên ngoài bước vào, mang theo một bức thiếp, nói: “Tiểu thư, có thư của tiểu thư”. Trên bì thư màu tím nhạt, một hàng chữ viết bằng thể chữ thanh mảnh mà mạnh mẽ: Cẩn trình – Khương tam tiểu thư – thục lãm. Là công tử! Khương Trầm Ngư thầm vui trong lòng, lập tức bóc niêm phong ra, nội dung rất ngắn gọn, chỉ có một hàng chữ: Hoa lê đã bay trong gió, kính cẩn chờ dấu thơm. Công tử hẹn nàng đi ngắm hoa? Nàng lúc này đầu cũng không kịp chải, đọc đi đọc lại lá thư đó, bắt đầu chọn lựa y phục. Màu vàng hoàng yến quá nổi trội; màu lá sen quá già; màu đỏ tươi quá lộng lẫy; màu xanh lam không tôn nước da của nàng… Lục tung tất cả các bộ y phục mùa xuân trong rương mà nàng vẫn không tìm được bộ nào vừa ý. Hai a đầu của nàng sớm đã nhìn đến phát chán, dẩu miệng nói: “Tiểu thư, sao những bộ bọn em thấy đẹp, tiểu thư đều không vừa ý? Đến chiếc áo lụa bảy màu, lúc may xong tiểu thư vẫn còn khen đẹp, sao chưa thèm mặc mà tiểu thư đã chê.” “Lắm lời!”. Khương Trầm Ngư không thèm để ý tới họ, xem lại từ đầu một lượt nữa, nhớ tới mấy lần công tử gửi đều dùng màu tím nhạt, hẳn là chàng thích màu này, bèn chọn một chiếc áo có ống tay rộng màu tím nhạt và chiếc váy màu trắng, không cần thêm trang sức gì, chi cài trên mái tóc bảy đóa hoa lê vừa mới hái xuống vẫn còn đọng sương. Cuối cùng, trước con mắt kinh ngạc của đám nô tì, nàng lên xe ngựa, đi đến Hồng viên. Hồng viên tọa lạc ở phía Nam đế kinh, rộng chừng trăm mẫu, là phong cảnh tú lệ nức tiếng xưa nay, được mệnh danh là thiên đường chốn nhân gian. Nó vốn là sản nghiệp của Vương gia, cùng với sự sa sút của họ Vương, khu vườn này đổi chủ mấy lần, sau được một thương nhân họ Hồ mua lại. Người đó thường xuyên không đến đế đô, vì thế mở cửa khu vườn để cho mọi người thưởng ngoạn. Khương Trầm Ngư trước giờ mới nghe danh, chưa từng vào trong, bây giờ ngồi trên xe ngựa đi vào, chỉ thấy cây cối um tùm, hoa cỏ xanh tốt, lầu gác san sát, đình đài thấp thoáng, dường như hết thảy cảnh trí của mùa xuân đều ngưng tụ nơi đây. Cạnh đảo ở giữa hồ có mồ Anh Vũ, núi Lãm Thúy cùng rừng Trừng Quang tạo thành thế chân vạc. Đi về phía Nam của hồ, là nhìn thấy rừng Tam Xuân nổi tiếng nhất nơi đây. Tam Xuân chính là ba loài cây hạnh, lê, đào. Trong khu rừng này, ba loại cây trồng xen kẽ, um tùm mà đẹp mắt. Xe ngựa của công tử đang đậu dưới gốc lê đầu tiên nàng nhìn thấy, công tử đứng bên cạnh xe, Bạch Trạch trên xe và áo trắng của chàng phản chiếu lẫn nhau, sống động như thật. Bàn tay trong ống tay áo của Khương Trầm Ngư nắm lại thật chặt, cố gắng không để lộ ra quá nhiều cảm xúc phấn chấn, sau đó nàng mở cửa xe. Cơ Anh quả nhiên tiến đến đỡ nàng. Những ngón tay mềm mại thon dài, bàn tay đó mở ra trước mặt nàng với một tư thế tuyệt đẹp. Cho dù luôn tự nhủ rằng mình phải bình tĩnh, nhưng nàng vẫn không kìm được đỏ mặt, nhẹ nhàng đặt tay mình lên bàn tay đó, nhấc váy xuống xe. Gió xuân hây hẩy, cây lê nở hoa, diễm lệ trời ban, trắng trong tựa tuyết, ý chí thanh cao. Chính trong khoảnh khắc này, không có ai cũng say, huống hồ là ở bên cạnh người trong mộng. Khương Trầm Ngư cắn môi, nói: “Trầm Ngư đến muộn, để công tử chờ lâu”.
|