Họa Quốc Tập 1
|
|
Đuổi tới Động Đạt kiều mới theo kịp, nàng nắm lấy một cánh tay của Khương Họa Nguyệt: “Tỉ tỉ, muội có lời muốn nói với tỉ”. Khương Họa Nguyệt quay lại nhìn nàng, trong ánh mắt có trăm ngàn tâm tư, nhưng chỉ thoáng hiện lên trong một giây lát, cuối cùng rầu rĩ cười nói: “Chuyện đã đến nước này, còn có gì để nói?”. Khương Trầm Ngư cuống quýt nói: “Tỉ tỉ, tỉ sớm biết vào cung không phải là muội…”. “Thật sao? Thật là khéo quá!”. Khương Họa Nguyệt nhếch mép, cười nhạt, “Ta vừa tìm ra cơ thể… có bệnh, muội liền vào cung luôn”. “Tỉ tỉ, chuyện đó muội chưa nói với bất kỳ người nào, bao gồm cả cha, nếu muội nói dối, thì ngũ lôi oanh đỉnh, chết chẳng toàn thây!”. Khương Họa Nguyệt thấy nàng nói rất kiên quyết, trong đáy mắt lóe một tia đau khổ, quay mặt đi, nói: “Thế thì đã sao? Muội nói hay không nói, đều như nhau cả. Từ nhỏ muội đã thông minh nhất, bề ngoài nhìn như không ham không muốn, nhưng những thứ đã ngắm trúng thì chưa bao giờ thoát khỏi tay muội. Tất cả đều khen muội tính tình tốt, cũng vì thế đều thích muội, trước mặt hay sau lưng, không biết đã dành cho muội bao nhiêu thứ tốt”. Khương Trầm Ngư lùi lại ba bước, mặt đầy vẻ kinh ngạc, run giọng hỏi: “Tỉ tỉ… tỉ coi muội như vậy sao?” “Ta còn nhớ trung thu một năm, cha kiểm tra ba chúng ta, ai có thể ném chiếc lông vũ đi xa nhất thì sẽ thưởng bánh trung thu thủy tinh cho người ấy. Kết quả muội nhờ một con chim nhỏ, giành lấy ngôi đầu, cha thưởng cho muội bánh trung thu, muội lại nói muốn chia sẻ với ta và đại ca. Khi đó ta chỉ cảm thấy muội lương thiện vô tư biết bao, nhưng sư gia biết được chuyện này, từ đó về sau, người thích muội nhất, dốc hết kiến thức truyền thụ cho muội, thậm chí trước khi đi xa còn đem cây đàn của mình tặng cho muội”. Khương Họa Nguyệt nói đến đây, mắt đỏ hoe, ngũ quan bắt đầu méo mó, nghẹn ngào, “Muội rõ ràng biết! Muội rõ ràng biết! Ta thích Tất sư gia…”. Khương Trầm Ngư hít một hơi khí lạnh, cảm thấy chân tay lạnh toát. Từng chữ từng chữ đó đập xuống, đau đớn hơn cả mưa đá rơi trúng. Hóa ra khúc mắc đã sớm gieo mầm từ rất lâu, chỉ là nàng khờ dại ngây thơ, không hay biết gì thôi. “Từ nhỏ muội không hề tranh giành cái gì, chỉ thích tranh giành tình cảm với người ta. Người nào nếu nói một tiếng thích ta, muội ắt sẽ bỏ toàn bộ tâm tư để khiến hắn thích muội hơn, bây giờ, muội chẳng phải tiến cung để giành hoàng thượng sao?”. “Tỉ tỉ…”, tỉ tỉ, hà cớ gì tỉ phải làm tổn thương muội như vậy? Nước mắt Khương Trầm Ngư trong nháy mắt đã tuôn trào, hết lần này đến lần khác nghĩ: Tỉ tỉ, tỉ làm tổn thương muội như vậy, tỉ vui sao? Tỉ không đau sao? Tỉ tỉ, tỉ không đau sao? Nàng luôn cho rằng chỉ cần giải thích rõ ràng, tỉ muội tình thâm mười mấy năm, sẽ có thể hóa giải tất cả hiểu lầm. Nàng tưởng rằng tỉ tỉ biết nàng ôm một mối tình sâu nặng thế nào đối với công tử. Nhưng, giờ này, phút này, đứng trước mặt nàng, người dùng câu nói tựa một lưỡi dao lạnh lẽo, từ từ chậm rãi, vô cùng tàn nhẫn moi tim gan nàng là ai? Là ai? Lời nói vẫn không dừng lại, tiếp tục vang lên bên tai: “Nhưng lần này muội không làm được đâu. Muội không có cơ hội, Trầm Ngư. Bởi vì, muội không thể tranh được với Hy Hòa. Không phải vì Hy Hòa đẹp hơn muội, mà là vì ả và hoàng thượng có một thứ giống nhau, mà thứ đó, muội không có. Cho nên, Trầm Ngư, muội không có bất cứ cơ hội nào…”. Khương Trầm Ngư đứng yên như phỗng hồi lâu, cuối cùng mới ngẩng đầu lên, nhìn chằm chằm vào Khương Họa Nguyệt, không nói một lời, quay lưng sải bước rời đi. “Trường Tương Thủ” đung đưa trên vai nàng, nàng không kìm nổi đưa tay sờ hạt châu đó, thầm nghĩ, thật tốt, bây giờ đều có đủ rồi. Lỗ tai công tử xỏ, hạt châu tỉ tỉ tặng, đều đủ cả. Từ nay về sau, thế gian này, trên không thứ gì có thể làm tổn thương nàng nữa. Bởi vì, thứ làm nàng tổn thương nhất, đều tập trung cả trên tai trái của nàng. Chỉ cần lỗ hổng trên tai trái nàng vẫn còn, chỉ cần hạt châu trên chiếc hoa tai này vẫn còn, nàng sẽ vĩnh viễn vĩnh viễn ghi nhớ nỗi đau này, ghi nhớ nỗi khổ này, ghi nhớ mối hận này. Ghi nhớ tất cả đều nhờ ai ban cho. Tầng tầng ngói lưu ly, san sát điện vàng ngọc, kẻ khởi nguồn của tất cả khổ nạn ấm ức day dứt tuyệt vọng này đang ngồi ở đó, y có thân phận hiển hách nhất thế gian, có quyền uy tối thượng, tên của y là – Chiêu Doãn. Đêm lạnh như nước. Tiếng trống canh từ xa vẳng lại, nghe không chân thực, trong noãn các cách xa chính điện, thiên tử thiếu niên thân mặc thường phục, nằm nghiêng trên chiếc giường gấm, trước giường có đặt một chiếc bàn dài, tấu chương trên bàn chất cao như núi, mà trong tay y cũng cầm một phần, thần sắc y mệt mỏi. La Hoành bên cạnh dè dặt dâng trà sâm, nói: “Hoàng thượng, nghỉ một chút đi”. Chiêu Doãn đón lấy tách trà nhưng không uống, ánh mắt vẫn dán trên tấu chương, nhìn từ góc độ của La Hoành, có thể thấy bản tấu chương đó rất khác biệt, những tấu chương khác đều có bìa màu lam nhạt, duy chỉ có bản tấu này bìa là màu vàng tím sang trọng vô song, góc dưới bên phải còn vẽ một đồ đằng hình rắn. Nhìn thấy đồ đằng này, La Hoành chợt hiểu ra, đó nào phải tấu chương, rõ ràng là quốc thư của Trình quốc gửi tới. Trong bốn nước, Bích quốc rộng nhất, đồ đằng hình rồng; Yên quốc mạnh nhất, đồ đằng hình én; Nghi quốc giàu nhất, đồ đằng hình hạc; duy chỉ có Trình quốc, bốn mặt giáp biển, là một đảo quốc nhỏ, hình dáng như con rắn, vì thế coi rắn là thần. Tuy đất đai cằn cỗi, tài nguyên nghèo nàn, nhưng trong nước người người hiếu võ thiện chiến, chịu khổ chịu cực, lại rộng rãi chiêu gọi hiền nhân dị sĩ, thợ khéo thầy hay, dốc sức chế tạo binh khí, nhân khẩu vỏn vẹn không quá tám trăm vạn người, nhưng có đến hai trăm vạn là tinh binh, bọn họ mưu đồ chuyện gì, ai ai cũng biết. Nào ngờ người tính chẳng bằng trời tính, khi Trình vương Minh Cung chuẩn bị gióng trống thúc quân vượt biển đánh nước giàu có nhất là Nghi quốc, một ngày khi thức giấc đột nhiên trúng gió, dẫn đến bán thân bất toại, đến nay vẫn không thể đi lại. Ông ta bốn mươi chín tuổi, có ba con trai một con gái, thú vị ở chỗ Minh Cung không coi trọng ba vị hoàng tử, mà chỉ sủng ái công chúa Di Thù. Vì thế có tin đồn vị hoàng tử nào được Di Thù giúp sức, người đó tất có thể trở thành Trình vương kế nhiệm. Bây giờ Trình vương viết thư tới, không biết là chuyện trọng yếu gì mà lại khiến hoàng thượng suy nghĩ thế. Chiêu Doãn đặt chén trà sang một bên, khẽ thở dài một tiếng, lẩm bẩm: “Văn võ đầy triều, lẽ nào không tìm ra nổi người thứ hai có thể lấy Di Thù sao?”. La Hoành giật thót mình, hóa ra Trình vương muốn gả công chúa? Dường như nhìn thấu suy nghĩ của La Hoành, Chiêu Doãn khẽ liếc ông ta, nói: “Ngày hai mươi chín hai tháng sau, Trình vương mừng thọ năm mươi tuổi, muốn nhân dịp này kén chồng cho Di Thù công chúa, La Hoành, ngươi nói xem, trẫm phái ai đi thì được?”. Hoàng thượng tôn quý, nhất định không thể đích thân đi được, mà trong số văn võ bá quan người có thể xứng với công chúa cao quý, nghĩ tới nghĩ lui chỉ có một người, nhưng nghe ý tứ vừa rồi của hoàng thượng, rõ ràng không muốn vị đó đi, vậy thì, còn có ai nữa… La Hoành vừa thầm suy tính trong lòng, vừa thận trọng đáp: “Nếu như hoàng thượng khó xử, chẳng thà chọn lấy một người xuất sắc, phong cho một tước vị, sai hắn đi?”. “Nói thật dễ dàng, loại bèo bọt không có căn cơ này, Trình quốc công chúa đồng ý mới lạ!”. “Kỳ thực cũng không tính là không có căn cơ, ví dụ như Giang…”, nói đến đây thì dừng lại đầy ngụ ý. Mắt Chiêu Doãn quả nhiên sáng lên, nhướn mày gọi: “Điền Cửu!”. Giây sau, Điền Cửu đã quỳ trước điện. “Chuyện giao cho ngươi đi xử lý sao rồi?”. Điền Cửu đáp: “Họ Diệp vốn ít người, đến thời Diệp Nhiễm chỉ còn lại mình ông ta. Cho nên, người họ Diệp thực sự, ngoài phu nhân ra đều đã chết hết, tuy xét kỹ thì Giang thái y miễn cưỡng có thể tính là cậu về đằng ngoại bảy đời của phu nhân, nhưng chung quy vẫn là gượng ép”. La Hoành cười nói: “Hoàng thượng coi là ông ta có họ, thì tức là có họ”. Chiêu Doãn chau mày. La Hoành nhân đó nói tiếp: “Giang thái y thân là Đề điểm Thái y viện, không thể thăng chức được nữa, nhưng con trai của ông ta Giang Vãn Y cũng là đại phu, còn chưa có công danh, phẩm mạo xuất chúng, lại thêm y thuật thần thông, văn tài hẳn cũng không tồi. Sau khi hoàng thượng cho phu nhân và Giang gia nhận họ hàng, hắn chính là biểu huynh của phu nhân, tuy không phải vương hầu, nhưng tiền đồ vô lượng. Nếu hắn lấy Di Thù công chúa thì tương lai phu nhân cũng có thêm giúp đỡ”. Ánh mắt Chiêu Doãn hơi biến chuyển, bỗng nhiên cười nói: “Tương lai? Tương lai ta an bài cho Hy Hòa thế nào, lẽ nào La Hoành ngươi đã biết?”. La Hoành run rẩy, biết đã mạo phạm kỵ húy, vội vàng quỳ xuống: “Lão nô lỡ lời, xin hoàng thượng thứ tội”. Chiêu Doãn cười mủm mỉm: “Đứng dậy đi, xét ngươi nghĩ ra được lựa chọn tuyệt hay đó, nên ta tha cho lần này. Ngươi xưa nay cực kỳ có chừng mực, chớ để ta nhắc nhở đến lần thứ hai”. La Hoành rối rít thưa dạ, lau lau trán, đã thấy túa mồ hôi lạnh, ông chứng kiến hoàng đế trưởng thành, không thể không nói, Chiêu Doãn thực sự là một người có tính cách phức tạp nhất trong những con cháu hoàng tộc mà ông từng thấy, có sự kiên nhẫn của sói, sự giảo hoạt của hồ ly, sự cơ trí, cảnh giác của thỏ, bề ngoài luôn cười tủm tỉm, tỏ ra tính khí tốt, nhưng hành sự lại tuyệt tình: Tất cả mọi người đều chưa từng nghĩ y sẽ trở mặt với Tiết gia, đặc biệt là lần Hy Hòa đại náo Cảnh Dương điện, y vẫn toàn lực che chở cho hoàng hậu, ai ngờ nháy mắt đã phế bỏ hoàng hậu, bắt giam quốc cữu, ép tướng quân mưu phản chặt đầu thị chúng, với phong thái dứt khoát ghê gớm, chỉ trong thời gian hai tháng đã đào gốc trốc rễ Tiết gia – một trong tứ đại thế gia; y trông có vẻ như ân sủng Hy Hoà, nhưng để đạt mục đích không chút thương xót để nàng lấy thân thử độc bệnh liền mấy tháng, còn như đứa trẻ bị sảy đó là thật hay không cũng không rõ, trong cung có những chuyện biết ít đi một chút là phúc; còn đột nhiên y nạp Khương Trầm Ngư làm phi, dù nhìn thế nào thì vẫn giống như cố ý muốn cướp vợ của Kỳ Úc hầu, thật là một con người không thể nắm bắt được. Làm thuộc hạ của vị tân đế này, cần vạn phần cẩn thận mới được, nếu không hễ không chú ý là chưa biết chừng sẽ đắc tội với y, đến vì sao mà chết cũng không hay. Bên này La Hoành đang lòng đầy sợ hãi, bên kia Chiêu Doãn khẽ day day ấn đường, suy tư nói: “Điền Cửu, sau khi Tiết Thái đến hầu phủ, tình hình thế nào?”. Điền Cửu đáp: “Hầu gia đi đâu cũng mang theo hắn, sai khiến không khác gì bọn hạ nhân khác, không có điểm nào khác biệt”. “Có dạy hắn đọc sách luyện võ không?”. Điền Cửu nghĩ một lát: “Không có, nhưng…”. “Nhưng cái gì?” “Nhưng, tiểu nhân cho rằng, ở bên cạnh Kỳ Úc hầu, nhìn cách xử thế của hầu gia đã là tấm gương tốt nhất rồi”. Chiêu Doãn im lặng, đưa hai ngón tay ra, gõ nhẹ lên mặt bàn, từng nhát từng nhát, không mau không chậm. Hai người còn lại trong phòng, Điền Cửu đang quỳ, La Hoành đang khom lưng đứng, đều không dám lên tiếng. Cứ thế một thời gian thật dài trôi qua, Chiêu Doãn cuối cùng ngưng gõ bàn, cất tiếng: “Như các ngươi thấy, dụng ý của Kỳ Úc hầu là gì? Là bỏ qua ân cừu đào tạo hắn thành tài, hay là cứ thế mai một, để hắn cả đời không có ngày mở mặt?”. Điền Cửu nghĩ rất lâu, mới đáp: “Nếu là tiểu nhân, nhất định là không yên tâm giữ một con hổ con bên cạnh, tuyệt đối phải bóp chết từ trong trứng nước, đề phòng tương lai chẳng may”. “Hửm?”. “Nhưng, Kỳ Úc hầu không phải là tiểu nhân, cho nên, ngài tuyệt đối không làm như thế”. “Hửm?”. “Thần nghe nói kẻ huấn luyện thú đều bắt đầu từ khi con thú còn non, cho nó ăn, rèn luyện nó, bồi dưỡng kỹ năng cho nó mà thu phục tâm nó. Trong đó thu phục tâm là gian nan nhất. Nhưng hễ thành công, con thú nhỏ trở thành con thú lớn, sau đó sẽ trung thành trước sau như một với người huấn luyện, bảo gì nghe nấy”. Điền Cửu nói đến đây, cười cười, “Theo tiểu nhân thấy, Kỳ Úc hầu chính là cao thủ trong việc này, hầu gia có ba nghìn môn khách, ai nấy đều hết lòng vì ngài. Cho nên, một tiểu Tiết Thái bé con, vào tay hầu gia, chẳng qua cũng chỉ là vấn đề thời gian ngắn dài”. Đôi mắt Chiêu Doãn nheo lại, La Hoành quan sát sắc diện, vội vàng bổ sung: “Có điều cho dù kết cục thế nào, đều không thể thay đổi một sự thực – Tiết cũng được, Cơ cũng xong, chỉ khi hoàng thượng muốn cho họ vẻ vang, họ mới có thể vẻ vang, hoàng thượng không vui, toà nhà lớn sụp đổ cũng chẳng qua là chuyện trong khoảnh khắc thôi”. Chiêu Doãn “hừ” một tiếng, lại hơi có ý cười: “Ngươi thực là dẻo miệng”, ngừng lại một lát, lại tiếp: “Nhưng, nếu là trẫm, trẫm cũng muốn uốn nắn bồi dưỡng”. La Hoành lập tức lộ vẻ ngạc nhiên. Chiêu Doãn quả nhiên giải thích: “Bởi vì trăm sông đổ về một biển, biển có sức chứa lớn nhất. Kỳ Úc bản tính ôn hoà, làm việc nhanh nhạy, lời nói thận trọng, dùng câu ninh tính trí viễn[4] để hình dung cũng không quá. Có thể nói là hoàn toàn khác trẫm, nhưng duy có một điểm tương đồng, đó chính là – tự tin”. [4] Phải có một tâm thế bình thản, không bị tạp niệm ảnh hưởng mới có thể thực hiện được mục tiêu cao xa.
|
Nói đến đây, hào khí dâng trào, Chiêu Doãn khoanh tay đi đến bên cửa sổ, chăm chú ngắm nhìn trăng tròn trên tầng không, nói: “Trẫm đã có thể giữ lại Tiết Thái, tức là có tự tin nắm chắc hắn trong lòng bàn tay. Đến chút tự tin này cũng không có thì thật thẹn là chủ của một nước, quân vương của Bích quốc!”. Bên ngoài cửa sổ gió nhẹ khẽ thoảng, cành hoa lay động, một người bước ra khỏi bụi cây, từ xa nhìn lại. Ánh mắt hai người chạm nhau trong không trung. Chiêu Doãn ngẩn người, mà người đó đã quỳ xuống, cung kính thưa: “Trầm Ngư tham kiến bệ hạ, thiếp có chuyện muốn cầu, xin hoàng thượng truyền gặp”. Ánh trăng nhàn nhạt như thuỷ ngân, phủ lên cơ thể nàng, khiến toàn thân nàng đều tỏa ra thứ ánh sáng dịu dàng, chảy tràn tựa băng thanh ngọc khiết không thuộc về trần thế. Mà trong vầng sáng diễm lệ vô hạn đó, thiếu nữ thân mặc áo lam ngẩng đầu lên, đôi mắt như thủy tinh trong suốt, dưới thủy tinh, còn có đóa hoa đang âm thầm bừng nở. Mông lung mà sâu thẳm. Chiêu Doãn nhìn nàng, rất lâu sau, khóe môi nhếch lên cười mỉm, gọi nàng: “Thục phi”. Cách gọi này, là một loại tuyên thệ quyền lực. Khương Trầm Ngư cơ hồ có thể cảm thấy được, khí thế uy hiếp đó đang ào ạt lao tới. Rất kỳ quái, rõ ràng là cách chồng gọi vợ, nhưng vì lý do thân phận, lại có thể không hề cảm thấy tình cảm, chỉ còn lại sự vạch rõ giai cấp hết sức lạnh lẽo. Nàng khấu đầu, sau đó đi qua ánh mắt kinh ngạc của đám thị vệ, từng bước đi vào noãn các. Đêm tháng tư, thời tiết vô cùng dễ chịu. Cửa sổ hai bên vách noãn các đều mở rộng, gió mát lùa vào, thổi tầng tầng rèm sa nặng nề lay động. So với chính điện và thư phòng, nơi này bớt đi ba phần trang nghiêm, tăng thêm bảy phần ấm cúng. Chiêu Doãn mỉm cười đứng đó, ánh mắt dừng lại trên hạt châu hoa tai của nàng một lát, tấm tắc khen: “Trang sức của Thục phi rất khác biệt”. Khương Trầm Ngư tươi cười rạng rỡ, lại lần nữa khấu đầu vái lạy, nâng một quyển thư được buộc rất cẩn thận lên đỉnh đầu. “Đây là cái gì?”. “Thư tự tiến cử”. Chiêu Doãn tò mò chau mày, La Hoành bên cạnh đương định đón lấy, y xua xua tay, đích thân cầm lấy, cởi nút dây thừng ra, thứ đầu tiên lọt vào tầm mắt là thể chữ Khải trên văn bia Ngụy ngay ngắn chỉnh tề, bút lực mạnh mẽ, khí tượng hồn hậu, tinh thần bay bổng, kết cấu tự nhiên. Đúng là chưa đọc văn mà đã say mê. “Chữ đẹp, là thư tự tiến cử của ai?”. Liếc mắt đến lạc khoản bên trái, nhìn thấy đề danh cuối cùng, y thoáng ngạc nhiên, “Là của nàng?”. “Thưa vâng”. Một cơn gió lướt qua, “Trường Tương Thủ” đung đưa đung đưa. Đáy mắt Chiêu Doãn nổi vài tia dị sắc, chẳng thèm đọc mà đặt quyển thư sang một bên, chậm rãi nói: “Nàng muốn gì?”. “Một cơ hội”. “Cơ hội gì?”. Khương Trầm Ngư ngẩng đầu, nhìn thẳng y, nói rành rọt từng tiếng: “Một cơ hội tìm được vị trí thực sự thích hợp với bản thân”. Trong mắt Chiêu Doãn dâng đầy thâm ý, kéo dài tiếng “ừm”, nhưng vẫn không động thanh sắc. Khương Trầm Ngư biết, vị hoàng đế cố chấp đa nghi này đang đánh giá mình, giờ này phút này, nếu nói sai một câu, nàng sẽ không còn cơ hội đổi đời. Thế nhưng… Cho dù vẫn chưa nói sai, hiện tại ta liệu có cơ hội không? Vừa nghĩ đến đây, trái tim nàng chùng xuống, bất chấp tất cả, tìm đường sống trong cõi chết, đêm nay, nếu không thể sống thì sẽ chết thôi. “Hoàng thượng, người có phải là minh quân không?”. Lời này vừa thốt ra, Chiêu Doãn và La Hoành đồng loạt biến sắc. Một sự uy nghiêm trang trọng vô hình trong không khí trong phút chốc đã nén xuống, tựa như tên đã lên cung, đao nằm trong vỏ, chạm vào là bắn, vung tay là ra. Chiêu Doãn nhìn chằm chằm Khương Trầm Ngư đang quỳ dưới đất, bỗng bật cười ba tiếng. Khi y cười tiếng thứ nhất, tên thu đao hồi; cười tiếng thứ hai, áp lực biến mất; cười tiếng thứ ba, gió lành trăng sáng. Sau ba tiếng cười, thế giới trở về nguyên dạng. Y ngồi ngả trên ghế, lười biếng hất tua mũ buông trước ngực ra sau vai, mỉm cười nói: “Trẫm có phải là minh quân không, ý nàng thế nào?”. “Thần thiếp cho rằng, hoàng thượng là minh quân”. “Ồ, từ đâu mà biết?”. “Tiền quốc cữu chuyên quyền ngang ngược, ức hiếp bách tính, bao người dám giận mà không dám nói, hoàng thượng tước mũ ô sa của hắn chém đầu hắn, trừ hại cho dân, vạn dân vui mừng, ấy là thánh minh; Tiết Hoài cậy công kiêu ngạo, mạo phạm thánh thượng, cuối cùng phản quốc, hoàng thượng ngự giá thân chinh, tận tay tiễu trừ, vây cánh trăm phương, một lần diệt sạch, ấy là chấn uy; hoàng thượng dùng người chỉ chú trọng tài năng, chẳng tính xuất thân, phong Phan Phương làm tướng, ấy là ân trạch dồi dào. Hơn nữa, hoàng thượng từ khi đăng cơ đến nay, dốc lòng trị quốc, ngày bận muôn việc, giảm sưu dịch, khuyến nông tang, khiến Bích quốc không ngừng phát triển, bách tính an cư lạc nghiệp. Đương nhiên là bậc minh quân”. Chiêu Doãn nhướn mày, nét cười nơi đáy mắt càng đậm thêm: “Ồ, hóa ra trong mắt Thục phi, trẫm là một hoàng đế tốt như thế”. “Cho nên, thần thiếp mới cả gan đến đây, đề xuất thỉnh cầu”. “Nếu trẫm không nghe, thì có phải là sẽ mất chữ ‘minh’ không?”. Khương Trầm Ngư cắn môi run rẩy, đôi mắt như chực khóc, lập tức khiến người ta ý thức được rằng người quỳ dưới đất chẳng qua chỉ là một nữ tử đáng thương, hơn nữa, chỉ mới mười lăm tuổi. Ánh mắt Chiêu Doãn sáng lên trong giây lát, lạnh nhạt nói: “Để giữ chữ ‘minh’ này, trẫm vẫn nghe thử xem. Nói đi”. Khương Trầm Ngư dập đầu hai cái trên mặt đất, rồi mới nói tiếp: “Điều thần thiếp nói sau đây đều là những lời gan ruột. Có lẽ ấu trĩ nực cười, có lẽ cuồng vọng to gan, có lẽ sẽ xúc phạm long uy, nhưng, đều là suy nghĩ thực sự trong lòng”. Chiêu Doãn không tỏ thái độ, “ừm” một tiếng. “Đầu tiên, được lọt vào mắt xanh của hoàng thượng, phong làm Thục phi, người ngoài nhìn vào, vẻ vang biết bao, còn đối với thần thiếp mà nói, lại là khổ không kể xiết…”. La Hoành nghe đến đây, bỗng trợn trừng mắt, thầm nghĩ tam tiểu thư của hữu tướng gia này thật là to gan, những lời này mà cũng dám nói! “Người thân trong nhà lo lắng, một khi đã vào thâm cung như biển, kẻ ngu muội ngoan cố như thần thiếp sợ là họa không phải là phúc; trong cung tỉ tỉ tức giận, trước đây là muội muội thân thiết ruột thịt, mà nay lại thành kẻ địch tranh sủng ghen tuông; bản thân thần thiếp cũng hoang mang không chỗ dựa. Mỹ nhân trong cung vô số, luận tài, Cơ quý tần kinh tài tuyệt diễm; luận sắc, Hy Hòa phu nhân diễm lệ vô song. Mà thần thiếp tính cách không đủ ôn hòa, xử sự không đủ khéo léo, nghĩ đi nghĩ lại, chỉ có một thế mạnh”. “Ồ?”. Khương Trầm Ngư ngẩng đầu, vô cùng chuyên chú nhìn Chiêu Doãn, ánh mắt trong trẻo đó dường như chiếu thẳng vào trái tim y: “Đó chính là – mưu”. Ba người trong noãn các, Chiêu Doãn ngồi tựa, La Hoành khom lưng và cả Điền Cửu đang ẩn phục, nghe thấy lời này đều bị chấn động. Giọng nói linh hoạt mà trong trẻo của nàng vẫn như tiếng tiêu trong gió, từng chữ từng chữ xa xăm, từng câu từng câu rành rọt: “Cho nên, thần thiếp đến đây tự tiến cử, nguyện dốc hết trí tuệ nhỏ nhoi, để hoàn thành mưu kế của đế vương”. Lại một trận gió thổi tới, làm quyển thư trên bàn lăn ra, nội dung bên trong cuối cùng đã hiện ra, rõ ràng là lời nói của một nữ tử yểu điệu, nhưng lại nói lên chí nguyện kinh hãi thế tục, dùng thể chữ cứng cỏi, dày dặn như trói tê ngưu, bắt long xà, viết từng hàng một: Một mỹ nhân nào hề, tà váy uốn lượn như mây. Gương mặt trắng trẻo mà hình dung tiều tụy hề, y phục phấp phới mà bước đi lảo đảo. Nói năng ngọt ngào từ sớm tới tối, hành vi tĩnh lặng mà ít cười. Phô bày tài năng dung mạo mà không hề diễm lệ, trong lòng đau thương như dao cắt.. Hỏi tên nàng khuê nữ nhà ai, vốn là vợ của chàng đế Nghệ. Nay trộm được bó cỏ bất tử, bỏ lại hết thảy ơn tình. Trời lạnh cung trăng sao quạnh quẽ, mây nhô lên cành quế lẻ loi. Thế đạo tình chàng đều bạc bẽo, ai người hiểu nổi chí xông mây. Hậu Nghệ kia quả đấng anh hùng, đám mỹ nhân ai ai cũng thích. Chưa từng nghe hẹn thề trên giấy, sớm đã truyền bàn thạch chuyển dời. Đáng thương thay gương mặt phù dung, sương nhuộm thanh tơ (tóc) trắng bời bời. Chúng phi cười nói vui hết thảy, cô gái nhỏ biết dựa vào ai? Đấng quân chủ trọng tình ân ái, trong lòng ngài ngưỡng mộ thiên cơ. Tìm vui những kết tóc tơ, nào đâu được tấc lòng son sắt, Chim lao chim yến bay tán loạn, uyên ương kia phải đâu bất tử. Nguyện hóa thành nghìn sen tuyệt mỹ, bầu bạn với ván cờ đế vương. Cái đạo của mưu kế, chính là ở trí tuệ, tranh với đối thủ của mình, thì sẽ thành kết cục. Bốn mục: Phân chế mưu (chia ra để khống chế), thức mưu (nhận ra mưu kế), phá mưu (làm hỏng mưu kế), phản mưu (phản gián), ba mục sau đều lấy khống chế làm trọng, điều chú trọng hàng đầu chính là – công tâm (đánh vào tâm lý). Vì thế, bước này của Khương Trầm Ngư nhìn tưởng là nguy hiểm, nhưng kỳ thực lại tính toán rất chuẩn, không hề có chút hiểm nguy. Tối hôm đó, nàng tắm rửa thay áo xong, xõa tóc nằm trên trường kỷ chăm chú ngắm nhìn ánh trăng trong vắt bên ngoài cửa sổ, tâm tình đã biến đổi hoàn toàn so với lúc trước. Trước đây là đợi chờ, là nhẫn nhịn, là luyến lưu, là sợ hãi; mà từ nay về sau lại là đợi chờ lâu dài hơn nữa, là nhẫn nhịn lớn hơn nữa, là lưu luyến mà không tỏ thanh sắc hơn nữa, nhưng không cần sợ hãi gì nữa. Phá phủ trầm u, ai binh tất thắng, khi một người thứ gì cũng dám đem ra trả giá, thì không có gì có thể khiến nàng sợ hãi nữa. Bởi vì, dù sao cũng không thể tồi tệ hơn hiện tại nữa, cho nên ngày mai hẳn sẽ càng tốt hơn. Nàng bỗng lên tiếng: “Hoài Cẩn, tỉ tỉ nói giữa hoàng thượng và Hy Hòa có một điểm chung, là điều người khác không có, vì thế hình thành địa vị độc nhất vô nhị của Hy Hòa, em có biết là gì không?”. Hoài Cẩn thận trọng suy nghĩ hồi lâu, cuối cùng lắc đầu. “Ta đã nghĩ rất lâu mà không nghĩ ra. Sau đó ta lại nghĩ, vậy thì giữa ta và hoàng thượng có điểm gì khác nhau; giữa Hy Hòa và ta lại có điểm gì khác nhau đây? Khi ta thay đổi cách suy nghĩ, đáp án đã xuất hiện”. Khương Trầm Ngư cười nhàn nhạt với ánh trăng, “Đó chính là – thân thế”. “Thân thế?”. “Chúng ta đều biết, hoàng thượng do một cung nữ không được sủng ái sinh ra, cho đến trước năm mười tuổi, ngài sống mà không được ai chăm sóc, sau năm mười tuổi, ngài bắt đầu học chữ tỏ chính kiến biết mưu lược thông đế thuật, sự gian khổ, nóng lạnh trong đó chỉ có ngài tự biết. Hy Hòa cũng vậy, phụ thân là một con sâu rượu, mẫu thân lại nhu nhược, ta nghe nói khi lên năm tuổi, phu nhân đã phải chân trần bán hoa trước Thiên Mặc Trai, cho đến tận năm mười bốn tuổi. Tuổi thơ họ đều cực khổ, cho nên hoàng thượng đối với Hy Hòa khó tránh khỏi có cảm giác đồng mệnh tương lân (cùng số mệnh nên thương xót lẫn nhau), cũng vì thế, ngài dùng hết quyền lực tối thượng của mình để thành toàn cho Hy Hòa. Bởi vì, sự sắc sảo của ngài đã bị mài phẳng, đục tận, còn Hy Hòa vẫn còn sắc bén”. Đây chính là lý do vì sao đêm nay nàng dùng phương thức này đến trước mặt y, tiền đề của vai diễn đó là Chiêu Doãn thích, thậm chí có thể nói là thưởng thức một cách bệnh hoạn và thành toàn cho người có cá tính. Ví như Hy Hòa ngang tàng diễm lệ, ví như Cơ Hốt cổ quái lập dị. Còn có… tỉ tỉ của ba năm trước. Khương Họa Nguyệt khi đó còn mang dã tâm thơ ngây của một thiếu nữ, nhưng vào cung rồi, sắc sảo dần giấu bớt, tính cách cũng thêm khéo léo, lại khiến Chiêu Doãn mất hứng thú. Vì thế, muốn được Chiêu Doãn coi trọng, đầu tiên phải thể hiện sự khác biệt của mình với đám đông. Thứ hai, chỉ có tính cách thôi chưa đủ, còn cần năng lực tương xứng với tính cách. Ví như Hy Hòa có mỹ mạo khuynh quốc, Cơ Hốt có tài năng tuyệt thế. “Nhưng tiểu thư xưa nay chưa từng tỏ ra có hứng thú với mưu lược…”, Ác Du không hiểu. Trong ấn tượng của nàng, tam tiểu thư luôn có tính tình ôn hòa, nhu thuận, nghe lời; đối với bọn người dưới cũng là một chủ nhân tốt, vui vẻ hiền hòa, không nổi nóng bừa bãi, nhưng nếu nói nàng là Gia Cát tiên sinh trong đám nữ lưu, thì quả có chút khiên cưỡng. Khương Trầm Ngư liếc nàng một cái, cười nói: “Ác Du cho rằng thế nào là mưu?”. “Mưu không phải là bàn mưu tính kế sao?”. “Mưu chính là làm chuyện có lợi nhất cho chủ nhân, nói lời dễ nghe nhất đối với chủ nhân. Nói đơn giản tức là lấy lòng”. “Lấy lòng?”. Hai a hoàn đồng loạt trợn tròn mắt, quả thực họ chưa từng nghe thấy luận điệu này. “Không sai. Lấy lòng. Cho dù nghe có vẻ giản đơn, nhưng cũng chia làm ba tầng thượng trung hạ. Hạng hạ thừa lấy lòng người bên cạnh, hạng trung thừa lấy lòng người đương quyền, hạng thượng thừa lấy lòng toàn thiên hạ, làm được thì mọi việc đều tốt đẹp”. Thấy hai nàng không hiểu, Khương Trầm Ngư bắt đầu lấy ví dụ, “Ví như ta, trước đây là hạng hạ thừa, lấy lòng người bên cạnh, khiến họ đều thích ta; Hy Hòa là hạng trung thừa, nàng ta làm vui lòng hoàng thượng; còn Kỳ Úc hầu…”, nhắc đến cái tên này, ánh mắt không kìm được sầm lại, nhưng khi mở miệng, lại như gió nhẹ mây nhạt, “Chàng chính là hạng thượng thừa, là nơi lòng dân Bích quốc hiện nay hướng về”. “Cũng có nghĩa là tiểu thư phải từ hạ biến thành thượng?”. “Hiện giờ ta chưa có bản lĩnh đó”, đầu tiên phải biến thành trung mới là việc cấp bách trước mắt. Mồi đã buông xuống, còn chưa chắc chắn cá có cắn câu hay không.” Đương nghĩ tới đây, ngoài cửa có người thông báo: “Nô tài La Hoành thỉnh an Thục phi”. Khương Trầm Ngư vội vàng khoác áo trở dậy, đi ra gian ngoài, La Hoành đang đứng giữa sảnh, thi lễ với nàng, nói: “Hoàng thượng lệnh cho nô tài đem vật này giao cho Thục phi”. Nói rồi đưa lên một vật.
|
Hồi 6 : Đến Trình Quốc
Sóng nước khẽ vỗ, chim âu bay lượn, Khương Trầm Ngư đứng ở mũi thuyền, ngóng nhìn vồ phía đế đô, ánh mắt trầm tư. Đi ra khỏi con sông Di này là vào Thanh Hải. Qua Thanh Hải là đến Trình quốc. Cũng tức là, hễ đi ra biển là ra khỏi cương thổ của Đồ Bích. Trước khi đi, rất nhiều người đều nhúm một nắm bụi đất dưới chân thả vào túi thơm mang bên mình, xem ra, không chỉ có mình nàng lưu luyến cố hương. Thế nhưng, đại bộ phận đều hào hứng háo hức, lòng đầy hiếu kỳ trước chuyến xuất hành này, nếu xét kỹ ra có lẽ chỉ có nàng và một người nữa thực sự không vui vẻ chút nào… Khương Trầm Ngư quay người, ngẩng đầu nhìn tầng hai của khoang thuyền, một người nằm trên cột buồm, bắt chéo chân, trong tay cầm một bình rượu, trầm ngâm nhìn trời xanh – đó là Phan Phương. Từ lúc lên thuyền y không nói năng gì, cả ngày nằm trên cột buồm uống rượu, trên gương mặt râu ria lởm chởm, luôn mang một vẻ đờ đẫn tê dại. Nếu không biết thân phận của y, thực khó mà tưởng tượng, người này lại là đệ nhất danh tướng của Đồ Bích sau Tiết Hoài. Xem ra, y vẫn chưa hồi phục sau cú sốc cái chết của Tần nương. Mà hoàng đế lại muốn y cưới công chúa Trình quốc, chẳng trách y lại u uất không vui như thế. Khương Trầm Ngư thở dài trong lòng. Có lẽ vì bản thân tận mắt chứng kiến cảnh Phan Phương cầu hôn Tần nương, nên đối vớinam tử nhìn tưởng thô lậu mà thực sự thâm tìnhnày, nàng tự nhiên có thiện cảm. Bây giờ thấy bộ dạng lặng lẽ đau lòng của y khiến nàng không kìm được hối hận: Nếu không phải nàng đề nghị với hoàng đế phái y đi Trình quốc, lúc này hẳn y đang thủ tiết trước mộ Tần nương. Vì lợi ích của bản thân, lại lôi người vô tội xuống nước, sao trong lòng có thể thoải mái. Khương Trầm Ngư không dám nhìn tiếp, vội vàng nhìn lên bờ. Xa xa phảng phất có sắc hồng liên miên không dứt, thuyền càng lúc càng lại gần, dần dần trở nên rõ ràng… Chi chít, sum suê, sắc hoa tuyệt đẹp cành lá xinh tươi, hoa dầy sắc đượm, tựa như vạn điểm phấn hồng, chiếm trọn gió xuân. Lại có cành cây cổ thụ cực lớn, la đà bên bờ nước, soi bóng dưới dòng sông, càng nổi dáng thơm. Đó chính là hoa hạnh. Khương Trầm Ngư chau mày, mắt không kìm được nóng lên, buồn bã nghĩ: Hoa hạnh đã nở rồi… “Hoa hạnh đã nở rồi”. Một giọng nói thanh nhã êm tai vang lên bên cạnh nàng, nói đúng điều nàng nghĩ trong lòng. Khương Trầm Ngư sững người, nghiêm đầu nhìn, chỉ thấy một nam tử thanh y phấp phới, mặt như ngọc lạc đang tựa tay trên lan can, chăm chú nhìn rừng hạnh, mỉm cười nói. Bên cạnh hai người không có người thứ ba, có thể thấy hắn đang nói với nàng. Người này hai tháng trước vẫn còn không chút tiếng tăm, nhưng hai tháng sau lại vangdanh thiên hạ, một bước trở thành quý tộc đệ nhất đế đô. Con trai độc nhất của Đề điểm Thái y viện Giang Hoài. Môn khách của Kỳ Úc hầu. Thần y của dân gian. Và anh họ của Hy Hòa phu nhân. Bốn vầng sáng chói lóa vô song đó cuối cùng đều tụ hội trên người hắn, đó chính là – Đông Bích hầu Giang Vãn Y. Trước khi rời cung, Chiêu Doãn từng giới thiệu bọn họ một cách vắn tắt, chỉ nói nàng là A Ngu, trên danh nghĩa là y sư, nhưng thực tế là một ám sứ, bảo Giang Vãn Y chăm sóc và phối hợp với nàng. Khi đó nàng nghĩ, hắn liệu có nhận ra nàng không? Trong Bảo Hoa cung, cái ngày Hy Hòa thổ huyết, lần đầu tiên hắn tiến cung để trị bệnh cho Hy Hòa, lúc ấy nàng cũng có mặt. Nhưng mấy ngày ở cạnh nhau, Giang Vãn Y vẫn không nhắc nửa lời về thân phận của nàng, thái độ hành vi lời nói đều rất tự nhiên, là thực sự không biết thân phận của nàng, hay là lòng dạ sâu xa vờ như không biết? Bây giờ, hắn chủ động chào hỏi nàng, lại nhắc đến hoa hạnh, loài hoa đã trở thành kỵ húy của nàng, là vô tình hay là cố ý thăm dò? Đôi mắt Khương Trầm Ngư dần tối lại, nhưng khóe môi vẫn nhếch lên, tươi cười với hắn: “Đúng thế, năm nay hoa nở muộn, nhưng lại đẹp hơn rất nhiều”. “Dục vấn hạnh chi dữ chung tửu, cố nhân hà đắc bất đồng lai?”. (Muốn hỏi cành hạnh và rượu trong chén, người xưa sao không đến?).Khi ngâm nga câu thơ này, giữa cặp mày của Giang Vãn Y thoáng hiện vẻ thê lương, giống như hồi tưởng chuyện xưa cũ nào đó, nhưng khi ánh mắt hắn chiếu đến gương mặt nàng, lại hóa thành nét cười ấm áp, “Thực ra, lan tâm thảo cũng không phải là vạn năng”. Khương Trầm Ngư bất giác sờ lên má phải, để tránh người khác chú ý, cũng nhằm che giấu dung mạo thực sự, nàng không chỉ mặc áo chùng đen rộng thùng thình che kín từ đầu tới chân, còn dùng nước ép từ lan tâm thảo vẽ lên mặt một cái bớt màu đỏ sẫm to bằng nửa bàn tay, cứ như thế mặt đã biến dạng. Soi gương, nàng tự thấy mình vẽ rất giống thật, mấy ngày nay, những người đồng hành đều bị che mắt, nhưng bây giờ Giang Vãn Y vừa nhìn đã biết, xem ra cái danh thần y quả không phải hư truyền. Nàng khẽ thở dài, cười nói: “Quả nhiên không thể qua mặt huynh”. “Nếu không ngại muội hãy thử dùng cái này”. Giang Vãn Y lấy một chiếc bình ngọc từ trong tay áo ra, đưa cho nàng. Nàng đón lấy, mở nắp bình, chất lỏng bên trong không màu không mùi, trong vắt như nước. Phàm càng là kỳ dược lại càng không có đặc trưng, mắt Khương Trầm Ngư sáng lên: “Đa tạ”, dừng lại một lát, lại hỏi: “Huynh không hỏi muội nguyên nhân sao?”. “Nhân sinh tươi đẹp, ta muốn sống lâu hơn một chút”. Nói xong câu này, hắn quay người bước đi. Khương Trầm Ngư nhìn thấy mấy nhạc nương phía xa vây quanh hắn, trò chuyện ríu ra ríu rít, mà hắn ở giữa họ, cử chỉ ôn tồn nhưng không phóng đãng, văn nhã mà không xa cách, không biết hắn nói những gì mà khiến đám con gái đó đều cười rộ cả lên. Xem ra đây là một nhân vật phong lưu… Lại nhìn Phan Phương trên cột buồm, hình tượng đối lập rõ ràng. Khương Trầm Ngư vừa cảm khái vừa quay về khoang thuyền, trong khoang là một tiền sảnh cực kỳ thoáng đãng, đi qua cửa sảnh tiến vào bên trong, từ cầu thang đi xuống đáy khoang là một thông đạo hẹp dài, mỗi bên có mười hai gian phòng, gian phòng cuối cùng bên phải thông đạo chính là phòng của nàng và HoàiCẩn. Trong phòng nội thất bố trí tinh xảo, đẹp đẽ, tuy nhỏ nhưng đầy đủ, còn dùng rèm ngăn đôi phòng, Hoài Cẩn đang dọn dẹp đồ đạc ở cạnhbàn, thấy nàng vào, cười nói: “Tiểu thư đến thật đúng lúc, vừa nãy nô tì đến nhà bếp, trù nươngnói trên thuyền còn dư một ít hoa quả tươi, cho tiểu thư một giỏ, dọn sạch kho để chờ đến khi cập bến kế tiếp thì mua bổ sung thêm”. Khương Trầm Ngư vừa nhìn thấy giỏ hoa quả trên bàn, chỗ quai xách còn thắt dải lụa màu vàng. Nàng hơi trầm ngâm, nói: “Thay ta cảm ơn bà ấy, nhân thể nói với bà ấy, ta muốn tắm rửa, bảo bà ấy đun nước nóng”. Hoài Cẩn trợn tròn mắt: “Tắm, tắm rửa?”. Tắm trên thuyền là một việc vô cùng, vô cùng xa xỉ. Tiểu thư xưa nay hành sự kín đáo, cố hết sức không gây phiền toái cho người khác, saobây giờ đột nhiên lại đưa ra yêu cầu nhũng nhiễu như vậy? “Yên tâm đi, em đi nói với họ, họ không dám từ chối đâu”. Nói đến đây, Khương Trầm Ngư chớp chớp mắt, tự cười giễu mình, “Ai bảo ta là sư muội của Đông Bích hầu chứ”. Đông Bích hầu là nhân vật đang lên của Đồ Bích hiện nay, không chỉ đi đến đâu cũng được bách quan tranh nhau lấy lòng, mà trong đội thuyền này, ai ai cũng đều cung phụng ân cần với hắn, khiến nàng cũng được thơm lây không ít. Không thể không nói, Chiêu Doãn đã an bài cho nàng một thân phận quá tuyệt diệu; Giang Vãn Y vốn đến từ dân gian, có một sư muội cũng không có gì lạ, hơn nữa, vị sư muội này vừa không bị chú ý quá nhiều vừa có thể hưởng thụ một số thuận lợi mà thân phận này đem lại, như là có một tiểu a hoàn, hoặc có thể tắm nước nóng xa xỉ trên thuyền. Hoài Cẩn đi rất nhanh, quay về cũng nhanh, không lâu sau, hai trù nương lực lưỡng thở hổn hển khiêng một thùng nước nóng tới, đổ nước, chuẩn bị các đồ dùng xong xuôi bèn mau chóng rời đi. Hoài Cẩn đóng chặt cửa, kéo rèm, đangđịnh xắn tay áo hầu hạ thì Trầm Ngư nói: “Em cũng ra đi, một mình ta là được rồi”. Tuy Hoài Cẩn hơi ngạc nhiên, nhưng xưa nay nàng không phải là một nha đầu lắm chuyện, nên lập tức lui ra. Khương Trầm Ngư bước đến cạnh bồn gỗ, nhìn hơi nước bốc lên nghi ngút, khẽ nói: “Bây giờ ta phải tắm đã, sau đó – các ngươi biết là phải làm thế nào chứ?”. Xung quanh lặng như tờ, không có bất cứ âm thanh nào. Nhưng nàng hài lòng mỉm cười, đặt giỏ táo cạnh bồn gỗ, cởi áo bước xuống nước, dựa vào thành bồn tắm khoan khoái thở dài một tiếng. Hai viên ám vệ hoàng thượng ban cho nàng hẳn đã rời đi rồi chứ? Tuy chưa từng cảm nhận được bọn họ, nhưng bọn họ cũng nên biết lúc này nếu dám nhìn trộm hoàng phi tắm thì sẽ có hậu quả thế nào, ước chừng họ không to gan đến mức, dám tiếp tục ẩn nấp trong gian phòng này. Nghĩ đến đây, Khương Trầm Ngư cầm từng quả táo trong giỏ ra, đến quả thứ chín, phía trên còn có sợi dây màu vàng, nàng dùng răng cắn đứt, sau đó men theo sợi dây vàng kia rút nhẹ, rút ra được một chiếc khăn lụa rất nhỏ cuộn bên trong, mở ra xem, bên trong viết một câu: “Sau khi đến Trình quốc, đến tiệm Sái Gia đường Vân Tường mua ba cân Mê Điệt hương”. Nét chữ đơn giản rành mạch, như người mới học, nhưng mỗi nét chấm đều hất chếch về bên phải, đây là thói quen cố hữu của phụ thân khi viết chữ bằng tay trái. Vào cái đêm nhận nhiệm vụ đi sứ Trình quốc, nàng liền sai Ác Du báo cáo chuyện này cho phụ thân, xin ông sai người gấp rút đến Trình quốc chuẩn bị. “Con cần tư liệu về phân bố thế lực nội bộ Trình quốc, danh sách quan viên ngũ phẩm trở lên và sứ giả đến dự yến lần này của Yên quốc, Nghi quốc, phải có đủ thói quen sinh hoạt và sở thích của mỗi người. Cuối cùng là mọi chuyện từ nhỏ tới lớn Di Thù từng trải qua, tất cả những người nàng ta từng tiếp xúc. Càng tường tận càng tốt”. Đây là yêu cầu mà nàng đã đề xuất với phụ thân hôm đó. Bây giờ, ông gửi tới dòng chữ này, rõ ràng tất cả đã bố trí ổn thỏa. Tiếp theo, chỉ cần đợi đến đó liên hệ với bọn họ là xong. Khương Trầm Ngư suy xét sự việc từ đầu tới cuối một lượt, tin chắc mình không có bất cứ sơ suất nào, nàng ném quả táo đi, ngâm chiếc khăn đó vào trong nước, mực lập tức nhòa đi, đến khi lấy ra, đã biến thành một chiếc khăn tay bình thường, ai cũng không thể tìm ra dấu vết gì trên bề mặt. Làm xong tất cả, nàng quyết định chuyên tâm hưởng thụ cơ hội tắm nước nóng hiếm có này, ai ngờ, vừa mới nhắm mắt lại, liền nghe thấy một tiếc “rầm”, cả thế giới đều chấn độngmạnh, nước trong bồn cũng trào ra non nửa. Bên ngoài nổi lên tiếng huyên náo, dường như đã xảy ra chuyện gì. Khương Trầm Ngư không hoảng loạn, nhẫn nại chờ đợi trong làn nước nóng, quả nhiên, cơn chấn động qua đi, thuyền lại từ từ yên tĩnh trở lại. Lại một lúc nữa trôi qua, Hoài Cẩn tới gõ cửa, gọi: “Tiểu thư, em có thể vào trong không?”. “Vào đi”. Hoài Cẩn vội vã bước vào, đóng cửa lại, nói:“Tiểu thư, vừa nãy có sợ không?”. “Xảy ra chuyện gì vậy”. “Có một chiếc thuyền phía trước chúng ta va phải đá ngầm rồi chìm, dềnh lên sóng lớn, hại thuyền ta cũng tròng trành theo”. “Sao lại không cẩn thận vậy? Không phải đã nói thuyền trưởng là một tay kỳ cựu sao?”. “Không phải thuyền của chúng ta! Là thuyền của người khác, bây giờ thuyền phu của chúng ta đang bận rộn cứu bọn họ đó”. Hả? Trên sông Di lại có thuyền của nhà khác? Lẽ nào đối phương không biết, sứ thuyền hoàng gia xuất hành, thuyền của tất cả các nhà thuyền khác đều phải nhường đường sao? Khương Trầm Ngư lập tức đứng dậy mặc áo, Hoài Cẩn nói: “Tiểu thư, làm làm gì vậy?”. “Đi xem xem”. Nàng muốn đi xem là kẻ to gan nào lại dám mạo phạm thiên uy. Trên sàn thuyền, người đông nhốn nháo, vây kín mũi thuyền. Đám phụ nữ thì thào to nhỏ, rõ ràng kích động hơn bình thường. Khương Trầm Ngư bước tới, mọi người nhìn thấy nàng, lần lượt nghiêng mình nhường đường, sau khi đám đông tản ra, thứ đầu tiên nàng nhìn thấy là một chiếc áo đỏ. Chiếc áo đỏ vốn đã rực rỡ như lửa lại bị thấm nước, càng đỏ đến nhức mắt, chói lọi như mây hồng trải trên một thân hình cao cao, cùng với mái tóc đen huyền, mang một vẻ đẹp yêu mị, càng khiến nam tử ngồi trên mũi thuyền có một phong tư khó có thể diễn tả thành lời. Y rất gầy, những khớp xương tay để lộ ngoài tay áo trắng đến gần như trong suốt, tay và chân đều dài hơn người bình thường, khi cầm bình rượu ngửa mặt cuồng ẩm bộc lộ sự phóng khoáng, không chút câu nệ mà kẻ khác không bắt chước nổi. Rõ ràng toàn thân ướt nhẹp, nhưng dáng vẻ tuyệt nhiên không hề thảm hại. Y uống hết rượu xong, dùng tay áo lau miệng, bấy giờ mới quay đầu lại, lắc lắc bình rượu với đám đông, chớp mắt nói: “Rượu để hai mươi năm, quả nhiên là rượu ngon”. Giang Vãn Y đứng bên cạnh, nghe nói liền vẫy tay gọi người mang rượu lên, lấy ra hai chiếc bát lớn, đích thân rót đầy, đưa cho nam tử áo đỏ một chiếc, tự mình cũng cầm một chiếc, ngồi xuống sàn, đối diện với y, nói: “Một mình độc ẩm vô vị, chi bằng hai người đối ẩm?”. Sóng mắt của nam tử áo đỏ liếc xéo lên phía trên một cái, khi y làm động tác đó, biểu cảm mê hồn không tả xiết, đến mức đám con gái xung quanh đều đỏ mặt, tim đập loạn lên, còn y chăm chú nhìn Phan Phương trên cột buồm, cười nói: “Vị nhân huynh này xem ra cũng là đồng đạo, không cùng nâng chén sao?”. Phan Phương cúi đầu, lặng thinh nhìn nam tử áo đỏ một lát, rồi khi đám đông tưởng y sẽ không phản ứng lại, y đột nhiên tung người, khẽ nhảy xuống, ngồi xếp bằng tròn cạnh hai người. Ánh mắt Khương Trầm Ngư thoáng chuyển động, nàng bước ra khỏi hàng, lấy chiếc bát từ chỗ thị nữ, đặt trước mặt Phan Phương, rót đầy rượu. Sau đó gật đầu với Hoài Cẩn. Hoài Cẩn hiểu ý, lập tức vào trong khoang thuyền mang cây cổ cầm ra. Khương Trầm Ngư ngồi quỳ trên sàn, đặt đàn trên đầu gối, ngón tay lướt qua, tiếng vàng tiếng ngọc ngân lên. Âm nhạc vừa nổi lên, nam tử áo đỏ bỗng rạng rỡ mặt mày, nâng bát rượu lên, Giang Vãn Y cũng nâng bát theo. Phan Phương tuy vẫn không tỏ vẻ gì, nhưng uống còn nhanh hơn bọn họ, hễ ngửa cổ là một hơi uống cạn. Hoài Cẩn tiến lên rót rượu. Đám đông xung quanh trợn tròn mắt – không hỏi câu nào, thân phận lai lịch đối phương cũng không rõ, sao lại đấu rượu với y? Ba người ngồi xếp bằng tròn giống như bạn cũ huynh một chén ta một chén, chẳng bao lâu sau, khoảng trống bên cạnh đã chất đầy bình rượu. Mười ngón tay Khương Trầm Ngư lướt như bay, càng đàn càng nhanh, ba người cũng theo đó càng uống càng nhanh, cuối cùng dây đàn chợt đứt, tiếng đàn ngưng bặt, mà bát rượutrong tay Giang Vãn Y cũng đồng thời “choang” một tiếng, vỡ tan thành từng mảnh, rượu còn sót lại bắn ra, làm bẩn chiếc áo mặc trên người hắn. Giang Vãn Y “a” một tiếng, chậc lưỡi than: “Ai da, đây là chiếc áo ta thích nhất”. Nam tử áo đỏ nhếch môi cười: “Ta đền cho ngươi một chiếc là xong”. Giang Vãn Y lập tức đứng dậy, cung kính hành đại lễ: “Nếu vậy, Vãn Y xin đa tạ Nghi vương trước”.
|
Gì cơ? Nghi vương? Đám đông xung quanh liền ồ lên. Nam tử nhìn bề ngoài có vẻ hoa lệ vô song, chói sáng rực rỡ này lại là quốc quân của Nghi quốc – Hách Dịch sao? Chẳng trách Yên vương Chương Hoa từng nói: “Trong bốn nước, Hành Xu như cổ thụ ngàn năm, thâm trầm cao lớn; Minh Cung như chim ưng cô độc trên sa mạc lạnh lẽo, cao ngạo tự biết mình; duy chỉ có Hách Dịch rực rỡ sáng chói, Hách Dịch rạng rỡ như vũ trụ nhật nguyệt mới có thể sánh với ta”. Yên vương nói câu này năm năm trước, quốc quân của Bích quốc vẫn là tiên đế Hành Xu. Hành Xu nghe xong liền cười, nói thêm một câu: “Hách Dịch đúng thực tựa thái dương. Mà điểm giống nhất của y chính là – Chỉ cần những nơi ánh dương chiếu đến đều có mối làm ăn của Nghi quốc”. Nghi quốc nhiều tiền lắm của, từ quân thượng đến người hầu kẻ hạ, ai nấy đều ham thích làm ăn buôn bán. Thương lữ của Nghi quốc đi khắp bốn nước, mối làm ăn của Nghi quốc thông khắp mọi nẻo, quốc đô của Nghi quốc là Hạc thành, cư dân bản quốc chưa quá bảy nghìn, mà nhân khẩu ngoại lai lại có ba vạn. Nghi quốc đất không rộng, binh không mạnh,nhưng về tinh thâm thì sánh ngang ba nước. Mà giây phút này, con người cả tóc tai lẫn y phục đều đang nhỏ nước tí tách kia là Hách Dịch thật sao? Mọi người đứng xung quanh nhìn với đủ mọi loại biểu cảm. Còn đương sự lại bình thản đối diện với mọi ánh mắt phỏng đoán, kinh ngạc, nghi ngờ, vỗ nhẹ vào áo mình nói: “Đáng tiếc thay, đáng tiếc thay, bây giờ ta chẳng có lấy một xu, tiền của đều để ở chiếc thuyền vừa mới chìm kia…”. Giang Vãn Y cười: “Nghi vương giàu có nhất bốn bể, chỉ đắm một chiếc thuyền thì có hề gì?”. “Nói đến đây, ta bỗng nhớ ra một chuyện…”. Hách Dịch nói đoạn, lấy từ trong giầy ra một cái bàn tính vàng to bằng miếng đậu phụ khô, dùng những ngón tay gầy, dài hơn tay người thường gẩy như bay, rồi ngẩng đầu nói: “Bốn nghìn sáutrăm hai mươi sáu lượng. Đa tạ”. Giang Vãn Y sững người: “Hả?”. “Ba mươi súc gấm mây thượng đẳng của Chức Tú Phường, sáu mươi hộp phấn nhất phẩm của hiệu Nùng Hương Trai, bảy mươi hòm giấy tuyết hiệu Hồng Thư Lâu, chín mươi sọtdầu trẩu loại một, còn có những đồ tạp phẩm khác, tổng cộng là năm nghìn bảy trăm tám mươi hai lạng bạc trắng, xét ta và ngươi mới gặp mà như đã quen từ lâu, ngươi lại mời ta uống rượu, ta giảm giá hai phần cho ngươi, chịu thiệt một chút, chỉ thu của ngươi bốn nghìn sáu trăm hai mươi sáu lạng”. Hách Dịch giơ bàn tính ra trước mặt Giang Vãn Y. Giang Vãn Y ngạc nhiên hỏi: “Nhưng ta đâu có mua những thứ này”. “Đúng là ngươi không mua”. “Vậy tại sao lại đòi ta liền?”. Hách Dịch chỉ chỉ mặt biển: “Vì thuyền của ngươi đột nhiên bẻ lái, đâm phải đuôi thuyền ta, hại thuyền ta va phải đá ngầm, tất cả vật phẩmđều chìm xuống biển, món nợ này ta không thểđòi Long vương, chỉ có cách đòi ngươi thôi”. Giang Vãn Y dở khóc dở cười, than: “Thật không hổ là Nghi vương đứng đầu bách thương… Vậy đi, nếu ngài đã đòi, ta không trả chẳng phải là vô lý lắm sao”. Hách Dịch nheo mắt: “Được, thật sảng khoái! Xem ra Bích vương quả nhiên tuệ nhãn biết nhìn người, chọn được một sứ thần tốt”. Giang Vãn Y trầm ngâm: “Có điều món tiền này e rằng muộn một chút mới có thể trả cho ngài”. Hách Dịch vươn vai biếng nhác, cười híp mắt nói: “Không sao không sao, chỉ cần khi ta xuống thuyền trả ta là được”. Lúc này một viên tùy tùng vội vã chạy tới, thì thầm vào tai Giang Vãn Y mấy câu, Giang Vãn Y gật đầu, đứng dậy chắp tay nói: “Có chút chuyện vặt phải xử lý, thứ cho tại hạ cáo từtrước”. Hách Dịch đưa tay ra làm tư thế mời, nhìn Giang Vãn Y quay người rời đi, rồi nhìn sang Khương Trầm Ngư: “Hôm nay may mắn được nghe tiếng đàn của cô nương, thật khiến người ta ba tháng không biết đến mùi thịt[1]. Cây đàn của nàng đã cũ, không biết tiểu vương có thể có may mắn tặng cho nàng một cày đàn mớikhông?”. [1] Nhắc đến tích Khổng Tử say mê học đàn, ba tháng ăn thịt mà không hề nhận ra mùi thịt, ý tán tụng tái nghệ đánh đán tuyệt vời của Khương Trầm Ngư. Khương Trầm Ngư từ chối cực kỳ dứt khoát: “Không”. Lúc này đến lượt Hách Dịch sững sờ. Khương Trầm Ngư mím môi, cười nụ, nói:“Bởi vì ta không muốn có chung một kết cục như sư huynh. Nếu Nghi vương hỏi đến tổn thất do dây đàn đột nhiên đứt đoạn làm kinh động ngự thể, ta biết làm thế nào?”. Hách Dịch cười ha ha, chớp mắt nói: “Hảo cô nương, nàng thông minh hơn sư huynh nàng nhiều”. Một thị nữ từ trong khoang thuyền bước ra, khom người nói: “Nước nóng đã chuẩn bị xong, cung thỉnh Nghi vương đi tắm rửa thay áo”. Hách Dịch đứng dậy, rũ rũ chiếc áo đỏ, nói; “Hay lắm hay lắm, ‘tiêu hồn đương thuộc tửu hậu táo, bất tiện thần tiên bất tảo triều’[2] ha ha ha”… Vừa cười vừa nghênh ngang bước đi. [2] Hai câu này có nghĩa là: Uống rượu xong mà được tắm nước nóng thì thật là sảng khoái, sự sung sướng đó còn hơn là được làm thần tiên, làm vua chúa. Náo nhiệt đã hết, đám đông xung quanh cũng lần lượt tản đi. Còn Khương Trầm Ngư lại nhìn chằm chằm về hướng Hách Dịch vừa đi, ánh mắt thâm trầm, như đang suy tư điều gì, cho đến khi một tiếng tiếng ho khẽ vang lên bên cạnh, nàng quay đầu lại nhìn, là Giang Vãn Y đã trở lại. Giang Vãn Y cười với nàng: “Trời sắp tối rồi, gió đêm lạnh lẽo, còn không vào khoang thuyền?”. Khương Trầm Ngư chau mày đáp: “Tại sao Nghi vương lại xuất hiện ở sông Di?”. “Có hai khả năng. Thứ nhất, y vừa mới từ Thanh Hải tiến vào. Thứ hai, y cũng muốn ra biển như chúng ta”. “Cho dù là khả năng nào, đường đường Nghi vương tới Bích quốc mà trong nước lại không một ai hay biết, thực là…”. Nghĩ đến đây, trong lòng Khương Trầm Ngư rối rắm muôn điều: Mật thám của hoàng đế, ám vệ của phụ thân đều là anh tài ngàn người chọn một, cứ tưởng kín kẽ không có khe hở, nào ngờ trước đó chẳng nhận được chút tin tức nào! Nếu không phải lần này va nhầm vào thuyền đối phương, e rằng sẽ không hề hay biết. Hơn nữa, sự kiện va phải đá ngầm này có thực chỉ là sự cố ngoài ý muốn không? Hay là có huyền cơ nào khác? Giang Vãn Y cười, nói: “Còn có sự tình ly kỳ hơn nữa”. Khương Trầm Ngư nhướn mày. Trong ánh chiều, nụ cười của Giang Vãn Y nhìn có vẻ hơi tha thiết, giống như đang thấy một chuyện gì đó rất thú vị, không giấu được sự hứng thú: “Thuyền chìm rồi, chỉ có Nghi vương được cứu. Không phải là chúng ta không muốn cứu những người khác, mà là…”, hắn giơ một ngón tay, xua xua với nàng, nói từng chữ từng chữ một, “dưới sông căn bản không có người thứ hai”. Khương Trầm Ngư cả kinh. Nơi chân trời, ánh tà dương cuối cùng đã thu tận, màn đêm buông xuống, đèn trên thuyềnchao đảo, đan thành tầng bóng râm. Dường như tất cả mọi thứ xảy ra trong phút giây này khiếnngười ta nhìn không rõ, cũng đoán không thấu. Nàng không nói gì, quay người trở vào khoang thuyền, về phòng mình, sau đó khẽ nói: “Các ngươi ra cả đi”. Chiếc rèm thoáng lay, hai bóng người gần như xuất hiện cùng lúc, quỳ sụp gối xuống, không phát ra chút tiếng động nào. Khương Trầm Ngư nhìn hai tên ám vệ, trong lòng trào dâng một thứ cảm xúc phức tạp: Một mặt cố nhiên là tán thưởng tận đáy lòng sự nhanh nhẹn, linh hoạt của hai người này khi hành động, một mặt lại thầm lo lắng – Cứ tưởng ám vệ do phụ thân huấn luyện là đệ nhất thiên hạ, mà chưa từng nghĩ, tử sĩ của hoàng thượng cũng chẳng hề kém cạnh. Sau này nếu có xung đột, hậu quả… nàng không dám tưởng tượng. Nghĩ lới đây, nàng đặt cây cổ cầm lên bàn: “Các ngươi đã thấy chuyện vừa rồi chứ? Giúp ta kiểm tra xem, tại sao dây đàn lại đứt?”. Hai tên ám vệ y lời bước lên, săm soi thân đàn một lúc, cả hai ngẩng đầu, trao đổi cái nhìn phức tạp với nhau. Khương Trầm Ngư chau mày, hỏi: “Thế nào?”. Một tên đáp: “Nếu dùng nội lực để làm đứt dây đàn thì không khó, nhưng, khi đó Nghi vương cách chủ nhân ba thước, phát lực cách khoảng không, dây đứt mà đàn không rung, lại không làm người bị thương, muốn làm vậy phải có kỹ thuật vô cùng cao minh…”. “Cũng có nghĩa là, hắn không chỉ thân mang tuyệt kỹ, mà còn là cao thủ không lộ diện?”. Ám vệ đáp: “Nếu thuộc hạ không đoán nhầm, khi ấy hắn đồng thời phát lực với ba người, chủ nhân và hầu gia đều không biết võ công, vì thế một người thì đứt dây đàn, mộtngười thì vỡ bát rượu, duy chỉ có Phan tướng quân là có thể đối kháng với hắn”. Khương Trầm Ngư nhớ lại cảnh tượng lúc trước, khi ấy đúng thực chỉ có Phan Phương vẫn ngồi tại chỗ tiếp tục uống rượu, ngẫm ra là vô hình hóa giải lực độ của Nghi vương. “Có điều…”. Một tên ngần ngừ. “Có điều cái gì”. “Thuộc hạ còn phát hiện một điểm kỳ quái, chủ nhân xem này, vết đứt của dây đàn này không hề bằng phẳng, nếu là thuộc hạ, có thể làm dứt khoát gọn lẹ hơn, từ đó có thể thấycông lực của đối phương tuy linh hoạt, nhưng độ kiên cường dẻo dai thì chưa đủ. Nhưng, Nghi vương có thể đồng thời thăm dò ba người ở ba phương hướng khác nhau, võ công của hắn ta tuyệt đối không kém thuộc hạ, vì thế, thuộc hạhoài nghi… có thể Nghi vương bị thương, dẫn đến việc thiếu sức bền”. Gì chứ? Y bị thương? Nhưng vừa nãy nhìn y, tuy y có nhếch nhác nhưng khí sắc vẫn thịnh, hơn nữa lại uống rượu phóng khoáng như thế, hoàn toàn không giống người bị thương, tất cả chuyện này là thế nào? Tại sao Nghi vương lại phải thăm dò bọn họ? Bên ngoài chỉ biết Nghi vương tinh thông buôn bán, chẳng ngờ y còn giỏi võ, một hoàng đế quyền cao chức trọng thân thể tôn quý, tại sao lại có võ nghệ cao thâm khó dò như vậy? Còn nữa, tại sao thuyền đắm lại chỉ cứu được một mình y, mà y còn bị thương? Tại sao y lại xuất hiện ở Bích quốc? Thuyền của y thực sự va vào đá ngầm, hay là còn có nguyên nhân nào khác? Một chuỗi câu hỏi vây lấy Khương Trầm Ngư, dự cảm chẳng lành trong chốc lát trào dâng trong lòng. Nếu ta là Chiêu Doãn – Khương Trầm Ngư đột nhiên nhớ đến khả năngnào đó, lòng nàng chùng xuống… Có lẽ nàng đã đánh giá thấp vị đế vương trẻtuổi lòng dạ thâm sâu kia. Đầu tiên, nếu Nghi vương thực sự bí mật vào Bích quốc, vậy thì, Chiêu Doãn rất có thể đã biết được tin tức này thông qua ám tuyến, vậy thì, nếu nàng là y, nàng sẽ lập tức quyết định cần phải – ám sát Hách Dịch. Gọn lẹ dứt khoát tiêu diệt đối thủ luôn là tác phong hành sự của Chiêu Doãn. Vì thế, Chiêu Doãn phái mật thám tấn công Nghi vương, tùy tùng của Nghi vương đều bỏ mạng trong hành trình này, cuối cùng chỉ còn lại mình y – nếu không, là một hoàng đế, y tuyệt đối không thể lên đường một mình. Trong lúc nguy cấp nhất, Nghi vương tìm thấy cơ hội – đó chính là thuyền quan đi sứ Trình quốc. Nơi nguy hiểm nhất chính là nơi an toàn nhất. Y ngang nhiên giả vờ được cứu lên thuyền, như thế một khi thân phận công khai, chúng nhân đều biết Nghi vương lên thuyền quan của Bích quốc, Chiêu Doãn sẽ không thể làm gì y. Bởi vì nếu để quốc quân Nghi quốc chết trên thuyền quan của Bích quốc, tin tức này hễ truyền ra ngoài, hai nước tất đại loạn. Hỏng rồi, chúng ta đều bị lợi dụng rồi… Khương Trầm Ngư cắn môi, trong bóng tối dường như có một cánh tay vén tan tầng tầng mây mù, suy nghĩ của nàng dần trở nên sáng tỏ. Hay cho Nghi vương! Hay cho Hách Dịch “rực rỡ chói sáng”! Vốn là như vậy, kẻ khôn khéo nhất thiên hạ là thương nhân, kẻ lắm mưu lược nhất là chính khách. Mà Hách Dịch, người kết hợp hoàn hảo hai thân phận này sao có thể là một nhân vật đơn giản? Chiêu Doãn muốn âm thầm ám sát y, không ngờ đội thuyền của mình lại bị Hách Dịch lợi dụng, trở thành bùa bình an của đối phương. Có lẽ lúc này y đã biết tin, đang giận điên lên, nhưng cũng không có cách nào, người đã lên thuyền, hơn hai trăm con người e rằng đều đã biết Nghi vương lên thuyền mình, muốn động thủ lần nữa cũng đã muộn… trừ phi… Trừ phi biến hai trăm tám mươi người này thành đồ tuẫn táng theo Nghi vương! Khương Trầm Ngư bỗng đứng bật dậy, sắc mặt trắng bệch – lấy hai trăm tám mươi người đổi lấy một người, thực ra không phải là không đáng. Bởi vì, hễ Nghi vương chết đi, Nghi quốc tất loạn, Nghi quốc mà loạn, thế cân bằng trênbề mặt giữa bốn nước sẽ bị phá vỡ, Yên Trình tất có động tĩnh, thiên hạ càng loạn, đối với Bích quốc mà nói lại càng có lợi… Giông bão sau đó tạm thời chưa tính, bây giờ phải xem Chiêu Doãn có đủ nhẫn tâm hy sinh hai trăm tám mươi người này không. Phan Phương là đại tướng một nước, Vãn Y là quý tộc đương triều, nàng là phi tử, y hẳn sẽ giữ lại mạng sống của ba người bọn họ, nhưng những người khác… Nếu ta là Chiêu Doãn, ta có nhân lúc tin tức này chưa phát tán ra ngoài, diệt khẩu toàn bộ người trên thuyền, sau đó ngầm đổi một đoàn khác đi sứ Trình quốc không? Chỉ cần ba người dẫn đầu không thay đổi, những người khác có đổi, các nước khác cũng không thể phát giác. Chỉ cần có thể giết được Nghi vương, hết thảy đều có ý nghĩa! Nếu ta là Chiêu Doãn… nếu ta là Chiêu Doãn… Khương Trầm Ngư càng nghĩ càng cảm thấy sợ, toàn thân bắt đầu run lẩy bẩy, ám vệ bên cạnh nhìn bộ dạng nàng, hai tên nhìn nhau, thấp giọng gọi: “Chủ nhân? Chủ nhân?”. Hai giọt nước mắt bất ngờ trào ra khỏi đôi đồng tử đen láy, trong suốt như thủy tinh của nàng, Khương Trầm Ngư nắm chặt vạt áo trước ngực, tuyệt vọng nhắm mắt lại. Không cần nghĩ nữa, nàng đã biết câu trả lời. Chiêu Doãn chắc chắn sẽ làm như vậy. Giờ Thìn ngày mai, đội thuyền sẽ cập bến cuối cùng trên dòng sông Di – Thiên Trì trấn, chuẩn bị và bổ sung thực phẩm lần cuối cùng, sau đó chính thức ra biển, rời khỏi quốc thổ. Nghe nói phong cảnh Thiên Trì trấn tuyệt mỹ, tất cả nhà cửa đều được xây trên mặt nước, cư dân xuất hành, toàn bộ đều chèo thuyền mà đi, vì thế được gọi là tiên cảnh trên mặt nước. Mọi người trên thuyền đều ngưỡng mộ đã lâu, mấy ngày nay bàn tán rằng phải đi thăm thú một chuyến. E rằng, đến khi thuyền cập bờ, cái chờ đợi bọn họ không phải là mỹ cảnh chốn tiên mà là rừng giáo mưa tên. Những người này… những người đã cùng nàng chung sống trên thuyền từ khi rời đế đô, tuy đại đa số đều không quen biết nhau, nhưng, bọn họ có người vì nàng mà đi tuần tra, có người vì nàng mà chèo thuyền, lại có người bưng trà rót nước, ân cần hỏi han, mà nay, đại nạn rơi xuống đầu, họ sắp biến thành oan hồn chết uổng, hễ nghĩ đến khả năng này, sao nàng có thể không khiếp đảm sợ hãi, bi thương vô cùng được đây?
|
“Không, ta nghĩ sai rồi… sẽ không kinh khủng đến thế… Ta cả nghĩ rồi… không sao cả, không sao cả, không sao cả…”. Nàng cố thuyết phục chính mình, chừa lại một tia hy vọng,nhưng ba chữ cuối cùng càng nói nàng nhỏ, yếu ớt đến bản thân mình cũng chẳng tin. Nếu như, hết thảy đều đúng như nàng dự đoán, mọi chuyện sẽ xảy ra theo cách tồi tệ nhất, vậy nàng phải làm sao? Trơ mắt nhìn những kẻ bất hạnh đó chết đi? Nhưng không nỡ thì còn biện pháp nào khác? Đối đầu với thiên tử là tội lớn, đến lúc đó thiên tử trút giận lên Khương gia thì biết làm thế nào? Nên dửng dưng đứng ngoài hay là ra tay trợ giúp? Là để thành đại sự không câu nệ tiểu tiết, hay là mạng người là quan trọng nhất, không để sinh linh lầm than? Nếu ta là Chiêu Doãn… Hai chân Khương Trầm Ngư mềm nhũn, men theo vách thuyền, trượt xuống dưới sàn, nhưng ngay giây sau, lại nắm chặt bàn tay, loạng choạng đứng dậy: Tại sao ta phải là Chiêu Doãn? Tại sao ta lại phải nghĩ trên lập trường của y? Tại sao ta lại dùng sự máu lạnh và tàn bạo của y để suy xét vấn đề? Tại sao ta không thể là người khác, ví như công tử? Nếu ta là công tử… Giả thiết này vừa lóe lên, hệt như một chùm tia sáng, xuyên qua màn đêm mù sương lạnh lẽo, mang theo ánh sáng và hơi ấm, cơ thể nàng ngừng run rẩy một cách thần kỳ, nàng nắm chặt tay áo của mình, nghĩ hết lần này đến lần khác… Nếu ta là công tử… Nếu ta là Cơ Anh, ta chắc chắn sẽ không thấy chết không cứu, để những người vô tội đó chết không rõ ràng. Công tử nhất định sẽ cứu bọn họ… Cho dù để lỡ mất thời cơ tốt nhất trừ khử Nghi vương; cho dù Chiêu Doãn sẽ vì thế mà giận dữ; nhưng, thà có lỗi với thiên tử, chứ không thể cố lỗi với trời đất, đó mới là tác phong hành sự của công tử. Đó cũng là điều trước mắt nàng nên làm. Khương Trầm Ngư chải lại tóc, chỉnh trang mũ áo, rồi mở cửa đi ra ngoài. Nàng đã biết bước tiếp theo nên làm thế nào. Màn đêm đã buông, tháng năm là lúc xuân hè giao mùa, gió nhẹ trời ấm trăng sáng. Khương Trầm Ngư đến khoang chính, hỏi lão Lý quản sự: “Lần này xuất hành, chúng ta có mang theo pháo hoa không?”. Lão quản sự vội đáp: “Có có, pháo hoa nổi trên mặt nước của hiệu Bất Dạ Kinh là số một, đặc biệt mang theo hai hòm, để chuẩn bị sau khi đến Trình quốc…”. Khương Trầm Ngư ngắt lời lão: “Mau mau lấy ra”. Lý quản sự ngẩn ra: “Lấy ra? Dùng bây giờ ư?”. Khương Trầm Ngư nhìn chăm chú về một hướng, cười nhạt: “Đương nhiên. Giờ lành cảnh đẹp, khách quý vô song, lúc này không dùng, còn đợi lúc nào”. Lý quản sự liếc mắt nhìn theo, phát hiện hướng nàng nhìn chính là Hách Dịch. Nghi vương hiển nhiên đã tắm rửa xong, thay chiếc áo mới màu thiên thanh, dáng vẻ uể oải ngồi tựa trên lan can, mái tóc xõa còn ướt sũng, trong tay cầm một bình rượu nhưng không uống, so với vẻ rạng rỡ khi mặc chiếc áo đỏ như lửa lúc trước lại có vẻ yên tĩnh, ưu tư. Y nhìn vô định lên bầu trời, dường như đang ngắm trăng, lại dường như chỉ là đang đợi gió hong khô tóc. Quý tộc của Bích quốc sùng bái Khổng học, nghiêm cẩn tuân thủ lễ giáo “người quân tử không trang trọng thì không uy nghiêm, học cũng không bền”, đã quen thấy nam tử áo quần chỉnh trang, ngồi ngay ngắn đường hoàng, nay thấy Hách Dịch ngồi xiêu ngồi vẹo, lại thấy có chút mới mẻ. Khương Trầm Ngư bước tới: “Trên thuyền thô lậu, tiếp đón bệ hạ chưa chu đáo, xin được lượng thứ”. Hách Dịch nghe tiếng quay đầu lại, nhìn thấy nàng, nhướn mày cười: “Có trăng có gió có rượu, còn có mỹ nhân, có bốn thánh vật này, sao lại nói là ‘thô lậu’?”. Ánh mắt Trầm Ngư lấp loáng, khoan thai nói: “Có lẽ còn thiếu chút gì đó”. Hách Dịch chớp chớp mắt: “Ví như?”. “Nơi này quá yên tĩnh”. Cơ hồ lời này vừa dứt, liền nghe thấy một tiếng rít dài phía sau lưng, ánh sáng rực rỡ mang theo chùm đuôi dài bay thẳng lên trời, sau đó nổ “bùng” lên, biến thành vô số điểm sáng, hiện thành muôn đóa hoa, rồi lại chầm chậm tan biến. Mà những đóa hoa đó trở thành bối cảnh đẹp nhất lúc này. Nàng đứng dưới bầu trời đêm, nở nụ cười nhàn nhạt, giữa rèm mi như có ánh sao. Từng chùm từng chùm pháo hoa bay lên nở rộ, tan biến phía sau lưng nàng. Thuyền đi chầm chậm, bên bờ sông đã có những người bị pháo hoa thu hút, theo dấu mà đến, vỗ tay hoan hô. Mọi người trên thuyền cũng kinh ngạc mừng rỡ vô cùng toàn bộ đều chạy lên xem. Một đêm vốn tĩnh mịch bình thường, trong phút chốc huyên náo hẳn lên, tựa như một nữ thần say ngủ mở choàng mắt, vạn vật đột nhiên sống lại, trăm hoa khoe sắc, vạn điểu đua tiếng, mang một nhan sắc diễm lệ vô biên. Còn bên này, Hách Dịch ngồi tựa trên lan can vẫn bất động, im lặng nhìn Khương Trầm Ngư, vẻ mặt cao thâm khó dò. Khương Trầm Ngư không bị vẻ mặt đó làm hoảng sợ, nhếch môi cười: “Bệ hạ, đây là tiết mục đặc biệt tiểu nữ an bài cho ngài, ngài không thích sao?”. Ánh mắt Hách Dịch quét qua đám người ồn ào và pháo hoa trên không trung rồi lập tức thu về, một lần nữa dừng lại trên gương mặt nàng, vẫn không động thanh sắc. Khương Trầm Ngư lại hỏi: “Chắc chắn bệ hạ sẽ thích, bởi vì…”. Nàng ngừng lại, Hách Dịch quả nhiên tiếp lời: “Bởi vì sao?”. “Bởi vì, bốn nghìn sáu trăm hai mươi sáu lượng bạc tổn thất đó của bệ hạ đều chìm ở đây”. Nói đến đây, Khương Trầm Ngư nghiêng đầu, cao giọng gọi: “Lý quản sự”. Lý quản sự đương giám sát bọn hạ nhân đốt pháo hoa, nghe nàng gọi, vội vàng lật đật chạy đến: “Có thuộc hạ, Ngu cô nương”. “Nhìn thấy những người bên kia sông chứ?”. “Vâng, nhìn thấy”. “Sai người chèo thuyền nhỏ qua đó, thu một trăm lượng bạc một người”. “Hả?”. Lý quản sự sững người. Ánh mắt Khương Trầm Ngư lưu chuyển, cười châm biếm: “Trên đời làm gì có trò vui miễn phí? Ngươi cứ đi đi, không cần sợ. Nếu họ có hỏi, thì nói là mệnh lệnh của Nghi vương,pháo hoa chuẩn bị riêng cho ngài, bình dân bách tính dựa vào cái gì mà đòi xem?”. “Nhưng, nhưng, nhưng… một trăm lượng bạc này cũng, cũng, cũng…” cũng thực là đắt cắt cổ! Lý quản sự đành nuốt nửa câu sau xuống. Một trăm lượng đủ cho một người dân bình thường sống cả năm. “Nghi vương còn nói là nếu ai không giao đủ một trăm lượng thì đi kiếm thêm người xem pháo hoa, kiếm được càng nhiều người, một trăm lượng đó chia đều ra sẽ càng ít hơn. Cho nên, rốt cuộc nộp bao nhiêu tiền phải xem trước giờ Mão ngày mai bọn họ có thể lôi kéo bao nhiêu người đến, nếu gọi được một trăm người trở lên, vậy thì số tiền thừa ra đều cho bọn họ cả”. Tuy mệnh lệnh này vô cùng cổ quái, nhưng đã làm quản gia quản sự ba mươi năm, Lý Khánh biết rất rõ có một số việc biết càng ít càng tốt, vì thế chẳng nói nửa lời, liền đi làm ngay. Sau khi lão đi, Hách Dịch từ đầu đến cuối vẫn im lặng, lúc này mới nheo mắt, tinh quang thoáng ẩn thoáng hiện trong đôi mắt, y chầm chậm nói: “Chuyện tốt chẳng ra khỏi cửa, việc xấu truyền xa vạn dặm…”. “Thế nên, thậm chí không cần đến giờ Mão ngày mai, trong vòng mười dặm quanh đây, tất cả mọi người đều sẽ biết bệ hạ đang ở trên thuyền của chúng thần”. “Thanh danh của ta bị hủy hoại rồi”. Bóc lột dân chúng đã là chuyện mà bách tính căm giận nhất, càng huống hồ là bóc lột dân chúng trên địa bàn của người khác. “Nhưng”, Khương Trầm Ngư bắt chước dáng vẻ của y lúc trước, ngẩng đầu nhìn về phía chân trời xa xa, “trăng ngày mai sẽ tròn hơn hôm nay. Có thể ngắm trăng tròn đêm mai, chẳngphải rất tuyệt sao?”. Hách Dịch nhìn nàng chằm chằm một lát, chợt bật cười, tiếng cười càng lúc càng lớn, cuối cùng nhảy từ lan can xuống đất, vỗ tay: “Hay! Hay! Vụ mua bán này quả là hời! Đây đúng là vụ mua bán đáng giá nhất trong suốt hai mươi tư năm cuộc đời của ta”, y ngừng lại một lát, nhìn nàng mỉm cười: “Tiểu cô nương, nàng rất thú vị. Nàng tuyệt đối không phải là một dược nữ bình thường”. Khương Trầm Ngư “ừm” một tiếng. “Nàng cũng không phải sư muội của Giang Vãn Y”. Khương Trầm Ngư vốn định phủ nhận, nhưng trong đầu đột nhiên xuất hiện một ý nghĩ, cuối cùng nói thẳng: “Quả là không phải”. Ánh mắt Hách Dịch sáng lên, khi nhìn lên gương mặt nàng, ánh mắt ấy trở nên dò xót một cách thâm trầm: “Nàng là ai?”. “Ngài đoán xem?”. “Quản sự của thuyền này hết sức cung kính, không dám trái lệnh nàng, là dược nữ, địa vị của nàng quá cao; là quan viên, đáng tiếc nàng thân là nữ nhi; là lãnh tụ, nàng còn quá trẻ; nếu đoán nàng chỉ là một thiên kim tiểu thư vì hiếu kỳ màđi theo đoàn sứ thần, nàng lại quá thông minh…”. Hách Dịch nói đến đây liền lắc đầu, “Ta đoán không ra”. Kỳ thực không phải y ngốc, mà là trên thế gian này, ai mà ngờ được hoàng đế Bích quốc lại có thể sai phi tử của mình đi làm gián điệp ở địch quốc? Nghĩ tới thân phận khó xử của mình, lòng Khương Trầm Ngư chùng xuống, nhưng miệng vẫn cười nói: “Không sao, bệ hạ có thể từ từ đoán. Vì chuyến đi Trình quốc lần này còn hơn mười ngày, nếu ngài có thể đoán ra thân phận của tiểu nữ, tiểu nữ sẽ làm cho ngài ba việc”. “Nếu như ta không đoán ra?”. “Vậy đổi lại là bệ hạ làm cho tiểu nữ ba việc”. Nét mặt Hách Dịch khẽ thay đổi, tuy vẫn cười nhưng lại thêm vài phần kinh ngạc: “Nàng phải biết, không nên tùy tiện đặt cược những chuyện như vậy. Trước đây ta có biết một côgái, cũng đánh cược với người ta, nếu bị thua, đối phương có thể yêu cầu bất cứ điều gì. Cuối cùng…”. Khương Trầm Ngư ngắt lời y: “Cuối cùng cô gái đó gả cho người thắng cược chứ gị?”. Hách Dịch nháy mắt: “Hóa ra nàng biết”. Khương Trầm Ngư cười rạng rỡ: “Tiểu nữ biết”. “Vậy, nàng không sợ sao?”. Giọng nói cố tình nhấn mạnh vẻ mờ ám, vừa khéo dừng lại đúng lúc, đôi mắt Hách Dịch lại càng sáng hơn. “Tại sao phải sợ? Có thể gả cho Nghi vương là việc bao thiếu nữ hằng mơ ước”. Bị phản pháo, Hách Dịch quả nhiên không biết đối đáp ra sao, sững ra một lúc, đành cười khẽ: “Thú vị, thú vị… quả nhiên ta đã lên đúng thuyền mới có thể gặp được tiểu a đầu thú vị như nàng”. Khương Trầm Ngư nhìn y cười, chậm rãi nói: “Những chuyện thú vị còn rất nhiều, tiểu nữ đảm bảo, bệ hạ đi chuyến này không uổng phí chút nào”. Chuyến đi này, người không thấy uổng phí thực ra là nàng. Nếu không phải Chiêu Doãn phái nàng đi sứ, nàng không bao giờ có thể ngờ được rằng, mình có thể kết giao với quân chủ của Nghi quốc, hơn nữa còn cứu mạng y, để y nợ mình món ân tình lớn đến vậy. Mượn việc đốt pháo hoa, dẫn dụ bách tínhbên sông tới xem, sau đó lại dùng cường quyền vô cùng bá đạo trưng thu ngân lượng, khiến cho dân chúng oán trách. Phải biết rằng trong thiên hạ, tiếng xấu là truyền đi nhanh nhất, gây ầm ĩnhất. Cho nên, vơ vét tiền của là giả, truyền tin mới là thật. Khi người người đều biết quân vương Nghi quốc đang ở trên thuyền quan đi sứ Trình quốc, Chiêu Doãn có thủ đoạn cay độc hơn nữa cũng vô ích. Y có thể hy sinh được hai trám tám mươi người, nhưng có thể hy sinh được hai nghìn tám trăm người, hai vạn tám nghìn người không? Chuyện này càng truyền càng rộng, muốn giết người diệt khẩu càng khó. Cho dù Chiêu Doãn có giận, có tức đi nữa, cũng chỉ có thể trơ mắt nhìn thuyền bình an xuất cảnh. Một nguy cơ đã được hóa giải. E rằng mọi người trên thuyền vừa từ Quỷ Môn Quan trở về mà không hay. Người biết sự tình cũng chỉ có nàng và vị Nghi vương nhìn có vẻ phóng túng hào sảng, nhưng kỳ thực cực kỳ khéo léo này. Đánh cược với y để lấy ba lời hứa, thắngđương nhiên là tốt nhất, thua thì cũng không sao, thân phận của nàng một khi bại lộ, y có thể làm gì, chẳng nhẽ định lấy nàng chắc? Cho dù nàng cầu xin y, hay là y cầu xin nàng, sự ràng buộc giữa hai người một khi đã phát sinh, sẽ không biến mất. Đây chính là quân cờ tuyệt thế, nếu có thể lợi dụng tốt, tương lai tất có chỗ dùng. Mà những quân cờ như thế còn rất nhiều ở bờ biển bên kia… Trời đêm thoáng đãng, rõ ràng cùng là trời và đất đó, nhưng phút giây này đối với nàng mà nói, hết thảy đều đã đổi khác. Lúc đầu, thế giới của nàng rất nhỏ rất nhỏ, chỉ có sân nhà, sau đó một ngày nọ, vô tình nhìn thấy Cơ Anh, thế giới đã rộng lớn thêm một khoảng, chuyển động vây quanh Cơ Anh, đến lúc tiến cung, lại mở rộng thêm khoảng nữa, nhưng rốt cuộc vẫn còn chật hẹp. Nhưng giờ đây, nàng đang đứng trên mũi thuyền, đối mặt với dòng sông, tất cả ánh sao đều chiếu xuống nàng, gió nhẹ lướt qua, mang theo hương hoa hai bên bờ sông. Con đườngphía trước còn mơ hồ, chẳng phải cũng chính là còn có vô vàn khả năng đó sao? Chỉ cần nắm chắc những khả năng này, nàng sẽ có thể có được kết cục như ý nhất. Đừng sợ hãi nữa. Đừng hoang mang nữa. Cũng đừng rụt rè nữa. Đây chính là trời và đất của nàng. Phải làm mưu sĩ, không có nghĩa là thần phục Chiêu Doãn, hết thảy ngọn nguồn chẳng qua là để bản thân được sống tốt hơn. Mà tuân theo sự sắp đặt của Chiêu Doãn đi sứ Trình quốc không phải là thực sự giúp Chiêu Doãn thành công, chỉlà thể hiện giá trị của bản thân, để chờ đợi một ngày đứng trên cả vận mệnh. Như nàng giờ phút này, cứu Nghi vương là vì cứu những kẻ vô tội trên thuyền, cũng là giành được một cơ duyên khác cho mình. Trời và đất bao la đến vậy… Khương Trầm Ngư mải miết nhìn, làn sương trong đáy mắt chầm chậm dâng lên. Trong mông lung dường như đã có thứ gì mất đi, không thể tìm lại được, cũng không thể khôi phục lại dáng vẻ ban đầu; nhưng lại có thứ gì bắt đầu thăng hoa, giống như con nhộng phá kén chui ra, hóa thành bươm bướm. “Bệ hạ”. Nàng nghiêng đầu, “Đêm dài dằng dặc, bệ hạ có muốn chơi một ván cờ với A Ngu không?”. Hách Dịch cười, khóe mắt cong lên, mang theo ba phần đùa cợt ba phần tự đắc lại kèm một phần tựa như cưng chiều: “Ta chơi cờ rất giỏi đấy”. Khương Trầm Ngư học điệu bộ y, mỉm cười: “Thật khéo, tiểu nữ cũng vậy”. Gió đêm khẽ thổi, nước sông lững lờ trôi. Người bên sông nhốn nháo, càng lúc càng đông, tiếng oán thán, tiếng cầu xin, tiếng cãi vã, hội tụ thành bối cảnh đánh cờ của hai người, cùng với pháo hoa bay vút lên không trung, hóa thành vĩnh viễn.
|