Họa Quốc Tập 1
|
|
“Không đâu”. Cơ Anh cười cười, “Là Anh hành sự đường đột, vội vã truyền tin, hy vọng không làm phiền đến việc quan trọng của tiểu thư”. Khương Trầm Ngư lập tức lắc đầu: “Không, ta không có việc gì quan trọng”. Rồi hai người sóng bước, cùng đi về phía rừng cây. Dưới bóng hoa, thi thoảng có thư sinh trải chiếu ngồi, nâng chén tẩy trang[3], vô cùng náo nhiệt. Từ xa nhìn thấy, Khương Trầm Ngư cười nói: “Trước đây từng đọc câu thơ ‘Cộng ẩm lê thụ hạ, lê hoa sáp mãn đầu, thanh hương lai ngọc thu, bạch nghị phiếm kim âu[4] trong sách, không thể tượng tượng quang cảnh đó như thế nào, nay tận mắt chứng kiến, đúng là được mở rộng tầm mắt”. [3] Vào tiết hoa lê nở, người xưa ưa thích tụ tập vui đùa dưới bóng hoa gọi một cách trang nhã là “tẩy trang”. [4] Chỉ tình thế nguy hiểm, xung quanh đều có kẻ địch, không tìm được đường thoát. “Hoa lê vốn có khí thế ‘chiếm trọn màu trắng trong thiên hạ ép hết hoa đẹp của nhân gian’, thế nhân yêu chuộng cũng là điều khó tránh”. “Đáng tiếc hoa hạnh vẫn chưa nở, không thể ngắm hai loài hoa cùng nở, thật là đáng tiếc”. Cơ Anh nhìn cây hạnh tiêu điều lẫn giữa đào, lê đang khoe sắc, khẽ thở dài một tiếng: “Đúng thế, hoa hạnh năm nay nở muộn thật”. Khương Trầm Ngư nhìn dáng vẻ cô đơn của chàng, bèn an ủi: “Cũng không hẳn là vậy, công tử xem, trên cành cây này đã chúm chím nụ, không chừng đến ngày mai là đã nở hoa rồi”. Cơ Anh cười cười, không nói gì, tiếp tục đi lên phía trước. Hình như, hình như có chút bối rối… Tại sao rõ ràng là cuộc hẹn được mong chờ như thế, đến lúc thực sự gặp rồi, lại cảm thấy không biết làm thế nào, không có lời nào để nói? Lẽ nào nàng phải không ngừng nói về những cây hoa này sao? Khương Trầm Ngư quyết định đổi chủ đề: “Công tử, có một chuyện Trầm Ngư nghe nói đã lâu, luôn cảm thấy kỳ lạ”. “Tam tiểu thư xin cứ hỏi”. “Nghe nói bình sinh công tử sợ nhất là chơi cờ?”. Cơ Anh tủm tỉm cười: “Anh lúc còn nhỏ cực kỳ nghịch ngợm, nhưng gặp phải gia tỉ, giảo hoạt cổ quái còn hơn cả ta vì thế thường bị tỉ ấy trêu đùa. Khi đó ta thích nhất loại bánh điểm tâm tên là bánh đậu xanh, mỗi lúc đọc sách đều đòi có một đĩa để bên cạnh, vừa ăn vừa đọc. Có một ngày, theo lệ thường ta cầm một chiếc bánh lên cắn, kết quả là bị gẫy hai cái răng cửa. Hóa ra, nhân chiếc bánh đó không nhồi đậu, mà là quân cờ…”. Khương Trầm Ngư “A” một tiếng. “Từ đó về sau, mỗi lần thấy quân cờ là nhớ đến hai chiếc răng sữa đó, cảm giác đau đớn khôn tả. Cho nên không bao giờ động đến cờ nữa”. Khương Trầm Ngư không thể ngờ còn có nguyên do này, nghĩ một lát bật cười: “Hóa ra công tử cũng là một người bướng bỉnh, quân cờ có tội gì? Nếu phải oán giận, thì oán giận người đã bỏ quân cờ vào trong bánh chứ”. “Gia tỉ hung hãn, ta nào dám trách tỉ ấy”. Cơ Anh nói, thần sắc trong chớp mắt trở nên mông lung, dường như còn nghe thấy một tiếng cười khanh khách lãng đãng bên tai: “Chơi cờ mà vất vả thế, thôi không chơi nữa. Sau này, chàng có thể ăn bánh đậu xanh thiếp làm, đảm bảo không có quân cờ đâu.” Giọng nói nhòa đi, trôi xa dần. Một giọng nói khác rõ ràng hơn dội tới: “Công tử! Công tử!”. Cơ Anh bừng tỉnh, cảm thấy mặt hơi lạnh, ngẩng đầu, hóa ra trời đã đổ mưa. Hai người vội vàng chạy đến chiếc đình gần nhất, chàng nhìn cơn mưa đến bất chợt bên ngoài, có chút ngậm ngùi, nói: “Trời có mưa gió bất thường, cổ nhân thực không lừa ta”. Khương Trầm Ngư sửa lại tóc tai, chúm chím cười: “Mưa xuân quý như dầu”. “Tiểu thư thích mưa?”. “Vâng”. Nàng nhìn hoa lê tắm trong màn mưa tựa sương mù, mỉm cười nói: “Không có mưa, sao những đóa hoa này nở được? Hơn nữa hoa lê trong mưa vốn là mỹ cảnh tuyệt vời chốn nhân gian”. Anh mắt Cơ Anh trầm xuống, giọng nói xa xôi đó lại lần nữa thoảng về bên tai: “Mưa? Thiếp ghét nhất là mưa! Vì hễ trời mưa, mẹ không thể mở hàng bán mì; hễ trời mưa, cha sẽ uống say túy lúy, mỗi lần đều phải đi đón ông; hơn nữa, hễ trời mưa, mặt đất lầy lội khó đi, khắp nơi bùn đất… Thiếp ghét nhất là trời mưa!”. Lúc đó, giọng nói ấy trong trẻo, thanh thanh, không giống sau này, đầy vẻ uể oải và khàn đục. Lại nhìn rừng cây trước mắt, hoa lê đang kỳ nở rộ, bừng nở rạng ngời, hoa hạnh vẫn đang chớm nụ, ảm đạm buồn bã. Quả nhiên không phải là hai thứ giống nhau… Khương Trầm Ngư nhìn lọn tóc trước trán chàng bị ướt mưa, đang rỏ từng giọt, bèn lấy từ trong tay áo ra một chiếc khăn tay, đỏ bừng mặt đưa cho chàng. Cơ Anh cảm tạ, cầm chiếc khăn đang định lau, lại không kìm nổi sững sờ: “Đây là…”. “Đây là khăn tay của công tử, công tử còn nhớ không?”. Cái ngày Hy Hòa trúng độc, bên ngoài Bảo Hoa cung, chàng từng dùng chiếc khăn tay này lau vết máu trên mặt cho nàng. Tuy khi đó nó đã bị chàng vứt đi, nhưng sau đó vì chàng đi trước, cho nên nàng nói với Chu Long muốn lấy đồ, nhân cơ hội đó nhặt về, giặt sạch rồi luôn mang bên mình. Đến nay quả nhiên đã dùng tới. Việc này dụng tâm cực khổ, Cơ Anh sao không biết, cầm chiếc khăn tay đó, chàng bất giác cũng trầm ngâm im lặng. Trong khoảnh khắc, hai người đều không nói gì, không khí thoáng chút bối rối, mà trong sự bối rối đó lại có một sự đẹp đẽ lạ lùng. Gió xiên mưa bụi, hoa lê ngập trời. Giăng mắc như châu ngọc trên hiên đình ngũ giác. Cảnh nền là khu rừng, chàng và nàng trong đình há chẳng phải là một phong cảnh tuyệt mỹ nhất sao? Mà phong cảnh này lọt vào mắt một người lại hóa thành tịch liêu. “Phu nhân, trời mưa rồi, chúng ta không mang ô, hay là quay về xe?”. “Đúng thế, phu nhân, trời không còn sớm nữa, chúng ta ra ngoài đã lâu, cũng nên về cung rồi. Hơn nữa, hoa hạnh ở đây đều chưa nở, chi bằng đợi hoa nở ta quay lại xem”. Tiếng khuyên ân cần rớt lại phía sau, người được khuyên nhủ đã thu lại cái nhìn vào hai người trong đình, sau đó, chầm chậm quay đi. Dưới chiếc áo choàng màu tím đậm là gương mặt trắng bệch, không chút sắc máu, cũng không có biểu cảm. Nhưng lại xinh đẹp đến kinh hãi thế tục. Mỹ nhân cao ngạo cụp rèm mi, bỗng cười cười, nước mưa chảy xuống men theo mép áo khoác, tí tách rơi. Nàng bắt đầu bước đi, coi chiếc xe ngựa bên cạnh như không tồn tại, hai cung nhân nhìn nhau khó hiểu, đành đi theo sau. Ra khỏi Hồng viên, đi thẳng về phía Tây, nhà cửa hai bên đường từ phồn hoa biến thành giản đơn, thô lậu, đường đi càng lúc càng hẹp, cao thấp mấp mô, cuối cùng, bị cát đá cỏ dại che phủ. Lúc này, vì trời mưa nên bùn lầy ngập đất. Xe ngựa đi đến đây, không thể nào tiến lên phía trước được nữa, cung nhân kêu lên: “Phu nhân…”. “Ta muốn yên tĩnh một mình, các ngươi đợi ta ở đây”. Dứt lời, nàng kéo chặt áo khoác, đi vào ngõ nhỏ. Ngõ Hoán Sa ở phía Tây Nam của đế đô là xóm dân nghèo có tiếng. Ở đây toàn là người già, phụ nữ và trẻ nhỏ cơm không đủ ăn áo không đủ ấm, bởi vì không có thanh niên trai tráng, nên ở đây nghèo khó túng bấn hơn các nơi khác, từng căn nhà nhỏ san sát như chiếc tổ chim câu, trên mặt đất bẩn thỉu chất đầy đồ linh tinh, trong không khí tràn ngập hỗn hợp của đủ thứ mùi lẫn với mùi thối nát. Nàng đi qua một dãy nhà, cuối cùng dừng lại trước gian nhà cuối cùng ở cuối ngõ. Căn nhà này xem ra còn đơn sơ hơn cả các căn nhà xung quanh, đến tường cũng xiêu xiêu vẹo vẹo, xem ra, chẳng bao lâu nữa là sẽ đổ sụp xuống. Trên cánh cửa gỗ bị mọt khoét thủng lỗ chỗ, lấy dây thừng cỏ kết lại thành nút thắt để khóa cửa. Nàng khẽ đẩy một cái, dây thừng cỏ đã khô từ lâu liền tự đứt rời. Đẩy cửa ra, bên trong là một gian phòng tối mù mù, lờ mờ nhìn thấy rêu xanh và ẩm mốc mọc đầy trên tường, nàng đi qua, định mở cửa sổ, kết quả là cánh cửa sổ rớt bịch xuống đấy, vô số bụi đất bốc lên mù mịt. Đúng rồi, đây là ngõ Hoán Sa, mà nàng chính là một Tây Thi khác lớn lên ở chốn này, sau khi bay khỏi xóm nghèo này đã hóa thành phượng hoàng. Căn phòng nhỏ hẹp dường như không có chỗ nào có thể đặt chân; bên trái là một chiếc bàn gỗ rất lớn, trên mặt bàn là chiếc chày cán bột, mẫu thân từng đứng ở đây kéo mì, canh ba mỗi ngày đã thức dậy, hết ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác; dưới chân tường phía bên phải chất hàng đống hũ rượu, phụ thân thường ngồi ở đây uống rượu, hát những bài hát mà nàng nghe không hiểu, mỗi lần như thế, nàng đều cực kỳ oán ghét phụ thân nàng, nhưng khi ông không uống rượu, lại rất dịu dàng vẽ lông mày cho mẫu thân, giúp nàng tết tóc, thế nên, những lúc đó nàng đã quên sạch sự đáng ghét của ông, cảm thấy mình rất yêu ông; ngoài ra còn có một chiếc giường, một chiếc tủ, trong chiếc tủ là toàn bộ gia sản của họ.
|
Nàng bước tới mở chiếc tủ bị gẫy một chân đó ra, bên trong có treo vài bộ y phục, tất cả đều bằng vải thô, có chiếc hoa văn rất mộc mạc, thô ráp, sau đó, nàng lại sờ đến chiếc gương, trên gương đã hoen đầy rỉ đồng xanh, nàng giơ lên soi thử, người trong gương xa lạ làm sao. Người này… có đúng là nàng không? Người này, tại sao sắc mặt lại trắng bệch như vậy, làn da khỏe mạnh luôn hồng hào của nàng đã đi đâu mất rồi? Người này khẽ cười, ánh mắt liền trở nên lạnh lùng, khóe môi đầy mỉa mai, có vẻ cay nghiệt biết bao. Nhưng nàng nhớ, nàng vốn cười rất đẹp, rất rạng rỡ, rất phóng khoáng mà. Người này thoạt nhìn rất trẻ trung, chẳng qua chỉ mười bảy tuổi, tư dung đương kỳ diễm lệ, nhưng nhìn kỹ, góc mày khóe mắt đều tiều tụy mệt mỏi, đầy vẻ già nua. Người này… người này là ai vậy? Nàng vội vứt chiếc gương không dám nhìn tiếp, loạng choạng lùi về phía sau, liền va phải góc giường, cả người ngã về phía sau, sõng soài dưới đất. Bụi đất cuộn bay mù trời. Nàng bắt đầu ho, mà chính lúc đó, nàng nghe thấy một tiếng thở dài, rất khẽ rất khẽ, rớt vào trong lòng, lại biến thành rất nặng nề. Đột nhiên nàng bật dậy, tìm kiếm nơi phát ra âm thanh, liền nhìn thấy chàng đứng bên ngoài cửa sổ. Chính xác mà nói, là chàng đứng ở bên ngoài lỗ hổng đã không còn cánh cửa sổ. Mưa vẫn rơi, người đó không biết kiếm đâu được chiếc ô, bấy giờ đang giương ô đứng bên ngoài nhà, im lặng nhìn nàng. Và thế là hồng trần chuyển nghịch trong phút chốc, thời gian đảo ngược trong nháy mắt, dường như trở về bốn năm trước, như lần đầu nàng gặp chàng. Khi đó, chàng cũng mặc một chiếc áo trắng không vương bụi trần, cầm một chiếc ô giấy cán trúc, đắm chìm trong làn mưa xuân như thế này. Nàng còn nhớ, trên chiếc ô đó vẽ một cành hồng hạnh, đỏ tựa như đóa hoa tươi nàng ôm trong lòng khi ấy. “Cành hoa hạnh này bao nhiêu tiền?”. “Mười văn tiền”. Cảnh tượng trong mộng trùng điệp với hồi ức, hóa ra đã trôi qua lâu đến thế, nhưng nàng chẳng hề quên một mảy may. “Sao ngươi lại đến đây?”. Nàng lên tiếng, như nói mơ. Người đó đứng bên ngoài, đáp: “Ta nhìn thấy một người giống nàng nên đi theo, quả nhiên là nàng”. Nàng mở to đôi mắt mênh mang sương mù, mỗi tiếng nói ra đều rất cứng nhắc: “Hoa hạnh chưa nở”. Một tia đau khổ lướt qua trên gương mặt người đó, người đó khẽ thở dài: “Đúng thế, hoa hạnh chưa nở…”. Y bào của hai người đều run lên bần bật, không biết là cơ thể hay là trái tim đang run rẩy. Nàng đột nhiên bấu lấy bệ cửa sổ, chìa một tay về phía chàng: “Chàng vào đây!”. Người đó nhìn nàng chăm chú, lắc đầu. “Vậy ta ra ngoài!”. Nàng vừa nói vừa xốc váy chuẩn bị trèo qua cửa sổ. Nhưng, người đó vẫn lắc đầu. “Tại sao?”. Người đó mỉm cười với nàng, trong nụ cười lại chất chứa sự chua chát: “Nàng không biết tại sao ư? Hy Hòa, nàng thực sự không biết tại sao ư?”. Nàng choàng tỉnh, bỗng nhớ ra hóa ra mình tên là Hy Hòa. Mà Hy Hòa là ai? Đương kim sủng phi của Bích quốc, hoàng hậu tương lai. Thế nhưng, giờ này phút này, nàng nhìn nam tử đứng ngoài cửa sổ đó, trong lòng giống như bị một lưỡi dao cùn cứa qua cứa lại, vì không thể dứt khoát cắt đứt, ngược lại càng bị giày vò hơn. “Chàng sắp lấy Khương Trầm Ngư sao?”. Chàng cúi thấp đầu, thanh âm tựa như từ xa vọng đến, nghe không chân thực: “Liên hôn hai tộc Cơ, Khương đều có lợi cho hai tộc. Hơn nữa… Hy Hòa, hoa hạnh sẽ không nở, không bao giờ nở nữa.” “Chàng lừa ta!”. Nàng đột nhiên nổi giận, mặt mày bắt đầu méo mó, “Chàng lừa ta, chàng lừa ta, chàng lừa ta! Chàng nói năm ta mười sáu tuổi sẽ lấy ta, kết quả ta lại vào cung, trở thành phi tử của hoàng đế! Chàng nói khi hoa hạnh nở sẽ dẫn ta đi ngắm hoa, nhưng chàng lại đi ngắm hoa với người khác! Còn bây giờ, chàng còn sắp lấy người khác…”. Thanh âm như chìm dưới đáy nước, lúc nổi lên trên mặt nước liền biến hình, nàng bưng mặt khóc không thành tiếng. Nỗi ấm ức to lớn tựa sóng bể cuộn trào ập tới, không khí bị cướp mất trong chớp mắt, không thể hít thở… Hy Hòa hét lên một tiếng chói tai, một lần nữa kinh hãi ngồi bật dậy, bỗng nhiên nhận ra hóa ra lại là một giấc mộng Nam Kha. Căn nhà vẫn là căn nhà đổ nát đó, nàng ngồi trên chiếc giường ván gỗ phủ đầy bụi bặm, nhìn chiếc xà ngang trên đầu, bỗng nhớ tới mẫu thân đã từng treo cổ trên chiếc xà ngang này. Ngày đó, nàng đi bán hoa trở về, khẽ đẩy cửa một cái, liền nhìn thấy hai chiếc hài thêu hoa đung đưa đung đưa, trên hài còn thêu hoa sen mà mẫu thân thích nhất. Chiếc bóng trên mặt đất cũng đưa qua đưa lại, kéo rất dài. Mưa bên ngoài càng lúc càng to, hắt qua ô cửa sổ vào bên trong, ướt cả mặt đất, trong không khí tràn ngập hơi nước mịt mờ, buồn thảm. Trời đã tối rồi. Trên xà ngang dường như có một đôi tay thò ra, dịu dàng vô hạn vẫy gọi nàng, “Đến đây, con yêu, đến đây với mẹ, đến đây, đến đây…”. Giọng nói đó ngọt ngào biết bao, tựa như tiếng gọi thâm tình nhất thế gian. Sự mơ màng nổi lên trong mắt nàng, nàng giơ tay ra, cởi thắt lưng, đúng rồi, lại vắt thắt lưng lên trên xà, sau đó thắt nút lại, chính là như thế, rất tốt, phải thắt cho thật chặt, sau đó, thò đầu vào trong… Cánh tay đó vẫn đón chờ nàng ở phía trước, khiến nàng nhớ đến lúc chập chững học đi thuở nhỏ, mẹ cũng ở phía trước gọi nàng như thế, cổ vũ nàng bước tiếp. Chỉ cần đi theo lời của mẹ, là sẽ vui vẻ, là sẽ hạnh phúc, là sẽ không còn tuyệt vọng như thế này nữa. Đợi con, mẹ ơi, đợi con. “Binh”, tiếng mở cửa làm rung chuyển cả căn nhà, lại một cơn bụi mù nữa nổi lên. Cánh tay đột nhiên biến mất, ảo cảnh trước mắt tan biến trong tích tắc, Hy Hòa phát hiện mình đang nằm trên giường, hai cánh tay giơ lên không trung, như muốn nắm lấy thứ gì, nhưng hai tay nàng vẫn trống không. Phía trước không có thứ gì có thể tóm lấy, càng không có hy vọng. “Ta nói muốn yên tĩnh một mình, không được sự cho phép của ta không được đến quấy rầy”. Nàng sầm mặt, quay đầu về phía cửa, muốn xem cung nhân to gan nào dám đến đánh thức giấc mộng của nàng. Bên ngoài, áo trắng như sương. Hy Hòa chớp chớp mắt, lại chớp mắt, thầm nghĩ: Hóa ra ta vẫn đang nằm mơ. Vậy thì, tiếp tục ngủ thôi. Nàng quay đầu lại, nhắm mắt, nhưng vừa nhắm mắt lại thất kinh, gương mặt chấn động, ngạc nhiên nhìn người ngoài cửa, giọng run run: “Là… chàng…”. Người đó đứng cách cửa ba thước, không cầm ô, mưa bụi hắt lên người chàng, y bào và tóc của chàng đều ướt đẫm nhưng bộ dạng chẳng hề nhếch nhác, vẫn là công tử tuấn tú giữa trần thế đầy bụi bặm. Chàng chầm chậm hất vạt áo bào trắng quỳ xuống đất, cất tiếng: “Sắc trời đã muộn, Anh cung thỉnh phu nhân hồi cung”. Anh, Cơ Anh. Hóa ra đúng là chàng. Hóa ra lần này không phải là nằm mộng. Hy Hòa nhìn chàng, lại nhìn xà ngang trên trần nhà, nhớ tới ảo cảnh chết chóc kỳ diệu ban nãy, trong lòng bắt đầu cười nhạt: Mẹ, vừa nãy là mẹ sao? Mẹ muốn dẫn con đi phải không? Bởi vì nhân thế quá đau khổ, cho nên muốn dẫn con đi cùng đúng không? Thế nhưng – con không phải là mẹ. Đối mặt với khổ nạn, mẹ chỉ biết khóc, chỉ biết nhẫn nhịn, nhẫn nhịn không được thì trốn tránh, chọn cách không có trách nhiệm nhất là tự vẫn. Con sẽ không kém cỏi như mẹ. Con sẽ không thể chết một cách nhu nhược và mất tôn nghiêm như thế. Ta sẽ không chết. Cho dù năm mười bốn tuổi khi đi bán hoa về nhìn thấy thi thể mẫu thân treo cổ trên xà nhà; cho dù năm mười lăm tuổi bị phụ thân say rượu bán cho người ta; cho dù năm mười sáu tuổi bị hoàng đế lâm hạnh đau không thiết sống; cho dù bây giờ tình nhân cũ của ta sắp cưới người khác làm vợ… ta vẫn sẽ không đi tìm cái chết.
|
Dù như thế, ta vẫn phải sống, dùng tất cả mọi cách để sống một cách tùy ý ngông cuồng. Sinh mệnh vốn dĩ ngắn ngủi, cho nên càng phải sống tươi đẹp như một đóa hoa. Cái năm mười sáu tuổi đó hoa hạnh không nở, năm nay hoa hạnh cũng không nở, thế nhưng, chỉ cần ta sống, sống đủ lâu dài, sớm muộn sẽ có một năm, ta có thể đợi được nó nở hoa. Hy Hòa ngồi dậy xuống giường, phủi bụi trên người, sửa lại mái tóc xổ tung, sau đó khoác áo choàng bước ra ngoài. Khi đi ngang qua Cơ Anh, nàng mỉm cười nói: “Kỳ Úc hầu thực trung thành với hoàng thượng, hy sinh tỉ tỉ của mình, bỏ rơi tình nhân của mình, chi bằng dứt khoát thêm một chút, hiến dâng vợ chưa cưới của mình đi”. Không đợi chàng có bất kỳ phản ứng nào, nàng đã rảo bước bước ra ngõ nhỏ, nhìn thấy ánh đèn bàng bạc hắt ra từ một căn nhà lụp xụp bên cạnh, nụ cười nhạt đi còn ánh mắt lại trở nên thâm trầm. Xe ngựa trong cung quả nhiên đang đợi sẵn ở cửa ngõ, hai cung nhân tay cầm ô đứng cạnh xe, nhìn thấy nàng, cả hai đều thở phào. Hy Hòa lên xe, quay đầu lại hỏi: “Là các ngươi báo cho Kỳ Úc hầu?”. Cung nhân dè dặt bất an trả lời: “Vì phu nhân đi vào lâu như thế mà không thấy ra, bọn nô tì sợ có chuyện gì, vừa hay thấy xe ngựa của hầu gia ngang qua, cho nên nhờ ngài vào trong mời phu nhân…”, giọng nói càng lúc càng nhỏ, vẻ sợ hãi càng đậm hơn. “Làm tốt lắm”. Rèm xe buông xuống, che lấp nụ cười của Hy Hòa lẫn cái nhìn sắc lẹm trong mắt nàng. Năm Đồ Bích thứ tư, ngày mùng một (Ất Hợi) tháng tư (Mẫu Tuất), tuế thứ Tân Mão, hoàng đế chiếu viết: Ổ hô! Con gái thứ ba của hữu tướng phủ Khương Trọng, phúc thừa Hoa tộc, lễ vượt nữ sư, kính thuận răn dạy, noi theo đạo đức. Đã vẻ vang cho thân thích lại điềm lành ở bói rùa, vậy nên mệnh cho ngươi làm Thục phi, chọn ngày tiến cung. [Ngươi] phải tuân theo phẩm lành, gắng noi đức tốt, kính nhận điển sách. Sét đánh giữa trời quang! Người của Khương thị quỳ trong đại sảnh, hết thảy đều bị sững sờ thất kinh trước đạo chiếu chỉ bất ngờ này. Khương Trọng ngẩng đầu lên, nhìn La Hoành đến tuyên chỉ, nói: “La công công, đây là…”. La Hoành cười híp mắt, nói: “Chúc mừng hữu tướng, chúc mừng hữu tướng, Khương gia có hai hoàng phi, đúng là vẻ vang gia tộc”. “Nhưng mà, tiểu nữ Trầm Ngư và Kỳ úc hầu đã định hôn ước…”. La Hoành ngắt lời ông: “Hữu tướng thực biết nói đùa, nghe nói canh thiếp của hầu gia lúc vào phủ bị cháy, sao có thể tính hôn sự như thế?”. Bấy giờ, mọi người đều ngạc nhiên – hoàng thượng lại biết cả chuyện này! Rõ ràng trên dưới toàn phủ đều miệng kín như bưng, sao hoàng thượng có thể biết được? Mặt Khương Trọng liền tối sầm, không nói thêm được gì. La Hoành đặt thánh chỉ vào tay ông, tiếp tục cười híp mắt nói: “Hoàng thượng nhìn trúng tam tiểu thư là phúc lớn bằng trời, hữu tướng không nên phụ tấm lòng của hoàng thượng. Vận may này thành vận xui thì không hay đâu, đúng không, hữu tướng?”. La Hoành cười rất thân mật nhưng trong lời nói đầy ý cảnh cáo, Khương Trọng nào dám nhiều lời, vội vàng run rẩy tạ ơn, đón lấy thánh chỉ. “Thế mới phải chứ!”. La Hoành lại đi đến trước mặt Khương Trầm Ngư, hành lễ nói: “Lão nô chúc mừng tân chủ tử!”. Khương Trầm Ngư bất động như rối gỗ. Khương phu nhân bên cạnh lập tức kéo con dâu lại cùng dìu nàng đứng dậy, thay nàng cảm tạ: “Đâu có đâu có, sau này vào cung, còn phải nhờ công công quan tâm nhiều. Chút tâm ý này xin công công nhận lấy”. Nói đoạn, nhét một phong bao vào tay La Hoành. “Cũng phải, vậy thì lão nô về cung phục mệnh trước”. La Hoành nhận lễ, cười tít mắt rồi dẫn một đám người rời đi. Cha con Khương thị tươi cười tiễn đến tận cổng, lúc quay về, sắc mặt ai nấy đều nặng nề. Khương phu nhân là người đầu tiên không kìm nén được, khóc òa lên: “Lão gia, chuyện gì thế này? Tại sao hoàng thượng lại muốn Trầm Ngư vào cung? Sao ngài lại biết chuyện canh thiếp bị cháy?”. Khương Trọng sốt ruột nói: “Ta đâu biết” . “Ông ngày ngày thượng triều diện kiến thánh thượng lẽ nào trước đó hoàng thượng không để lộ chút manh mối nào?”. “Nếu có manh mối, ta còn không biết xử trí thế nào như thế này sao?”. Khương phu nhân không kìm được mắng: “Uổng cho ông đường đường là nhất phẩm đại thần, hữu tướng đương triều, đến con gái phải vào cung cũng không biết sự tình; con cũng thế, thân làm huynh trưởng mà chẳng hề để ý đến chuyện của muội muội…”. Khương Hiếu Thành không khỏi ấm ức: “Mẹ, con chỉ là một đô úy Vũ lâm quân cỏn con, đến cha còn không biết chuyện, sao con có thể biết được? Huống hồ, tuyển phi là chuyện của hậu cung!” Phu nhân của Khương Hiếu Thành Lý thị đứng bên thấy họ tranh cãi không thôi, vội vàng khuyên can: “Mọi người đừng nói nữa, không thấy muội muội thành ra thế này sao?” Mọi người mới nhớ ra Trầm Ngư, sắc mặt đau đớn, quay đầu lại nhìn, chỉ thấy nàng vẫn đứng nguyên trong sảnh, hai mắt vô hồn, không hề nhúc nhích. Khương phu nhân đi tới cầm tay nàng, khóc nói: “Con gái của mẹ số khổ… bây giờ phải làm thế nào đây?”. “Còn có thể làm thế nào? Thánh chỉ đã ban, không thể thay đổi, nhất định phải nhập cung… ầy da!”. Khương Hiếu Thành còn chưa dứt lời, đã bị Lý thị nhéo một cái đau điếng. Lời của Hiếu Thành nói tuy là sự thực, nhưng cả nhà đều biết Trầm Ngư một tấm tình si với Cơ Anh, chỉ mong ngóng có thể gả làm vợ chàng, nay chuyện sắp thành, đột nhiên bị hoàng thượng ngáng chân, tâm nguyện tiêu tan, nhìn dáng vẻ nàng lúc này thẫn thờ chưa từng có, lại càng đau lòng hơn nữa. Lý thị thở dài: “Tiểu cô, chuyện đã thế này… muội, chấp nhận số phận đi…”. Câu nói này đã đánh động Trầm Ngư, nàng cắn chặt bờ môi, toàn thân bắt đầu run lẩy bẩy. “Không chấp nhận thì có thể làm gì? Hoàng mệnh không thể trái, kháng chỉ sẽ bị chém đầu, huống hồ, đến chuyện canh thiếp bị cháy hoàng thượng cũng biết, rõ ràng là đã chuẩn bị đầy đủ rồi…”. Khương Trọng vừa nói vừa lắc đầu: “Hôm đó con bị gọi vào cung dạy đàn, ta đã cảm thấy sự việc lạ lùng, bây giờ nghĩ lại, hoàng thượng chắc đã có tâm tư này từ lúc đó, chỉ là chúng ta đều hồ đồ chẳng nhìn ra đó thôi…”. Khương Hiếu Thành nói xen vào: “Không phải con tự khen, muội muội nhà ta phẩm mạo như vậy mà đi ra ngoài, đàn ông ai chẳng thích… Ái da!”. Chưa nói hết câu, lại bị nhéo thêm phát nữa. Khương phu nhân gạt nước mắt nói: “Trầm Ngư, mẹ biết con buồn, nhưng con đừng để trong lòng, con hãy nói gì đi…”. Khương Trầm Ngư đột nhiên ngẩng đầu. Ánh mắt sáng đến bức người, trong đồng tử dường như đang có một ngọn lửa hừng hực. Tất cả đều giật thót mình. Nàng loạng choạng đứng dậy, loạng choạng đi ra khỏi cửa, Khương phu nhân sực tỉnh, vội vàng chạy tới níu nàng lại nói: “Trầm Ngư, con định đi đâu?”. Nàng vùng ra khỏi tay mẹ, ánh mắt nhìn một tiểu tì ở ngoài cửa: “Ác Du, đi chuẩn bị xe.” Tiểu tì tên Ác Du đờ người ra, ngước mắt khó xử nhìn Khương phu nhân, Khương phu nhân cuống quýt nói: “Bên ngoài trời đang mưa, con định đi đâu?”. Khương Trầm Ngư gằn giọng: “Hoài Cẩn, ngươi đi chuẩn bị xe!”. Một tì nữ khác vội vàng rời đi, không lâu sau quay lại bẩm báo xe đã chuẩn bị xong. Khương Trầm Ngư vùng khỏi tay mẹ, gương mặt trắng bệch toát lên sự bình tĩnh chết chóc, lạnh nhạt nói: “Con sẽ quay về!”. Nàng cất bước ra khỏi trung đường, gió bên ngoài thổi vù vù, hất tung mái tóc và tay áo nàng bay phần phật về phía sau. Thời điểm xuân hàn này là lúc lạnh giá nhất. Nàng khép chặt vạt áo, đi từng bước một xuống bậc thang. Xe ngựa đã đợi sẵn dưới cầu thang, tì nữ tên Hoài Cẩn cùng nàng lên xe ngựa, cụp ô lại nói: “Tam tiểu thư, chúng ta đi đâu?” Khương Trầm Ngư nhắm mắt, hàng mi cứ run run không ngừng, khi nàng mở mắt ra, đồng tử tối tăm: “Tới ngõ Triêu Tịch”. Cuối ngõ Triêu Tịch có người ấy. Xe ngựa dừng cách ngõ khá xa, Khương Trầm Ngư hé cửa sổ xuyên qua màn mưa liên miên nhìn cánh cửa son ở cuối con ngõ dài đó rất lâu, rất lâu. Đây là lần đầu tiên nàng tới nơi này. Đã từng nhiều lần đi ngang ngõ này, cũng muốn bước vào xem, nhưng mỗi lần như vậy đều vì lý do này lý do kia mà từ bỏ. Khi đó luôn nghĩ rằng sẽ không sao, ngày tháng còn dài, nay mới biết duyên phận đã hết. Có lẽ là – chưa từng có duyên?
|
Khương Trầm Ngư nhìn tấm hoành phi trên cánh cửa sơn son đó, hai chữ “Kỳ Úc” sâu như dấu nung. Mấy ngày trước, nàng còn cùng công tử du xuân ngắm hoa, nụ cười và sự dịu dàng của công tử vẫn còn in đậm như mới trong trí óc, chưa từng mờ phai, khi ấy ngỡ rằng đã hạnh phúc tột độ rồi, nhưng hóa ra, vật cực tất phản, hưng cực tất suy, mộng tàn tỉnh giấc, sau khi tỉnh lại, tám mặt Sở ca[5]. [5] Bài “Tặng phu” kỳ nhất của Vi Hoàng đời Đường – Dịch nghĩa: Không được ở bên nhau mãi mãi, tuổi xuân đã tàn tạ, chuyến du chơi xưa nay đã lùi xa, hoàng tuyền lại là nhà. Con gái thứ ba của hữu tướng phủ Khương Trọng, phúc thừa Hoa tộc, lễ vượt nữ sư, kính thuận răn dạy, noi theo đạo đức. Đã vẻ vang cho thân thích, lại điềm lành ở bói rùa, vậy nên mệnh cho ngươi làm Thục phi, chọn ngày tiến cung… Giọng thái giám eo éo, kéo ngữ điệu thật dài, những câu từ tán dương đó nghe ra lại không khác gì sự châm biếm. Hoàng thượng… nam nhân đó tuy nàng đã gặp mặt vài lần nhưng ấn tượng mờ nhạt, vì sao lại tàn nhẫn như thế, chỉ một câu nói là có thể hủy hoại duyên phận mà nàng đã khổ tâm trông ngóng từ lâu! Không, không, không cam tâm! Thực sự không cam tâm! Không cam tâm lỡ mất lương duyên như thế, không cam tâm xa lìa công tử như thế, càng không cam tâm tiến cung như thế, trở thành một trong những phi tử ghen tuông tranh đấu đó. Vận mệnh của nàng không nên là như thế! Thâm cung hang hùm miệng cọp đã chôn vùi một mình tỉ tỉ của nàng chưa đủ, sao còn phải thêm cả nàng? Bàn tay Khương Trầm Ngư run run bám chặt cửa, móng tay cắm cả vào gỗ, phát ra một âm thanh nho nhỏ, rồi gẫy rời. Chính vào lúc đó, Hoài Cẩn gọi: “A, tam tiểu thư xem kìa!”. Thực ra không cần nhắc, nàng đã nhìn thấy xe ngựa của công tử. Trên đầu phố, chiếc xe ngựa vẽ hình Bạch Trạch từ một góc ngoặt rẽ sang, không mau không chậm dừng lại trước cửa phủ đệ, đám thị vệ cung nghênh phía trước, bóng dáng đã xuất hiện trong tâm trí hàng ngàn hàng vạn lần đó giờ đang trong tầm mắt nàng, bào trắng đai ngọc, quốc sĩ vô song, làm đôi mắt nàng ướt nhòa. Công tử ơi… công tử… Chàng liệu có biết tin hoàng thượng muốn nàng tiến cung không? Chàng liệu có biết, nàng không muốn nhập cung, không muốn làm phi tử của đế vương không? Chàng liệu có biết, nàng đã ái mộ chàng, trông mong chàng, ngưỡng vọng chàng bao năm rồi không? Chàng liệu có biết, lúc này nàng hoảng loạn thế nào, bất lực thế nào, khổ sở thế nào, đau đớn mà không nói nổi điều gì không? Vừa nghĩ đến đây, nỗi khát vọng ngập tràn biến thành đôi cánh, khiến nàng mở cửa xe, nhảy xuống. Hoài Cẩn sợ đến nỗi mặt trắng nhợt, cuống quýt kêu: “Tam tiểu thư! Đừng mà…”, không được đi, nếu đi thì có nghĩa là vứt bỏ danh tiết cũng như tiền đồ của gia tộc Khương thị! Nhưng, Khương Trầm Ngư nào có để ý đến tiếng kêu của nàng ta, giẫm lên nước đọng trên mặt đất, cứ thế xông thẳng đến cửa phủ. Đám thị vệ quay hết đầu lại, ớ ra một lúc rồi tản ra, để lộ Tiết Thái đứng sau, biểu cảm trên gương mặt Tiết Thái hết sức cổ quái, giống hệt như lần nhìn nàng trước khi đi hôm đó. Nhưng cuối cùng hắn vẫn tránh ra, mà phía sau hắn chính là Cơ Anh. Cơ Anh nhìn nàng, vẻ mặt đầu tiên là kinh ngạc, sau đó là sự thương xót hết sức kín đáo, nhỏ nhoi. Còn chưa đợi chàng lên tiếng, Khương Trầm Ngư đã lao tới ôm lấy chàng. Chiếc ô trong tay Cơ Anh rớt xuống đất kêu “cạch” một tiếng. Nước mưa rơi xuống, nhấn chìm hai người trong màn nước mờ mịt, mênh mang, Khương Trầm Ngư áp mặt vào lòng chàng, thoáng nghĩ, nếu sinh mệnh kết thúc trong giây phút này, có lẽ, vì có cái ôm này, nàng sẽ không cảm thấy tiếc nuối… Thế nhưng, quãng đời về sau, nếu rời xa cái ôm này, nàng biết làm thế nào để sống tiếp? Khương Trầm Ngư ngẩng đầu, gương mặt ướt đẫm, không biết là nước mưa hay là nước mắt, nàng chăm chú nhìn gương mặt nam nhân nàng yêu nhất, làn môi run rẩy, nhưng không thốt lên nổi tiếng nào. Gió mưa thê lương mịt mờ, giữa trời đất, là mối sầu khôn xiết. Những hạt cát li ti trong đồng hồ cát chảy xuống không ngừng. Trên bàn là trà ấm, hương đốt trong lò, Khương Trầm Ngư bưng chén trà lên khẽ nhấp một ngụm, hơi nước bốc lên, che mờ đôi mắt nàng. Nàng đã thay một bộ y phục khô ráo, mái tóc đã được hong khô, thần sắc cũng bình tĩnh hơn nhiều, không còn vẻ khốn khổ như lúc dầm mưa. Cơ Anh bước vào, nhìn nàng hỏi: “Tiểu thư cảm thấy đỡ hơn chưa?”. Trầm Ngư đặt chén xuống bàn, gật đầu. “Vậy thì tốt rồi”. Cơ Anh ngồi xuống cạnh nàng, nhưng mãi không nói gì, chỉ chăm chú nhìn chiếc đồng hồ cát trên bàn, ánh mắt phức tạp. Khương Trầm Ngư hít một hơi thật sâu, cười cười: “Vừa nãy nhất thời thất lễ, đã khiến công tử khó xử”. Cơ Anh cụp mắt, thấp giọng: “Chuyện hoàng thượng hạ chỉ, ta đã biết…”. Không đợi chàng nói hết, Khương Trầm Ngư đã đứng dậy, cười nói: “Như vậy là tốt nhất, thực ra, ta đến là để xin công tử một thứ, coi như là quà chúc mừng đại hôn của ta, có được không?”. Vẻ kinh ngạc vụt lóe lên trên gương mặt Cơ Anh, khi nhìn nàng, đáy mắt đậm thêm sắc buồn rầu, như thương xót, như bất nhẫn, lại như mâu thuẫn, cuối cùng kết tụ thành một câu nói: “Thứ gì?”. “Lỗ tai”. Khương Trầm Ngư trang nghiêm đáp: “Một cái là được rồi”. Cho dù là Cơ Anh hiểu rộng biết nhiều đi nữa, lúc này cũng cảm thấy khó hiểu: “Lỗ tai?”. Khương Trầm Ngư vén tóc mai bên tai trái, để lộ vành tai xinh xắn trắng trẻo: “Lúc còn nhỏ Trầm Ngư rất sợ đau, cho nên sống chết không chịu xỏ lỗ tai, mẫu thân bó tay nên đành để mặc. Bây giờ, xin công tử hãy xỏ cho ta một chiếc lỗ tai coi như là quà mừng mà Trầm Ngư xin công tử”. Trong thiên hạ này lễ vật vô số, nhưng coi lỗ tai là lễ vật là chuyện xưa nay chưa từng nghe thấy. Tóc đen như mun, da dẻ như ngọc, dái tai liền kề vành tai thanh tú tao nhã, ba phần mềm mại, bốn phần đa tình lai thêm năm phần cố chấp, hội thành nàng với đầy đủ mười hai phần. Khương Trầm Ngư vén tóc, ghé tai trái đến trước mặt Cơ Anh, rèm mi rủ xuống, rợp một khoảng bóng râm trên gương mặt, che giấu biểu cảm của nàng. Cơ Anh trầm ngâm hồi lâu, cuối cùng thở dài: “Người đâu, mang kim đến đây”. Người từ sau bình phong bước ra lại là Tiết Thái, hai tay bưng hộp kim dâng lên. Cơ Anh lấy ra một cây kim, châm vào ngọn đèn trên bàn, nung cây kim trong lửa, rồi im lặng nhìn Trầm Ngư một lát, nói: “Tam tiểu thư, hãy đọc một bài thơ nàng thích đi”. Khương Trầm Ngư nghĩ một lát, bắt đầu khẽ ngâm: “Bất đắc trường tương thủ, thanh xuân yêu thuấn hoa. Cựu du kim vĩnh dĩ, tuyền lộ tức vi gia…”[6]. Ngoài cửa sổ, mưa thưa gió dữ, ba tiêu đổ lệ, cửa lụa mịt mờ, mà tiếng của nàng lại từng chữ như châu, rành rọt ngân nga. [6] Bài “Tặng phu” kỳ nhị của Vi Hoàng đời Đường. Dịch nghĩa: Đã sớm biết ly biệt là đau lòng như cắt, hối hận rằng sao xưa – nay ân ái mặn nồng. Hoàng tuyền âm u tăm tối tuy đã lùi xa, rạng ngày lại tìm kiếm lần nữa quanh nhà. Trong tiếng ngâm, cây kim bạc xuyên qua tai trái của nàng như ngựa trắng phi qua khe núi, rơi trở lại trên tay Cơ Anh, không vương chút máu nào. “… Tảo tri ly biệt thiết nhân tâm, hối tác tòng lai ân ái thâm. Hoàng tuyền minh mịch tuy trường thệ, bạch nhật bình duy hoàn trùng tầm”[7], Khương Trầm Ngư đọc xong bốn mươi tám chữ, buông tay ra, vạt tóc bên tai xõa xuống, che khuất vành tai. Nàng lui lại một bước, khẽ cúi người: “Đa tạ công tử”. Anh mắt Cơ Anh vẫn rơi trên cây kim bạc trong tay, mũi kim lóe sáng dưới ánh nến, điểm tô cho đôi mắt của chàng. Chàng ngẩng đầu lên nhìn Trầm Ngư, dường như có trăm ngàn lời muốn nói, nhưng rốt cuộc vẫn chẳng thể nói ra. Còn Khương Trầm Ngư lại lùi thêm một bước: “Đa tạ… hầu gia”. Là hầu gia, không còn là công tử nữa, một khi đã vào thâm cung tựa bể, từ đây Tiêu lang là khách qua đường. Nàng lại lùi bước thứ ba, bắt đầu mỉm cười, còn nhẹ hơn gió thoảng: “Trầm Ngư xin cáo từ… Bảo trọng”. Rồi nàng quay người, bước từng bước ra khỏi căn phòng, Tiết Thái đứng dưới mái hiên, đưa cho nàng một chiếc ô, nàng đón lấy bằng hai tay, mỉm cười nói cảm tạ, sau đó giương ô từng bước bước ra khỏi phủ hầu gia. Xe ngựa đang đợi ngoài phủ. Hoài Cẩn mặt mày lo lắng vừa nhìn thấy nàng liền thở phào nhẹ nhõm, vội vàng mở cửa xe dìu nàng lên. Phu xe vung roi, bánh xe lăn về phía trước, nghiền nát bụi đất trên đường. Trầm Ngư ôm chiếc ô đó như ôm thứ yêu quý nhất, ánh mắt nặng nề, không chút cảm xúc. Tất cả sức lực dường như đã dùng hết trong lúc ngâm thơ vừa nãy, giờ thứ còn sót lại chỉ là một cái vỏ rỗng, không còn biết vui sướng, cũng không còn biết đớn đau. Hoài Cẩn mắt đỏ hoe, hỏi: “Tiểu thư, hầu gia có nhận lời nghĩ cách khiến hoàng thượng thay đổi chủ ý không?”. Khương Trầm Ngư lắc đầu. “Vậy tiểu thư nói với hầu gia những gì? Tiểu thư, tiểu thư định tuân mệnh tiến cung sao? Không phải tiểu thư luôn chán ghét hoàng cung sao? Hơn nữa, rõ ràng người tiểu thư thích là hầu gia mà…”. Khương Trầm Ngư lại lắc đầu lần nữa. Hoài Cẩn lo lắng: “Tiểu thư, tiểu thư nói gì đi, đừng lắc đầu mãi thế, rốt cuộc thế nào rồi? Tiểu thư thế này làm em thấy sợ lắm, muốn khóc thì cứ khóc, khóc lên được thì sẽ thấy dễ chịu hơn…”. “Khóc ư?”. Anh mắt Trầm Ngư sâu thẳm, “Không, ta không khóc”. “Tam tiểu thư…”. “Ta sẽ không khóc nữa…”. Nàng bấu chặt rèm xe, ngẩng đầu nhìn hướng Cơ Anh biến mất, chậm rãi nói, “Bởi vì, đến hôm nay ta mới hiểu một điều”. “Điều gì?”. “Ta vào cung, không phải vì hoàng thượng muốn vậy, mà là…”. Ngoài xe gió mưa mịt mùng, màn đêm dần dần buông xuống, đèn lồng ở phủ hầu gia đang chiếu sáng mặt đất gồ ghề, sũng nước, ánh sáng vàng vọt, lập lòe lập lòe, tựa như muốn đem ký ức một đời tỏa sáng hết. Nàng nhìn những ngọn đèn đó, cười cô đơn, “Mà là công tử không muốn lấy ta mà thôi”. Trong nụ cười đó, một giọt lệ trào ra, men theo gò má lăn xuống không một tiếng động. Bất đắc trường tương thủ, bất đắc trường tương thủ… Ngày mười một tháng tư, năm thứ tư niên hiệu Đồ Bích, Khương Trầm Ngư tiến cung, thụ phong Thục phi, đứng đầu Cửu tần.
|
Bộ thứ hai: Đến Trình quốc
Dùng chỉ để thêu, có thể thêu ra năm tháng.
Dùng tâm để thêu, có thể thêu ra giang sơn.
Một tòa cung đình, sao có thể giam cầm phượng hoàng?
Mệnh ta là do ta định, không phải do trời!
Hồi thứ năm: Hoa tai
“Hoa lê đã tàn rồi…”. Ác Du mở cửa sổ, khi đón ánh nắng ban sớm, đã lẩm bẩm một câu như thế. Quay đầu lại, trong Dao Quang cung hoa lệ, ngọn nến đỏ cỡ lớn đã cháy gần tàn, đêm qua, mười một tháng tư là ngày Tam tiểu thư tiến cung thụ phong, nhưng hoàng thượng không đến. Trong lòng không phải là không lo lắng. Tuy biết người trong lòng tiểu thư là Kỳ Úc hầu có nụ cười ôn hòa tựa gió xuân nhưng nhìn không thấu đó, nhưng rốt cuộc một khi đã vào cung là đã trở thành phi tử của hoàng thượng. Đã trở thành hoàng phi, có được nhận ân sủng của hoàng thượng hay không là một chuyện vô cùng trọng đại, đến đêm đầu tiên tiến cung mà hoàng thượng cũng không đến, sau này… thật sự không thể tưởng tượng nổi. So với người thị nữ thân tín mặt mày lo âu, Khương Trầm Ngư dường như đã sớm đoán sẽ được đãi ngộ như thế này, vì thế không hề có vẻ bi phẫn oán trách, chỉ lạnh nhạt dặn dò chuẩn bị chải đầu thay áo, một lát sau còn phải đến vấn an thái hậu. Hoài Cẩn vừa chải tóc cho nàng, vừa quan sát lỗ tai trên tai trái của nàng, ngạc nhiên hỏi: “Lỗ tai của tiểu thư xỏ đẹp lắm, mà lại không hề bị rách”. “Có thể đeo hoa tai chưa?”. “Tiểu thư muốn đeo hoa tai? Nhưng chúng ta không mang theo hoa tai vào cung”. Khương Trầm Ngư mỉm cười, nói với Ác Du: “Đi lấy chiếc hộp bằng gỗ lê đem lại đây”. Ác Du vâng một tiếng, mau chóng lôi từ trong hòm ra một chiếc hộp nhỏ, Hoài Cẩn thấy rất quen mắt, không kìm được hỏi: “Đây chẳng phải là viên nghi châu mà Nhị tiểu thư tặng tiểu thư đó sao?”. Khương Trầm Ngư mở hộp ra, hai tì nữ đều kinh ngạc kêu lên một tiếng, nguyên nhân là vì viên châu trong hộp vẫn là viên châu đó, nhưng đã sửa thành kiểu dáng khác. Vốn là một chiếc phượng thoa nạm vàng khảm ngọc, bây giờ lại biến thành một chiếc hoa tai thật dài. Xỏ vào tai, sợi dây nhỏ màu bạc rủ xuống, kéo hạt châu rủ xuống hõm vai. Cung nhân bên cạnh chưa bao giờ thấy cách đeo kỳ quái như vậy, không kìm được tròn mắt nhìn. Khương Trầm Ngư khẽ lắc đầu, hạt châu đó đung đưa qua lại cạnh cổ nàng, mắt Hoài Cẩn sáng lên: “Hoa tai này phối với kiểu tóc búi buông lệch[1] là hợp không gì bằng. Sang bên Nhị tiểu thư, xem tiểu thư ăn nói thế nào đây, tặng chiếc thoa cho tiểu thư, tiểu thư lại tự ý sửa thành hoa tai”. [1] Nguyên văn là “Trụy mã kế”: Là tạo hình tóc của phụ nữ thời kỳ Ngụy Tấn, búi tóc buông lệch một bên, còn gọi là Ngụy đọa kết (búi tóc giả vờ buông). Nhắc đến tỉ tỉ, Khương Trầm Ngư lòng nặng trĩu, thở dài thật khẽ: “Ngươi cho rằng, chỉ cần ta tiến cung, những chuyện không thể ăn nói với tỉ tỉ còn ít sao?”. Từ khi thánh chỉ của hoàng đế ban xuống, phía bên tỉ tỉ đã bặt vô âm tín, không tỏ động thái gì. Ca ca vào cung thăm tỉ tỉ một lần, về nhà chỉ nói thần sắc tỉ tỉ bình tĩnh và không có gì khác lạ. Nhưng như thế, trong lòng Khương Trầm Ngư lại càng thêm thấp thỏm. Bình thường tỉ tỉ nàng rất hiếu thắng, biết muội muội cũng sắp tiến cung, sao có thể bình thản, càng huống hồ, không lâu trước nàng còn phát hiện mình không thể sinh con, bị hai tòa núi lớn đè nén, nếu là bất cứ người nào cũng không thể chịu đựng nổi. Thế nhưng, không sao cả. Khương Trầm Ngư nghĩ, lát nữa sau khi đi thỉnh an thái hậu xong, nhất định sẽ đến gặp tỉ tỉ. Chỉ cần có thể gặp mặt, nói chuyện, mọi thứ đều có cách giải quyết. Chọn một chiếc áo màu lam nhạt, soi gương tự cài áo, y phục và hạt châu phối hợp với nhau, khiến làn da nàng càng thêm mịn màng trắng trẻo. Nhưng, chẳng qua cũng chỉ là một bộ da mà thôi. Vì thiên hạ trọng sắc đẹp[2]. [2] Nguyên văn “Diễm sắc thiên hạ trọng”, là một câu trong bài “Tây Thi vịnh” cùa Vương Duy (Đường). Nhưng dung nhan của một nữ nhân nếu không thể giúp nữ nhân ấy lọt vào mắt xanh của người trong lòng mình thì có đẹp hơn nữa cũng có ích gì? Khương Trầm Ngư hít một hơi thật sâu, lại chầm chậm thở ra, cho dù thế nào, chuyện đã đến bước này, hết thảy đều đã trở thành kết cục đã định. Nghĩ những chuyện này, chẳng qua cũng chỉ là giày vò cõi lòng mình một cách vô ích mà thôi. Cơn mưa hôm đó dường như vẫn còn rơi trong tim, chưa từng quên bất cứ chi tiết nhỏ nào, nàng nhớ khi nhào vào lòng Cơ Anh, nàng đã nghĩ: Kiếp này nếu phải rời xa vòng tay của chàng, sao có thể sống tiếp? Lúc ấy chỉ cảm thấy đó đã là nỗi đau đớn long trời lở đất, mà nay soi gương, nhìn thấy trán rộng mày ngài, mắt sáng răng trắng phản chiếu trong gương, không kìm được nảy sinh cảm giác tang thương tự trào: Hóa ra, mình vẫn có thể sống tiếp. Hơn nữa còn kiều diễm hơn xưa. Không để đau thương có cơ hội thấm vào trong dung nhan. Được đám cung nhân đưa ra khỏi Dao Quang cung, đến Ý Thanh cung của thái hậu, vừa đi được mấy bước đã nhìn thấy một nữ tử từ xa bước tới, phía sau có hai cung nhân đi theo, toàn thân áo lục, đó chính là tỉ tỉ Họa Nguyệt của nàng. Tỉ muội chạm mặt, hai bên đối mắt nhìn nhau, không khí hết sức kỳ lạ. Khương Trầm Ngư chủ động bước lên hai bước, hành lễ: “Trầm Ngư thỉnh an tỉ tỉ”. Khương Họa Nguyệt vẫn đứng yên không nói gì, cung nhân phía sau lại nói: “Xin thứ cho nô tì mạo phạm, xưng hô tỉ tỉ muội muội nên đổi lại. Bây giờ là trong cung, đừng làm hỏng quy củ”. Hàng mi của Khương Trầm Ngư run run, nàng ngước nhìn tỉ tỉ, nhưng thấy nàng mặt thản nhiên bước qua mình, mau chóng dẫn theo hai cung nhân biến mất phía sau cánh cửa. Ác Du trợn mắt há miệng, hỏi gấp: “Nhị tiểu thư sao lại làm thế với tiểu thư…”. Khương Trầm Ngư khẽ quát: “Câm miệng”. “Nhưng tiểu thư…”. “Ta nói câm miệng”. Nàng sầm mặt, Ác Du lập tức im bặt. Hoài Cẩn lại nói: “Lời của người đó tuy khó lọt tai, nhưng là sự thực, bây giờ khác với lúc ở tướng phủ, Ác Du à, cách gọi tiểu thư cũng nên đổi thôi, từ sau gọi là nương nương”. Nhìn vẻ nhẫn nhịn của Hoài Cẩn và vẻ ấm ức của Ác Du, ngoài mặt Trầm Ngư không biểu lộ gì, nhưng trong lòng còn buồn hơn họ gấp bội. Tỉ tỉ không thèm đoái hoài đến nàng, không chỉ không đoái hoài, mà còn ngầm cho phép một kẻ hạ nhân coi thường nàng… Tỉ muội họ chưa từng xa cách như thế, những chuyện cũ như chải đầu, cười nói, chia đồ ăn vặt trong chốn khuê các đó rốt cuộc đã trở thành hồi ức. Nàng lặng lẽ cúi đầu, lặng lẽ đi vào Ý Thanh cung, thấy bên trong đã tề tựu mười mấy mỹ nhân, xuân lan thu cúc, vừa nhìn đã thấy hào quang đầy nhà. Tỉ tỉ Họa Nguyệt đương ngồi trên vị trí thứ hai ở phía trái, nhìn thấy nàng, lại vờ như không thấy, ngược lại mấy phi tử phẩm trật không bằng nàng lại lũ lượt đứng dậy chào hỏi. Nàng nhìn quanh một vòng, vẫn chưa thấy Hy Hòa đâu, cũng không thấy Cơ Hốt. Thái hậu chưa tới, chúng phi ngồi chờ, vô sự tán gẫu. Một phi tử cười nói: “Lâu nay nghe tiếng tiểu nữ của hữu tướng mỹ mạo hơn người, vừa có tài lại vừa có đức, nay được diện kiến, quả là danh bất hư truyền. Dáng vẻ tựa như thiên tiên, quả thật khiến ta tự thấy hổ thẹn”. “Đúng thế, còn chưa chúc mừng Thục phi, hoàng thượng đúng là ân sủng Khương gia, cả hai nữ nhi đều tiến cung, Nữ Anh Nga Hoàng[3], thật khiến người ta ngưỡng mộ”. [3] Nữ Anh Nga Hoàng là con gái của vua Nghiêu trong truyền thuyết, Nga Hoàng là chị, Nữ Anh là em, hai người cùng được gả cho vua Thuấn. Khương Trầm Ngư trong lòng căng thẳng, lo lắng nhìn sang Khương Họa Nguyệt, nhưng tỉ tỉ vẫn luôn coi nàng như không tồn tại, nghe những lời tán dương đó thì nhếch miệng, nửa cười nửa không nói: “Nghe nói Liễu Thục Nghi tuy không có muội muội, nhưng cũng có một đứa cháu gái nghi dung xuất chúng, hay là đưa nó tiến cung đi, cô cháu chung chồng cũng là một giai thoại, không phải sao?”. Liễu Thục Nghi mặt lúc trắng lúc đỏ, tức thì không nói thêm lời nào nữa. Đương lúc bối rối, một cung nhân hô to: “Thái hậu giá đáo”. Các phi tần lập tức đồng loạt cung nghênh. Khương Trầm Ngư đã từng được gặp thái hậu một lần vào mấy năm trước, vẫn còn nhớ thái hậu mày mắt đoan trang, phong thái diễm lệ, mà nay gặp lại, đúng là năm tháng chẳng chừa ai, đặc biệt là được một đám cung nữ tuổi trẻ mỹ mạo vây quanh dìu bước, bà lại càng lộ rõ sự già nua, sắc mặt bệnh tật, nhìn dáng vẻ tựa cây đèn cạn dầu. Thái hậu ngồi xuống vị trí đứng dầu, xua xua tay nói: “Được rồi, tất cả ngồi xuống đi”. Dứt lời liền hỏi: “Ai là Thục phi mới được phong?”. Khương Trầm Ngư bước ra bái lạy, thái hậu tỉ mỉ đánh giá nàng một lượt, ánh mắt mang đầy thâm ý, còn chưa phát biểu cách nhìn thế nào, bên ngoài lại có tiếng thông báo truyền tới: “Hy Hòa phu nhân tới”. Trong phòng tuy vẫn yên tĩnh như lúc đầu, nhưng Khương Trầm Ngư đã nhạy cảm ý thức được, bầu không khí giữa các phi tần bắt đầu căng thẳng. Rèm phòng khẽ mở, Khương Trầm Ngư ngước mắt, đúng lúc ánh mắt của Hy Hòa đang bước từ ngoài vào cũng nhìn thẳng tới, Hy Hòa nở nụ cười tươi rói với nàng. Tuy nàng hoàn toàn không có thiện cảm với Hy Hòa, nhưng không thể không thừa nhận, nữ nhân này thực sự xinh đẹp. Nàng ta vừa bước vào, lập tức khiến hết thảy mỹ nhân trong phòng đều trở nên nhạt nhòa, không sao sánh kịp. Vẫn là trường bào rộng trắng muốt, mái tóc đen như mun không vấn cao, chỉ buộc nhẹ nhàng thả phía sau lưng, nhưng có vẻ quyến rũ tự nhiên, phong hoa tuyệt đại, nhan sắc thế tục đâu thể sánh được? Nhìn mỹ nhân vang danh tứ quốc này, trong lòng Khương Trầm Ngư không kìm được nghĩ, việc mình vào cung liệu có liên quan gì tới nàng ta không? Nếu như nói không liên quan, tại sao nàng ta đòi mình vào cung dạy đàn, cố ý khiến hoàng thượng thấy mặt mình? Nếu như có liên quan, lại khiến người ta nghĩ không ra, nàng ta không sợ sẽ tạo ra một Khương quý nhân thứ hai tranh sủng với nàng ta sao? Nhưng, có lẽ nữ nhân này không có chuyện gì không dám làm chăng? Hy Hòa bước tới trước mặt thái hậu, thi lễ nói: “Hy Hòa thỉnh an thái hậu”. Thái hậu gật gật đầu, ban vị trí thứ hai ở phía bên phải cho nàng ta, Hy Hòa vẫn chưa ngồi xuống, một cung nhân già bước vào bẩm: “Thái hậu, người của Đoan Tắc cung tới chuyển lời, nói Cơ quý tần đêm qua uống rượu quá chén, bây giờ say vẫn chưa tỉnh, miễn cưỡng xuất hành e là sẽ mạo phạm thiên uy, cho nên hôm nay không đến, mong thái hậu thứ tội”. Khương Trầm Ngư vừa nghe, cảm thấy hơi bất ngờ, lại có chút nằm trong dự tính. Nghe đồn Cơ Hốt không theo phép tắc, đã vào cung nhưng không hề có dáng vẻ của phi tử, chỉ là hoàng thượng yêu chuộng tài năng của nàng, đối với nàng ân hậu đức dày, tình cảm khoan dung còn hơn cả đối với Hy Hòa. Cũng vì thế, thái hậu nghe xong nét mặt vẫn bình thản như cũ, gật đầu như không có chuyện gì, nói: “Biết rồi, bảo bọn họ về hầu hạ cho chu đáo”. Chúng phi thầm thở dài, việc này cũng chỉ Cơ Hốt làm được, đổi lại là người khác, đã sớm bị chém đầu cả trăm lần rồi. Hy Hòa bên kia cười khanh khách: “Quý tần đã không đến, chiếc ghế đầu tiên này, hãy cho thần thiếp ngồi nhé”. Thái hậu liếc nàng ta một cái, không ngăn cản. Chúng phi lại thầm thở dài, chuyện này cũng chỉ Hy Hòa dám làm, nếu là người khác trong lòng dù muốn ngồi lên chiếc ghế đó, cũng tuyệt đối không dám nói ra trước mặt mọi người. Như thế mọi người ai ngồi chỗ nấy xong xuôi, nghe thái hậu dạy bảo: “Ai gia già rồi, cơ thể cũng không còn nhanh nhẹn nữa, cho nên, chuyện trong cung này cũng ngại quản, có muốn quản cũng không được. Mong các ngươi hãy nghĩ tới hoàng thượng, thiên hạ mới định, nên chia sẻ lo lắng với hoàng thượng nhiều một chút, chớ làm những chuyện ngang ngược, khiến hoàng thượng không vui”. Chúng phi vội vàng đáp vâng. Ánh mắt của thái hậu lướt qua gương mặt của các phi tử một vòng, nhìn đến Hy Hòa thì dừng lại một lát, cuối cùng đậu lại trên mặt Khương Trầm Ngư, như có lời muốn nói, nhưng cuối cùng chỉ khẽ thở dài, nói: “Như vậy đi. Ai gia mệt rồi, từ nay về sau, không cần ngày ngày đều tới thỉnh an, làm dâu của hoàng gia khó, chúng ta đều bớt việc đi!”. Dứt lời, thái hậu đứng dậy, vịn vào tay cung nhân lảo đảo đi khỏi. Khương Trầm Ngư nhẩm lại câu nói đó của thái hậu “khó làm dâu”, không khỏi có phần ngây ngốc. Bản thân tuổi vừa tròn mười lăm, cả cuộc đời này có thể sẽ chỉ trôi qua trong những bức tường này… Với thế lực của Khương gia, không thể tiêu sái như Cơ Hốt, cũng không thể không sợ hãi như Hy Hòa, thực sự là tình cảnh vạn phần khó xử. Mà người thân duy nhất… nàng nhìn sang Họa Nguyệt, trong lòng lại ảm đạm vài phần. Trong phòng yên lặng chừng nửa tuần trà, phi tử áo hồng không xinh đẹp lắm ngồi ở vị trí cuối cùng bỗng kinh ngạc kêu lên: “Á”. Mọi người đều quay đầu lại: “Sao thế?”. Phi tử đó tự biết thất lễ, run rẩy nói: “Xin lỗi xin lỗi, Tầm Óanh chỉ là nhìn thấy hạt châu trên dây chuyền phu nhân đeo trên cổ và hạt châu trên hoa tai Thục phi đeo ở tai trái dường như là một cặp, cho nên mới nhất thời lỡ lời…”. Bị nàng ta nhắc nhở như vậy, mọi người đều nhìn theo, quả nhiên, hai hạt châu đó kích thước bằng nhau, tròn sáng long lanh, điểm khác biệt nho nhỏ là dưới ánh nắng hạt châu của Khương Trầm Ngư ánh lên sắc lam nhạt, còn hạt châu của Hy Hòa lại ánh lên màu đỏ sẫm, hai thứ cùng soi rọi lẫn nhau, không phân biệt được là ngọc nhờ người mà thêm sắc, hay là người nhờ ngọc mà tỏa sáng. Liễu Thục Nghi bị khiển trách lúc trước bấy giờ như vớ được cơ hội, nhướn mày cười nói: “Đúng thế, đây chẳng phải là cặp châu Nghi quốc tiến cống năm ngoái sao? Quý nhân quả nhiên là tỉ tỉ tốt, đến hạt châu quý giá như thế cũng đem cho Thục phi. Chỉ có Thục phi dung mạo như thế mới có thể đua tranh với phu nhân, chị em chúng ta thô lậu, hoàn toàn không thể sánh được”. Khương Trầm Ngư thầm nghĩ, đây có thể vừa là khích Họa Nguyệt, lại vừa khích Hy Hòa. Ai không biết nếu luận về mỹ mạo, ở Đồ Bích Hy Hòa là người đứng đầu? Liễu Thục Nghi nói như vậy, rõ ràng là muốn làm loạn thiên hạ. Nào ngờ Hy Hòa không hề bị khích, vẻ mặt vẫn mỉm cười im lặng ngồi đó, không hề có ý chen lời, ngược lại Họa Nguyệt sắc mặt đổi thay. Trước đây nàng tặng viên châu này cho Trầm Ngư là để chúc mừng hôn sự của Trầm Ngư và Cơ Anh, ai ngờ bị Hy Hòa phá đám giữa chừng, đột nhiên biến thành phi tử của hoàng thượng, như thế, viên châu này đeo trên tai của muội muội thực sự giống như một sự châm biếm to lớn. Nàng tuy cố gắng chế ngự cơn giận dữ, nhẫn nhịn đè nén, nhưng lần này bị chế nhạo trước mặt đông người, trong chốc lát bị mất thể diện, khó mà nhịn được. Lập tức đứng bật dậy, phất tay áo lạnh lùng nói: “Bản cung cảm thấy mệt rồi, cáo từ trước”. Khương Trầm Ngư thấy nàng đi, vội vàng dứng dậy theo, nói: “Tỉ tỉ đợi muội với, muội đi cùng tỉ tỉ”. Ai ngờ Khương Họa Nguyệt vờ như không nghe thấy, càng cố bước nhanh hơn, giữa ánh mắt xem trò hay đầy cổ quái của tất cả mọi người trong phòng, Khương Trầm Ngư vừa cay đắng vừa buồn bã, cũng không buồn để ý, vội vã đuổi theo.
|