Fingersmith (Kẻ Móc Túi)
|
|
Má của John rất tái, mọi người luôn nhầm nó là người Ý. Bây giờ, nghe Gentleman nói, nó đưa ngón tay lên mũi. “Ông có thể hôn mông tôi đấy.”
“Thật không?” Gentleman mỉm cười. Anh ta nháy mắt với Dainty, con nhỏ bèn rụt đầu. “Chào, cô nàng xinh đẹp,” anh ta nói. Rồi cúi xuống Charley Wag, kéo tai con chó. “Chào, Wagster. Cảnh sát đâu nào? Này! Cảnh sát đâu? Tiễn bọn họ đi!” Charley nổi khùng lên. “Ngoan lắm.” Gentleman đứng dậy, phủi lông dính trên người. “Chó ngoan. Như vậy là tốt đấy.”
Rồi anh ta lại đứng nơi ghế của bà Sucksby.
“Chào, bà S,” anh ta nói.
Đứa trẻ lúc này đã bị cho một ít rượu gin, lặng im không khóc nữa. Bà Sucksby đưa tay ra. Gentleman cầm lên, hôn khớp ngón tay bà rồi đến đầu ngón tay. Bà Sucksby nói,
“Đứng dậy khỏi cái ghế đó đi John, để Gentleman ngồi.”
John trông giận sôi lên trong một phút, rồi cũng đứng dậy chiếm chiếc ghế đẩu của Dainty. Gentleman ngồi xuống, dạng chân về phía ngọn lửa. Anh ta cao, chân thì dài. Khoảng hăm bảy hoặc hăm tám tuổi. Cạnh anh ta, John trông như thằng nhóc lên sáu.
Bà Sucksby nhìn không rời mắt trong lúc anh ta ngáp và xoa mặt. Rồi anh ta bắt gặp ánh mắt bà, bèn mỉm cười.
“Chà chà,” anh ta nói. “Làm ăn thế nào rồi?”
“Được lắm,” bà trả lời. Đứa bé nằm yên, bà vỗ vỗ nó như cách đã từng làm với tôi. Gentleman hất đầu về phía đứa bé.
“Nhóc tì này,” anh ta nói, “ở trại, hay người nhà?”
“Ở trại, hẳn rồi,” bà đáp.
“Nhóc trai hay nhóc gái?”
“Một nhóc trai, ơn trên phù hộ nó! Lại một đứa trẻ không mẹ đáng thương mà ta nên cày cục nuôi lớn.”
Gentleman rướn người về phía đứa bé.
“Cậu nhóc may mắn!” Anh ta nháy mắt.
Bà Sucksby kêu lên “Ôi!” Rồi mặt đỏ lên như một bông hồng. “Cậu hỗn quá!”
Ẻo lả hay không thì anh chàng chắc chắn vẫn có thể khiến một quý cô đỏ mặt.
Chúng tôi gọi anh ta là Gentleman, vì anh ta thật sự là một quý ông – đã từng, anh ta nói, theo học ở một trường dành cho các quý ông thực thụ, và có cha mẹ cùng một người chị em – những người bị anh ta làm cho đau khổ. Một thời anh ta từng có tiền nhưng mất sạch vì thua bạc, cha anh ta nói rằng anh ta sẽ không được cầm một xu nào trong tài sản gia đình nữa. Vậy nên anh ta bắt buộc phải kiếm tiền theo cách lỗi thời – trộm và những trò mánh lới. Tuy vậy, anh ta hoà nhập với đời tốt đến nỗi tất cả chúng tôi bảo rằng chắc phải có máu xấu di truyền trong gia đình ấy, thứ hoàn toàn bộc lộ nơi anh ta.
Anh ta có thể là một thợ vẽ khá nếu lựa chọn con đường đó, và đã từng tham gia một chút vào đường dây làm giả giấy tờ ở Pari. Khi việc không thành, tôi nghĩ anh ta dùng một năm chuyển ngữ sách tiếng Pháp thành tiếng Anh – hoặc tiếng Anh thành tiếng Pháp – dẫu sao, cứ mỗi lần lại cho chúng khác nhau một chút, ghim vào đó những tiêu đề khác nhau, biến một câu chuyện cũ kỹ thành hai chục câu chuyện mới. Tuy vậy, anh ta chủ yếu hoạt động như một gã lừa đảo, cờ gian bạc lận ở các sòng bài – vì tất nhiên, anh ta có thể hoà lẫn vào lớp người đó, mang dáng vẻ thật thà hệt số còn lại. Đặc biệt, các quý bà sẽ trở nên khá cuồng nhiệt vì anh ta. Đã ba lần anh ta suýt kết hôn với mấy nữ thừa kế giàu có nào đó, nhưng mỗi lần như vậy, ông bố của cô gái đều nghi ngờ, rồi vụ việc đổ bể. Anh ta đã huỷ hoại cuộc đời nhiều người bằng cách bán cho họ cổ phiếu của các ngân hàng giả mạo. Cực xinh trai, được bà Sucksby mê như điếu đổ. Khoảng một năm anh ta đến phố Lant một lần, mang chiến lợi phẩm cho ông Ibbs, đem đi mấy đồng bạc xấu, sự cẩn trọng, lẫn tiền boa.
Lúc này, tôi đoán anh ta mang theo chiến lợi phẩm đến, có vẻ là vậy. Ngay khi anh ta xem chừng đã ấm lại nơi trước ngọn lửa, đã được Dainty đưa trà cho – có pha rum, bà Sucksby đặt đứa trẻ say ngủ trở vào cũi, vuốt thẳng váy trên đùi rồi nói,
“Nào, Gentleman, thật là dễ chịu nhỉ. Đã một hai tháng nay chúng tôi quên mất cậu. Cậu có mang gì theo không, vì ông Ibbs sẽ muốn xem qua đấy.”
Gentleman lắc đầu. “Tôi e là, chẳng có gì cho ông Ibbs cả.”
“Hả, không có gì? Ông có nghe không, ông Ibbs?”
“Thật đáng buồn,” ông Ibbs lên tiếng từ chỗ của mình nơi lò than.
Bà Sucksby trở nên kín đáo. “Vậy, cậu có thứ gì cho ta chăng?”
Nhưng Gentleman lại lắc đầu.
“Cũng không phải cho bà, bà S,” anh ta nói. “Không phải cho bà, không phải cho nhóc Garibaldi đây” (ám chỉ John), “không phải cho Dainty hay Phil và mấy cậu trai, thậm chí không phải cho Charley Wag.”
Trong lúc nói, anh ta đưa mắt quét khắp phòng, cuối cùng nhìn vào tôi, không nói gì nữa. Tôi đã nhặt những quân bài rơi vãi lên, đang sắp chúng thành từng chất – cơ, rô, chuồn, bích. Khi bắt gặp anh ta nhìn mình chăm chú – và phía sau anh ta là John, Dainty lẫn bà Sucksby với gương mặt vẫn còn đỏ hồng, đều đang trông về phía này – tôi bèn đặt những quân bài xuống. Anh ta liền đưa tay cầm chúng lên, bắt đầu xáo. Anh ta là kiểu người như thế, đôi tay luôn phải có việc gì đó để làm.
“Nào, Sue,” mắt anh ta vẫn dán chặt vào tôi. Đôi mắt xanh lục rất trong.
“Nào, việc gì?” Tôi đáp.
“Cô nghĩ gì nào? Tôi đến đây vì cô đấy.”
“Chị ta hả!” John thốt lên, vẻ kinh tởm.
Gentleman gật đầu. “Tôi có một thứ cho cô. Một lời ngỏ.”
“Một lời ngỏ!” Phil kêu lên. Cậu ta đang nghe lỏm. “Coi chừng đó Sue, hắn muốn cưới cô đó!”
Dainty ré lên, cả bọn con trai cười khẩy. Gentleman chớp mắt, cuối cùng cũng dứt ánh nhìn khỏi tôi, rướn về phía bà Sucksby để nói,
“Bảo những người bạn của bà ở lò than đi đi, được chứ? Nhưng để John và Dainty lại, tôi có thể cần chúng giúp.”
Bà Sucksby do dự, rồi liếc nhìn ông Ibbs. Ông Ibbs liền nói, “Được rồi, mấy cậu, những đồng tiền đẫm mồ hôi nước mắt quá, nữ hoàng đáng thương đúng là kẻ hết thời. Nếu thêm nữa, thì chúng ta tiêu đời vì tội mưu phản mất.” Ông xách một cái xô lên, bắt đầu thả những đồng xu nóng rẫy vào nước, từng đồng một. “Suỵt, hãy nghe tiếng kêu của những cậu nhóc màu vàng này!” Ông nói. “Vàng hiểu rõ nhất. Giờ thì, vàng biết cái gì nào?”
“Đi đây, chú Humphrey,” Phil nói. Cậu ta tròng áo khoác vào, lật cổ áo lên. Những cậu khác cũng làm vậy. “Chào nhé,” họ hất đầu một cái về phía tôi, John, Dainty cùng bà Sucksby. Họ chẳng nói gì với Gentleman. Anh ta nhìn họ đi qua.
“Cẩn trọng đấy, mấy cậu!” Anh ta kêu với theo khi cửa đóng lại sau lưng họ. Chúng tôi nghe tiếng Phil nhổ nước bọt lần nữa.
Ông Ibbs xoay khoá trong ổ. Rồi ông bước lại tự rót cho mình một tách trà – đổ rum vào, giống như Dainty đã pha cho Gentleman. Mùi rum bốc lên giữa làn hơi, hoà vào mùi của lửa, chỗ vàng đổ mồ hôi sôi nước mắt, da chó, mồ hôi lẫn áo bành tô bốc hơi nước. Trên vỉ lò, mưa rơi nhẹ hơn. John nhai một hạt đậu phộng, nhặt vỏ từ trên lưỡi. Ông Ibbs đã dịch chuyển những chiếc đèn. Bàn, gương mặt, bàn tay của chúng tôi đều sáng lên, nhưng phần còn lại của căn phòng chìm trong bóng tối.
Trong một phút, chẳng ai nói gì. Gentleman vẫn ngó nghiêng mấy lá bài, chúng tôi ngồi nhìn anh ta. Ông Ibbs nhìn anh ta chăm chú nhất: mắt nheo lại, đầu nghiêng nghiêng – tựa hồ đang ngắm nghía anh ta qua nòng súng.
“Vậy, con trai,” ông nói. “Chuyện là thế nào?”
Gentleman ngước lên.
“Câu chuyện,” anh ta nói. “Câu chuyện là đây.” Rồi rút một quân bài, đặt ngửa trên bàn. Quân Già rô. “Hãy hình dung một người đàn ông,” anh ta kể. “Một người đàn ông lớn tuổi – nhưng thông thái, theo cách riêng của ông ta – thực ra là một ngài học giả, nhưng có các thói quen lạ lùng. Ngài sống trong một căn nhà khác thường nào đó, trong một ngôi làng khác thường nào đó cách Luân Đôn vài dặm – ngay lúc này, đừng bận tâm chính xác là chỗ nào. Ngài có một căn phòng vĩ đại chứa đầy sách lẫn các bức hoạ, và không quan tâm đến thứ gì khác ngoài chúng cùng một tác phẩm ngài đang biên soạn – hãy gọi đó là một quyển từ điển vậy. Một từ điển về tất cả các sách ngài có. Nhưng ngài cũng mang hy vọng về các bức vẽ, quyết tâm đóng chúng thành những quyển album hoành tráng. Tuy nhiên, để làm được vậy, phải tốn nhiều tiền hơn là ngài có thể xoay được. Ngài bèn đăng một thông cáo trên báo: ngài cần sự phục vụ của–” nói đến đây anh ta đặt xuống một quân bài khác, cạnh quân đầu tiên: Bồi bích, “một cậu trai trẻ thông minh, để giúp ngài đóng bìa bộ sưu tập. Và cậu trai thông minh đó – bấy giờ khá nổi tiếng ở các nhà đánh bạc tại Luân Đôn, rất khao khát một công việc nào đó khác thường tí chút, gồm cả chỗ ở và thức ăn – đã đáp lại mẩu thông cáo, được ngài thử nghiệm, phù hợp với công việc.”
“Cậu trai trẻ thông minh đó là cậu chứ gì,” ông Ibbs nói.
“Cậu trai trẻ thông minh chính là tôi. Ông bắt nhịp câu chuyện tốt thật!”
“Và cái chòi quê đó,” John xen vào câu chuyện của Gentleman, bất kể sự hờn dỗi trước đó, “hãy nói là nó đầy ứ của cải. Và anh định bẻ khoá tất cả phòng ốc, rương hòm tủ két. Anh phải đến chỗ ông Ibbs để mượn mấy thằng cắp cùng một kẻ phụ tình, và anh cần Sue – với đôi mắt ngây thơ nai vàng ngơ ngác của chị ta – để làm bia đỡ.”
Gentleman nghiêng đầu, hít hơi rồi giơ một ngón tay lên, theo cách giễu cợt. Rồi thì:
“Lạnh như băng!” Anh ta nói. “Cái chòi quê đó là một nơi đáng nguyền rủa: hai trăm năm tuổi, tối tăm, gió lùa tứ tung, đã bị thế chấp đến tận nóc – tiện thể, cái nóc đó cũng dột nữa. Chẳng có lấy một cái thảm, bình hay chén dĩa đáng để cố gắng nhiều hơn hơi sức dành cho một cái xì hơi, e là vậy. Ngài ấy ăn bữa khuya trong chén đĩa bằng đất nung hệt chúng ta.”
“Đồ già bủn xỉn!” John nói. “Nhưng, một kẻ keo cú như thế thì thường giấu giếm tiền ở ngân hàng đúng không? Và anh đã khiến ông ta viết một di chúc để lại tất cả tiền bạc cho anh, giờ thì anh ở đây vì cần một chai thuốc độc–”
Gentleman lắc đầu.
“Không một chút thuốc độc nào sao?” John hỏi, có vẻ hy vọng.
“Không chút nào. Không một giọt nào hết. Cũng không có tiền trong ngân hàng – ít ra là không phải tiền đứng tên ông già đó. Ông ta sống lặng lẽ và lập dị đến nỗi cũng chẳng biết dùng tiền để làm gì. Nhưng đấy, cậu biết không, ông ta không sống một mình. Nhìn đây, người bầu bạn cùng ông ta…”
Quân Đầm cơ. “Hê hê,” John ranh mãnh. “Một bà vợ, thật là vui.”
Nhưng Gentleman lại lắc đầu lần nữa.
“Một cô con gái, cũng vậy thôi.” John nói.
“Không phải vợ. Không phải con gái,” Gentleman nói, mắt và ngón tay dán vào gương mặt u sầu của quân Đầm. “Một người cháu gái. Tuổi tác,” anh ta liếc nhìn tôi, “ngang với Sue. Diện mạo, thì rất đẹp. Trí tuệ, thì sáng suốt, còn kiến thức,” anh ta mỉm cười, “chà, phải nói là hoàn toàn ít ỏi.”
“Một ả nhạt toẹt!” John hứng khởi. “Ít ra hãy nói là cô ta giàu.”
“Cô ta giàu, đúng vậy,” Gentleman gật đầu. “Nhưng theo kiểu sâu bướm chỉ giàu khi có cánh, cỏ bốn lá chỉ giàu khi có mật. Cô ấy là người được thừa kế, Johny à. Tài sản của cô ấy được đảm bảo, người bác không thể chạm vào, nhưng nó đi kèm một điều kiện kỳ khôi. Cô ta không được mó tới xu nào cho đến ngày kết hôn. Nếu cô ta chết khi vẫn là một bà cô không chồng, số tiền sẽ thuộc về một người anh em họ. Còn nếu cô ta lấy chồng–” Anh ta dùng một ngón tay trắng trẻo vuốt lá bài, “thì cô ta sẽ giàu như bà chúa.”
“Giàu cỡ nào?” Ông Ibbs hỏi. Từ nãy đến giờ ông chẳng nói gì. Giờ khi nghe tiếng ông, Gentleman ngước lên, nhìn vào mắt ông.
“Mười ngàn bảng trao ngay,” cậu ta lặng lẽ nói. “Cùng năm ngàn trong quỹ.”
Một viên than trong bếp lửa nổ đánh bép. John huýt sáo qua chiếc răng mẻ của nó, còn Charley cất tiếng sủa. Tôi liếc nhìn bà Sucksby, nhưng đầu bà đang cúi, khuôn mặt rất tối. Ông Ibbs nhấp một ngụm trà, tỏ ra cân nhắc.
“Dám cá lão già giữ rịt cô ta, đúng không?” Ông nói khi ngụm trà đã được nuốt xuống.
“Vừa đủ,” Gentleman gật đầu, dịch lùi ra sau. “Ông ta dùng cô ấy làm thư ký trong suốt những năm qua – bắt cô gái đọc sách cho ông ta hàng giờ liền không nghỉ. Tôi nghĩ ông ta khó mà nhận ra cô ấy đã lớn, trở thành một quý cô.” Anh ta cười khá bí ẩn. “Nhưng tôi nghĩ cô ta biết. Khi tôi bắt đầu làm việc với những bức tranh thì cô ta cũng phát hiện ra đam mê trong người dành cho hội hoạ. Cô ta muốn học, dưới sự chỉ dẫn của tôi. Tôi thì, biết đủ về việc này để đóng giả vai. Còn cô ta, với sự ngây thơ của mình, còn chẳng thể phân biệt nổi màu hồng với màu da lợn. Nhưng cô ấy làm quen với những điều được chỉ dẫn – ồ, như với mọi thứ khác. Chúng tôi học được một tuần, tôi dạy cô ấy các đường nét, tạo bóng. Tuần thứ hai: chúng tôi chuyển từ bóng sang dựng hình. Tuần thứ ba: sự hoá đậm của màu nước. Tiếp theo là sự hoà trộn của màu dầu. Tuần thứ năm–”
“Tuần thứ năm, anh gù cô ta!” John cướp lời.
Gentleman nhắm mắt.
“Tuần thứ năm, những buổi học của chúng tôi bị huỷ,” anh ta nói. “Cậu nghĩ một cô gái như vậy có thể ngồi một mình trong phòng với nam gia sư sao? Chúng tôi phải để cô hầu người Ai-len của cô ta ngồi cùng từ đầu đến cuối – luôn ho và đỏ mặt mỗi lần tay tôi dịch đến quá gần tay cô chủ của ả, hoặc hơi thở của tôi quá ấm trên đôi má nhỏ trắng của cô gái. Tôi nghĩ cô hầu đó là một ả làm bộ kiểu cách thượng thặng, nhưng hoá ra ả bị tinh hồng nhiệt – bây giờ thì ả đang hấp hối vì bệnh đó, con ả đáng thương. Giờ thì quý cô của tôi chẳng có ai theo bên cạnh ngoại trừ người quản gia – mà người quản gia thì quá bận để ngồi cùng tại các giờ học. Do đó, các giờ học phải chấm dứt, màu phải bỏ đó cho đến khi khô khốc cạnh khung vẽ. Giờ tôi chỉ có thể thấy cô gái tại bữa xế, cạnh ông chú, đôi khi đi ngang cửa phòng cô ấy, tôi nghe được tiếng thở dài.”
“Vừa khi,” ông Ibbs nói, “hai người đang bắt đầu thân thiết.”
“Phải rồi,” Gentleman nói. “Phải rồi.”
“Quý cô đáng thương!” Dainty nói. Đôi mắt con bé đã ngấn nước, có thể khóc bất cứ lúc nào. “Cô ấy khá duyên dáng, đúng không? Về dáng vẻ và gương mặt ấy?”
Gentleman có vẻ thờ ơ. “Cô ấy có thể làm choáng ngợp một người đàn ông, tôi nghĩ vậy,” anh ta nói kèm cái nhún vai.
John phá ra cười. “Tôi muốn làm cô ta choáng ngợp!”
“Tôi muốn làm cho cậu phát choáng,” Gentleman nói đều đều. Rồi chớp mắt, “Với nắm đấm của tôi, ý tôi là vậy.”
Mặt John sa sầm, nó đứng bật dậy. “Tôi muốn xem anh thử lắm đấy!”
Ông Ibbs giơ tay lên. “Mấy đứa! Mấy đứa! Đủ rồi! Ta sẽ không để chuyện đó xảy ra, trước mặt phụ nữ và trẻ con thế này! John, ngồi xuống và thôi lộn xộn đi. Gentleman, cậu hứa kể với chúng tôi câu chuyện của cậu. Đến giờ chúng tôi mới chỉ được nghe phần râu ria bên lề. Phần lõi đâu, con trai? Ngon lành ở chỗ nào? Và, đúng chủ đề hơn một chút, là bằng cách nào Susie có thể giúp làm gỏi nó đây?”
John đá chân cái ghế đẩu của nó, rồi ngồi xuống. Gentleman đã lấy ra một gói thuốc lá. Chúng tôi chờ trong lúc anh ta tìm que điêm, đánh lửa. Chúng tôi nhìn ánh lửa lưu huỳnh trong mắt anh ta. Sau đó anh ta lại nghiêng về phía bàn, chạm vào ba quân bài đã đặt trên đó, vuốt thẳng các mép.
“Ông muốn phần ngon lành hả,” anh ta nói. “Được lắm, nó đây.” Anh ta gõ tay lên quân Đầm cơ. “Tôi nhăm nhe cưới cô gái này và chiếm tài sản của cô ta. Tôi nhăm nhe cướp lấy cô ta–” anh ta đẩy quân bài sang một phía, “khỏi sự tọc mạch của ông bác. Tôi đang trên đường thực hiện điều đó khá ổn rồi, như các người đã nghe kể. Nhưng cô ta là kiểu khá lập dị, không có lòng tin vào chính mình, và nên có một cô gái cứng rắn, lanh lợi để làm người hầu, đó là lý do tại sao tôi bị hỏng việc. Tôi đang đến Luân Đôn để thu thập một bộ bìa cho mớ album của lão già. Tôi muốn gửi Sue về trước. Tôi muốn sắp xếp để cô ấy làm người hầu của cô chủ, như vậy cô ấy có thể giúp tôi tán tỉnh cô gái.”
Anh ta bắt lấy ánh mắt tôi, vẫn đang vơ vẩn nghịch các quân bài bằng bàn tay trắng trẻo. Giọng anh ta trầm xuống.
“Và có việc khác nữa,” anh ta nói, “mà tôi sẽ cần Sue giúp. Khi đã cưới cô gái đó, tôi không muốn cô ta ở bên. Tôi biết một người đàn ông có thể giữ cô ta khỏi tay tôi giúp. Ông ta có nhà, cô ta sẽ được giữ ở đó. Nhà thương điên. Ông ta sẽ canh chừng cô gái. Có lẽ, là rất kỹ càng…” Anh ta chưa nói xong, nhưng lật úp quân bài xuống, giữ ngón tay trên mặt sau. “Tôi chỉ việc cưới cô ta,” anh ta nói, “và – như cách Johny nói – tôi phải gù cô ta, một lần, để có được số tiền. Rồi tôi sẽ đem cô ta, không chút ngờ vực, đến cổng nhà thương điên. Có hại gì đâu nhỉ? Chẳng phải tôi đã nói, rằng cô nàng cũng thộn phân nửa rồi hay sao? Nhưng tôi muốn chắc chắn. Tôi sẽ cần Sue ở cạnh cô ta để giữ cô ta ngơ ngẩn, và để thuyết phục cô ta, trong tình trạng ngu ngơ, xuôi theo vở diễn.”
Anh ta lại hít một hơi từ điếu thuốc và, như đã làm ban nãy, mọi người hướng ánh mắt về phía tôi. Mọi người, ngoại trừ bà Sucksby. Từ nãy đến giờ, trong lúc Genltleman nói, bà lắng nghe, không nói một lời. Tôi thấy bà rót một ít trà từ tách của mình vào đĩa, tráng vòng quanh món đồ sứ rồi cuối cùng đưa lên miệng khi câu chuyện tiếp tục. Bà chẳng bao giờ chịu được trà nóng, bảo rằng nó làm chai môi. Và tất nhiên, tôi không tin mình biết được một người phụ nữ trưởng thành nào có đôi môi mềm như bà.
Giờ, trong yên lặng, bà đặt chiếc tách cùng đĩa xuống, rút khăn tay ra chùi miệng. Bà nhìn Gentleman, cuối cùng cũng lên tiếng.
“Tại sao lại là Sue,” bà hỏi, “mà không phải cô gái nào khác trên cái nước Anh này? Tại sao lại là Sue của ta?”
“Bởi vì cô ấy là của bà, bà S,” anh ta trả lời. “Vì tôi tin cô ấy, vì cô ấy là cô gái ngoan – ý nói là, cô gái xấu, không quá tốt bụng về các điểm cao thượng của luật pháp.”
Bà gật đầu. “Và anh dự định,” bà hỏi tiếp, “chia phần thế nào?”
Anh ta lại nhìn tôi, nhưng vẫn nói với bà. “Cô ấy sẽ có hai ngàn bảng,” anh ta vuốt bộ râu, “và được lấy bất cứ xu lẻ, quần áo hay trang sức nào của cô chủ nếu thích.”
Đó là giao kèo.
Chúng tôi suy xét cẩn thận. “Cô thấy thế nào?” Cuối cùng anh ta hỏi – lần này là hỏi tôi. Rồi khi không nghe tôi trả lời, anh ta nói, “Tôi xin lỗi, vì bất ngờ đưa đề nghị này cho cô. Nhưng cô cũng thấy thời gian ít ỏi tôi có để hành động. Tôi phải nhanh chóng tìm ra một cô gái. Tôi muốn người đó là cô, Sue. Tôi muốn người đó là cô, chứ không phải bất kỳ ai khác. Nhưng nếu không thể được, thì hãy nói nhanh cho tôi biết, được không? Để tôi còn có thể tìm người khác.”
“Dainty sẽ làm việc đó,” John lên tiếng khi nó nghe nói vậy. “Dainty từng làm hầu gái rồi – phải không, Daint? Cho một quý cô trong căn nhà khổng lồ ở Peckham.”
“Theo như ta nhớ,” ông Ibbs nhấp tách trà, “Dainty bị đuổi khỏi chỗ đó vì đâm một cái ghim cài nón lên tay cô chủ.”
“Cô ta cư xử với con như một ả khốn,” Dainty nói, “làm con phát khùng lên. Cô gái này nghe không có vẻ là người ngang ngạnh. Anh ta đã nói rằng cô ta nhạt toẹt. Con có thể làm hầu gái cho một quý cô nhạt nhẽo như vậy.”
“Sue là người được đề nghị,” bà Sucksby lặng lẽ nói. “Con bé vẫn chưa trả lời.”
Một lần nữa, tất cả họ lại nhìn sang tôi. Những ánh mắt của họ khiến tôi nao núng. Tôi quay đầu, và nói. “Tôi không biết. Xem chừng là một vụ khó chơi. Sắp đặt tôi, thành hầu gái của một quý cô? Làm sao tôi biết được cần phải làm gì?”
“Chúng tôi có thể dạy cho cô,” Gentleman nói. “Dainty có thể dạy cho cô, vì cô ta biết việc này. Có thể khó khăn cỡ nào được chứ? Cô chỉ phải ngồi cười điệu và giữ thuốc men hộ cô ta.”
Tôi bèn nói, “Nếu cô gái không muốn tôi làm người hầu thì sao? Tại sao cô ta lại muốn tôi chứ?”
Nhưng anh ta đã tính đến việc đó. Anh ta đã tính đến mọi điều. Anh ta nói, rằng định đưa tôi đến dưới danh nghĩa con gái người em của y tá cũ của anh ta – một cô gái thành thị gặp thời buổi khó khăn. Anh ta nghĩ cô gái, vì anh ta, sẽ đồng ý nhận tôi.
Và nói, “Chúng tôi sẽ dựng cho cô một nhân vật – gọi là Quý cô Fanny ở phố Bum đi nhé, cái gì đấy đại loại như vậy – cô ta sẽ chẳng biết đâu. Cô ta chưa bao giờ ra ngoài xã hội, chẳng phân biệt nổi cả Luân Đôn với Jerusalem. Cô ta hỏi ai được cơ chứ?”
“Tôi không biết,” tôi lại nói. “Nếu như cô ta chẳng hề quan tâm đến anh nhiều như anh hy vọng thì sao?”
Anh ta trở nên nhũn nhặn. “À,” anh ta nói, “tôi nghĩ bây giờ mình đã được phép để biết khi nào thì một cô gái còn nai tơ thích mình.”
“Nếu như,” bà Sucksby bèn nói, “cô ta thích cậu không nhiều? Nếu cô ta lại trở thành cô Bamber hay cô Finch thì sao?”
Cô Bamber và cô Finch là hai nữ thừa kế mà anh ta suýt đánh lưới được. Nghe đến tên của họ, anh ta cười mũi. “Cô ta sẽ không như vậy,” anh ta nói, “không giống hai người kia đâu, tôi biết. Những cô kia có cha – những người cha tham vọng, có hàng tá luật sư sát bên. Ông bác của cô gái này chẳng thấy được cái gì xa hơn trang cuối cùng trong quyển sách của ông ta. Còn việc cô ta thích tôi chưa đủ – chà, tôi chỉ có thể nói như vầy: tôi nghĩ về sau cô ta sẽ thích tôi nhiều.”
“Vừa đủ để dọn đi khỏi nhà ông bác của cô ta chứ hả?”
“Đó là một căn nhà rất chán,” anh ta trả lời, “đối với một cô gái ở tuổi cô ta.”
“Nhưng đó là số tuổi sẽ quật ngược lại cậu,” ông Ibbs nói. Hẳn nhiên, ta thấy được vài điều về pháp luật trong một câu nói thế này. “Cho đến ngày đủ hai mươi mốt, cô ta vẫn cần sự cho phép của ông bác. Hãy chiếm lấy cô ta càng nhanh và yên lặng càng tốt, biết đâu ông già sẽ đến lấy lại cô ta đấy. Việc cậu là chồng cô ta lúc đó cũng chẳng được đếm xỉa đâu.”
“Nhưng việc cô ta là vợ tôi, thì được đấy – nếu ông hiểu ý tôi.” Gentleman ranh mãnh.
Dainty có vẻ ngơ ngác. John thấy gương mặt con nhỏ. “Vụ gù ấy,” nó nói.
“Cô ta cần phải bị làm cho mất thanh danh,” bà Sucksby nói. “Như vậy thì không quý ông nào sẽ thèm muốn cô ta nữa.”
Dainty há hốc miệng to hơn bao giờ hết.
“Đừng bận tâm việc đó,” ông Ibbs đưa tay lên. Rồi nói với Gentleman, “Thật lắt léo. Lắt léo khác thường.”
“Tôi không phủ nhận. Nhưng chúng ta phải tận dụng cơ hội. Chúng ta có gì để mất chứ? Nếu không có sự cố, thì với Sue sẽ chỉ là một kỳ nghỉ thôi.”
John phá ra cười. “Một kỳ nghỉ,” nó nói, “sẽ là như vậy. Một kỳ nghỉ dài bỏ mẹ, nếu bị tóm.”
Tôi cắn môi. Thằng nhóc nói đúng. Nhưng rủi ro không phải điều chính yếu mà tôi lo nghĩ. Không thể làm một tên trộm mà cứ phân vân may rủi, cần phải nổi điên lên. Chỉ là tôi không chắc mình muốn bất cứ kỳ nghỉ nào. Tôi không chắc mình muốn rời khỏi Borough hay không. Có lần tôi đã cùng bà Sucksby đi thăm anh em họ của bà ở Bromley. Và về nhà với những nốt phát ban. Vùng quê đó vừa tĩnh lặng vừa kỳ quặc, mọi người sống ở đó nếu không ngơ ngẩn thì cũng quái đản hệt đám gipsy.
Làm thế nào tôi có thể thích việc ở cạnh một cô thộn? Cô ta có thể khác với Dainty – con nhỏ này chỉ kích động tí chút và thỉnh thoảng mới trở nên bạo lực. Cô ta có thể rất điên khùng. Có thể ráng bóp cổ tôi, và trong vòng hàng mấy dặm sẽ chẳng có một ai để nghe tiếng kêu cứu. Dân gipsy dù có cũng chẳng để làm gì, họ chỉ biết mình thôi. Mọi người đều biết dân gipsy sẽ chẳng thèm băng qua đường để nhổ bọt lên người bạn nữa, dù bạn có đang cháy phừng phừng.
Tôi bèn nói, “Cô gái đó… như thế nào? Anh nói là cô ta có cái đầu lập dị.”
“Không phải lập dị,” Gentleman nói. “Chỉ là, tôi phải gọi là thần kinh. Một kẻ ngây thơ, bẩm sinh ngớ ngẩn. Cô ta bị cách ly với thế giới. Mồ côi, giống như cô, nhưng trong khi cô có bà Sucksby để được mài dũa, thì cô ta chẳng-có-ai.”
Bấy giờ Dainty nhìn anh ta. Mẹ nó là một kẻ rượu chè đã chết đuối dưới sông. Cha thì từng đánh đập nó. Ông ta đánh em gái của nó đến chết. Nó nói bằng giọng thì thào,
“Gentleman, chẳng phải những điều anh sắp làm ấy, là cực kỳ tội lỗi hay sao?” Cho đến lúc này, tôi không cho rằng bất cứ ai trong số chúng tôi đã nghĩ đến điều đó. Giờ khi Dainty nói ra, tôi quét ánh mắt vòng quanh, nhận thấy chẳng ai nhìn vào mình cả.
Rồi Gentleman phá ra cười.
“Tội lỗi hả?” Anh ta nói. “Ôi, sao vậy, Dainty, tất nhiên nó tội lỗi! Nhưng là tội lỗi bởi tiếng ngân của mười lăm ngàn bảng – ôi chà! Một tiếng ngân ngọt ngào làm sao, cô cứ thoả thích mà ngâm nga. Nhưng mà, cô tưởng khi tiền được kiếm lấy lần đầu tiên, là nó được kiếm ra một cách thành thật hả? Đừng có mơ! Tiền bạc không bao giờ như vậy. Nó được kiếm ra, bởi những gia đình như gia đình cô ta, trên lưng của bọn nghèo – đạp gãy hai chục cái lưng thì kiếm được một shi-ling. Cô đã bao giờ nghe tới Robin Hood chưa?”
“Rồi!” Con nhỏ đáp.
“Đó, tôi và Sue sẽ giống như anh ta: lấy tiền của người giàu để phân phát lại cho những người đã bị tước đoạt.”
John cong môi. “Anh là thứ ma cô,” nó nói. “Robin Hood là một anh hùng, một người đàn ông kinh điển. Phân phát tiền lại cho mọi người hả? Mọi người nào chớ! Anh muốn cướp của một quý cô, thì đi mà mà cướp của mẹ anh ấy!”
“Mẹ tôi hả!” Gentleman trả lời, mặt đỏ lên. “Mẹ tôi có dính dáng gì đến mọi sự chứ? Treo cổ bà lên cho rồi!” Bấy giờ, bắt gặp ánh mắt bà Sucksby, anh ta bèn quay sang tôi. “Ôi, Sue,” anh ta nói. “Xin lỗi cô.”
“Không sao,” tôi vội đáp. Rồi tôi nhìn quanh bàn, mọi người lại im lặng. Có lẽ họ đều đang nghĩ, giống như vào cái ngày xử vụ treo cổ, “Cô ta chẳng can đảm sao?” Hy vọng là vậy. Nhưng tôi lại hy vọng họ không phải đang nghĩ vậy. Bởi vì, như đã nói, tôi chẳng bao giờ can đảm, tuy đã chung đụng được bình thường với những người cho rằng tôi như thế, trong suốt mười bảy năm. Giờ Gentleman đang ngồi đây, cần đến một cô gái và đã đi – bốn mươi dặm, anh ta nói thế, dưới cái thời tiết lạnh giá trơn trượt kia – để tìm đến tôi.
Tôi ngước nhìn vào mắt anh ta.
“Hai ngàn bảng, Sue,” anh ta lặng lẽ nói.
“Nhiêu đó là sẽ rủng rỉnh lắm đây, đúng không,” ông Ibbs nói.
“Và tất cả chỗ áo xống, trang sức nữa!” Dainty nói. “Ôi, Sue! Mang chúng trên người, cô sẽ bảnh khủng khiếp!”
“Con sẽ trông như một quý cô ấy chứ,” bà Sucksby nói. Tôi nghe bà nói, nhìn vào ánh mắt bà, biết rằng bà đang nhìn tôi – cũng như cách bà làm rất nhiều lần trước đây – và trông thấy, đằng sau gương mặt tôi, là gương mặt của mẹ tôi. Tài sản vẫn sẽ là của con – tôi gần như nghe thấy bà nói câu đó. Tài sản vẫn sẽ là của con, và cùng với nó, là của chúng ta nữa, Sue à…
Xét cho cùng, bà nói đúng. Đây là cơ may của tôi, từ trên trời rơi xuống – cuối cùng cũng rơi xuống. Tôi có thể nói gì chứ? Tôi lại nhìn Gentleman. Tim tôi đập mạnh, tựa búa gõ trong lồng ngực. Tôi nói:
“Được. Tôi sẽ làm việc đó. Nhưng phần tôi phải là ba ngàn bảng, không phải hai. Và nếu quý cô ấy không màng đến tôi, gửi trả tôi về, thì tôi muốn có một trăm, vì đã cất công cố gắng.”
Anh ta do dự, nghĩ ngợi tới lui. Tất nhiên, tất cả chỉ là vờ vịt. Sau một giây, anh ta mỉm cười, giơ tay về phía tôi, và tôi đưa tay cho anh ta. Anh ta xiết những ngón tay của tôi, phá ra cười.
John quắc mắt. “Tôi cá mười ăn một là trong vòng một tuần cô ta sẽ khóc lóc quay về,” nó nói.
“Tôi sẽ quay về với chiếc váy nhung trên người,” tôi trả lời. “Và găng tay dài tới đây, chiếc nón có mạng, cùng một túi đầy đồng bạc. Và cậu sẽ phải gọi tôi là ‘cô’. Đúng không, bà Sucksby?”
Thằng nhỏ phun phì phì. “Tôi thà tự rứt lưỡi mình ra còn hơn phải làm vậy!”
“Tôi sẽ rứt nó ra cho cậu trước!” Tôi đáp.
Tôi nói chuyện như một đứa trẻ. Tôi là một đứa trẻ! Có lẽ bà Sucksby cũng đang nghĩ vậy. Vì bà chẳng nói gì, chỉ ngồi đó nhìn tôi chăm chú, với bàn tay đặt nơi đôi môi mềm. Bà mỉm cười, tuy gương mặt vẫn có vẻ băn khoăn. Tôi gần như có thể khẳng định, rằng bà sợ hãi.
Có lẽ bà sợ thật.
Hoặc có lẽ chỉ đến lúc này tôi mới cho rằng như vậy, khi đã biết những điều đen tối, đáng sợ gì sắp kéo tới.
|
Chương 2
Ông già ham sách, hoá ra, tên là Christopher Lilly. Tên người cháu gái là Maud. Họ sống ở miền tây Luân Đôn, bên ngoài con đường nối tới Maidenhead, gần một ngôi làng tên Marlow, trong ngôi nhà mà người ta gọi là Briar. Kế hoạch của Gentleman là gửi tôi đến đó một mình, bằng tàu lửa, trong vòng hai ngày. Còn anh ta, anh ta nói rằng, phải ở lại Luân Đôn trong ít nhất một tuần nữa để lo việc của ông già – đóng bìa các quyển sách của.
Tôi không quan tâm lắm đến chi tiết về việc đến đó, cũng như đi tới ngôi nhà, một mình. Trước đây tôi chưa bao giờ đi về phía tây xa quá Cremorne Gardens, nơi thỉnh thoảng tôi đến cùng các cháu trai của ông Ibbs để xem khiêu vũ vào tối thứ bảy. Từ chỗ đó, tôi trông thấy cô gái Pháp băng qua con sông trên một sợi dây, suýt bị rơi – thật không thể không chú ý. Người ta nói cô ta có mang vớ dài, nhưng chân trông vẫn khá hớ hênh. Tuy vậy, tôi nhớ đã đứng trên cầu Battersea khi cô ấy bước đi trên sợi thừng, nhìn ra xa, qua cả Hammersmith, tới tất cả những vùng quê mãi ngoài kia. Chỉ thấy cây cối, những ngọn đồi, không có lấy một cái ống khói hay đỉnh chóp nhà thờ trong tầm mắt – Ui! Được thấy điều đó thật là lạnh hết cả người. Nếu bấy giờ bạn bảo tôi rằng một ngày tôi sẽ rời Borough – nơi có tất cả người quen, bạn bè, cả bà Sucksby và ông Ibbs – để đơn thân độc mã lên đường trở thành người hầu ở một ngôi nhà tít bên kia những ngọn đồi tăm tối đó, thì tôi sẽ cười vào mặt bạn.
Tuy vậy, Gentleman nói tôi phải đi sớm, phòng trường hợp cô chủ – cô Lilly – có thể làm hỏng sự dàn xếp của chúng tôi, nếu vô tình nhận một cô gái khác làm người hầu. Ngày hôm sau, anh chàng đến phố Lant, ngồi viết cho cô ta một lá thư, nói rằng hy vọng cô ta thứ lỗi cho những lời tuỳ tiện từ anh chàng, nhưng anh chàng đã làm một cuộc viếng thăm đến người y tá cũ của mình – người anh ta xem như mẹ lúc còn nhỏ – và thấy bà ấy cuồng lên vì đau khổ cho số phận đứa con gái của cô em đã chết. Tất nhiên, con gái của cô em đã chết đó là tôi. Câu chuyện như sau: quý cô mà tôi hầu hạ đã kết hôn và chuyển sang Ấn Độ nên tôi bị mất việc, tôi đang tìm một cô chủ khác, đồng thời đang bị đủ thứ cám dỗ trở thành người xấu, và rằng giá như một quý cô từ tâm nào đó có thể cho tôi một cơ hội lánh xa khỏi những tội lỗi trong thành phố – vân vân và vân vân.
Tôi bèn nói, “Nếu cô ta tin vào những lời khoác lác như vậy, Gentleman, thì cô ta thậm chí còn ngốc hơn lời anh kể ban đầu.” Nhưng anh ta trả lời, rằng có khoảng một trăm cô gái từ Strand tới Piccadilly đã nhuần nhuyễn đến tuyệt vời câu chuyện đó, chuyện thường ngày ở huyện. Và rằng nếu những gã tai to mặt lớn ở Luân Đôn còn có thể bị chia cách khỏi những đồng shi-ling của họ vì câu chuyện này, thì bao nhiêu kẻ khác cũng bị dính bẫy chứ, những kẻ không như Quý-cô-Maud-Lilly, cô độc, buồn bã, cạnh bên lại chẳng có ai để chỉ bảo?
“Cô sẽ thấy,” anh ta nói, rồi niêm phong lá thư, ghi phương hướng và nhờ một trong số những thằng nhóc hàng xóm chạy đến bưu điện giao.
Sau đó, rất chắc chắn vào thành công của kế hoạch, anh ta nói mọi người phải ngay lập tức bắt đầu dạy cho tôi cách thức của một cô hầu gái đích thực.
Đầu tiên, họ gội đầu cho tôi. Tóc tôi lúc bấy giờ, như nhiều cô gái khác ở Borough, được chia làm ba phần, một chiếc lược gài phía sau cùng mỗi bên, với ít lọn xoăn. Nếu uốn các lọn bằng ống sắt thật nóng, trước đó làm ướt tóc bằng nước đường, sẽ có thể khiến chúng cứng hẳn lại và duy trì được một tuần, hoặc hơn. Tuy vậy, Gentleman nói rằng anh ta nghĩ kiểu đó quá phóng túng đối với một cô gái nông thôn. Anh ta bắt tôi gội đầu cho tới khi tóc thật mượt, rồi chia một lần – chỉ mỗi một lần – sau đó ghim thành búi đơn giản phía sau đầu. Anh ta cũng bắt Dainty gội tóc, rồi sau khi tôi đã chải đi chải lại tóc mình, ghim tới ghim lui đến khi anh ta hài lòng, thì anh ta bắt tôi chải và búi tóc của Dainty theo kiểu giống như vậy, giả vờ rằng tóc của con nhỏ là tóc cô chủ, cô Lilly. Anh ta bắng nhắng xung quanh hệt một cô gái tầm phào. Khi đã xong xuôi, Dainty lẫn tôi đều trông rất thường, mặt như miếng thịt muối, đến mức xin vào tu viện hẳn cũng được nhận. John tuyên bố nếu người ta đặt ảnh chúng tôi ở trại sản xuất bơ thì sẽ có phương pháp mới để làm vón sữa.
Nghe vậy, Dainty giật ghim cài ra khỏi tóc, ném nó vào lửa. Vài sợi tóc vẫn còn bám trên đó bị lửa nướng kêu xèo xèo.
“Mày không thể làm gì khác với con nhỏ của mày hả,” ông Ibbs nói với John, “ngoài việc làm nó khóc?”
John bật cười. “Tôi thích nhìn nó khóc,” thằng nhóc trả lời. “Việc đó ít làm nó ít đổ mồ hôi hơn.”
Thật là một thằng nhóc đểu cáng.
Nhưng dù vậy, nó vẫn rất bị lôi cuốn vào vở kịch của Gentleman. Tất cả chúng tôi đều như thế. Lần đầu tiên tôi được chứng kiến ông Ibbs kéo màn che xuống cửa ra vào cửa hàng và để mặc bếp than nguội lạnh. Khi người ta lui tới để cắt chìa khoá, ông đuổi họ đi. Với hai hay ba tên trộm mang chiến lợi phẩm tới, thì ông lắc đầu.
“Không làm việc đó được, con trai. Không phải hôm nay. Có vài thứ đang phải lo.”
|
Ông chỉ cho gọi Phil đến, vào sáng sớm. Bảo hắn ngồi xuống, giảng cho hắn một lượt các thứ trong danh sách mà Gentleman đã thảo đêm trước. Sau đó, Phil kéo chiếc nón kếp che xuống mắt rồi rời đi. Hai giờ sau, lúc quay lại, gã mang theo một chiếc túi cùng chiếc va li bọc vải bạt – lấy được từ một tên quản một cái nhà kho mờ ám ở sông mà gã quen.
Va li là để tôi mang theo đến vùng nông thôn. Trong túi có một cái váy vải nâu tầm cỡ tôi, áo choàng, giày, vớ dài bằng lụa đen, và trên hết, là một đống các thứ nội y trắng thực thụ của một quý cô.
Ông Ibbs chỉ tháo sợi dây nơi miệng túi, liếc vào, trông thấy vải lanh, rồi đi lại ngồi ở phía xa căn bếp, nơi có cái khoá Bramah mà ông thích tháo ra, rắc bột, rồi ráp lại. Ông bắt John đi cùng và giữ mấy cái ốc vít. Còn Gentleman lấy ra các thứ dành cho quý cô, từng món một, đặt tươm tất lên bàn. Cạnh bàn, anh ta đặt một cái ghế.
“Nào, Sue,” anh ta nói, “giả sử cái ghế này là cô Lilly. Cô sẽ mặc áo cho cô ấy thế nào? Xem như cô bắt đầu với vớ dài và quần chẽn.”
“Quần chẽn hả?” Tôi hỏi. “Không phải anh có ý nói là cô ta trần truồng đó chứ?”
Dainty đưa tay lên miệng cười khúc khích. Nó đang ngồi dưới chân bà Sucksby để uốn lại tóc.
“Trần truồng?” Gentleman đáp. “Chà, trần như nhộng. Chứ còn làm sao nữa? Cô ta phải cởi quần áo ra khi chúng dơ, phải cởi ra để tắm. Công việc của cô là nhận lấy chúng khi cô ta làm điều đó. Công việc của cô là đưa quần áo sạch cho cô ta.”
Tôi đã không nghĩ đến điều này. Không biết sẽ như thế nào khi đứng đưa quần chẽn cho một cô gái lạ không được che chắn. Từng có một cô gái lạ, chạy dọc theo phố Lant, trên người không một mảnh vải, la thét, một cảnh sát và một y tá rượt phía sau. Giả sử cô Lilly bị hoảng sợ như thế, còn tôi phải tóm cô ta lại? Tôi đỏ mặt, Gentleman trông thấy. “Thôi nào,” anh ta cười mỉm một chút. “Đừng nói là cô đang hãi đấy nhé?”
Tôi hất đầu, để cho thấy không phải như vậy. Anh ta gật, cầm lên một cặp vớ dài, rồi đến quần chẽn. Đoạn vắt chúng lủng lẳng trên chỗ ngồi của chiếc ghế.
“Tiếp theo là gì?” Anh ta hỏi tôi.
Tôi nhún vai. “Áo lót, chắc vậy.”
“Cô phải gọi đó là áo trong,” anh ta nhắc. “Và cô phải bảo đảm nó được làm ấm trước khi cô chủ mặc vào.”
Anh ta cầm chiếc áo lót, đưa nó lại gần bếp lửa. Rồi cẩn thận đặt nó lên trên quần chẽn, trên lưng ghế, như thể cái ghế đang mặc thứ đó vậy.
“Nào, giờ đến áo nịt của cô ta,” anh ta nói tiếp. “Cô ta sẽ muốn cô thắt nó giúp, càng chặt càng tốt. Nào, cô làm thử cho tôi xem.”
Anh ta đặt áo nịt quanh áo lót, các dây xỏ ở phía lưng áo. Và trong lúc nghiêng người trên ghế để giữ chặt thứ đó, anh ta kêu tôi kéo các dây xỏ, thắt thành nơ bướm. Chúng hằn những lằn đỏ và trắng trên lòng bàn tay tôi, như thể đã bị roi quất vậy.
“Sao cô ta không mặc loại có dây buộc phía trước, giống như một cô gái bình thường ấy?” Dainty hỏi trong lúc quan sát.
“Bởi vì khi đó,” Gentleman đáp, “cô ta sẽ chẳng cần đến người hầu làm gì. Và nếu không cần người hầu, thì cô ta sẽ chẳng biết rằng mình là một quý cô. Há?” Anh ta nháy mắt.
Sau áo nịt là áo ngoài, tiếp đến là sơ mi giả, rồi yếm giả, thêm váy phồng có chín vòng, đến váy lót, lần này bằng lụa. Rồi Gentleman sai Dainty chạy lên tầng trên lấy một chai nước thơm của bà Sucksby, nói tôi xịt lên chỗ gỗ vỡ của lưng ghế, lộ ra giữa các chiếc nơ của áo lót. Anh ta bảo chỗ đó là yết hầu của cô chủ Lilly.
Và suốt trong lúc làm những việc này, tôi phải nói:
“Thưa, cô giơ tay lên ạ, để tôi vuốt thẳng nếp gấp.” Hoặc,
“Cô muốn như thế nào ạ, xếp nếp hay viền ren?” Hoặc,
“Cô đã sẵn sàng chưa ạ?”
“Cô có muốn thắt chặt không?”
“Cô có muốn chặt hơn không?”
“Ôi! Xin thứ lỗi nếu tôi làm cô đau.”
Cuối cùng, với tất cả những màn khom lưng uốn gối và nhặng xị, tôi nóng hừng hực như một con lợn. Cô chủ Lilly ngồi trước mặt chúng tôi – áo nịt đã thắt chặt, xoè phủ xuống sàn, thơm tho như một hoa hồng – nhưng tất nhiên, là khá trống trải ở vùng vai và cổ.
John lên tiếng, “Cô ta ít nói quá hả?” Suốt nãy giờ thằng nhóc liên tục liếc trộm chúng tôi, trong lúc ông Ibbs rắc bột vào cái khoá Bramah.
“Một quý cô cơ mà,” Gentleman vuốt râu, “và bản chất nhút nhát nữa chứ. Nhưng cô ta sẽ thích ứng thôi, với Sue bên cạnh và sự dạy dỗ của tôi. Phải không, em yêu?”
Anh ta ngồi xổm bên chiếc ghế, vuốt ve những ngón tay lên chỗ phồng của váy áo, rồi cho tay xuống, lần lên cao dần bên dưới các lớp lụa. Anh ta làm việc đó gọn gàng đến nỗi, tôi đinh ninh anh ta đã tỏ tường rồi, à đấy. Lần lên cao hơn thì má anh ta ửng hồng, vải lụa kêu sột soạt, chiếc sơ mi giả bung ra, cái ghế rung bần bật trên sàn bếp, các khớp nối chân ghế rên rỉ khe khẽ. Rồi nó nằm im re.
“Đấy, đồ lẳng lơ nhỏ bé ngọt ngào,” anh ta nói nhẹ nhàng. Rút tay ra khỏi túi, giơ một chiếc vớ dài ra đưa cho tôi, đoạn anh ta ngáp. “Giờ thì, xem như đến giờ ngủ.”
John vẫn còn nhìn chúng tôi, chẳng nói lời nào, chỉ chớp mắt và ngọ nguậy hai chân. Dainty dụi mắt, tóc đã uốn được phân nửa, nồng mùi kẹo bơ.
Tôi bắt đầu với những chiếc nơ nơi eo áo sơ mi giả, nới các dây buộc của áo nịt rồi tháo hẳn chúng ra.
“Cô nhấc chân lên ạ, để tôi cởi thứ này ra.”
“Cô thở nhẹ hơn một chút ạ, sẽ xong ngay.”
Anh ta bắt tôi làm đủ thứ như thế trong ít nhất một giờ nữa. Rồi anh ta hơ nóng cái bàn là.
“Nhổ lên đây, được không Dainty?” Anh ta giơ nó cho con bé. Con bé làm theo, và khi vệt nhổ kêu một tiếng ‘xèo’ thì anh ta lấy ra một điếu thuốc, châm lửa từ bề mặt nóng rực của bàn là. Rồi trong lúc anh ta đứng hút thuốc, bà Sucksby – người lúc xưa, trước cả khi nghĩ đến chuyện mở trại trẻ, đã từng làm nhân viên vắt trong một tiệm giặt – chỉ tôi cách ủi và gấp các thứ bằng vải lanh của một quý cô. Việc đó, tôi phải nói, tốn thêm một giờ nữa.
Rồi Gentleman bảo tôi lên tầng trên để mặc chiếc váy Phil đã lấy cho. Một chiếc váy nâu đơn giản, ít nhiều tương tự màu tóc tôi. Các bức tường trong bếp cũng nâu, khi trở xuống tôi gần như khó mà được ai trông thấy. Tôi muốn một cái đầm xanh lơ hơn, hoặc là tím violet, nhưng Gentleman nói đây là chiếc váy hoàn hảo cho kẻ trộm hoặc người hầu – thế nên càng hoàn hảo hơn cho tôi, kẻ sắp đến Briar để làm cả hai công việc đó.
Nghe vậy, chúng tôi cười phá lên. Khi tôi đi quanh phòng để làm quen với chiếc váy – nó hơi chặt – và để Dainty trông thấy những chỗ cắt quá lớn cần được đính lại, anh ta bắt tôi đứng lại thử nhún người chào. Việc này khó hơn chỉ nói bằng miệng. Nếu có điều gì để thích thú trong cuộc sống quen thuộc của tôi, thì đó là việc tôi không có ông chủ cô chủ nào cả. Tôi chưa bao giờ phải nhún người chào một ai. Giờ thì Gentleman bắt tôi nhún lên nhún xuống đến khi tôi nghĩ mình sắp phát bệnh tới nơi. Anh ta nói việc nhún người chào là điều rất tự nhiên đối với người hầu của một quý cô, cũng giống như gió thổi qua vậy. Anh ta nói chỉ cần tôi nắm được cái trò này, thì sẽ không bao giờ quên – ít nhất thì anh ta đúng về điều đó, đến tận bây giờ tôi vẫn có thể nhún chào một cách chuẩn mực. Có thể, nếu tôi màng đến việc làm chuyện đó.
Đấy. Sau khi hoàn tất với việc nhún chào, anh ta bắt tôi học câu chuyện của mình. Rồi để kiểm tra, anh ta bắt tôi đứng trước mặt, lặp lại những phần của mình, hệt một con bé trả bài giáo lý.
“Xem nào,” anh ta nói. “Cô tên là gì?”
“Chẳng phải là Susan sao?” Tôi hỏi lại.
“Cái gì, ‘chẳng phải là Susan sao’?”
“Chẳng phải là Susan Trinder sao?”
“Chẳng phải là Susan sao, thưa ngài. Cô phải nhớ, ở Briar, tôi không phải Gentleman. Tôi sẽ là ông Richard Rivers. Cô phải gọi tôi là ngài, phải gọi ông Lilly là ngài, còn các quý cô thì gọi bằng cô, cô Lilly, hoặc cô Maud, tuỳ cách cô ta hướng dẫn cô. Còn tất cả chúng tôi sẽ gọi cô là Susan.” Anh ta cau mày. “Nhưng, không thể là Susan Trinder được. Như vậy nếu hỏng việc, họ sẽ tìm đến phố Lant. Chúng ta phải tìm cho cô một cái họ tốt hơn–”
“Valentine,” tôi nói thẳng luôn. Còn có thể nói được gì đây? Tôi chỉ mới mười bảy tuổi. Trái tim tôi cũng biết rung rinh. Gentleman nghe thấy, bèn cong môi.
“Hoàn hảo,” anh ta nói, “nếu như chúng ta sắp tung cô lên sân khấu.”
“Tôi biết những cô gái tên Valentine thật mà!” Tôi nói.
“Đúng vậy,” Dainty nói. “Floy Valentine và hai người chị em của nó. Nhưng lạy Chúa, tôi ghét mấy đứa đó. Cô không phải muốn lấy tên giống chúng chứ, Sue?”
Tôi cắn ngón tay. “Có lẽ vậy.”
“Chắc chắn là không được rồi,” Gentleman nói. “Một cái tên hoa mỹ có thể huỷ hoại chúng ta. Đây là phi vụ sinh tử. Chúng ta cần một cái tên có thể che giấu cô, chứ không phải khiến cho mọi người chú ý. Chúng ta cần một cái tên–” Anh ta nghĩ ngợi tới lui, “một cái tên không thể bị theo dấu, nhưng khiến mọi người nhớ… Brown? Để hợp với cái váy của cô chăng? Hay là – đúng rồi, sao lại không chứ? Gọi là Smith đi. Susan Smith.” Anh ta mỉm cười. “Đằng nào cô cũng sẽ là một dạng thợ còn gì. Kiểu này này.”
Anh ta buông thõng tay, xoay nó, rồi cong ngón giữa. Dấu hiệu đó, cái từ anh ta muốn nói đến – fingersmith, thợ khoắng – là dấu hiệu của một tên trộm ở Borough. Chúng tôi lại phá ra cười.
Cuối cùng, anh ta ho vài tiếng, quệt mắt. “Ôi chà, vui thật,” anh ta nói. “Nào, chúng ta đến đâu rồi? À đúng rồi. Nói lại cho tôi nghe, tên cô là gì?”
Tôi trả lời, thêm ‘thưa ngài’ vào cuối câu.
“Tốt lắm. Nhà cô ở đâu?”
“Nhà tôi ở Luân Đôn, thưa ngài,” tôi đáp. “Mẹ tôi đã chết, tôi ở với dì đã già, chính là người từng làm y tá cho ngài khi ngài còn nhỏ, thưa ngài.”
Anh ta gật đầu. “Các chi tiết đều rất tốt. Nhưng chưa thật tốt, về cách thức. Nghe này, tôi biết bà Sucksby nuôi dạy cô tốt hơn thế. Cô không phải đang đi bán hoa violet. Nói lại đi.”
Tôi cau mặt, nhưng cũng nói lại, thận trọng hơn.
“Người từng làm y tá cho ngài khi ngài còn nhỏ, thưa ngài.”
“Tốt hơn, tốt hơn rồi. Trước đây, hoàn cảnh cô thế nào?”
“Tôi sống với một quý cô tốt bụng, thưa ngài, ở Mayfair. Về sau cô ấy kết hôn và sắp chuyển đến Ấn Độ. Cô ấy sẽ có một hầu gái người địa phương để giúp việc phục sức nên không cần tôi nữa.”
“Ôi trời. Cô thật đáng thương, Sue.”
“Thật vậy, thưa ngài.”
“Cô có biết ơn cô Lilly vì đã nhận cô tới Briar không?”
“Ôi, thưa ngài! Việc đó đâu cần biết ơn!”
“Lại violet!” Anh ta phẩy tay. “Không sao, nói vậy cũng được. Nhưng đừng nhìn vào mắt tôi mạnh dạn quá, hiểu không? Này, thay vào đó, nhìn giày tôi ấy. Tốt. Giờ, nói tôi nghe. Cái này quan trọng đây. Nhiệm vụ của cô là gì khi phục vụ cô chủ mới?”
“Tôi phải đánh thức cô ấy vào buổi sáng,” tôi nói, “rót trà cho cô ấy. Phải tắm rửa cho cô ấy, vận trang phục, chải tóc cho cô ấy. Tôi phải giữ các trang sức của cô ấy gọn gàng, không trộm chúng. Tôi phải đi cùng khi cô ấy có nhã hứng đi dạo, ngồi cùng khi cô ấy thích ngồi. Tôi phải mang quạt phòng khi cô ấy quá nóng, áo choàng phòng khi lạnh, mang eau-de-Cologne phòng khi cô ấy nhức đầu, và thuốc cho những lúc cô ấy bỗng nhiên khó ở. Tôi phải làm người kèm cặp cô ấy tại các buổi học vẽ, không được nhìn khi cô ấy đỏ mặt.”
“Xuất sắc! Phẩm chất cô phải thế nào?”
“Minh bạch như mặt trời.”
“Còn mục đích của cô là gì, điều không ai khác ngoài chúng ta được biết?”
“Làm cô ấy yêu ngài, rời bỏ ông chú vì ngài. Giúp cô ấy có được tài sản cho ngài, và ngài, ngài Rivers, sẽ có tài sản cho tôi.”
Tôi nâng váy, cho anh ta thấy một trong những động tác nhún người chào nhuần nhuyễn đó, mắt luôn nhìn nơi mũi giày anh ta.
Dainty vỗ người tôi. Bà Sucksby xoa tay với nhau và nói, “Ba ngàn bảng, Sue. Ôi ơn trên! Dainty, đưa ta một đứa nhỏ, ta muốn có cái gì đó để ôm thật chặt.”
Gentleman bước sang bên, châm một điếu thuốc. “Không tệ,” anh ta nói. “Không tệ chút nào. Tạm thời, tôi nghĩ, chỉ cần thanh lịch thêm một chút. Chúng ta sẽ thử lại sau.”
“Sau?” Tôi nói. “Trời đất, Gentleman, anh chưa xong với tôi nữa sao? Nếu cô Lilly chịu nhận tôi làm hầu gái vì muốn làm anh vui lòng, thì việc gì cô ta phải bận tâm rằng tôi tốt lành đến cỡ nào?”
“Cô ta thì sẽ không bận tâm,” anh ta trả lời. “Tôi nghĩ chúng ta còn có thể đeo tạp dề cho Charley Wag và gửi nó đi, cô ta cũng chẳng bận tâm thắc mắc gì. Nhưng cô không phải chỉ cần lừa mỗi mình cô ta. Còn có lão già, ông bác cô ta, ngoài ra là các người hầu của ông ta nữa.”
Tôi nói, “Người hầu của ông ta?” Tôi chưa tính đến việc đó.
“Tất nhiên,” anh ta nói. “Cô nghĩ một cái nhà to như vậy tự nó xoay sở hả? Trước tiên là người tổng quản, ông Way–”
“Ông Way!” John khịt mũi cười. “Người ta có gọi ông ấy là Milky không?”
“Không,” Gentleman đáp. Anh ta quay trở sang tôi. “Ông Way,” anh ta lại nói. “Tuy nhiên, tôi có thể nói ông ta sẽ không làm phiền cô nhiều. Nhưng còn có bà Stiles, người quản gia – bà ấy có thể săm soi cô kỹ hơn một chút, cô phải cẩn thận với bà ta. Rồi có thằng nhóc của ông Way, Charles, và tôi đoán là một hai đứa con gái làm mấy việc bếp núc, một hai cô hầu bàn, mấy người chăm ngựa, thằng nhóc giữ ngựa, mấy người làm vườn. Nhưng cô sẽ không gặp họ nhiều, nên đừng bận tâm.”
Tôi kinh hãi nhìn anh ta. Tôi nói, “Lúc trước anh chưa từng nhắc tới họ. Bà Sucksby, anh ta có nói về họ không? Anh ta có nói, rằng sẽ có cả trăm người hầu khác mà tôi phải diễn vai người hầu cho xem?”
Bà Sucksby đang bế một đứa bé, đu đưa như thể ẵm tiền. “Công bằng đi nào, Gentleman,” bà nói, không hề nhìn sang. “Tối qua cậu chẳng nói năng gì đến mấy người giúp việc kia.”
Anh ta nhún vai. “Tiểu tiết thôi,” anh ta nói.
|
Tiểu tiết hả? Đúng là anh ta mà. Kể nửa câu chuyện và suy diễn rằng người ta đã biết hết.
Nhưng đã quá trễ để đối ý. Ngày hôm sau Gentleman lại bắt tôi luyện tập mệt đừ, đến hôm sau nữa thì anh ta nhận được một lá thư, từ cô Lilly.
Anh ta nhận nó tại bưu điện trong thành phố. Nếu chúng tôi có thư đưa tới tận nhà, hàng xóm sẽ thắc mắc đang có chuyện gì. Anh ta nhận nó, mang về, mở ra trong lúc chúng tôi ngó nghiêng. Rồi chúng tôi ngồi yên lặng, để nghe đọc lá thư – ông Ibbs chỉ nhịp ngón tay một chút trên mặt bàn, điều đó cho thấy ông đang hồi hộp, khiến tôi lại càng hồi hộp hơn.
Lá thư khá ngắn. Trước tiên, cô Lilly nói, rằng rất vui khi nhận được thư của ngài Rivers. Rằng ngài thật tốt bụng, ân cần đối với người y tá cũ. Cô ta chắc chắn, mình mong muốn có nhiều hơn những quý ông tốt bụng, ân cần như anh ta!
Cô ta nói ông bác trở nên cực khó gần khi người phụ tá của ông giờ đã đi mất. Căn nhà có vẻ khác đi nhiều, tĩnh lặng, buồn chán, có lẽ do thời tiết đang chuyển đổi. Về người hầu gái – đến đây Gentleman nghiêng lá thư, để bắt được nhiều ánh sáng hơn. Về người hầu gái, Agnes đáng thương, cô rất vui được báo với anh ta rằng Agnes trông đã ổn, đàng nào cũng sẽ không chết–
Nghe đến đó, chúng tôi hít một hơi sâu. Bà Sucksby nhắm mắt, và tôi thấy ông Ibbs liếc nhìn cái lò than lạnh tanh, cộng gộp những phi vụ ông bỏ lỡ trong hai ngày qua. Nhưng rồi Gentleman mỉm cười. Cô hầu gái sẽ không chết, nhưng sức khoẻ cô ta bị tổn hại rất nhiều, tinh thần rất tệ, họ sắp gửi trả cô ta về Cork.
“Chúa phù hộ cô ả Ai-len đó!” Ông Ibbs nói, rút khăn tay ra lau đầu. Gentleman tiếp tục đọc.
“Tôi sẽ rất vui được gặp cô gái anh đã nhắc đến,” cô Lilly viết. “Tôi sẽ rất vui nếu anh gửi cô ấy đến chỗ tôi, ngay tức khắc. Tôi cảm kích bất kỳ ai nhớ đến mình. Tôi chưa thật quen với việc người khác nghĩ đến sự an nhàn của tôi. Nếu cô ấy là một cô gái tốt và dễ bảo, thì tôi chắc chắn sẽ yêu mến cô ấy. Ông Rivers, tôi sẽ càng yêu mến cô ấy hơn, vì cô ấy sẽ đến gặp tôi từ Luân Đôn – nơi có anh.”
Anh ta lại mỉm cười, nâng lá thư lên miệng, đưa tới đưa lui trên môi. Chiếc nhẫn rởm của anh ta phát vài tia lấp lánh từ ánh sáng nơi những chiếc đèn.
Hẳn nhiên, mọi thứ đã diễn biến hệt như sự hứa hẹn của gã quỷ tinh ranh.
Đêm đó – sẽ là đêm cuối cùng của tôi tại phố Lant, và đêm đầu tiên trong số tất cả những đêm dẫn đến việc bảo đảm cho Gentleman có được tài sản của cô Lilly. Hôm đó, ông Ibbs đem ra một bữa thịt nướng cho buổi tối, đun nóng mấy que sắt trong đám lửa hòng làm rượu đánh trứng, để ăn mừng.
Bữa tối là một cái đầu lợn được nhồi nơi tai – một món ưa thích của tôi, được chuẩn bị vì tôi. Ông Ibbs mang con dao cắt thịt ra bậc cửa sau, xắn tay áo, rồi khom xuống mài sắc lưỡi dao. Ông nghiêng người, chống tay lên bệ cửa, tôi quan sát ông với cảm giác lạ lùng lan khắp các lỗ chân lông. Dọc trên chiếc cột ở chỗ đó là những vết cắt mà vào mỗi ngày Giáng sinh, khi tôi còn là một cô bé, ông lại đặt con dao lên đầu tôi để xem tôi đã cao thêm được bao nhiêu. Bây giờ ông miết lưỡi dao tới lui trên hòn đá, đến khi nó phát ra loạt âm thanh vui vẻ, rồi đưa cho bà Sucksby để chia thịt vào đĩa. Trong căn nhà của chúng tôi, bà luôn luôn là người cắt thịt. Hai chiếc tai, mỗi cái cho ông Ibbs và Gentleman, mũi cho John và Dainty, còn hai má – những phần mềm nhất – cho chính bà và tôi.
Tất cả, như đã nói, là vì tôi. Nhưng tôi cũng không biết nữa. Có thể do thấy các vệt khắc nơi cột cửa, có thể do nghĩ đến món súp bà Sucksby sẽ nấu khi tôi không hiện diện để ăn, cùng với xương của chiếc đầu lợn nướng, hay có thể do chính cái đầu đó, trông nó như đang nhăn nhó, lông mi và lông mũi của nó quện nâu bởi thứ nước mắt làm bằng đường, nhưng khi mọi người ngồi quanh bàn, tôi thấy buồn. John và Dainty ngấu nghiến bữa tối của chúng, cười ha hả, cãi nhau, thỉnh thoảng lại nổi giận đùng đùng khi bị Gentleman trêu chọc, thỉnh thoảng lại hờn dỗi. Ông Ibbs dùng phần của mình thật gọn gàng, bà Sucksby dùng phần của mình thật gọn gàng. Còn tôi săm soi miếng thịt lợn của mình, cảm thấy chẳng có chút khẩu vị nào.
Tôi cho Dainty phân nửa. Nó đưa cho John. Thằng nhỏ gõ hai hàm răng với nhau lách cách và tru lên, hệt một con chó.
Rồi thì, khi tất cả đĩa đã sạch sẽ, ông Ibbs đập trứng, cho đường vào rum để làm rượu đánh trứng. Ông rót đầy bảy ly, lấy mấy que thép từ lò lửa, vẫy chúng một giây để không còn nóng rẫy, rồi nhúng vào. Làm nóng rượu đánh trứng cũng giống như châm lửa vào rượu brandy trên một cái bánh put-đing mận – mọi người đều muốn trông thấy quá trình, lắng nghe tiếng lèo xèo của món uống. John nói, “Tôi làm một cái được không, ông Ibbs?” Mặt nó đỏ bừng vì bữa khuya, sáng bóng như tranh vẽ, như khuôn mặt của một thằng bé trong hình ở cửa sổ một tiệm đồ chơi.
Chúng tôi ngồi, mọi người trò chuyện, cười đùa, nói rằng thật hay ho ra sao khi Gentleman trở nên giàu có, và sẽ tôi quay về với ba ngàn đồng tuyệt vời. Nhưng tôi vẫn im lặng, dường như chẳng ai chú ý cả. Cuối cùng, bà Sucksby vỗ bụng nói,
“Ông giúp mọi người một bài được không, ông Ibbs, để dỗ bọn trẻ ngủ?”
Ông Ibbs có thể huýt sáo hệt một cái ấm đun, trong suốt một giờ không nghỉ. Ông đặt ly của mình sang bên, quệt rượu trứng trên râu mép, rồi bắt đầu bằng bài ‘Chiếc áo khoác Tarpaulin.’ Bà Sucksby ngâm nga theo đến khi hai mắt ướt nước, và tiếng ngâm nga đứt quãng. Chồng bà từng là một thuỷ thủ, đã lạc mất trên biển. Ý tôi là, lạc mất đối với bà. Ông ta sống ở Bermudas.
“Hay tuyệt,” bà nói khi bài hát chấm dứt. “Nhưng tiếp theo hãy thổi bài nào sôi động đi, lạy trời! Không thì tôi sẽ trở nên uỷ mị mất. Hãy xem mấy đứa nhỏ nhảy nhót một chút.”
Ông Ibbs bèn chuyển sang một điệu nhanh, bà Sucksby vỗ tay, John và Dainty đứng dậy, đẩy ghế ra sau. “Bà giữ khuyên tai dùm con được không, bà Sucksby?” Dainty nói. Chúng nhảy điệu polka đến tận khi các thứ trang trí bằng gốm trên bệ lò sưởi nảy theo, bụi bay lên cả tấc dưới đôi chân giậm huỳnh huỵch của chúng. Gentleman ngồi, nghiêng người nhìn chúng, vừa hút một điếu thuốc và kêu “Hup!” hoặc “Được đó, Johny!” theo cách anh ta sẽ gọi, cười với một con chó săn trong trận đấu mình không đặt cược.
Khi họ gọi tôi nhập cuộc, tôi từ chối. Bụi bặm khiến tôi nhảy mũi, và xét cho cùng, que sắt dùng làm nóng rượu trứng của tôi đã được đun nóng quá, trứng bị đông lại. Bà Sucksby đã chừa một ly cùng một đĩa thịt vụn cho em gái ông Ibbs, tôi nói mình sẽ mang chúng lên. “Được thôi, con yêu,” bà nói, vẫn đang vỗ tay theo nhịp. Tôi cầm cái đĩa, ly cùng một chiếc đèn cầy, lỉnh lên tầng trên.
Tựa như bước khỏi thiên đường vậy, tôi luôn nghĩ, khi rời căn bếp vào một đêm đông. Cho dù vậy, sau khi để thức ăn lại cạnh người em đang ngủ của ông Ibbs và đi thăm một hai đứa bé đã tỉnh ngủ vì tiếng nhảy múa bên dưới, tôi cũng không trở lại cùng những người khác. Tôi vào lối đi nhỏ dọc đầu cầu thang, đến cửa căn phòng đã chia sẻ cùng bà Sucksby, rồi lên chiếc cầu thang tiếp theo, đến căn gác mái nhỏ nơi mình đã được sinh ra.
Căn phòng luôn luôn lạnh. Đêm nay có gió, cửa sổ đã bị long ra, và nó còn lạnh hơn bao giờ hết. Sàn làm bằng ván trơn, có những mảnh dạ thô bên trên. Tường trơ trụi, ngoại trừ một ít vải dầu màu xanh dương được đính vào để ngăn nước từ một cái chậu tắm. Chiếc chậu tắm, lúc này, đang bị trùm lên bởi một cái sơ mi, của Gentleman, và một hoặc hai cái cổ áo. Anh ta luôn luôn ngủ ở đây mỗi khi đến thăm, dù vẫn có thể cùng ông Ibbs làm một chiếc giường ở dưới bếp. Tôi biết mình sẽ chọn chỗ nào. Đôi giày ống da của anh ta nằm rũ trên sàn – đã được anh ta cạy sạch bùn và chùi bóng loáng. Cạnh đó là túi xách cùng vải lanh ló ra. Trên một chiếc ghế có vài đồng xu từ túi anh ta, một gói thuốc, và sáp niêm phong. Những đồng xu khá nhẹ. Chỗ sáp rất giòn, như kẹo bơ vậy.
Chiếc giường được làm một cách sơ sài. Bên trên có một tấm màn nhung đỏ, khuyên đã được lấy ra, dùng làm khăn phủ giường. Nó được lấy từ một căn nhà bị cháy, vẫn còn mùi xỉ. Tôi cầm lên choàng quanh vai, như một chiếc áo khoác. Rồi tắt lửa ở đèn cầy, đến đứng cạnh cửa sổ, run rẩy, nhìn ra các mái nhà, ống khói. Nhìn Horsemonger Lane Gaol, nơi mẹ tôi bị treo cổ.
Kính cửa sổ có dính vài bông tuyết băng đầu tiên, tôi đưa ngón tay lên đó, hầu khiến băng tan chảy thành nước bẩn. Tôi vẫn có thể nghe tiếng huýt sáo của ông Ibbs và tiếng dậm chân của Dainty, nhưng phía trước mặt, Borough thật tăm tối. Chỉ lác đác đây đó một ánh đèn lập loè nơi một ô cửa sổ như ô cửa này; rồi đèn lồng của xe ngựa, ném ra những chiếc bóng đen; một người chạy thục mạng trong cái lạnh, nhanh và ám muội như những chiếc bóng, đến và đi đều nhanh như nhau. Tôi nghĩ đến tất cả những kẻ trộm có mặt ở đó, tất cả những đứa trẻ của chúng, rồi đến tất cả những người đàn ông và phụ nữ bình thường đang sống cuộc đời của họ – bình thường hoặc khác thường – trong nhà họ, trên những con phố khác, ở những phần sáng sủa hơn của Luân Đôn. Tôi nghĩ đến Maud Lilly, trong ngôi nhà lớn của cô ta. Ba ngày trước, cô ấy còn chưa biết tên tôi – và tôi chưa biết tên cô ấy. Cô ấy không hề biết tôi đang đứng, vạch ra vở diễn sẽ huỷ hoại cô ấy, trong lúc Dainty Warren và John Vroom nhảy điệu polka trong bếp.
Cô ấy như thế nào? Tôi từng biết một cô gái tên Maud, cô ta chỉ có nửa phần môi. Cô ta từng thích dựng lên câu chuyện rằng nửa phần môi còn lại đã bị mất trong một cuộc đánh nhau. Tuy nhiên, tôi biết sự thật là, cô ta sinh ra đã như vậy rồi, chứ cô ta mà đánh nhau nổi với ai. Cuối cùng cô ta chết – không phải vì đánh nhau, mà vì ăn phải thịt hỏng. Một miếng thịt hỏng giết chết cô ta, chỉ có thế.
Nhưng, cô ta rất đen. Gentleman đã nói rằng cô Maud này, Maud của anh ta, thì trắng trẻo và đẹp. Nhưng khi nghĩ đến cô ấy, tôi chỉ có thể hình dung cô ấy ốm, màu nâu, thẳng đờ như cái ghế trong bếp mà tôi đã thắt áo nịt cho.
Tôi thử một động tác nhún chào. Tấm màn nhung khiến tôi vụng về. Tôi thử lần nữa. Trong nỗi sợ bất chợt, tôi bắt đầu đổ mồ hôi.
Rồi tiếng cánh cửa bếp mở ra, có tiếng bước chân lên cầu thang, giọng bà Sucksby gọi tôi. Tôi không trả lời. Tôi nghe tiếng bà đi vào các phòng ngủ bên dưới, tìm kiếm tôi. Rồi yên lặng, lại có tiếng chân của bà, trên chiếc thang lên gác xép, rồi có ánh sáng từ đèn cầy của bà. Việc lên thang khiến bà thở dài tí chút – chỉ một chút thôi, vì bà tuy mập nhưng rất lanh lẹ.
“Con ở đây hả, Sue?” Bà lặng lẽ hỏi. “Một mình, trong bóng tối à?”
Bà nhìn quanh, vào tất cả những thứ tôi đã nhìn – những đồng xu, sáp niêm phong, ủng của Gentleman, túi da. Rồi bà đến chỗ tôi, đặt bàn tay ấm và khô lên má tôi, tôi bèn nói – như thể bà đã cù hay véo tôi, và lời nói là tiếng cười hay bật thốt không thể cưỡng lại được – rằng:
“Nếu con chưa sẵn sàng cho việc này thì sao, bà Sucksby? Nếu con không thể làm được thì sao? Giả sử con mất bình tĩnh, làm bà thất vọng? Chẳng phải xét cho cùng, chúng ta định gửi Dainty đi còn gì?”
Bà lắc đầu, mỉm cười. “Nào, vậy thì,” bà dẫn tôi lại giường, chúng tôi ngồi xuống, bà đỡ đầu tôi xuống đến khi nó tựa trên đùi bà, đẩy tấm màn khỏi má tôi, vuốt tóc tôi. “Nào, xem nào.”
“Chẳng phải đó sẽ là một chặng đường dài sao?” Tôi ngước nhìn mặt bà.
“Không xa lắm,” bà trả lời.
“Bà sẽ nghĩ về con chứ, trong thời gian con ở đó?”
Bà gỡ một lọn tóc bị vướng nơi tai tôi.
“Từng phút một,” bà lặng lẽ nói. “Chẳng phải con là cô bé của ta sao? Con nghĩ ta không lo sao? Nhưng con sẽ có Gentleman bên cạnh. Lẽ ra ta không nên để con đi, vì bất cứ gã côn đồ tầm phào nào.”
Ít ra, là đúng như vậy. Nhưng tim tôi vẫn đập mạnh. Tôi lại nghĩ đến Maud Lilly – ngồi thở dài trong phòng cô ta, chờ tôi đến để tháo dây buộc và giữ áo ngủ của cô ấy trước ngọn lửa. Quý cô đáng thương, Dainty đã nói thế.
Tôi cắn bên trong má. Rồi thì: “Con có nên làm việc đó không, bà Sucksby?” Tôi nói. “Đó chẳng phải một trò lừa rất ác, rất đáng khinh sao?”
Bà nhìn thẳng vào mắt tôi, rồi nhướn mắt, gật đầu về phía khung cảnh bên trên cửa sổ. Bà nói, “Ta nghĩ bà ấy sẽ làm vậy, không hề nghĩ ngợi. Và ta biết bà ấy sẽ cảm thấy gì trong tim – lo sợ, nhưng cũng tự hào, và phần tự hào trội hơn – khi nhìn những gì con đang làm.”
Điều đó khiến tôi suy nghĩ. Trong một phút, chúng tôi ngồi, chẳng nói gì. Điều tiếp theo tôi hỏi bà là điều trước đây tôi chưa bao giờ hỏi – điều mà trong suốt những năm sống ở phố Lant, giữa tất cả phường trộm đạo mánh mung ấy, tôi cũng chưa bao giờ nghe ai hỏi, chưa bao giờ. Tôi thì thào,
“Bà nghĩ liệu có đau không, bà Sucksby, khi người ta treo cổ mình?”
Bàn tay của bà, bàn tay đang vuốt tóc tôi, khựng lại. Rồi nó lại bắt đầu vuốt ve, vững vàng như trước. Bà nói,
“Ta sẽ nói là con chẳng cảm thấy gì ngoài sợi dây quanh cổ. Khá nhột, ta nghĩ vậy.”
“Nhột hả?”
“Gọi là thốn vậy.”
Tay bà vẫn vuốt ve.
“Nhưng khi cửa bẫy mở?” Tôi nói. “Bà nghĩ, vẫn sẽ không cảm thấy gì?”
Bà nhúc nhích một chân. “Có lẽ là giật một cái,” bà thừa nhận, “khi cửa bẫy mở.”
Tôi nghĩ tới người đàn ông mình đã trông thấy bị treo cổ ở Horsemonger Lane. Đúng là, họ bị giật. Họ bị giật, khua chân tán loạn, hệt mấy con khỉ trên cành cây.
“Nhưng cuối cùng thì mọi thứ sẽ nhanh thôi,” bà nói tiếp, “ta thà nghĩ sự nhanh chóng đó sẽ choán sạch nỗi sau. Và khi treo cổ một quý bà – à, Sue này, con có biết là người ta thắt nút theo cách riêng để kết cục đến càng nhanh hơn?”
Tôi lại ngước nhìn bà. Bà đã đặt đèn cầy lên sàn, ánh sáng rọi khắp khuôn mặt bà từ bên dưới, khiến đôi má bà phồng hơn, đôi mắt già hơn. Tôi run lên, bà dịch bàn tay đến vai tôi, xoa nắn, khá mạnh, qua lớp vải nhung.
Rồi bà nghiêng đầu. “Em gái của ông Ibbs ấy, lại hoang mang rồi,” bà nói, “gọi đến mẹ cô ta. Cô ta gọi bà suốt, đáng thương, đã mười lăm năm nay. Ta không nên nói đến chuyện này, Sue. Ta nên nói là trong tất cả những con đường một người có thể bước đi, con đường ngắn gọn nhất, xét cho cùng, có lẽ là tốt nhất.”
Bà nói vậy, đoạn nháy mắt.
Bà nói vậy, có vẻ như bà thật sự nghĩ vậy.
Tuy nhiên, thi thoảng tôi vẫn tự hỏi liệu có phải bà nói vậy chỉ để tỏ ra tốt bụng hay không. Nhưng lúc đó thì tôi không nghĩ vậy. Tôi chỉ vươn dậy, hôn bà, vén gọn tóc ở nơi bà đã vuốt khiến nó rời ra. Lại có tiếng huỵch của cửa nhà bếp, lần này là tiếng chân nặng nề hơn tiến lên gác. Giọng Dainty vang lên.
“Chị đâu rồi, Sue? Chị không xuống nhảy sao? Ông Ibbs phát sợ rồi đây, mọi người đang cười rất vui ở dưới này.”
Tiếng hét của con bé đánh thức phân nửa bọn trẻ, bọn này lại đánh thức nửa còn lại. Nhưng bà Sucksby nói bà sẽ đi dòm chừng chúng. Tôi trở xuống, lần này đã nhảy, với bạn nhảy là Gentleman. Anh ta ôm tôi trong một bước nhảy valse. Anh ta say, ôm tôi rất chặt. John lại nhảy với Dainty, chúng tôi nhảy tưng tưng quanh bếp trong nửa tiếng – Gentleman vẫn luôn miệng gọi “Được lắm, Johny!” và “Lên nào, nhóc! Lên nào!” Ông Ibbs dừng lại một lần để xát chút bơ lên môi, giữ cho tiếng huýt sáo được ngọt.
Hôm sau, vào giữa ngày, là lúc tôi rời họ. Tôi gói tất cả đồ đạc của mình vào chiếc va li bọc vải dù và mặc chiếc đầm nâu đơn giản cùng áo khoác, và trên mái tóc phẳng phiu, đội một chiếc mũ bê-rê. Tôi đã học những điều được Gentleman dạy trong ba ngày. Tôi nhớ câu chuyện của mình, tên mới của mình – Susan Smith. Chỉ còn một việc nữa cần phải làm. Khi tôi đang ngồi lấy bữa ăn cuối cùng của mình trong căn bếp đó – bánh mì và thịt sấy, thịt hơi quá khô, cứ bám vào nứu răng – thì Gentleman thực hiện một việc. Anh ta lấy trong túi ra một mảnh giấy, chiếc bút cùng ít mực, dựng cho tôi một nhân vật.
Anh ta viết nhoay nhoáy xong trong một phút, tất nhiên là đã quen với việc giả mạo giấy tờ. Anh ta giơ nó lên để mực khô, rồi đọc. Nó bắt đầu thế này:
“Gửi người có trách nhiệm. Quý cô Alice Dunraven, tại phố Whelk, Mayfair, giới thiệu cô Susan Smith” – rồi cứ thế, tôi đã quên phần còn lại, nhưng với tôi thì nó ổn. Anh ta đặt nó trở xuống cho thẳng thớm, ký tên bằng nét chữ cong cong theo cách của một quý cô.
Rồi anh ta giơ ra cho bà Sucksby.
“Bà nghĩ sao, bà S?” Anh ta mỉm cười. “Như thế có đủ cho tình thế của Sue chưa?”
Nhưng bà Sucksby nói mình không hy vọng được phán xét điều này.
“Cậu biết rõ nhất mà, cậu trai yêu quý,” bà nhìn sang hướng khác.
Tất nhiên, nếu chúng tôi có bao giờ nhận giúp đỡ ở phố Lant, thì dù có thiếu, chúng tôi cũng không tìm đến danh tiếng. Từng có một cô gái nhỏ còi cọc thỉnh thoảng lại đến, để luộc khăn yếm của bọn trẻ và lau sàn, nhưng cô ta là một tay trộm. Chúng tôi không thể để một cô gái trung thực đến nhà. Chỉ ba phút họ cũng có thể thấy đủ hết việc mua bán trong nhà để tố cáo tất cả chúng tôi. Không thể để việc đó xảy ra.
|
Vậy là bà Sucksby phẩy tay gạt tờ giấy, Gentleman đọc kỹ lại lần thứ hai, rồi nháy mắt với tôi, gấp nó lại, niêm phong, đặt vào va li của tôi. Tôi nuốt mẩu thịt khô và bánh mì cuối cùng, cài áo khoác. Chỉ có bà Sucksby để chào tạm biệt. John Vroom và Dainty không bao giờ thức dậy trước một giờ. Ông Ibbs đã đi phá khoá một cái két ở Bow. Một giờ trước ông đã hôn má tôi, cho tôi một shi-ling. Tôi đội nón lên. Một món đồ màu nâu chán òm hệt chiếc đầm. Bà Sucksby sửa nó thẳng lại. Rồi đưa tay lên mặt tôi, bà mỉm cười.
“Chúa phù hộ con, Sue!” Bà nói. “Con đang làm giàu cho chúng ta!”
Nhưng rồi nụ cười của bà trở nên ủ rũ. Trước nay tôi chưa bao giờ rời xa bà, chưa bao giờ quá một ngày. Bà quay đi, để giấu những giọt nước mắt rơi xuống.
“Mang nó đi nhanh đi,” bà nói với Gentleman. “Mang nó đi nhanh, đừng để ta thấy!”
Thế là anh ta khoác tay quanh vai tôi, dẫn khỏi nhà. Anh ta tìm được một cậu bé để đi đằng sau, mang va li của tôi. Anh ta định dẫn tôi đến trạm xe ngựa, chở tôi tới nhà ga ở Paddington, đưa tôi lên tàu.
Một ngày thê thảm. Dẫu vậy, không phải thường xuyên mà tôi được băng qua nước. Tôi nói mình muốn đi bộ đến cầu Southwalk, để ngắm cảnh. Tôi nghĩ mình nên ngắm toàn bộ Luân Đôn từ chỗ đó, nhưng vì chúng tôi càng đi thì sương mù lại càng dày. Tại chiếc cầu, tình hình có vẻ tệ nhất. Có thể thấy được mái vòm đen của nhà thờ St Paul, những chiếc xà lan trên mặt nước. Có thể thấy tất cả những thứ tăm tối của thành phố, nhưng không thấy được những gì đẹp đẽ – nó đã bị lạc mất, hoặc biến thành bóng mờ.
“Thật kỳ khôi, khi nghĩ tới con sông bên dưới,” Gentleman nói, liếc nhìn qua mép cầu. Anh ta nhìn qua mép cầu, nhổ nước bọt.
Chúng tôi không hề trông đợi trời có sương mù. Nó khiến giao thông chậm rề rề. Và dù tìm được xe ngựa, nhưng sau hai mươi phút, chúng tôi trả tiền quách cho tài xế rồi lại đi bộ. Tôi đã định bắt chuyến tàu lửa lúc một giờ. Lúc này, rảo bước nhanh qua một quảng trường lớn, chúng tôi nghe tiếng chuông báo một giờ vang lên, rồi đến một giờ mười lăm, rồi một giờ rưỡi – tất thảy các âm thanh đó đều ẩm ướt và thờ ơ đến phát khùng lên được, như thể những quả lắc và chuông bị quấn bằng vải nỉ vậy.
“Liệu chúng ta có nên quay lại,” tôi nói, “và thử một lần nữa vào ngày mai?”
Nhưng Gentleman nói sẽ có tài xế và xe thồ được gửi tới Marlow để đón chuyến tàu lửa của tôi. Và rằng anh ta nghĩ, tôi thà trễ, còn hơn không đến.
Nhưng cuối cùng, khi rốt cuộc đến được Paddington, chúng tôi thấy tất cả tàu lửa đều bị trì hoãn và chậm trễ, cũng hệt như xe cộ. Vậy là chúng tôi phải chờ thêm một giờ, đến khi nhân viên canh gác ra tín hiệu rằng chuyến tàu lửa Bristol – chuyến tàu của tôi để đến Maidenhead, đến đó sẽ xuống và chuyển sang tàu khác – đã sẵn sàng để hành khách lên. Chúng tôi đứng dưới chiếc đồng hồ đang tích tắc, ngọ nguậy, thổi vào tay. Ở đó người ta đã thắp những chiếc đèn lớn, nhưng sương tràn vào, lẫn với khói hơi nước, trôi từ ngõ này sang ngõ khác khiến ánh sáng trở nên rất yếu ớt. Các bức tường được treo cờ đen, do cái chết của Hoàng tử Albert, chỗ tua đã bị đám chim vấy bẩn. Tôi nghĩ nó khá ảm đạm đối với một nơi hoành tráng đến vậy. Và dĩ nhiên, có cả một biển người phía sau chúng tôi, đều đang chờ đợi, nguyền rủa, hoặc chen lấn huých đẩy, hoặc để đám trẻ con hay chó chạy va vào chân chúng tôi.
“Mẹ kiếp,” Gentleman nói bằng giọng cáu kỉnh khó nghe khi bánh của một chiếc xe lăn cán lên ngón chân anh ta. Anh ta cúi xuống phủi bụi khỏi đôi bốt, rồi đứng thẳng dậy châm một điếu thuốc, rồi ho. Anh ta đã giở cổ áo lên cao, đội chiếc mũ vành úp màu đen. Mắt anh ta có màu vàng ở chỗ lẽ ra là tròng trắng, như thể bị dây bẩn bởi rượu pha trứng. Vào lúc đó, anh ta trông không hề giống một người đàn ông có thể khiến một cô gái phải ngẩn ngơ.
Anh ta lại ho. “Mẹ kiếp cả cái thứ thuốc lá rẻ tiền này,” anh ta kéo một sợi thuốc bị rơi ra trên lưỡi. Rồi bắt gặp ánh mắt tôi, gương mặt anh ta bèn thay đổi. “Mẹ kiếp cả cái cuộc sống rẻ mạt này, dưới mọi hình thức của nó – ơ, Suky? Sẽ sớm thôi, rồi tôi và cô sẽ chẳng phải chịu những thứ đó nữa.”
Tôi không nhìn anh ta nữa, chẳng nói gì. Đêm trước tôi đã nhảy điệu valse nhanh với anh ta. Giờ thì, cách xa phố Lant, bà Sucksby cùng ông Ibbs, giữa tất cả những người đàn ông, đàn bà đang tụ tập càu nhàu xung quanh, anh ta trông cũng chỉ như một người xa lạ. Tôi cảm thấy rụt rè với anh ta. Tôi nghĩ, Anh chẳng là gì với tôi cả. Một lần nữa, tôi thiếu điều nói rằng chúng tôi nên quay lại, trở về nhà. Nhưng tôi biết rằng nếu làm vậy, anh ta sẽ càng cáu kỉnh hơn, sẽ nổi giận. Vậy nên tôi không nói.
Anh ta hút một điếu xong, lại thêm điếu khác. Anh ta đi tìm chỗ tiểu tiện, tôi cũng vậy. Tôi nghe một tiếng còi hú trong lúc đang chỉnh đốn váy. Và khi quay lại, tôi trông thấy người canh gác đã ra hiệu lệnh. Phân nửa đám đông đã bắt đầu và đang sốt sắng đổ xô lên chiếc tàu đang chờ. Chúng tôi đi cùng họ, Gentleman dẫn tôi đến một chiếc ghế hạng hai, đưa va li của tôi cho người đàn ông đang sắp xếp các túi, hộp trên mái. Tôi ngồi vào chỗ cạnh một phụ nữ mặt trắng với đứa bé trong tay. Phía bên kia của bà ấy là hai người làm nông béo mập. Tôi nghĩ bà ấy mừng khi thấy tôi lên tàu, vì hẳn nhiên, tôi ăn mặc gọn gàng, nhã nhặn, bà ta đâu thể biết – ha ha! – rằng tôi là một ả trộm ở Borough. Từ phía sau tôi có một cậu bé cùng người cha già đi đến, với một con chim bạch yến trong chuồng. Cậu bé ngồi cạnh hai người nông dân. Người cha già ngồi cạnh tôi. Chiếc ghế nghiêng đi, kêu cọt kẹt, tất cả chúng tôi né đầu ra sau, trợn mắt nhìn chút bụi cùng véc ni bung ra từ trên nóc nơi hành lý trượt tới lui, va chạm huỳnh huỵch bên trên.
Cửa mở thêm một phút nữa rồi đóng lại. Trong sự hỗn loạn khi lên tàu, tôi gần như không nhìn tới Gentleman. Anh ta dẫn tôi lên, rồi quay sang nói chuyện với người canh gác. Bây giờ anh ta đi lại mở cửa sổ, nói rằng,
“Tôi e cô sẽ bị trễ nhiều, Sue. Nhưng tôi nghĩ xe sẽ chờ cô ở Marlow. Tôi bảo đảm nó sẽ chờ. Cô phải hy vọng như vậy!”
Tôi biết ngay tức thì, rằng điều đó sẽ chẳng xảy ra, và cảm thấy một nỗi sợ hãi lẫn khổ sở. Tôi nói nhanh, “Anh đi cùng tôi, được không? Mang tôi đến ngôi nhà đó?”
Nhưng làm thế nào anh ta làm vậy được? Anh ta lắc đầu, có vẻ nuối tiếc. Hai người dạng nhà nông, người phụ nữ, cậu bé, người cha già đều đang nhìn chúng tôi – tự hỏi chúng tôi nói đến căn nhà nào, tôi đoán vậy, và một người đàn ông đội mũ vành úp, với giọng nói như thế, sao lại nói chuyện với cô gái như tôi về căn nhà đó.
Rồi phu khuân vác trèo từ trên mái xuống. Một tiếng còi khác vang lên, chiếc tàu tròng trành một cái kinh hoàng và bắt đầu khởi hành.
Gentleman nhấc chiếc nón ra, đi theo đến khi động cơ tăng đủ tốc độ. Anh ta đành thôi. Tôi nhìn anh ta quay đi, đội lại nón, cuộn cổ áo lên. Rồi anh ta đi mất.
Băng ghế kêu cọt kẹt dữ hơn, bắt đầu lắc. Người phụ nữ và mấy người đàn ông đặt tay lên đai da, còn thằng bé đưa mặt ra cửa sổ. Con chim bạch yến để mỏ nơi các thanh chắn của chuồng. Đứa bé bắt đầu khóc. Nó khóc suốt nửa giờ.
“Bà không có chút gin à?” Cuối cùng, tôi hỏi người phụ nữ.
“Gin?” Bà ấy hỏi lại – như thể tôi đã nói thuốc độc vậy. Rồi bà ta bĩu môi, đưa vai về phía tôi – không hài lòng lắm khi có tôi ngồi cạnh, một ả tự cao tự đại, nói cho cùng là vậy.
Có cái gì với họ vậy chứ, người phụ nữ cùng đứa bé, con chim bạch yến, người cha già – đã ngủ thiếp đi và ngáy, cả thằng bé – nó làm vo giấy thành viên tròn, cả hai người nông dân – hút thuốc và buồn nôn, rồi sương mù – khiến chiếc tàu giật cục, trì hoãn và đến Maidenhead trễ mất hai giờ. Thế là tôi nhỡ một chuyến tàu đi Marlow, đành phải chờ chuyến tiếp theo. Cái quái gì vậy chứ, cuộc hành trình của tôi thật tồi tệ. Tôi đã chẳng mang theo chút thức ăn nào, vì tất cả chúng tôi ngỡ tôi sẽ đến Briar kịp giờ cho bữa trà của người hầu tại đó. Kể từ bữa ăn với bánh mì, thịt khô vào buổi trưa thì tôi chẳng có đến một mẩu thịt vụn. Thịt khô dính vào nứu răng tôi, nhưng tôi lẽ ra có thể gọi điều đó là tuyệt vời so với khi đến Maidenhead – bảy giờ sau. Sân ga ở đó không giống Paddington, nơi có những quầy cà phê, sữa cùng một cửa hàng bánh ngọt. Ở đây chỉ có một nơi bán nhu yếu phẩm, mà nó lại ngưng bán và đóng cửa mất rồi. Tôi ngồi trên va li của mình. Mắt tôi nhói buốt vì sương mù. Khi hỉ mũi, tôi biến chiếc khăn tay thành màu đen. Một người đàn ông trông thấy việc đó. “Đừng khóc,” ông ta mỉm cười.
“Tôi không khóc!” Tôi nói.
Ông ta nháy mắt, rồi hỏi tên tôi.
Tuy nhiên, ở thị trấn mà tán tỉnh là một việc. Nhưng tôi đâu phải đang ở trong thị trấn. Tôi không trả lời.
Khi tàu đi Marlow đến, tôi ngồi ở phía sau một băng ghế, ông ta ngồi phía trước, nhưng mặt quay về phía tôi – trong suốt một giờ tìm cách nhìn vào mắt tôi. Tôi nhớ Dainty nói nó từng ngồi trên tàu lửa một lần, gần một quý ông, ông ta đã mở quần, cho con bé xem của quý của ông ta, nói con bé cầm vào đó. Con bé đã làm như vậy, ông ta cho con bé một bảng. Tôi tự hỏi mình sẽ làm gì nếu người đàn ông này nói tôi chạm vào của quý của ông ta – liệu tôi sẽ thét lên, nhìn sang hướng khác, hay chạm vào đó, hay làm gì khác.
Nhưng rồi, tôi cũng chẳng cần đồng bảng đó cho nơi mà mình sắp đến!
Dẫu sao, tiền kiểu đó cũng khó lòng xài. Dainty không bao giờ có thể tiêu tiền của nó vì sợ cha nó thấy và biết rằng con bé đã làm điều truỵ lạc. Nó giấu tiền đằng sau một viên gạch bị lung lay trong tường của xưởng hồ, làm một ký hiệu đặc biệt lên viên gạch, để chỉ một mình nó biết. Nó nói sẽ kể khi nằm trên giường chờ chết, và chúng tôi có thể dùng một bảng đó để mai táng nó.
À, người đàn ông trên tàu của tôi thì quan sát tôi rất dữ dội, nhưng nếu ông ta có mở quần đi nữa tôi cũng chẳng hề thấy. Cuối cùng, ông ta nghiêng nón, xuống tàu. Sau đó có thêm những lần tàu dừng, mỗi lần lại có ai đó xuống, từ các nơi xa hơn dọc đường tàu. Chẳng có ai lên tàu. Các nhà ga nhỏ dần, tối dần, cho đến khi, cuối cùng, chẳng còn gì ở những nơi đó ngoài một cái cây – khắp nơi chẳng thấy gì, ngoài cây cối, phía trên là các lùm bụi, bên trên là sương – sương xám, chứ không phải nâu – cùng với bầu trời đêm tối đen phía trên nữa. Và khi cây cối, lùm bụi trông có vẻ không thể dày đặc hơn nữa, bầu trời còn đen hơn hình dung của tôi về một bầu trời tự nhiên, thì chiếc tàu dừng lần cuối. Đó là Marlow.
Tại đây, chẳng có ai, ngoài tôi, xuống tàu. Tôi chính là hành khách cuối cùng. Người canh gác báo hiệu tàu dừng, đi đến dỡ va li của tôi xuống. Anh ta nói,
“Cô sẽ cần ai đó mang dùm thứ này đấy. Không có ai đến đón cô sao?”
Tôi nói với anh ta lẽ ra sẽ có một người cùng với xe ngựa kéo, để đưa tôi đến Briar. Anh ta hỏi, rằng có phải tôi nói đến cái xe gom thư tín không? Nó đã đến và rời đi ba giờ trước rồi. Anh ta nhìn tôi thật kỹ.
“Cô từ Luân Đôn đến hả?” Anh ta hỏi. Rồi anh ta gọi người tài xế đang nhìn ra từ buồng lái. “Cô ấy từ Luân Đôn xuống, muốn đến Briar. Tôi nói với cô ấy là cái xe của Briar đã đến và rời đi rồi.”
“Đúng, đúng là nó đến và rời đi,” người tài xế lớn giọng đáp. “Nó đến và rời đi, chắc cũng ba giờ trước rồi.”
Tôi đứng đó, run rẩy. Ở đây lạnh hơn ở nhà. Lạnh hơn, tối hơn, không khí có mùi kỳ quặc, còn mọi người thì – tôi có nên nói không? – mọi người đều là những kẻ thộn ngu ngốc.
Tôi nói, “Không người nài ngựa nào có thể chở tôi đi sao?”
“Nài ngựa?” Người canh gác nói. Anh ta kêu lớn với tài xế. “Cô ta cần nài ngựa!”
“Nài ngựa!”
Họ cười sặc sụa. Người canh gác rút ra một cái khăn tay, lau miệng, nói, “Ôi, lạy trời! Lạy trời, lạy trời. Một nài ngựa, ở Marlow!”
“Ôi, biến đi,” tôi nói. “Biến đi, cả hai người các anh.”
Rồi tôi xách va li lên, bước đi cùng nó đến nơi tôi có thể trông thấy một hoặc hai ngọn đèn đang chiếu sáng. Tôi ngỡ chỗ đó có nhà cửa trong làng. Người canh gác nói, “Sao vậy, cô kia -! Tôi sẽ nói với ngài Way về cô. Để xem ngài ấy sẽ nghĩ gì – cô mang cái giọng Luân Đôn đó xuống tận đây à -!”
Tôi chẳng biết mình muốn làm gì tiếp theo nữa. Tôi không biết từ chỗ này đến Briar là bao xa. Tôi thậm chí còn không biết mình nên đi theo lối nào. Luân Đôn cách đây bốn mươi dặm, và tôi sợ đám bò, cừu.
Nhưng nói cho cùng, đường quê không giống như đường phố. Chỉ có khoảng bốn con đường, thảy sau rốt đều quay về một chỗ. Tôi bắt đầu bước đi, được một phút thì, từ phía sau tôi, vang lên tiếng móng guốc và bánh xe kêu cọc cạch. Một chiếc xe ngựa tấp vào song song với tôi. Người tài xế phanh lại, giơ một cái đèn lên, nhìn mặt tôi.
“Cô hẳn là Susan Smith,” ông ta nói, “từ Luân Đôn đến. Cô Maud bồn chồn về cô suốt cả ngày hôm nay.”
Đó là một người đàn ông đứng tuổi, tên William Inker. Người chăm sóc ngựa của ngài Lilly. Ông ta vác va li của tôi lên, giúp tôi ngồi vào chỗ cạnh ông ta, rồi hô cho con ngựa chạy. Rồi khi – bị quật bởi gió trong lúc xe chạy – ông ta cảm thấy tôi run, đã với lấy một chiếc chăn len kẻ ô đưa tôi đắp lên chân.
Sáu hay bảy dặm gì đó thì đến Briar. Ông ta thả cho ngựa đi nước kiệu, hút một cái tẩu. Tôi kể với ông về sương mù – đến tận lúc này, ở đây, vẫn còn chút ít hơi nước – cùng những chuyến tàu chậm trễ.
Ông nói, “Luân Đôn là thế. Nổi tiếng về sương mù mà, đúng không? Cô từng về vùng quê nhiều chưa?”
“Không nhiều,” tôi nói.
“Làm người hầu ở thành phố hả? Tốt không, chỗ trước của cô ấy?”
“Rất tốt,” tôi nói.
“Cô có cách nói chuyện kỳ quặc đấy, đối với một cô hầu gái cho quý cô,” ông ta nói. “Từng đến Pháp chưa?”
Tôi dừng lại một giây, vuốt thẳng chiếc chăn trên đùi. “Một hai lần gì đó,” tôi nói.
“Đám trai lùn há, mấy thằng trai Pháp ấy, ta nghĩ vậy, há? Ý ta là cặp chân ấy.”
Chà, tôi chỉ biết mỗi một người Pháp – một kẻ chuyên nhập nha, mọi người gọi hắn là Jack the German, tôi cũng không biết tại sao. Hắn cũng cao, nhưng để làm hài lòng William Inker, tôi nói, “Khá thấp, tôi nghĩ vậy.”
“Tôi mong vậy,” ông nói.
Con đường yên lặng và tối một cách hoàn hảo. Tôi mường tượng âm thanh của con ngựa, bánh xe, giọng của chúng tôi, được mang đi xa dần dọc theo các cánh đồng. Rồi tôi nghe thấy, từ khá gần, tiếng rung chuông chậm rãi – một âm thanh rất ai oán, vào lúc đó tôi cảm thấy vậy, không giống tiếng chuông phấn khởi của Luân Đôn. Nó rung chín lần.
“Đó là chuông của Briar, để báo giờ,” William Inker nói.
Sau đó chúng tôi ngồi trong im lặng, chỉ ít lâu thì đến một bức tường đá cao, đi vào một con đường chạy phía sau. Bức tường nhanh chóng trở thành đoạn cong vĩ đại. Và rồi tôi trông thấy đằng sau nó cái mái, những cửa sổ nhọn của một ngôi nhà xám xịt, phân nửa phủ dây thường xuân. Tôi nghĩ đó là một cái lều khá lớn, nhưng đâu có hoành tráng hay thâm u lắm, chắc Gentleman đã tô vẽ thêm rồi. Nhưng khi William Inker dẫn ngựa chậm lại, tôi lấy chiếc chăn ra, với lấy va li, thì ông nói,
“Chờ đã, cô gái, chúng ta chưa đi được nửa dặm nữa mà!” Và rồi, ông gọi lớn với một người đàn ông xuất hiện cùng chiếc đèn ở cửa ngôi nhà, “Chúc ngủ ngon, ngài Mack. Ông đóng cổng phía sau chúng tôi được rồi. Đây là cô Smith, xem này, cuối cùng cũng an toàn.”
Toà nhà mà tôi ngỡ là Briar hoá ra chỉ là nhà của người gác cổng! Tôi tròn mắt, chẳng nói gì. Chúng tôi chạy ngang qua nó, giữa hai hàng cây trần trụi tối tăm uốn cong theo con đường, rồi lún xuống thành một dạng đường trũng, nơi không khí – ban nãy dường đã dễ chịu hơn một chút trên những con đường quê rộng – giờ lại trở thành đặc hơn. Đặc đến nỗi tôi cảm thấy được, ẩm ướt trên mặt, trên lông mi và môi. Tôi nhắm mắt. Rồi sự ẩm ướt biến mất. Tôi mở mắt, và lại trơ ra nhìn. Con đường đã đi lên, chúng tôi ra khỏi các hàng cây, đi vào khu đất trống rải sỏi, và đây – vươn thẳng, uy nghi, nổi bật trên nền sương mập mờ, với tất cả cửa sổ tối đen hoặc nhấp nháy, tường bám một loại thường xuân chết, hai ống khói toả những sợi khói xám yếu ớt – đây là Briar, ngôi nhà vĩ đại của cô Maud, nơi bây giờ tôi phải gọi là nhà.
Chúng tôi không chạy qua trước mặt tiền nhà, mà vẫn chạy một bên, vào một lối đi uốn cong sau ngôi nhà, nơi có một mớ sân bãi, hàng hiên, cổng vòm, thêm những bức tường tối cùng cửa sổ nhấp nháy lẫn tiếng sủa của mấy con chó. Phía cao nơi một trong số những dãy nhà là một mặt đồng hồ tròn, màu trắng với các kim đen to – thứ đã phát ra tiếng báo giờ tôi nghe được trên các cánh đồng. Bên dưới, William Inker ghìm cương ngựa, rồi giúp tôi xuống. Một cánh cửa mở ra từ một trong số các bức tường, một người phụ nữ đứng nhìn chúng tôi chăm chú, tay khoanh lại vì lạnh.
“Đó là bà Stiles, bà ấy nghe tiếng xe,” William nói. Chúng tôi băng qua sân, đến chỗ bà ấy. Phía trên chúng tôi, nơi một cửa sổ nhỏ, tôi trông thấy ánh lửa đèn cầy phát sáng, nhấp nháy, rồi biến mất.
Cánh cửa dẫn vào một lối đi, lối đi dẫn tới một căn bếp lớn, sáng, kích thước gấp khoảng năm lần bếp của chúng tôi ở phố Lant. Nồi được xếp thành hàng phía trên một bức tường quét vôi trắng, vài con thỏ treo trên móc mắc nơi xà nhà. Tại chiếc bàn rộng sạch sẽ có một cậu bé, một người phụ nữ cùng ba hay bốn cô gái đang ngồi – tất nhiên họ đều nhìn tôi đầy soi mói. Các cô gái săm soi chiếc nón bê rê và đường xẻ trên áo khoác. Tạp dề, áo xống của họ chỉ dành cho người giúp việc mặc, tôi chẳng màng đến việc quan sát họ.
Bà Stiles nói, “Chà, cô không thể nào trễ hơn được nữa. Trễ hơn nữa thì cô sẽ phải ở lại làng. Ở đây chúng tôi làm gì cũng sớm sủa.”
Bà khoảng năm mươi tuổi, đội một chiếc nón trắng đính diềm xếp nếp, có kiểu cách không màng nhìn đến bạn khi nói chuyện với bạn. Bà mang theo mình mớ chìa khoá, xâu thành chuỗi ở cổ tay. Những chiếc chìa đơn giản, lỗi thời, tôi có thể sao chép bất cứ chiếc nào trong số chúng.
Tôi hơi nhún người chào bà. Tôi không nói – dù cũng nên – rằng bà nên biết ơn việc tôi đã không quay về tại Paddington, rằng tôi ước giá mình đã quay lại, và để cho bất kỳ ai khác lãnh khoảng thời gian tôi đã lãnh trong nỗ lực đi bốn mươi dặm từ Luân Đôn, có lẽ đi để chứng minh Luân Đôn không phải nơi nên rời đi. Tôi đã không nói những điều đó. Điều tôi nói là:
“Tôi chắc chắn, là mình rất biết ơn việc xe được gửi đến.”
Các cô gái ngồi nơi bàn cười rúc rích để nghe tôi nói. Người phụ nữ ngồi cùng họ - hoá ra chính là đầu bếp – đứng dậy bắt tay làm khay thức ăn cho bữa tối của tôi. William Inker nói,
“Cô Smith đến từ một nơi rất tươm tất ở Luân Đôn, thưa bà Stiles. Và cô ấy từng đến Pháp vài lần.”
“Vậy à,” Bà Stiles nói.
“Chỉ một hay hai lần thôi,” tôi nói. Giờ thì mọi người sẽ đoán là tôi đã huênh hoang.
“Cô ấy nói bọn trai ở đó có cặp chân rất ngắn.”
Bà Stiles gật đầu một cái. Mấy cô gái ở bàn lại cười rúc rích, một trong số họ thì thào gì đó khiến cậu trai đỏ bừng mặt. Nhưng rồi phần ăn của tôi được làm xong, và bà Stiles nói,
“Margaret, cô có thể mang thẳng cái này đến phòng tôi. Cô Smith, tôi nghĩ mình sẽ dẫn cô tới nơi có thể rửa mặt và tay.”
Tôi hiểu điều này có nghĩa là bà sẽ dẫn tôi đến nhà xí, tôi nói mình mong được bà dẫn đường. Bà đưa tôi một chiếc đèn cầy, dẫn vào một lối đi ngắn khác, vào một cái sân khác có hố xí tự hoại cùng giấy đặt trên chấn song.
Rồi bà dẫn tôi đến căn phòng nhỏ của bà. Nó có một mặt lò sưởi bên trên đặt hoa bằng sáp màu trắng, một bức ảnh của một thuỷ thủ đặt trong khung, tôi đoán là ngài Stiles, đã đi ra biển. Một bức ảnh khác – một thiên thần, hoàn toàn mệt mỏi trong mái tóc đen, hẳn là ông Stiles, đã lên Thiên đường. Bà ngồi nhìn tôi dùng bữa khuya. Nó gồm thịt cừu băm, bánh mì bơ. Và bạn có thể tưởng tượng, đói ngấu như tôi lúc này, thì không cần nhiều thời gian với chúng. Trong lúc tôi ăn, có tiếng chuông rề rà của chiếc đồng hồ tôi đã được nghe lúc trước, báo hiệu chín giờ rưỡi. Tôi hỏi,
“Đồng hồ báo giờ suốt đêm sao?”
Bà Stiles gật đầu. “Suốt đêm, suốt ngày, vào giờ đúng và giờ rưỡi. Ông Lilly thích mỗi ngày của mình trôi qua thật đều. Rồi cô sẽ thấy.”
“Còn cô Lilly?” Tôi nhặt những vụn bánh mì nơi khoé miệng. “Cô ấy thích thế nào?”
Bà vuốt thẳng tạp dề. “Cô Maud thích những gì chú cô ấy thích,” bà trả lời. Rồi chỉnh lại môi, bà nói, “Cô sẽ thấy, cô Smith, rằng cô Maud chỉ là một cô gái trẻ, dẫu vậy vẫn là cô chủ của một căn nhà lớn. Những người giúp việc không quấy rầy cô ấy, vì họ nhận lệnh từ tôi. Tôi nên nói mình đã là quản gia đủ lâu để biết cách tìm một hầu gái cho cô chủ của tôi – nhưng, ngay cả một quản gia cũng phải làm theo lệnh, và cô Maud thì lớn quyền hơn tôi trong việc này. Khá lớn quyền hơn tôi. Tôi không cho việc này là hoàn toàn sáng suốt, đối với một cô gái ở lứa tuổi cô ấy. Nhưng chúng ta sẽ xem sự thể ra sao.”
Tôi nói, “Tôi đoan chắc bất kỳ điều gì cô Lilly làm đều sẽ trở thành ổn thoả.”
Bà nói, “Tôi có dàn nhân công tuyệt vời, để đoan chắc về việc đó. Đây là một ngôi nhà được quản lý tốt, cô Smith, và tôi hy vọng cô sẽ thích nghi được. Tôi không biết cô quen với điều gì tại nơi ở trước. Tôi không biết ở Luân Đôn thì nhiệm vụ của một hầu gái cho cô chủ là gì. Tôi chưa từng đến đó – bà ta chưa từng đến Luân Đôn! – nên cũng chẳng nói được. Nhưng nếu cô lưu tâm đến những cô gái khác của tôi, thì chắc chắn họ cũng sẽ lưu tâm đến cô. Những người đàn ông và mấy cậu giữ ngựa, thì hẳn nhiên, tôi hy vọng không bao giờ thấy cô trò chuyện với họ ngoài phạm vi giúp đỡ.”
Bà cứ nói như thế trong mười lăm phút – suốt thời gian đó, như tôi đã nói, ánh nhìn của bà chẳng hề chạm mắt tôi. Bà nói cho tôi biết những nơi trong ngôi nhà mà tôi có thể đến, nơi tôi phải dùng bữa, tôi được phép sử dụng bao nhiêu đường, bao nhiêu bia cho nhu cầu cá nhân, khi nào thì tôi có thể có quần áo lót được giặt sạch. Về trà được đun ngay trong ấm của cô Maud, bà nói, đó là thói quen của người hầu gái trước truyền lại cho các cô gái trong bếp. Tương tự, sáp dư từ đế nến của cô Maud: chúng được đưa cho ông Way. Như vậy ông Way sẽ biết được có bao nhiêu sáp dư, vì ông là người phân phối nến. Nút bần thì đến tay Charles, cậu bé rửa dao. Xương và da đến tay Cook.
“Tuy nhiên, những mẩu xà phòng mà cô Maud để lại ở chậu rửa,” bà nói, “vì chúng đã quá khô để đánh bọt, nên cô được giữ chúng.”
Chà, đúng là người giúp việc – lúc nào cũng nề hà về những thứ vặt vãnh. Làm như tôi bận tâm lắm vậy, chân nến với xà phòng! Nếu đã từng cảm thấy khấp khởi, tôi biết khi mình cảm thấy điều đó, thì đó chính là sự khấp khởi đối với ba ngàn bảng.
Sau đó bà nói nếu tôi đã dùng xong bữa khuya, bà sẽ vui lòng đưa tôi về phòng mình. Nhưng bà phải yêu cầu tôi giữ thật yên lặng trong lúc đi, vì ông Lilly thích căn nhà yên tĩnh, ông không chịu được sự lộn xộn, và cô Maud cũng dễ âu lo hệt như ông, không cho phép người khác làm quấy rầy khi nghỉ ngơi hoặc bị khiến cho phiền muộn.
Nói xong, bà cầm chiếc đèn lên, còn tôi cầm nến. Bà dẫn tôi vào lối đi, leo lên một cầu thang tối. “Đây là lối đi cho người hầu,” bà nói trong lúc chúng tôi đi, “cô phải luôn đi lối này, trừ phi cô Maud bảo cô làm khác.”
Càng đi lên cao, giọng và bước chân của bà càng nhẹ hơn. Cuối cùng, sau khi leo lên ba đôi thang, bà dẫn tôi đến một cánh cửa, thì thào rằng đó là cửa đến phòng của tôi. Đưa một ngón tay lên môi, bà chậm rãi xoay tay nắm cửa.
Trước đây tôi chưa từng có phòng riêng. Hiện giờ tôi cũng không hẳn là muốn có. Nhưng, vì phải như vậy, thì tôi nghĩ căn phòng này khá ổn. Nhỏ, đơn giản – có lẽ sẽ trông được hơn nếu có một, hai vòng hoa giấy hoặc ít con chó nhựa. Nhưng có gương soi trên bệ lò sưởi, và trước lò lửa là một tấm thảm len. Cạnh chiếc giường là va li vải bạt của tôi – chắc William Inker đã mang nó lên.
Gần đầu giường có một cánh cửa khác, đóng khá chặt, không cắm chìa. “Nó dẫn tới đâu?” Tôi hỏi bà Stiles, đinh ninh nó là phòng xép hoặc dẫn tới một lối đi khác.
“Đó là cửa sang phòng cô Maud,” bà nói.
Tôi nói, “Cô Maud ở bên kia, đang ngủ trên giường?”
Có lẽ tôi nói hơi lớn, nhưng bà Stiles rùng mình, hệt như tôi vừa thét lên hay vỗ lục lạc vậy.
“Cô Maud ngủ không được tốt,” bà lặng lẽ trả lời. “Nếu tỉnh dậy giữa đêm, cô ấy muốn người hầu gái đến chỗ mình. Cô ấy sẽ không gọi cô, vì bây giờ cô còn là người lạ. Chúng tôi sẽ đặt một cái ghế cho Margaret bên ngoài cửa phòng cô ấy, và trong ngày mai Margaret sẽ mang bữa sáng, vận trang phục cho cô ấy. Sau đó, cô phải sẵn sàng để được gọi vào kiểm tra.” Bà bảo bà hy vọng cô Maud sẽ vừa lòng với tôi. Tôi nói mình cũng hy vọng như vậy.
|