Fingersmith (Kẻ Móc Túi)
|
|
Thể Loại: Truyện dài
Tựa đề: Fingersmith (Kẻ móc túi)
Tác giả:Sarah Waters
Dạng: Dịch
Tình trạng: Chưa hoàn thành.
|
Chương 1
Tên tôi, vào những ngày ấy, là Susan Trinder. Mọi người gọi tôi là Sue. Tôi biết năm sinh của mình, nhưng trong suốt nhiều năm không được biết ngày tháng, bèn chọn sinh nhật vào lễ Giáng sinh. Tôi tin mình là trẻ mồ côi. Tôi biết mẹ của mình đã chết. Tôi chưa bao giờ thấy bà, nên bà chẳng là gì với tôi cả. Nếu phải là ai đó, thì tôi là một đứa trẻ của bà Suckby. Nói về cha, tôi có ông Ibbs – người thợ khoá có cửa hàng ở phố Lant, Borough, gần sông Thames. Đây là lần đầu tiên tôi nhớ việc mình đã suy nghĩ về thế giới và vị trí của bản thân.
Một con bé tên Flora trả bà Suckby một penny để dẫn tôi đi ăn xin tại một vở kịch. Dạo đó người ta từng thích dẫn tôi đi ăn xin vì tôi có mái tóc sáng màu. Flora cũng khá trắng trẻo, thế là con bé cho tôi vào vai em gái. Rạp mà cô ấy dẫn tôi đến – vào cái đêm mà lúc này tôi đang nghĩ tới – là Surrey, rạp xiếc của St George. Vở Oliver Twist. Tôi có ấn tượng rất kinh khủng về nó. Tôi nhớ độ nghiêng của rạp diễn, dốc xuống tận sàn. Một người phụ nữ say khướt tóm lấy các chiếc nơ trên váy tôi. Những tia sáng rực rỡ khiến sàn diễn lung linh hào nhoáng, tiếng gầm của diễn viên, tiếng rú rít của khán giả. Có cả một nhân vật đội tóc giả màu đỏ và đeo râu quai nón, lúc đó tôi đoan chắc hắn ta là một con khỉ mặc áo khoác, bởi hắn nhảy nhót hệt như thế. Nhưng tệ hơn là con chó mắt đỏ cứ gầm gừ luôn miệng. Tệ hơn hết thảy nữa là chủ con chó – Bill Sykes, gã ma cô. Khi ông ta đánh cô gái Nancy đáng thương bằng dùi cui, tất cả mọi người từ hàng ghế của tôi trở xuống đều đứng dậy. Một chiếc giày bốt bị ném lên sân khấu. Một người phụ nữ cạnh tôi thét lên,
“Ôi, đồ quái vật! Đồ du côn! Cô gái đáng giá bốn chục thằng côn đồ như ngươi!”
Không biết do việc mọi người đứng dậy – khiến phòng diễn dường như nhấp nhô nghiêng ngả, do tiếng la hét của người phụ nữ, hay do cảnh tượng Nancy nằm xụi lơ, trắng xác dưới chân Bill Sykes, nhưng tôi bị tóm chặt bởi cơn kinh hãi tột độ. Tôi tưởng tất cả sắp bị giết. Bèn bắt đầu hét lên. Flora không thể bắt tôi im lặng được. Và khi người phụ nữ đã la lớn nọ đặt cánh tay lên tôi, mỉm cười, tôi càng hét to hơn. Rồi Flora bắt đầu khóc – con bé mới chỉ mười hai hay mười ba tuổi, tôi đoán vậy. Con bé dẫn tôi về nhà, bị bà Sucksby tát vào mặt.
“Mày nghĩ cái gì vậy hả, mà lại dẫn con bé đến đó?” Bà nói. “Lẽ ra mày nên ngồi với con bé trên bậc. Tao không cho thuê đám nhóc để chúng bị dẫn về như thế này, xanh cả mặt vì khóc. Mày đang chơi trò gì vậy hả?”
Bà đặt tôi lên đùi, tôi lại khóc thút thít. “Ngoan nào, cừu con của ta,” bà nói. Flora đứng trước mặt bà, không nói gì, kéo kéo một lọn tóc nơi chiếc má đỏ hoe. Bà Sucksby khi giận dữ chẳng khác nào quỷ sa tăng. Bà nhìn Flora, nhịp bàn chân xỏ dép lên thảm, cứ thế đung đưa trên ghế – một chiếc ghế gỗ kêu cọt kẹt mà ngoài bà ra không còn ai khác ngồi – và vỗ bàn tay dày, cứng lên chiếc lưng run rẩy của tôi. Rồi thì,
“Ta biết cái mánh mung nho nhỏ của mày,” bà lẳng lặng nói. Bà biết tất tần tật mánh mung của mọi người. “Mày lấy được gì hả? Hai cái khăn tay phải không? Hai cái khăn tay, và túi xách của một quý bà?”
Flora kéo lọn tóc vào miệng, cắn. “Một túi xách,” chốc sau nó nói. “Và một chai nước thơm.”
“Lấy ra coi,” bà Sucksby nói, chìa tay ra. Mặt Flora tối sầm. Nhưng nó đưa ngón tay đến một vệt rách ở eo váy, thò vào trong. Bạn có thể hình dung sự ngạc nhiên của tôi khi vệt rách hoá ra hoàn toàn không phải một vệt rách, mà là miệng của một chiếc túi lụa nhỏ được đính vào bên trong váy. Nó lấy ra một túi vải đen nhỏ, một cái chai với nút đậy trên một sợi dây bạc. Trong túi vải có một đồng ba mươi xu và nửa hạt nhục đậu khấu. Chắc nó lấy được từ người đàn bà say đã túm váy của tôi. Cái chai đã bị mở nắp, có mùi hoa hồng. Bà Sucksby hít hít.
“Xoàng xĩnh quá,” bà nói, “phải không?”
Flora hất đầu. “Lẽ ra con còn lấy được nhiều hơn,” nó nói, liếc nhìn tôi, “nếu nó không mở mồm ré toáng lên.”
Bà Sucksby vươn tới đánh nó cái nữa.
“Ta mà biết mày như thế,” bà nói, “thì mày sẽ chẳng có được gì đâu. Giờ để ta nói cho mà biết: nếu muốn một đứa nhóc để lên mặt kẻ cả, thì chọn đứa nào khác của tao đi. Đừng có chọn Sue. Có nghe không hả?”
Flora sưng sỉa, nhưng bảo rằng nó sẽ làm vậy. Bà Sucksby nói, “Tốt. Giờ thì biến đi. Và để mấy thứ thó được lại, không thì ta sẽ nói với mẹ mày là mày đi với đàn ông đấy.”
Rồi bà đem tôi về giường của bà – trước tiên, dùng tay cọ xát tấm trải để chúng ấm lên, cúi xuống thở vào ngón tay tôi để tôi được ấm. Tôi là đứa duy nhất trong số tất cả bọn trẻ được bà làm thế này. Bà nói, “Giờ con không sợ chứ, Sue?”
Nhưng tôi còn sợ, bèn trả lời như thế. Tôi nói mình sợ bị lão ma cô tìm thấy, bị lão dùng gậy đánh. Bà nói đã từng nghe nhắc đến chính cái lão ma cô ấy, rằng hắn chỉ huênh hoang thôi.
“Là Bill Sykes đúng không? Biết sao không, hắn là người vùng Clerkenwell. Hắn không gây sự với người vùng Borough đâu. Những anh chàng ở Borough quá khó chơi đối với hắn.”
Tôi nói, “Ôi, nhưng, bà Sucksby! Bà đâu có thấy Nancy đáng thương và cách hắn đánh cô ấy quỵ xuống rồi giết chết cô ấy!”
“Giết chết hả?” Bà nói. “Nancy ấy hả? Đâu có, mới một giờ trước cô gái còn ở đây với ta mà. Chỉ bị đánh trên mặt một chút thôi. Bây giờ tóc của cô ta được uốn khác đi rồi, con sẽ không còn nhận ra lão kia từng chạm tay vào cô ấy đâu.”
Tôi nói, “Nhưng lão ta sẽ không đánh cô ấy nữa chứ?”
Bà bèn nói với tôi rằng Nancy cuối cùng đã ngộ ra và rời bỏ hoàn toàn Bill Sykes rồi, rằng cô ấy đã gặp một anh chàng tốt ở Wapping, anh chàng này đã sắp đặt cho cô gái làm ở một cửa hàng nhỏ bán chuột đường và thuốc lá.
Bà vén tóc quanh cổ tôi, vuốt thẳng dọc trên gối. Tóc của tôi, như đã nói, bấy giờ rất sáng màu – mặc dù khi tôi lớn nó trở thành màu nâu đơn giản – và bà Sucksby từng gội nó bằng giấm, chải đến khi nó sáng bóng lên. Giờ khi đã vuốt phẳng tóc tôi, bà nhấc một sợi lên chạm vào môi, và nói, “Nếu Flora định lên mặt với con lần nữa, nói cho ta biết, được chứ?”
Tôi vâng dạ. “Ngoan lắm,” bà nói, rồi đi khỏi. Bà đem cây nến đi luôn, nhưng để cửa mở hờ. Tấm vải nơi cửa sổ làm bằng ren, đèn đường có thể chiếu qua. Ở đây không bao giờ quá tối, cũng không bao giờ quá tĩnh. Tầng trên là hai căn phòng mà bọn trẻ ở, cả nam lẫn nữ. Chúng cười, thụi nhau, đánh rớt những đồng xu, đôi khi nhảy múa nữa. Bên trên bức tường là nơi em gái của ông Ibbs nằm, bà bị giữ trên giường vì thường tỉnh giấc trong cơn hoảng loạn, la hét ầm ĩ. Và khắp căn nhà – nằm xếp lớp trong các nôi như cá trích nằm trong hộp muối – là bọn trẻ nhỏ của bà Sucksby. Bất cứ lúc nào trong đêm chúng cũng có thể cất tiếng khóc, thút thít hoặc nức nở. Điều vặt vãnh gì cũng có thể kích động chúng được. Rồi thì bà Sucksby sẽ đi ở giữa chúng, chuốc rượu cho chúng từ một chai gin bằng chiếc thìa bạc nhỏ – có thể nghe được tiếng lanh canh khi nó chạm vào thuỷ tinh.
Nhưng tối nay, tôi nghĩ những phòng bên trên chắc không có ai, và em gái ông Ibbs rất yên lặng. Có lẽ vì yên lặng nên bọn trẻ cứ thế mà ngủ. Đã quen với tiếng ồn, tôi nằm đó thao thức. Tôi nằm, lại nghĩ về gã Bill Sykes tàn ác, về Nancy chết dưới chân gã. Từ căn nhà nào đó gần bên có tiếng một người đàn ông chửi rủa. Rồi chuông nhà thờ kêu báo giờ – tiếng hoà âm vọng một cách khả nghi qua những con phố đầy gió. Tôi tự hỏi nơi má bị tát của Flora còn đau hay không. Tự hỏi Borough gần Clerkenwell nhường nào, và quãng đường đi có vẻ nhanh ra sao đối với một người đàn ông mang gậy.
Ngay từ dạo đó tôi đã có trí tưởng tượng bay bổng. Khi trên phố Lant có tiếng bước chân ngừng lại bên ngoài cửa sổ, theo sau là tiếng chó kêu ư ử, tiếng cào móng của nó, tiếng xoay tay nắm đầy thận trọng nơi cửa quầy hàng của chúng tôi, thì tôi bật dậy khỏi gối, thiếu điều hét toáng lên – ngoại trừ việc trước khi tôi kịp làm vậy thì con chó sủa một tiếng, tiếng sủa gây sự chú ý, tôi biết nó thì phải. Không phải con quái vật mắt hồng từ rạp diễn, mà là con chó của chúng tôi, Jack. Nó có thể chiến đấu rất quả cảm. Rồi một tiếng huýt sáo. Bill Sykes không bao giờ huýt sáo được ngọt đến vậy. Là đôi môi của ông Ibss. Ông ấy đã ra ngoài mua bánh put-đing thịt nóng cho bữa khuya của ông và bà Sucksby.
“Được rồi.” Tôi nghe giọng của ông. “Ngửi nước xốt thịt này…”
Rồi giọng ông biến thành tiếng thì thào, tôi nằm trở xuống. Nên nói rằng lúc bấy giờ tôi khoảng năm hay sáu tuổi. Nhưng tôi vẫn nhớ rất rõ. Tôi nhớ những lần nói dối, những khi nghe tiếng dao nĩa, đồ sứ, tiếng thở dài của bà Sucksby, âm thanh kẽo kẹt từ chiếc ghế của bà, tiếng bà nện đôi dép đi trong nhà lên sàn. Tôi nhớ cả việc trông thấy – trước đó tôi chưa từng được thấy – những gì tạo nên thế giới: có những gã Bill Sykes xấu xa, những ông Ibbs tốt bụng, những cô Nancy, có thể ở trong tình trạng tốt hoặc xấu. Tôi nghĩ đến việc đáng mừng nhường nào khi mình đã ở hoàn cảnh mà cuối cùng Nancy đạt đến – ý tôi là, tình trạng tốt, nơi có chuột đường.
Chỉ đến nhiều năm sau đó, khi được xem Oliver Twist lần thứ hai, tôi mới hiểu rằng cuối cùng Nancy chắc chắn đã bị giết. Vào bấy giờ, Flora đã là một đứa khua khoắng rất khá. Surrey chẳng là gì với nó, nó hành sự ở các nhà hát tại West End, các hội trường – nó có thể luồn lách như chạch xuyên qua đám đông. Nhưng nó không bao giờ đem tôi đi cùng nữa. Nó cũng như mọi người, quá sợ bà Sucksby.
Cuối cùng nó cũng bị bắt, thật đáng thương, với hai tay ngay trên vòng xuyến của một quý bà. Nó bị đi đày vì tội ăn trộm.
Ở phố Lant, tất cả mọi người đều ít nhiều là những kẻ trộm. Nhưng riêng chúng tôi là kiểu trộm thà xuôi theo những trò tinh quái hơn là tạo ra chúng. Nếu tôi đã từng trố mắt khi trông thấy Flora thò tay vào vết rách trong váy và lấy ra một cái túi xách cùng nước hoa, thì kể từ đó tôi không còn ngạc nhiên đến vậy nữa. Vì nếu một ngày không có ai đến cửa hàng của ông Ibbs với túi xách hay một gói thuốc dưới viền áo khoác, trong nón, trong tay áo hay bít tất, thì ngày đó sẽ cực kỳ tẻ nhạt.
“Ổn chứ, ông Ibbs?” Anh chàng sẽ nói.
“Ổn, con trai à,” ông Ibbs trả lời. Ông ấy dường nói bằng giọng mũi nhiều hơn, như thế đấy. “Cậu biết gì nào?”
“Không nhiều.”
“Có gì cho tôi không?”
Anh chàng nháy mắt. “Có mấy thứ, ông Ibbs à, rất nóng sốt và khác lạ…”
Họ luôn nói như vậy, hoặc điều gì đó tương tự. Ông Ibbs sẽ gật đầu, rồi kéo tấm màn che trên cửa của cửa hàng, xoay chìa khoá – ông là một người cẩn trọng, không bao giờ xem các đồ thó được cạnh cửa sổ. Phía sau quầy là một tấm rèm vải len xanh lục, đằng sau có một lối đi nối thẳng tới bếp. Nếu tên trộm nằm trong số những người ông biết, ông sẽ dẫn lại bàn. “Nào, con trai,” ông nói. “Không phải với ai ta cũng làm thế này đâu. Nhưng con thì nhẵn mặt quá rồi – chà, ta coi con như người nhà ấy chứ.” Rồi thì ông sẽ bảo người kia đặt các thứ ra giữa các cốc tách lẫn vỏ bánh mì và muỗng trà.
Bà Sucksby có thể đang ở đó đút cháo cho một đứa bé. Tay trộm trông thấy bà, bèn bỏ mũ ra.
“Khoẻ chứ, bà Sucksby?”
“Tôi khoẻ, cậu trai à.”
“Khoẻ chứ, Sue? Lớn quá rồi!”
Tôi đánh giá họ còn cao hơn mấy người làm ảo thuật. Bởi từ áo khoác và ống tay áo, họ lấy ra nào sổ tay, khăn tay lụa, đồng hồ, thậm chí cả đồ trang sức, đĩa bạc, đế nến bằng đồng, thỉnh thoảng cả váy lót – nguyên bộ. “Chất lượng lắm đấy, thật đấy,” họ nói trong lúc đặt tất cả chúng xuống, còn ông Ibbs thì xoa tay, vẻ đầy trông đợi. Nhưng rồi ông sẽ săm soi chiến lợi phẩm của họ, mặt chảy dài. Ông là một người trông rất hoà nhã, nhìn có vẻ rất thật thà – má rất trắng, môi rõ nét, có râu quai nón. Mặt ông chảy dài xuống, có thể khiến bạn đau lòng vô cùng.
“Toàn giẻ rách,” ông lắc đầu nói, chọc vào một tờ tiền giấy. “Rất khó tiêu thụ.” Hoặc, “Đế nến. Mới tuần rồi ta có cả tá đế nến thượng hạng từ một thằng trộm vặt ở Whitehall. Chẳng thể làm gì với chúng hết. Chẳng thể đem cho đi đâu.”
Ông đứng dậy, vờ vịt so đo tính giá, nhưng trông như thể không dám nói ra với anh chàng vì sợ xúc phạm cậu ta. Rồi ông sẽ đưa giá đề nghị, và tay trộm tỏ ra phẫn nộ.
“Ông Ibbs,” cậu ta nói, “nhiêu đó không đủ để trả công tôi đi bộ từ cầu Luân Đôn đến đây đâu. Giờ thì, công bằng đi.”
Nhưng vào lúc đó thì ông Ibbs đã đi lại chỗ chiếc hộp của mình, đếm những đồng shi-ling trên bàn: một, hai, ba – ông có thể ngừng lại cùng đồng thứ tư trên tay. Tay trộm sẽ trông thấy ánh sáng của bạc – ông Ibbs luôn giữ những đồng xu của mình được cọ bóng loáng chỉ vì lý do này –thật chẳng khác mỡ treo miệng mèo.
“Năm đồng luôn đi, được không ông Ibbs?”
Ông Ibbs sẽ ngước khuôn mặt thật thà lên, nhún vai.
“Ta muốn lắm, con trai. Thật sự muốn vô cùng. Nếu con mang tới thứ gì tuyệt hảo, ta sẽ để tiền của mình đáp lại. Nhưng mà, với thứ này–” Ông vẫy tay phía trên đống lụa, giấy tờ hay chỗ đồ đồng phát ra dăm tia sáng, “thứ này thật quá bèo bọt. Đưa thêm thì chẳng khác gì ta tự cướp của mình. Chẳng khác gì ta cướp thức ăn trên miệng đám trẻ của bà Sucksby.”
Và ông sẽ đưa cho tay trộm những đồng shi-ling của hắn, hắn sẽ cho vào túi, cài nút áo khoác, ho và quệt mũi.
Tiếp theo, ông Ibbs có vẻ đổi ý một chút. Ông lại bước về phía chiếc hộp của mình, “Sáng này có ăn gì chưa, con trai?” Ông hỏi. Tên trộm luôn luôn trả lời, “Chả có lấy một vụn bánh mì.” Ông Ibbs sẽ đưa hắn sáu xu, bắt hắn cam đoan dùng để mua bữa sáng, đừng đem đi cá ngựa. Tên trộm sẽ nói điều gì đó đại loại như,
“Ông thật hào phóng, ông Ibbs, lúc nào cũng vậy.”
Với mỗi người như thế, ông Ibbs có được lợi nhuận mười đến mười hai shi-ling. Tất cả, từ đầu tới cuối, đều có vẻ trung thực, công bằng. Bởi vì, dĩ nhiên, những gì ông nói về đám giẻ rách hoặc đế nến toàn là bố láo. Ông biết đá biết vàng, thế đấy. Khi tên trộm đã đi khỏi, ông bắt gặp ánh nhìn của tôi, và nháy mắt. Ông xoa tay, trở nên linh hoạt.
“Nào, Sue,” ông nói, “con có muốn mang một miếng vải lại đây để đánh ra vàng không? Rồi con có thể – nếu con có thời gian, bé yêu, và bà Sucksby không có việc cần đến con – con có thể thực hiện thử một công việc thú vị với đám giẻ này. Một chút thôi, nhẹ nhàng, với kéo và đinh ghim của con, đây là vải gai mịn đấy – con thấy không, bé yêu? Xé ra, nếu con giằng mạnh quá…”
Tôi tin mình đã học được bảng chữ cái theo cách đó: không phải bằng việc đặt các ký tự xuống, mà là tách chúng ra. Tôi biết rằng đã học được hình dạng tên của mình từ một chiếc khăn tay có ký hiệu Susan. Đối với việc đọc nói chung, chúng tôi không bao giờ màng tới. Bà Sucksby sẽ đọc nếu cần thiết, bà biết đọc, cả viết nữa. Nhưng với những người còn lại thì điều đó giống như là – chà, tôi sẽ nói là giống như nói tiếng Do Thái cổ hay khai trương một cái nhà hàng. Bạn có thể thấy được lợi ích của nó đối với người Do Thái hay kẻ diễn trò đu bay. Nhưng dù việc đó có lợi cho họ, cũng có cớ gì lợi lộc cho chúng ta đâu?
Dù sao thì đó là điều tôi nghĩ bấy giờ. Tuy vậy, tôi có học cách tính từ việc quản những đồng xu. Chúng tôi giữ những đồng còn tốt, tất nhiên. Những đồng xu xấu sẽ quá bóng sáng nên cần phải làm cho dơ đi chút ít trước khi trao tay cho người khác. Tôi đã học được điều đó. Với lụa và vải lanh, có những cách giặt giũ, là ủi để khiến chúng trông như mới. Với đá quý, tôi đánh bóng với giấm nguyên chất. Với đĩa bạc đã ăn sạch thức ăn bên trên – chỉ một lần như vậy, vì sẽ dính vụn bánh và vệt thức ăn – thì khi đã ăn xong, ông Ibbs sẽ lấy những tách, chén để nung chúng thành thỏi. Vàng và thiếc cũng vậy. Ông không bao giờ mạo hiểm, chính vì vậy mà ông rất giỏi. Mọi thứ đi vào bếp của chúng tôi sẽ được xử lý để khi ra khỏi đây, nó trông như một thứ khác. Và dù đi vào bằng cửa trước – cửa vào cửa hàng, lối trên phố Lant – chúng sẽ rời khỏi đây bằng đường khác. Cửa sau. Ở đó chẳng có con phố nào cả. Chỉ có một lối đi nhỏ được nguỵ trang và một hàng hiên nhỏ, tối. Nếu đứng ở đó, bạn có thể cảm thấy bị mắc kẹt, nhưng thực ra có đường, nếu bạn biết cách quan sát. Nó dẫn vào một ngõ hẻm quanh co, tối om, chạy đến chỗ uốn cong của làn đường sắt. Từ một trong những chỗ uốn đó – dù có thể, nhưng tôi sẽ không nói rõ chỗ nào – dẫn đến một ngõ khác tối hơn dẫn ra sông, rất nhanh và kín đáo. Ở đó chúng tôi quen hai, ba người giữ thuyền. Thực ra, các chiến hữu của chúng tôi sống dọc theo con đường quanh co đó – các cháu trai ông Ibbs, những người tôi xem như anh em họ. Chúng tôi có thể gửi chiến lợi phẩm từ bếp của mình đến bất kỳ ai trong số họ để các thứ đó đi tới mọi nơi ở Luân Đôn. Chúng tôi có thể chuyển đi mọi thứ, bất kỳ cái gì, với tốc độ có thể làm bạn kinh ngạc. Chúng tôi có thể vận chuyển băng đá, giữa tháng tám, trước khi một phần tư khối đó có cơ hội tan thành nước. Chúng tôi có thể vận chuyển cả ánh mặt trời mùa hè – nếu ông Ibbs tìm được người mua.
Nói ngắn gọn, không có nhiều thứ được đem đến nhà chúng tôi mà lại không bị đem ra khỏi đó, khá nhanh gọn. Thực ra chỉ có duy nhất một thứ được đem đến và kẹt lại – một thứ, bằng cách nào đó, đã chống lại được sức kéo mãnh liệt của dòng cuốn chiến lợi phẩm – một thứ mà ông Ibbs và bà Sucksby có vẻ không bao giờ nghĩ đến chuyện đặt giá.
Hiển nhiên, đó là tôi.
Tôi phải cảm ơn mẹ mình về việc đó. Câu chuyện của bà thật bi thảm. Bà đến phố Lant vào một đêm năm 1844. Bà đã đến, “to lùm lùm, bé yêu, cùng với con,” bà Sucksby nói – mãi cho đến khi biết nhiều hơn, tôi cứ cho rằng bà có ý nói rằng mẹ đã mang tôi đến, hẳn là nhét trong chiếc túi phía trong váy hoặc khâu vào mép áo khoác. Theo tầm hiểu biết của tôi, bà là một tay trộm. “Một kẻ trộm đáng gờm!” Bà Sucksby nói. “Rất bạo dạn! Và bảnh nữa!”
“Bà Sucksby, bà ấy, bà ấy có trắng không?”
“Trắng hơn con, nhưng khuôn mặt, cũng như con, sắc sảo, và mảnh khảnh hệt một tờ giấy. Chúng ta đưa bà ấy lên gác. Chẳng ai biết bà ấy ở đó, ngoại trừ ta và ông Ibbs – vì bà ấy nói mình bị cảnh sát của bốn vùng truy nã. Nếu họ bắt được, bà ấy sẽ tiêu tùng. Bà ấy đã làm cái gì chứ? Bà ấy nói mình chỉ huênh hoang chút thôi. Ta thì cho là nó phải tệ hơn cơ. Ta biết bà ấy rắn như thép, vì bà ấy có con, và ta dám thề, bà ấy không bao giờ lầm rầm – cũng không bao giờ kêu la dù chỉ một lần. Bà ấy chỉ nhìn con, đặt một chiếc hôn lên cái đầu nhỏ của con, rồi đưa ta sáu bảng để giữ con – đều là những đồng vàng, đều chất lượng tốt. Bà ấy nói còn một việc cuối cùng phải làm, điều đó sẽ đem lại cho bà một tài sản lớn. Bà định sẽ trở lại tìm con khi mọi thứ đã dàn xếp xong…”
Bà Sucksby kể chuyện, và mỗi lần như thế, dù ban đầu giọng bà đều đặn, đến cuối sẽ trở thành run rẩy, mắt thì ngấn nước. Bà đã chờ mẹ tôi, nhưng bà ấy không đến. Thay vào đó lại là tin dữ. Công việc lẽ ra đem lại cho bà ấy tài sản lớn đã diễn biến xấu. Một người đàn ông bị giết trong lúc cố gắng chống cự. Con dao của mẹ đã kết liễu ông ta. Chính bạn bè của bà ấy mách lẻo. Cuối cùng cảnh sát cũng bắt được bà ấy. Bà ở trong tù một tháng. Sau đó, người ta treo cổ bà.
Họ treo cổ bà ấy, như đối với những kẻ sát nhân lúc bấy giờ, trên nóc của Horsemonger Lane Gaol. Bà Sucksby đã đứng xem vụ đó từ ô cửa sổ căn phòng nơi tôi được sinh ra.
Từ căn phòng đó sẽ có được tầm nhìn rất tráng lệ – phong cảnh đẹp nhất ở phía bắc Luân Đôn, mọi người nói vậy. Người ta sẵn lòng trả hậu để có được một chỗ tại cửa sổ đó vào ngày treo cổ. Dù vài cô gái thét lên khi cửa sập lạch cạch mở, riêng tôi thì không. Tôi không hề rùng mình hay chớp mắt.
“Susan Trinder đấy,” ai đó thì thào. “Mẹ cô ta bị treo cổ vì tội sát nhân. Cô ta dũng cảm không chứ?”
Tôi thích nghe người ta nói như vậy. Ai lại không thích chứ? Nhưng sự thật là – và bây giờ thì tôi không quan tâm việc những ai biết – sự thật là, tôi không hề dũng cảm. Vì để dũng cảm về một việc như vậy, trước tiên bạn phải cảm thấy thương tiếc. Làm thế nào tôi có thể thương tiếc một người chưa bao giờ gặp gỡ? Tôi nghĩ việc mẹ rốt cuộc lại bị treo cổ thật đáng tiếc, nhưng vì bà ấy đã bị treo cổ rồi, nên tôi mừng rằng đó là do một việc hay ho, giết một người đàn ông khi ông ta chống cự, chứ không phải việc gì đó quá tàn độc như là bóp cổ một đứa trẻ. Tôi nghĩ việc bà tạo ra một trẻ mồ côi như tôi thật đáng tiếc – nhưng, vài cô gái tôi biết có những bà mẹ là bợm rượu hoặc bị điên, những người mẹ mà các cô ấy rất ghét, không bao giờ ở gần nhau yên ổn nổi. Tôi thà có một bà mẹ đã chết còn hơn một người mẹ như thế!
Tôi thà có bà Sucksby. Bà tốt hơn chán. Bà được trả tiền để giữ tôi một tháng, nhưng đã giữ tôi mười bảy năm. Nếu đó không phải tình yêu thương thì còn là gì nữa chứ?
Bà đã có thể đưa tôi vào nhà tế bần. Đã có thể bỏ tôi kêu khóc tại một cái máng đầy gió thốc. Thay vào đó, bà chăm chút, không để tôi làm cái việc xoáy thứ này thứ kia vì sợ cảnh sát có thể đến bắt tôi đi. Bà để tôi ngủ bên cạnh, trong giường của chính bà. Bà làm bóng tóc của tôi bằng giấm. Đó là cách người ta làm với đá quý.
Mà tôi thì không phải đá quý, thậm chí chẳng phải một hạt ngọc trai. Về sau, tóc tôi trở nên khá thường. Khuôn mặt tầm thường. Tôi có thể cạy một ổ khoá đơn giản, cắt một chiếc chìa đơn giản. Tôi có thể búng một đồng xu và phân biệt nó tốt hay xấu, chỉ dựa vào tiếng kêu. Nhưng ai cũng có thể làm những việc đó, nếu họ được chỉ cách. Khắp xung quanh tôi, những đứa trẻ khác đến, ở ít lâu, rồi được mẹ chúng nhận lại, hoặc tìm được mẹ mới, hoặc bỏ mạng, và tất nhiên, chẳng có ai nhận tôi. Tôi cũng không chết, thay vào đó, lại lớn lên, cho đến khi cuối cùng cũng đủ lớn để một mình đi giữa những cái nôi cùng chai rượu gin và chiếc thìa bạc. Thỉnh thoảng dường như tôi bắt gặp ông Ibbs nhìn mình chằm chằm với một thứ ánh sáng trong mắt – như thể, tôi thầm nghĩ – ông đột nhiên xem tôi như món đồ thuổng được, tự hỏi làm thế nào tôi lại ở đây lâu như vậy, và ông có thể trao tôi cho ai. Nhưng khi người ta nói – bây giờ họ vẫn nói thế – về máu mủ, rằng nó đậm hơn nước lã, bà Sucksby sẽ sa sầm mặt.
“Lại đây, con yêu,” bà nói. “Để ta nhìn con nào.” Và bà đặt tay lên đầu tôi, vuốt má tôi bằng ngón cái, nghiền ngẫm khuôn mặt tôi. “Ta thấy bà ấy trong con,” bà nói. “Bà ấy đang nhìn ta, như cách bà ấy nhìn ta đêm đó. Bà ấy nghĩ mình sẽ quay lại và trao cho con cái tài sản đó. Ai biết được chứ? Thật đáng thương, bà ấy sẽ không bao giờ quay lại! Con vẫn sẽ có cái tài sản đó. Của con, Sue à, và của chúng ta nữa…”
Bà nói như vậy, nhiều lần. Bất cứ khi nào càu nhàu hay thở dài – bà luôn thế mỗi lần đứng dậy khỏi một chiếc cũi, xoa cái lưng ê ẩm – thì mắt bà sẽ tìm đến tôi, ánh mắt bà sẽ sáng lên, mãn nguyện.
Nhưng có Sue đây rồi. Bà cũng sẽ nói vậy đấy, Bây giờ mọi thứ đều khó khăn với chúng ta. Nhưng có Sue đây rồi. Con bé sẽ khiến mọi việc được ổn…
Tôi để bà ấy nghĩ thế, nhưng tôi nghĩ mình biết rõ hơn. Tôi nghe nói bà từng có đứa con của chính mình nhiều năm trước, nhưng khi sinh ra thì nó đã chết. Tôi nghĩ khi nhìn chằm chằm vào mặt tôi, bà trông thấy mặt của cô bé. Ý tưởng đó khiến tôi phát run, thật kỳ quặc khi nghĩ đến chuyện được yêu thương không phải vì họ yêu thương mình mà vì tình cảm dành cho ai đó mình chưa từng biết…
Những ngày ấy, tôi nghĩ mình biết tất cả về tình yêu. Tôi nghĩ mình biết tất cả về mọi thứ. Nếu bạn hỏi tôi muốn làm gì khi lớn lên, tôi dám nói mình sẽ mở trại trẻ. Có thể tôi sẽ muốn kết hôn, với một tên trộm hoặc một gã buôn đồ trộm. Năm tôi mười lăm, có một cậu chàng trộm một cái móc cho tôi, và bảo rằng cậu ta muốn hôn tôi. Ít lâu sau có một cậu khác đứng ở cửa sau nhà chúng tôi, huýt sáo bài ‘Con gái ông thợ khoá,’ rắp tâm muốn xem tôi đỏ mặt. Bà Sucksby đuổi cả hai cậu đó đi. Bà thận trọng với tôi trong vấn đề đó, cũng như trong mọi vấn đề.
“Bà ấy giữ cô để trao cho ai vậy hả?” Bọn con trai hỏi. “Hoàng tử Eddie hả?” Tôi nghĩ những người đến phố Lant cho rằng tôi chậm chạp. Ngược lại với nhanh nhạy. Có lẽ là vậy, so với tiêu chuẩn của Borough. Nhưng với bản thân, tôi cho là mình đủ sắc bén. Không thể nào lớn lên trong một ngôi nhà thế này, có những hoạt động mua bán thế này, mà không có ý tưởng hay ho về việc cái gì là cái gì – cái gì có thể cho vào trong cái gì, cái gì sẽ được tạo nên.
Bạn bắt kịp ý tôi chứ?
Bạn đang chờ tôi bắt đầu câu chuyện của mình. Vậy thì có lẽ tôi đang chờ. Nhưng câu chuyện của tôi đã bắt đầu rồi – tôi cũng giống như bạn thôi, không biết đến việc đó.
Tôi nghĩ đây là lúc nó thực sự bắt đầu.
|
Một đêm mùa đông, ít tuần sau lễ Giáng sinh đánh dấu sinh nhật thứ mười bảy của tôi. Một đêm tối trời – khắc nghiệt, phủ đầy sương mù mà ít nhiều là một cơn mưa, cơn mưa ít nhiều là một trận tuyết. Những đêm tối trời là điều kiện tốt cho phường trộm lẫn buôn đồ gian. Các đêm tối vào mùa đông là tuyệt hơn hết thảy, vì khi đó người thường sẽ chỉ quanh quẩn gần nhà họ, ai thuộc chốn nào ở yên chốn nấy, và những toà nhà lớn ở Luân Đôn thì đóng cửa, vắng hoe, mời gọi được bẻ khoá xông vào. Chúng tôi có được nhiều thứ từ những đêm như vậy, lợi nhuận của ông Ibbs cao chưa từng thấy. Cái lạnh khiến bọn trộm ít cò kè, chịu giá rất nhanh.
Ở phố Lant, chúng tôi không cảm nhận được rõ lắm về cái lạnh, vì bên cạnh ngọn lửa bếp thông thường còn có lò than của ông Ibbs. Ông ấy luôn giữ lửa bên dưới lớp than. Không bao giờ phân biệt được thứ không xuất hiện rằng nó cần được tạo hình hay nung chảy ra. Đêm ấy, ba hay bốn cậu trai ở đó, đang đổi chác chiến lợi phẩm lấy những đồng vàng. Ngoài họ, có cả bà Sucksby nơi chiếc ghế to của bà, hai đứa bé trong cái cũi bên cạnh, và một thằng nhóc cùng một cô gái đang ở cùng phòng với chúng tôi bấy giờ - John Vroom và Dainty Warren.
John là một thằng nhóc gầy gò, da đen, thích chơi dao, khoảng mười bốn tuổi. Thằng nhóc ăn luôn miệng. Tôi tin là nó nhiễm giun. Đêm nay nó đang cắn đậu phộng tanh tách, ném vỏ lên sàn.
Bà Sucksby thấy nó làm vậy. “Mày đàng hoàng được không hả?” Bà nói. “Mày đang bày bừa ra đấy, rồi Sue sẽ phải dọn dẹp.”
John nói, “Tội Sue ghê, tim tôi đau đến rỉ máu đây này.”
Nó chẳng bao giờ bận tâm về tôi. Tôi nghĩ nó ganh tị. Nó, cũng như tôi, đến đây từ khi còn nhỏ xíu, và mẹ của nó, cũng giống mẹ tôi, đã chết, khiến nó trở thành đứa trẻ mồ côi. Nhưng nó là một đứa trẻ hết sức kỳ cục, chẳng có ai đem nó đi khỏi chỗ bà Sucksby cả. Bà giữ nó từ lúc nó bốn hay năm tuổi, rồi dùng nó để nhận cứu tế – nhưng ngay cả khi đó, nó vẫn đủ tai quái để bỏ trốn khỏi xưởng làm. Chúng tôi luôn thấy nó ngủ trên bậc thềm khi mở cửa hàng. Cuối cùng, bà tìm được một chủ tàu để bắt nó đi, thằng nhỏ đã lênh đênh đến tận Trung Quốc, rốt cuộc vẫn quay về Borough, cùng với tiền, để khoe khoang. Số tiền dùng được một tháng. Giờ thì nó giúp việc ở phố Lant, làm việc cho ông Ibbs, ngoài ra cũng làm những trò mánh mung nho nhỏ của riêng nó với sự trợ giúp của Dainty.
Đó là một cô gái tóc đỏ hai mươi ba tuổi, ít nhiều khá là thộn. Tuy nhiên, con nhỏ có hai bàn tay trắng trẻo, sạch sẽ và biết khâu rất giỏi. Dạo này con nhỏ đính da chó lên những con chó trộm được giùm cho John, để khiến chúng trông như giống chó ngon lành hơn là thực chất.
Thằng nhỏ đang có phi vụ với một tay trộm chó. Thằng này có hai con chó cái. Khi hai con này động đực thì hắn dẫn ra phố, dụ mấy con chó khác đi xa khỏi chủ, rồi thu mười bảng tiền chuộc trước khi trả chúng lại. Việc đó hiệu quả nhất đối với những con chó thể thao hoặc có chủ nhân là các quý bà đa cảm. Vài chủ chó chẳng bao giờ xì tiền – bạn có thể cắt roẹt cái đuôi để gửi cho họ mà vẫn không thấy một cắc nào. Họ vô cảm thế đấy. Bọn chó mà chiến hữu của John chộp được bị bóp cổ, rồi bán cho thằng nhỏ với giá rẻ bèo. Tôi không biết John làm gì với chỗ thịt, đem bán – bảo đó là thịt thỏ, hay tự nó ăn luôn. Nhưng chỗ da, như tôi đã nói, thì nó nhờ Dainty đính vào những con chó lề đường tầm thường để đem bán như là chó thượng hạng ở chợ Whitechapel.
Những mảnh lông sót lại được con nhỏ khâu với nhau để làm một chiếc áo khoác cho thằng nhỏ. Tối nay con nhỏ đang khâu. Nó đã xong cái cổ và vai áo cùng nửa ống tay, bốn mươi phần khác nhau của chó đã được dùng vào đó. Trước ngọn lửa, mùi rất nặng, khiến con chó của chúng tôi phát sốt lên – không phải con chiến binh già, Jack, mà là con kia, một con nâu tên Charley Wag, đặt theo tên gã trộm trong truyện.
Thỉnh thoảng Dainty giơ chiếc áo khoác lên cho tất cả xem nó đẹp đến thế nào.
“Thật tốt cho Dainty là cậu không cao hơn cô ta nhiều, John,” tôi nói trong một lần Dainty giơ áo lên.
“Thật tốt cho chị là chị chưa chết,” nó trả lời. Nó khá thấp, và biết điều đó. “Mặc dù sẽ rất xấu hổ cho mọi người, nhưng tôi muốn có một mẩu da của chị trên tay áo khoác – có lẽ phía trên gấu tay áo, chỗ dùng để quẹt mũi. Chị sẽ cảm giác hệt như ở nhà ấy, cạnh bên một con chó bun hoặc boxer.”
Nó cầm lên con dao luôn đem theo bên mình, thử độ sắc bằng ngón cái. “Tôi vẫn chưa quyết định,” thằng nhỏ nói, “việc liệu có nên đến vào đêm nào đó, lấy một ít da khi chị đang ngủ hay không. Thấy sao, Dainty, nếu tao bảo mày khâu cái đó vào áo?”
Dainty đưa tay lên miệng, thét lớn. Con nhỏ đeo một cái nhẫn quá rộng đối với tay mình. Nó quấn một ít chỉ bên dưới, quanh ngón tay, chỗ chỉ đó khá đen.
“Cậu thật hết thuốc chữa!” Con nhỏ nói.
John mỉm cười, dùng đầu con dao gõ nhẹ lên một chiếc răng mẻ. Bà Sucksby nói,
“Mày đủ rồi đấy, coi chừng tao đánh cho văng mặt. Tao sẽ không để Sue lo sợ đâu.”
Tôi nói ngay, rằng nếu mình để một thằng như John Vroom khiến cho lo sợ, thì thà tự cắt họng mình còn hơn. John nói nó sẽ vui lòng được cắt dùm tôi. Bà Sucksby vươn khỏi ghế, đánh nó – cũng hệt tất cả những lần bà vươn khỏi ghế đêm nọ để đánh Flora đáng thương, hệt cách bà vươn người đánh những đứa khác trong những năm sau đó – tất cả đều vì tôi.
Trong một giây, John trông như thể nó sắp đánh trả bà, nhưng rồi nó nhìn sang tôi, tựa hồ muốn đánh tôi còn đau hơn thế. Dainty cựa quậy ở chỗ ngồi của nó, thằng nhỏ bèn quay sang đánh nó.
“Tao không hiểu nổi,” nó nói sau khi đã đánh con nhỏ, “sao mọi người đều mang thành kiến xấu với tao vậy chứ.”
Dainty bắt đầu khóc. Nó giơ tay về phía ống tay áo của thằng nhỏ. “Đừng bận tâm những lời nặng nề của họ, Johny,” con nhỏ nói. “Tôi vẫn bám về phe cậu mà, đúng không?”
“Mày bám dính, đúng đó,” thằng nhỏ trả lời. “Hệt như phân bám vào xẻng.” Nó đẩy tay con nhỏ ra, con nhỏ đành ngồi đung đưa trên ghế của mình, ôm chỗ da chó và khóc rấm rứt vào các mối khâu.
“Thôi nào, Dainty,” bà Sucksby nói. “Con đang làm hỏng tác phẩm dễ thương của con đấy.”
Con nhỏ khóc chừng một phút. Rồi một trong số mấy thằng con trai ở lò than bị bỏng tay vì một đồng xu nóng ran, bèn bắt đầu chửi thề. Thế là con nhỏ ré lên cười. John cho một hạt đậu phộng khác vào mồm, phun vỏ lên sàn nhà.
Rồi chúng tôi ngồi yên lặng trong khoảng mười lăm phút. Charley Wag nằm trước đống lửa, vặn vẹo người, rượt đuổi những chiếc xe ngựa trong giấc mơ – đuôi nó đã bị vẹo ở chỗ từng bị một bánh xe ngựa chẹt phải. Tôi lấy bộ bài ra, chơi trò Patience. Dainty ngồi khâu. Bà Sucksby ngủ gà gật. John ngồi hoàn toàn bất động, chỉ thỉnh thoảng liếc sang bộ bài tôi chơi, để bảo nên đặt vào chỗ nào.
“Bồi nhép để lên Bà đầm cơ.” Hoặc, “Lạy Chúa! Chị chậm chạp đến vậy hả?”
“Cậu thù hằn đến vậy hả?” Tôi trả lời, tiếp tục trò chơi của mình. Bộ bài đã cũ rồi, các lá đều mềm oặt như giấy nát. Từng có một người đàn ông bị giết trong một trận ẩu đả vì cuộc chơi không minh bạch với những quân bài này. Tôi đặt chúng ra lần cuối cùng, xoay ghế chút đỉnh để John không thể trông thấy chúng được sắp như thế nào.
Và rồi, nhất loạt, một đứa trẻ thức dậy khỏi giấc ngủ, khóc toáng lên, Charley Wag bừng tỉnh, sủa một tiếng. Một cơn gió bất chợt khiến ngọn lửa bốc cao trong lò, cơn mưa rơi nặng hạt hơn xuống chỗ than, khiến chúng kêu lèo xèo. Bà Sucksby mở mắt, “Cái gì vậy?” Bà hỏi.
“Cái gì cái gì cơ?” John hỏi ngược lại.
Lúc đó, chúng tôi nghe thấy: một tiếng ‘huỵch’ nơi lối đi dẫn đến phía sau căn nhà. Rồi một tiếng nữa. Âm thanh đó trở thành tiếng chân bước. Nó dừng lại ở cửa bếp – một giây im lặng – rồi, một tiếng gõ cửa, chậm chạp và nặng nề.
Cộc, cộc, cộc. Thế ấy. Như tiếng gõ cửa trong một vở kịch khi hồn ma của người đàn ông quay về. Dẫu vậy, không phải tiếng gõ cửa của một tên trộm – nhẹ và nhanh. Khi nghe, ta biết ngay là loại công việc gì. Tuy nhiên, việc này có thể là bất cứ gì, bất cứ điều gì. Có thể là việc xấu.
Chúng tôi đều nghĩ vậy. Chúng tôi nhìn nhau, bà Sucksby đưa tay vào cũi để bế đứa bé ra, nó nằm trong lòng bà, nín khóc. John tóm lấy Charley Wag, ghìm chặt miệng con chó lại. Mấy thằng con trai ở lò than lặng im như thóc. Ông Ibbs lẳng lặng nói, “Có khách à? Mấy đứa, dẹp chỗ này đi. Cứ mặc cái tay bỏng của mày. Nếu là cớm, chúng ta coi như tiêu tùng.”
Họ bắt đầu lập cập tóm lấp những đồng tiền cùng chỗ vàng đã phải đổ mồ hôi để đổi lấy, gói vào khăn tay, đặt xuống dưới nón hoặc cho vào túi quần. Một trong số họ – cháu trai lớn nhất của ông Ibbs, Phil – đi nhanh đến cửa, đứng cạnh đó, lưng kê sát tường, tay để trong áo khoác. Cậu chàng này đã trải qua hai hạn tù, và luôn luôn thề thốt sẽ không chịu bị đến lần thứ ba.
Tiếng gõ lại vang lên. Ông Ibbs hỏi, “Sạch sẽ cả rồi chứ? Giờ thì, bình tĩnh, mấy đứa, bình tĩnh. Con thấy sao, hở Sue yêu quý, con mở cửa nhé?”
Tôi nhìn bà Sucksby lần nữa, và khi bà gật đầu, bèn bước lại mở chốt cửa. Cánh cửa bật mở nhanh, mạnh về phía tôi đến nỗi Phil ngỡ nó bị huých vai – tôi thấy anh ta gồng mình sát vào tường, rút con dao ra giơ lên. Nhưng chỉ là gió đã thổi tung cửa, thốc vào bếp, thổi tắt nửa số đèn cầy, khiến lò than loé lên, tung tất cả các lá bài tôi đang chơi vào không khí. Nơi lối vào có một người đàn ông đang đứng, mặc đồ sẫm màu, ướt lõng bõng, dưới chân có một cái túi da. Ánh sáng yếu ớt cho thấy hai má trắng nhợt của người đó, bộ râu quai nón, nhưng đôi mắt thì vẫn bị giấu dưới bóng của chiếc nón. Nếu anh ta không cất tiếng, tôi sẽ chẳng thể biết đó là ai. Anh ta nói,
“Sue! Sue phải không? Tạ ơn Chúa! Tôi đã đi bốn mươi dặm để gặp cô. Cô để tôi đứng đây thế này à? E là cái lạnh sẽ giết chết tôi mất!”
Thế là tôi nhận ra anh ta, dù đã không gặp suốt hơn một năm. Cả trăm người đàn ông cũng không ai đến phố Lant mà ăn nói như anh ta. Anh ta tên Richard Rivers, hoặc Dick Rivers, đôi khi là Richard Wells. Tuy nhiên, chúng tôi gọi anh ta bằng cái tên khác, cái tên lúc này tôi dùng khi bà Sucksby thấy tôi tròn mắt, bèn gọi, “Ai vậy?”
“Là Gentleman,” tôi đáp.
Tất nhiên, chúng tôi gọi theo cách đó: không phải theo kiểu nói của một quý ông đường hoàng – dùng tất cả răng để phát âm, mà theo kiểu từ ấy là một con cá đã bị cắt khúc – Ge’mun.
“Là Gentleman,” tôi nói. Phil lập tức cất con dao đi, nhổ nước bọt và quay trở lại lò than. Tuy nhiên, bà Sucksby trở mình trên ghế, gương mặt đỏ ửng của đứa bé hơi ngoẹo đi, miệng hé mở.
“Gentleman!” Bà kêu lên. Đứa bé bắt đầu hét toáng, Charley Wag được John thả ra bèn phóng tới sủa Gentleman, đặt vuốt lên áo khoác của anh ta. “Cậu đến thật quý hoá quá! Dainty, đem nến châm lại chỗ đèn đi. Bắc nước lên lò, để pha trà.”
“Chúng tôi tưởng anh là cớm,” tôi nói trong lúc Gentleman đi vào bếp.
“Tôi tin mình bị cóng thì có,” anh ta trả lời. Anh ta đặt túi xuống, rùng mình, bỏ chiếc mũ đẫm nước và găng tay ra, đến chiếc bành tô ướt lướt thướt, chỗ nước nhỏ xuống đồng loạt bốc thành hơi. Anh ta xoa tay vào nhau, vuốt qua đầu. Anh ta nuôi tóc và râu dài, bây giờ cơn mưa đã khiến chúng mất độ xoăn, trông càng có vẻ dài hơn bao giờ hết, đen thui, bóng mượt. Có vài chiếc nhẫn trên tay anh ta, cùng chiếc đồng hồ, một hạt đá đính nơi cổ tay áo. Không cần săm soi tôi cũng biết mấy chiếc nhẫn và đồng hồ là đồ giả, còn hạt đá là thuỷ tinh làm nhái, tuy vậy, chúng thật là những thứ hàng rởm quá ổn.
Căn phòng sáng hơn khi Dainty xử lý những chiếc đèn cầy. Gentleman nhìn quanh, vẫn đang xoa tay và gật đầu.
“Ông có khoẻ không, ông Ibbs?” Anh ta hồ hởi. “Các anh bạn khoẻ chứ?”
Ông Ibbs nói, “Khoẻ lắm, chàng trai.” Mấy gã trai chẳng buồn trả lời. Phil nói vu vơ, “Đi vào cửa hậu, hở?” Một cậu khác cười phá lên.
Những gã trai như thế luôn cho rằng mấy tay giống Gentleman là hạng ẻo lả.
John cũng cười, to hơn những gã khác. Gentleman nhìn cậu ta. “Chào, chú em nhỏ,” anh ta nói. “Mất tiền hay sao vậy?”
Má của John rất tái, mọi người luôn nhầm nó là người Ý. Bây giờ, nghe Gentleman nói, nó đưa ngón tay lên mũi. “Ông có thể hôn mông tôi đấy.”
“Thật không?” Gentleman mỉm cười. Anh ta nháy mắt với Dainty, con nhỏ bèn rụt đầu. “Chào, cô nàng xinh đẹp,” anh ta nói. Rồi cúi xuống Charley Wag, kéo tai con chó. “Chào, Wagster. Cảnh sát đâu nào? Này! Cảnh sát đâu? Tiễn bọn họ đi!” Charley nổi khùng lên. “Ngoan lắm.” Gentleman đứng dậy, phủi lông dính trên người. “Chó ngoan. Như vậy là tốt đấy.”
Rồi anh ta lại đứng nơi ghế của bà Sucksby.
“Chào, bà S,” anh ta nói.
Đứa trẻ lúc này đã bị cho một ít rượu gin, lặng im không khóc nữa. Bà Sucksby đưa tay ra. Gentleman cầm lên, hôn khớp ngón tay bà rồi đến đầu ngón tay. Bà Sucksby nói,
“Đứng dậy khỏi cái ghế đó đi John, để Gentleman ngồi.”
John trông giận sôi lên trong một phút, rồi cũng đứng dậy chiếm chiếc ghế đẩu của Dainty. Gentleman ngồi xuống, dạng chân về phía ngọn lửa. Anh ta cao, chân thì dài. Khoảng hăm bảy hoặc hăm tám tuổi. Cạnh anh ta, John trông như thằng nhóc lên sáu.
Bà Sucksby nhìn không rời mắt trong lúc anh ta ngáp và xoa mặt. Rồi anh ta bắt gặp ánh mắt bà, bèn mỉm cười.
“Chà chà,” anh ta nói. “Làm ăn thế nào rồi?”
“Được lắm,” bà trả lời. Đứa bé nằm yên, bà vỗ vỗ nó như cách đã từng làm với tôi. Gentleman hất đầu về phía đứa bé.
“Nhóc tì này,” anh ta nói, “ở trại, hay người nhà?”
“Ở trại, hẳn rồi,” bà đáp.
“Nhóc trai hay nhóc gái?”
“Một nhóc trai, ơn trên phù hộ nó! Lại một đứa trẻ không mẹ đáng thương mà ta nên cày cục nuôi lớn.”
Gentleman rướn người về phía đứa bé.
“Cậu nhóc may mắn!” Anh ta nháy mắt.
Bà Sucksby kêu lên “Ôi!” Rồi mặt đỏ lên như một bông hồng. “Cậu hỗn quá!”
Ẻo lả hay không thì anh chàng chắc chắn vẫn có thể khiến một quý cô đỏ mặt.
Chúng tôi gọi anh ta là Gentleman, vì anh ta thật sự là một quý ông – đã từng, anh ta nói, theo học ở một trường dành cho các quý ông thực thụ, và có cha mẹ cùng một người chị em – những người bị anh ta làm cho đau khổ. Một thời anh ta từng có tiền nhưng mất sạch vì thua bạc, cha anh ta nói rằng anh ta sẽ không được cầm một xu nào trong tài sản gia đình nữa. Vậy nên anh ta bắt buộc phải kiếm tiền theo cách lỗi thời – trộm và những trò mánh lới. Tuy vậy, anh ta hoà nhập với đời tốt đến nỗi tất cả chúng tôi bảo rằng chắc phải có máu xấu di truyền trong gia đình ấy, thứ hoàn toàn bộc lộ nơi anh ta.
Anh ta có thể là một thợ vẽ khá nếu lựa chọn con đường đó, và đã từng tham gia một chút vào đường dây làm giả giấy tờ ở Pari. Khi việc không thành, tôi nghĩ anh ta dùng một năm chuyển ngữ sách tiếng Pháp thành tiếng Anh – hoặc tiếng Anh thành tiếng Pháp – dẫu sao, cứ mỗi lần lại cho chúng khác nhau một chút, ghim vào đó những tiêu đề khác nhau, biến một câu chuyện cũ kỹ thành hai chục câu chuyện mới. Tuy vậy, anh ta chủ yếu hoạt động như một gã lừa đảo, cờ gian bạc lận ở các sòng bài – vì tất nhiên, anh ta có thể hoà lẫn vào lớp người đó, mang dáng vẻ thật thà hệt số còn lại. Đặc biệt, các quý bà sẽ trở nên khá cuồng nhiệt vì anh ta. Đã ba lần anh ta suýt kết hôn với mấy nữ thừa kế giàu có nào đó, nhưng mỗi lần như vậy, ông bố của cô gái đều nghi ngờ, rồi vụ việc đổ bể. Anh ta đã huỷ hoại cuộc đời nhiều người bằng cách bán cho họ cổ phiếu của các ngân hàng giả mạo. Cực xinh trai, được bà Sucksby mê như điếu đổ. Khoảng một năm anh ta đến phố Lant một lần, mang chiến lợi phẩm cho ông Ibbs, đem đi mấy đồng bạc xấu, sự cẩn trọng, lẫn tiền boa.
Lúc này, tôi đoán anh ta mang theo chiến lợi phẩm đến, có vẻ là vậy. Ngay khi anh ta xem chừng đã ấm lại nơi trước ngọn lửa, đã được Dainty đưa trà cho – có pha rum, bà Sucksby đặt đứa trẻ say ngủ trở vào cũi, vuốt thẳng váy trên đùi rồi nói,
“Nào, Gentleman, thật là dễ chịu nhỉ. Đã một hai tháng nay chúng tôi quên mất cậu. Cậu có mang gì theo không, vì ông Ibbs sẽ muốn xem qua đấy.”
Gentleman lắc đầu. “Tôi e là, chẳng có gì cho ông Ibbs cả.”
“Hả, không có gì? Ông có nghe không, ông Ibbs?”
“Thật đáng buồn,” ông Ibbs lên tiếng từ chỗ của mình nơi lò than.
Bà Sucksby trở nên kín đáo. “Vậy, cậu có thứ gì cho ta chăng?”
Nhưng Gentleman lại lắc đầu.
“Cũng không phải cho bà, bà S,” anh ta nói. “Không phải cho bà, không phải cho nhóc Garibaldi đây” (ám chỉ John), “không phải cho Dainty hay Phil và mấy cậu trai, thậm chí không phải cho Charley Wag.”
Trong lúc nói, anh ta đưa mắt quét khắp phòng, cuối cùng nhìn vào tôi, không nói gì nữa. Tôi đã nhặt những quân bài rơi vãi lên, đang sắp chúng thành từng chất – cơ, rô, chuồn, bích. Khi bắt gặp anh ta nhìn mình chăm chú – và phía sau anh ta là John, Dainty lẫn bà Sucksby với gương mặt vẫn còn đỏ hồng, đều đang trông về phía này – tôi bèn đặt những quân bài xuống. Anh ta liền đưa tay cầm chúng lên, bắt đầu xáo. Anh ta là kiểu người như thế, đôi tay luôn phải có việc gì đó để làm.
“Nào, Sue,” mắt anh ta vẫn dán chặt vào tôi. Đôi mắt xanh lục rất trong.
“Nào, việc gì?” Tôi đáp.
“Cô nghĩ gì nào? Tôi đến đây vì cô đấy.”
“Chị ta hả!” John thốt lên, vẻ kinh tởm.
Gentleman gật đầu. “Tôi có một thứ cho cô. Một lời ngỏ.”
“Một lời ngỏ!” Phil kêu lên. Cậu ta đang nghe lỏm. “Coi chừng đó Sue, hắn muốn cưới cô đó!”
Dainty ré lên, cả bọn con trai cười khẩy. Gentleman chớp mắt, cuối cùng cũng dứt ánh nhìn khỏi tôi, rướn về phía bà Sucksby để nói,
“Bảo những người bạn của bà ở lò than đi đi, được chứ? Nhưng để John và Dainty lại, tôi có thể cần chúng giúp.”
Bà Sucksby do dự, rồi liếc nhìn ông Ibbs. Ông Ibbs liền nói, “Được rồi, mấy cậu, những đồng tiền đẫm mồ hôi nước mắt quá, nữ hoàng đáng thương đúng là kẻ hết thời. Nếu thêm nữa, thì chúng ta tiêu đời vì tội mưu phản mất.” Ông xách một cái xô lên, bắt đầu thả những đồng xu nóng rẫy vào nước, từng đồng một. “Suỵt, hãy nghe tiếng kêu của những cậu nhóc màu vàng này!” Ông nói. “Vàng hiểu rõ nhất. Giờ thì, vàng biết cái gì nào?”
“Đi đây, chú Humphrey,” Phil nói. Cậu ta tròng áo khoác vào, lật cổ áo lên. Những cậu khác cũng làm vậy. “Chào nhé,” họ hất đầu một cái về phía tôi, John, Dainty cùng bà Sucksby. Họ chẳng nói gì với Gentleman. Anh ta nhìn họ đi qua.
“Cẩn trọng đấy, mấy cậu!” Anh ta kêu với theo khi cửa đóng lại sau lưng họ. Chúng tôi nghe tiếng Phil nhổ nước bọt lần nữa.
Ông Ibbs xoay khoá trong ổ. Rồi ông bước lại tự rót cho mình một tách trà – đổ rum vào, giống như Dainty đã pha cho Gentleman. Mùi rum bốc lên giữa làn hơi, hoà vào mùi của lửa, chỗ vàng đổ mồ hôi sôi nước mắt, da chó, mồ hôi lẫn áo bành tô bốc hơi nước. Trên vỉ lò, mưa rơi nhẹ hơn. John nhai một hạt đậu phộng, nhặt vỏ từ trên lưỡi. Ông Ibbs đã dịch chuyển những chiếc đèn. Bàn, gương mặt, bàn tay của chúng tôi đều sáng lên, nhưng phần còn lại của căn phòng chìm trong bóng tối.
Trong một phút, chẳng ai nói gì. Gentleman vẫn ngó nghiêng mấy lá bài, chúng tôi ngồi nhìn anh ta. Ông Ibbs nhìn anh ta chăm chú nhất: mắt nheo lại, đầu nghiêng nghiêng – tựa hồ đang ngắm nghía anh ta qua nòng súng.
“Vậy, con trai,” ông nói. “Chuyện là thế nào?”
Gentleman ngước lên.
“Câu chuyện,” anh ta nói. “Câu chuyện là đây.” Rồi rút một quân bài, đặt ngửa trên bàn. Quân Già rô. “Hãy hình dung một người đàn ông,” anh ta kể. “Một người đàn ông lớn tuổi – nhưng thông thái, theo cách riêng của ông ta – thực ra là một ngài học giả, nhưng có các thói quen lạ lùng. Ngài sống trong một căn nhà khác thường nào đó, trong một ngôi làng khác thường nào đó cách Luân Đôn vài dặm – ngay lúc này, đừng bận tâm chính xác là chỗ nào. Ngài có một căn phòng vĩ đại chứa đầy sách lẫn các bức hoạ, và không quan tâm đến thứ gì khác ngoài chúng cùng một tác phẩm ngài đang biên soạn – hãy gọi đó là một quyển từ điển vậy. Một từ điển về tất cả các sách ngài có. Nhưng ngài cũng mang hy vọng về các bức vẽ, quyết tâm đóng chúng thành những quyển album hoành tráng. Tuy nhiên, để làm được vậy, phải tốn nhiều tiền hơn là ngài có thể xoay được. Ngài bèn đăng một thông cáo trên báo: ngài cần sự phục vụ của–” nói đến đây anh ta đặt xuống một quân bài khác, cạnh quân đầu tiên: Bồi bích, “một cậu trai trẻ thông minh, để giúp ngài đóng bìa bộ sưu tập. Và cậu trai thông minh đó – bấy giờ khá nổi tiếng ở các nhà đánh bạc tại Luân Đôn, rất khao khát một công việc nào đó khác thường tí chút, gồm cả chỗ ở và thức ăn – đã đáp lại mẩu thông cáo, được ngài thử nghiệm, phù hợp với công việc.”
“Cậu trai trẻ thông minh đó là cậu chứ gì,” ông Ibbs nói.
“Cậu trai trẻ thông minh chính là tôi. Ông bắt nhịp câu chuyện tốt thật!”
“Và cái chòi quê đó,” John xen vào câu chuyện của Gentleman, bất kể sự hờn dỗi trước đó, “hãy nói là nó đầy ứ của cải. Và anh định bẻ khoá tất cả phòng ốc, rương hòm tủ két. Anh phải đến chỗ ông Ibbs để mượn mấy thằng cắp cùng một kẻ phụ tình, và anh cần Sue – với đôi mắt ngây thơ nai vàng ngơ ngác của chị ta – để làm bia đỡ.”
Gentleman nghiêng đầu, hít hơi rồi giơ một ngón tay lên, theo cách giễu cợt. Rồi thì:
“Lạnh như băng!” Anh ta nói. “Cái chòi quê đó là một nơi đáng nguyền rủa: hai trăm năm tuổi, tối tăm, gió lùa tứ tung, đã bị thế chấp đến tận nóc – tiện thể, cái nóc đó cũng dột nữa. Chẳng có lấy một cái thảm, bình hay chén dĩa đáng để cố gắng nhiều hơn hơi sức dành cho một cái xì hơi, e là vậy. Ngài ấy ăn bữa khuya trong chén đĩa bằng đất nung hệt chúng ta.”
“Đồ già bủn xỉn!” John nói. “Nhưng, một kẻ keo cú như thế thì thường giấu giếm tiền ở ngân hàng đúng không? Và anh đã khiến ông ta viết một di chúc để lại tất cả tiền bạc cho anh, giờ thì anh ở đây vì cần một chai thuốc độc–”
Gentleman lắc đầu.
“Không một chút thuốc độc nào sao?” John hỏi, có vẻ hy vọng.
“Không chút nào. Không một giọt nào hết. Cũng không có tiền trong ngân hàng – ít ra là không phải tiền đứng tên ông già đó. Ông ta sống lặng lẽ và lập dị đến nỗi cũng chẳng biết dùng tiền để làm gì. Nhưng đấy, cậu biết không, ông ta không sống một mình. Nhìn đây, người bầu bạn cùng ông ta…”
Quân Đầm cơ.
“Hê hê,” John ranh mãnh. “Một bà vợ, thật là vui.”
Nhưng Gentleman lại lắc đầu lần nữa.
“Một cô con gái, cũng vậy thôi.” John nói.
“Không phải vợ. Không phải con gái,” Gentleman nói, mắt và ngón tay dán vào gương mặt u sầu của quân Đầm. “Một người cháu gái. Tuổi tác,” anh ta liếc nhìn tôi, “ngang với Sue. Diện mạo, thì rất đẹp. Trí tuệ, thì sáng suốt, còn kiến thức,” anh ta mỉm cười, “chà, phải nói là hoàn toàn ít ỏi.”
“Một ả nhạt toẹt!” John hứng khởi. “Ít ra hãy nói là cô ta giàu.”
“Cô ta giàu, đúng vậy,” Gentleman gật đầu. “Nhưng theo kiểu sâu bướm chỉ giàu khi có cánh, cỏ bốn lá chỉ giàu khi có mật. Cô ấy là người được thừa kế, Johny à. Tài sản của cô ấy được đảm bảo, người bác không thể chạm vào, nhưng nó đi kèm một điều kiện kỳ khôi. Cô ta không được mó tới xu nào cho đến ngày kết hôn. Nếu cô ta chết khi vẫn là một bà cô không chồng, số tiền sẽ thuộc về một người anh em họ. Còn nếu cô ta lấy chồng–” Anh ta dùng một ngón tay trắng trẻo vuốt lá bài, “thì cô ta sẽ giàu như bà chúa.”
“Giàu cỡ nào?” Ông Ibbs hỏi. Từ nãy đến giờ ông chẳng nói gì. Giờ khi nghe tiếng ông, Gentleman ngước lên, nhìn vào mắt ông.
“Mười ngàn bảng trao ngay,” cậu ta lặng lẽ nói. “Cùng năm ngàn trong quỹ.”
Một viên than trong bếp lửa nổ đánh bép. John huýt sáo qua chiếc răng mẻ của nó, còn Charley cất tiếng sủa. Tôi liếc nhìn bà Sucksby, nhưng đầu bà đang cúi, khuôn mặt rất tối. Ông Ibbs nhấp một ngụm trà, tỏ ra cân nhắc.
“Dám cá lão già giữ rịt cô ta, đúng không?” Ông nói khi ngụm trà đã được nuốt xuống.
“Vừa đủ,” Gentleman gật đầu, dịch lùi ra sau. “Ông ta dùng cô ấy làm thư ký trong suốt những năm qua – bắt cô gái đọc sách cho ông ta hàng giờ liền không nghỉ. Tôi nghĩ ông ta khó mà nhận ra cô ấy đã lớn, trở thành một quý cô.” Anh ta cười khá bí ẩn. “Nhưng tôi nghĩ cô ta biết. Khi tôi bắt đầu làm việc với những bức tranh thì cô ta cũng phát hiện ra đam mê trong người dành cho hội hoạ. Cô ta muốn học, dưới sự chỉ dẫn của tôi. Tôi thì, biết đủ về việc này để đóng giả vai. Còn cô ta, với sự ngây thơ của mình, còn chẳng thể phân biệt nổi màu hồng với màu da lợn. Nhưng cô ấy làm quen với những điều được chỉ dẫn – ồ, như với mọi thứ khác. Chúng tôi học được một tuần, tôi dạy cô ấy các đường nét, tạo bóng. Tuần thứ hai: chúng tôi chuyển từ bóng sang dựng hình. Tuần thứ ba: sự hoá đậm của màu nước. Tiếp theo là sự hoà trộn của màu dầu. Tuần thứ năm–”
“Tuần thứ năm, anh gù cô ta!” John cướp lời.
Gentleman nhắm mắt.
“Tuần thứ năm, những buổi học của chúng tôi bị huỷ,” anh ta nói. “Cậu nghĩ một cô gái như vậy có thể ngồi một mình trong phòng với nam gia sư sao? Chúng tôi phải để cô hầu người Ai-len của cô ta ngồi cùng từ đầu đến cuối – luôn ho và đỏ mặt mỗi lần tay tôi dịch đến quá gần tay cô chủ của ả, hoặc hơi thở của tôi quá ấm trên đôi má nhỏ trắng của cô gái. Tôi nghĩ cô hầu đó là một ả làm bộ kiểu cách thượng thặng, nhưng hoá ra ả bị tinh hồng nhiệt – bây giờ thì ả đang hấp hối vì bệnh đó, con ả đáng thương. Giờ thì quý cô của tôi chẳng có ai theo bên cạnh ngoại trừ người quản gia – mà người quản gia thì quá bận để ngồi cùng tại các giờ học. Do đó, các giờ học phải chấm dứt, màu phải bỏ đó cho đến khi khô khốc cạnh khung vẽ. Giờ tôi chỉ có thể thấy cô gái tại bữa xế, cạnh ông chú, đôi khi đi ngang cửa phòng cô ấy, tôi nghe được tiếng thở dài.”
“Vừa khi,” ông Ibbs nói, “hai người đang bắt đầu thân thiết.”
“Phải rồi,” Gentleman nói. “Phải rồi.”
“Quý cô đáng thương!” Dainty nói. Đôi mắt con bé đã ngấn nước, có thể khóc bất cứ lúc nào. “Cô ấy khá duyên dáng, đúng không? Về dáng vẻ và gương mặt ấy?”
Gentleman có vẻ thờ ơ. “Cô ấy có thể làm choáng ngợp một người đàn ông, tôi nghĩ vậy,” anh ta nói kèm cái nhún vai.
John phá ra cười. “Tôi muốn làm cô ta choáng ngợp!”
“Tôi muốn làm cho cậu phát choáng,” Gentleman nói đều đều. Rồi chớp mắt, “Với nắm đấm của tôi, ý tôi là vậy.”
Mặt John sa sầm, nó đứng bật dậy. “Tôi muốn xem anh thử lắm đấy!”
Ông Ibbs giơ tay lên. “Mấy đứa! Mấy đứa! Đủ rồi! Ta sẽ không để chuyện đó xảy ra, trước mặt phụ nữ và trẻ con thế này! John, ngồi xuống và thôi lộn xộn đi. Gentleman, cậu hứa kể với chúng tôi câu chuyện của cậu. Đến giờ chúng tôi mới chỉ được nghe phần râu ria bên lề. Phần lõi đâu, con trai? Ngon lành ở chỗ nào? Và, đúng chủ đề hơn một chút, là bằng cách nào Susie có thể giúp làm gỏi nó đây?”
John đá chân cái ghế đẩu của nó, rồi ngồi xuống. Gentleman đã lấy ra một gói thuốc lá. Chúng tôi chờ trong lúc anh ta tìm que điêm, đánh lửa. Chúng tôi nhìn ánh lửa lưu huỳnh trong mắt anh ta. Sau đó anh ta lại nghiêng về phía bàn, chạm vào ba quân bài đã đặt trên đó, vuốt thẳng các mép.
“Ông muốn phần ngon lành hả,” anh ta nói. “Được lắm, nó đây.” Anh ta gõ tay lên quân Đầm cơ. “Tôi nhăm nhe cưới cô gái này và chiếm tài sản của cô ta. Tôi nhăm nhe cướp lấy cô ta–” anh ta đẩy quân bài sang một phía, “khỏi sự tọc mạch của ông bác. Tôi đang trên đường thực hiện điều đó khá ổn rồi, như các người đã nghe kể. Nhưng cô ta là kiểu khá lập dị, không có lòng tin vào chính mình, và nên có một cô gái cứng rắn, lanh lợi để làm người hầu, đó là lý do tại sao tôi bị hỏng việc. Tôi đang đến Luân Đôn để thu thập một bộ bìa cho mớ album của lão già. Tôi muốn gửi Sue về trước. Tôi muốn sắp xếp để cô ấy làm người hầu của cô chủ, như vậy cô ấy có thể giúp tôi tán tỉnh cô gái.”
Anh ta bắt lấy ánh mắt tôi, vẫn đang vơ vẩn nghịch các quân bài bằng bàn tay trắng trẻo. Giọng anh ta trầm xuống.
“Và có việc khác nữa,” anh ta nói, “mà tôi sẽ cần Sue giúp. Khi đã cưới cô gái đó, tôi không muốn cô ta ở bên. Tôi biết một người đàn ông có thể giữ cô ta khỏi tay tôi giúp. Ông ta có nhà, cô ta sẽ được giữ ở đó. Nhà thương điên. Ông ta sẽ canh chừng cô gái. Có lẽ, là rất kỹ càng…” Anh ta chưa nói xong, nhưng lật úp quân bài xuống, giữ ngón tay trên mặt sau. “Tôi chỉ việc cưới cô ta,” anh ta nói, “và – như cách Johny nói – tôi phải gù cô ta, một lần, để có được số tiền. Rồi tôi sẽ đem cô ta, không chút ngờ vực, đến cổng nhà thương điên. Có hại gì đâu nhỉ? Chẳng phải tôi đã nói, rằng cô nàng cũng thộn phân nửa rồi hay sao? Nhưng tôi muốn chắc chắn. Tôi sẽ cần Sue ở cạnh cô ta để giữ cô ta ngơ ngẩn, và để thuyết phục cô ta, trong tình trạng ngu ngơ, xuôi theo vở diễn.”
Anh ta lại hít một hơi từ điếu thuốc và, như đã làm ban nãy, mọi người hướng ánh mắt về phía tôi. Mọi người, ngoại trừ bà Sucksby. Từ nãy đến giờ, trong lúc Genltleman nói, bà lắng nghe, không nói một lời. Tôi thấy bà rót một ít trà từ tách của mình vào đĩa, tráng vòng quanh món đồ sứ rồi cuối cùng đưa lên miệng khi câu chuyện tiếp tục. Bà chẳng bao giờ chịu được trà nóng, bảo rằng nó làm chai môi. Và tất nhiên, tôi không tin mình biết được một người phụ nữ trưởng thành nào có đôi môi mềm như bà.
Giờ, trong yên lặng, bà đặt chiếc tách cùng đĩa xuống, rút khăn tay ra chùi miệng. Bà nhìn Gentleman, cuối cùng cũng lên tiếng.
“Tại sao lại là Sue,” bà hỏi, “mà không phải cô gái nào khác trên cái nước Anh này? Tại sao lại là Sue của ta?”
“Bởi vì cô ấy là của bà, bà S,” anh ta trả lời. “Vì tôi tin cô ấy, vì cô ấy là cô gái ngoan – ý nói là, cô gái xấu, không quá tốt bụng về các điểm cao thượng của luật pháp.”
Bà gật đầu. “Và anh dự định,” bà hỏi tiếp, “chia phần thế nào?”
Anh ta lại nhìn tôi, nhưng vẫn nói với bà. “Cô ấy sẽ có hai ngàn bảng,” anh ta vuốt bộ râu, “và được lấy bất cứ xu lẻ, quần áo hay trang sức nào của cô chủ nếu thích.”
Đó là giao kèo.
|
Chúng tôi suy xét cẩn thận. “Cô thấy thế nào?” Cuối cùng anh ta hỏi – lần này là hỏi tôi. Rồi khi không nghe tôi trả lời, anh ta nói, “Tôi xin lỗi, vì bất ngờ đưa đề nghị này cho cô. Nhưng cô cũng thấy thời gian ít ỏi tôi có để hành động. Tôi phải nhanh chóng tìm ra một cô gái. Tôi muốn người đó là cô, Sue. Tôi muốn người đó là cô, chứ không phải bất kỳ ai khác. Nhưng nếu không thể được, thì hãy nói nhanh cho tôi biết, được không? Để tôi còn có thể tìm người khác.”
“Dainty sẽ làm việc đó,” John lên tiếng khi nó nghe nói vậy. “Dainty từng làm hầu gái rồi – phải không, Daint? Cho một quý cô trong căn nhà khổng lồ ở Peckham.”
“Theo như ta nhớ,” ông Ibbs nhấp tách trà, “Dainty bị đuổi khỏi chỗ đó vì đâm một cái ghim cài nón lên tay cô chủ.”
“Cô ta cư xử với con như một ả khốn,” Dainty nói, “làm con phát khùng lên. Cô gái này nghe không có vẻ là người ngang ngạnh. Anh ta đã nói rằng cô ta nhạt toẹt. Con có thể làm hầu gái cho một quý cô nhạt nhẽo như vậy.”
“Sue là người được đề nghị,” bà Sucksby lặng lẽ nói. “Con bé vẫn chưa trả lời.”
Một lần nữa, tất cả họ lại nhìn sang tôi. Những ánh mắt của họ khiến tôi nao núng. Tôi quay đầu, và nói. “Tôi không biết. Xem chừng là một vụ khó chơi. Sắp đặt tôi, thành hầu gái của một quý cô? Làm sao tôi biết được cần phải làm gì?”
“Chúng tôi có thể dạy cho cô,” Gentleman nói. “Dainty có thể dạy cho cô, vì cô ta biết việc này. Có thể khó khăn cỡ nào được chứ? Cô chỉ phải ngồi cười điệu và giữ thuốc men hộ cô ta.”
Tôi bèn nói, “Nếu cô gái không muốn tôi làm người hầu thì sao? Tại sao cô ta lại muốn tôi chứ?”
Nhưng anh ta đã tính đến việc đó. Anh ta đã tính đến mọi điều. Anh ta nói, rằng định đưa tôi đến dưới danh nghĩa con gái người em của y tá cũ của anh ta – một cô gái thành thị gặp thời buổi khó khăn. Anh ta nghĩ cô gái, vì anh ta, sẽ đồng ý nhận tôi.
Và nói, “Chúng tôi sẽ dựng cho cô một nhân vật – gọi là Quý cô Fanny ở phố Bum đi nhé, cái gì đấy đại loại như vậy – cô ta sẽ chẳng biết đâu. Cô ta chưa bao giờ ra ngoài xã hội, chẳng phân biệt nổi cả Luân Đôn với Jerusalem. Cô ta hỏi ai được cơ chứ?”
“Tôi không biết,” tôi lại nói. “Nếu như cô ta chẳng hề quan tâm đến anh nhiều như anh hy vọng thì sao?”
Anh ta trở nên nhũn nhặn. “À,” anh ta nói, “tôi nghĩ bây giờ mình đã được phép để biết khi nào thì một cô gái còn nai tơ thích mình.”
“Nếu như,” bà Sucksby bèn nói, “cô ta thích cậu không nhiều? Nếu cô ta lại trở thành cô Bamber hay cô Finch thì sao?”
Cô Bamber và cô Finch là hai nữ thừa kế mà anh ta suýt đánh lưới được. Nghe đến tên của họ, anh ta cười mũi. “Cô ta sẽ không như vậy,” anh ta nói, “không giống hai người kia đâu, tôi biết. Những cô kia có cha – những người cha tham vọng, có hàng tá luật sư sát bên. Ông bác của cô gái này chẳng thấy được cái gì xa hơn trang cuối cùng trong quyển sách của ông ta. Còn việc cô ta thích tôi chưa đủ – chà, tôi chỉ có thể nói như vầy: tôi nghĩ về sau cô ta sẽ thích tôi nhiều.”
“Vừa đủ để dọn đi khỏi nhà ông bác của cô ta chứ hả?”
“Đó là một căn nhà rất chán,” anh ta trả lời, “đối với một cô gái ở tuổi cô ta.”
“Nhưng đó là số tuổi sẽ quật ngược lại cậu,” ông Ibbs nói. Hẳn nhiên, ta thấy được vài điều về pháp luật trong một câu nói thế này. “Cho đến ngày đủ hai mươi mốt, cô ta vẫn cần sự cho phép của ông bác. Hãy chiếm lấy cô ta càng nhanh và yên lặng càng tốt, biết đâu ông già sẽ đến lấy lại cô ta đấy. Việc cậu là chồng cô ta lúc đó cũng chẳng được đếm xỉa đâu.”
“Nhưng việc cô ta là vợ tôi, thì được đấy – nếu ông hiểu ý tôi.” Gentleman ranh mãnh.
Dainty có vẻ ngơ ngác. John thấy gương mặt con nhỏ. “Vụ gù ấy,” nó nói.
“Cô ta cần phải bị làm cho mất thanh danh,” bà Sucksby nói. “Như vậy thì không quý ông nào sẽ thèm muốn cô ta nữa.”
Dainty há hốc miệng to hơn bao giờ hết.
“Đừng bận tâm việc đó,” ông Ibbs đưa tay lên. Rồi nói với Gentleman, “Thật lắt léo. Lắt léo khác thường.”
“Tôi không phủ nhận. Nhưng chúng ta phải tận dụng cơ hội. Chúng ta có gì để mất chứ? Nếu không có sự cố, thì với Sue sẽ chỉ là một kỳ nghỉ thôi.”
John phá ra cười. “Một kỳ nghỉ,” nó nói, “sẽ là như vậy. Một kỳ nghỉ dài bỏ mẹ, nếu bị tóm.”
Tôi cắn môi. Thằng nhóc nói đúng. Nhưng rủi ro không phải điều chính yếu mà tôi lo nghĩ. Không thể làm một tên trộm mà cứ phân vân may rủi, cần phải nổi điên lên. Chỉ là tôi không chắc mình muốn bất cứ kỳ nghỉ nào. Tôi không chắc mình muốn rời khỏi Borough hay không. Có lần tôi đã cùng bà Sucksby đi thăm anh em họ của bà ở Bromley. Và về nhà với những nốt phát ban. Vùng quê đó vừa tĩnh lặng vừa kỳ quặc, mọi người sống ở đó nếu không ngơ ngẩn thì cũng quái đản hệt đám gipsy.
Làm thế nào tôi có thể thích việc ở cạnh một cô thộn? Cô ta có thể khác với Dainty – con nhỏ này chỉ kích động tí chút và thỉnh thoảng mới trở nên bạo lực. Cô ta có thể rất điên khùng. Có thể ráng bóp cổ tôi, và trong vòng hàng mấy dặm sẽ chẳng có một ai để nghe tiếng kêu cứu. Dân gipsy dù có cũng chẳng để làm gì, họ chỉ biết mình thôi. Mọi người đều biết dân gipsy sẽ chẳng thèm băng qua đường để nhổ bọt lên người bạn nữa, dù bạn có đang cháy phừng phừng.
Tôi bèn nói, “Cô gái đó… như thế nào? Anh nói là cô ta có cái đầu lập dị.”
“Không phải lập dị,” Gentleman nói. “Chỉ là, tôi phải gọi là thần kinh. Một kẻ ngây thơ, bẩm sinh ngớ ngẩn. Cô ta bị cách ly với thế giới. Mồ côi, giống như cô, nhưng trong khi cô có bà Sucksby để được mài dũa, thì cô ta chẳng-có-ai.”
Bấy giờ Dainty nhìn anh ta. Mẹ nó là một kẻ rượu chè đã chết đuối dưới sông. Cha thì từng đánh đập nó. Ông ta đánh em gái của nó đến chết. Nó nói bằng giọng thì thào,
“Gentleman, chẳng phải những điều anh sắp làm ấy, là cực kỳ tội lỗi hay sao?” Cho đến lúc này, tôi không cho rằng bất cứ ai trong số chúng tôi đã nghĩ đến điều đó. Giờ khi Dainty nói ra, tôi quét ánh mắt vòng quanh, nhận thấy chẳng ai nhìn vào mình cả.
Rồi Gentleman phá ra cười.
“Tội lỗi hả?” Anh ta nói. “Ôi, sao vậy, Dainty, tất nhiên nó tội lỗi! Nhưng là tội lỗi bởi tiếng ngân của mười lăm ngàn bảng – ôi chà! Một tiếng ngân ngọt ngào làm sao, cô cứ thoả thích mà ngâm nga. Nhưng mà, cô tưởng khi tiền được kiếm lấy lần đầu tiên, là nó được kiếm ra một cách thành thật hả? Đừng có mơ! Tiền bạc không bao giờ như vậy. Nó được kiếm ra, bởi những gia đình như gia đình cô ta, trên lưng của bọn nghèo – đạp gãy hai chục cái lưng thì kiếm được một shi-ling. Cô đã bao giờ nghe tới Robin Hood chưa?”
“Rồi!” Con nhỏ đáp.
“Đó, tôi và Sue sẽ giống như anh ta: lấy tiền của người giàu để phân phát lại cho những người đã bị tước đoạt.”
John cong môi. “Anh là thứ ma cô,” nó nói. “Robin Hood là một anh hùng, một người đàn ông kinh điển. Phân phát tiền lại cho mọi người hả? Mọi người nào chớ! Anh muốn cướp của một quý cô, thì đi mà mà cướp của mẹ anh ấy!”
“Mẹ tôi hả!” Gentleman trả lời, mặt đỏ lên. “Mẹ tôi có dính dáng gì đến mọi sự chứ? Treo cổ bà lên cho rồi!” Bấy giờ, bắt gặp ánh mắt bà Sucksby, anh ta bèn quay sang tôi. “Ôi, Sue,” anh ta nói. “Xin lỗi cô.”
“Không sao,” tôi vội đáp. Rồi tôi nhìn quanh bàn, mọi người lại im lặng. Có lẽ họ đều đang nghĩ, giống như vào cái ngày xử vụ treo cổ, “Cô ta chẳng can đảm sao?” Hy vọng là vậy. Nhưng tôi lại hy vọng họ không phải đang nghĩ vậy. Bởi vì, như đã nói, tôi chẳng bao giờ can đảm, tuy đã chung đụng được bình thường với những người cho rằng tôi như thế, trong suốt mười bảy năm. Giờ Gentleman đang ngồi đây, cần đến một cô gái và đã đi – bốn mươi dặm, anh ta nói thế, dưới cái thời tiết lạnh giá trơn trượt kia – để tìm đến tôi.
Tôi ngước nhìn vào mắt anh ta.
“Hai ngàn bảng, Sue,” anh ta lặng lẽ nói.
“Nhiêu đó là sẽ rủng rỉnh lắm đây, đúng không,” ông Ibbs nói.
“Và tất cả chỗ áo xống, trang sức nữa!” Dainty nói. “Ôi, Sue! Mang chúng trên người, cô sẽ bảnh khủng khiếp!”
“Con sẽ trông như một quý cô ấy chứ,” bà Sucksby nói. Tôi nghe bà nói, nhìn vào ánh mắt bà, biết rằng bà đang nhìn tôi – cũng như cách bà làm rất nhiều lần trước đây – và trông thấy, đằng sau gương mặt tôi, là gương mặt của mẹ tôi. Tài sản vẫn sẽ là của con – tôi gần như nghe thấy bà nói câu đó. Tài sản vẫn sẽ là của con, và cùng với nó, là của chúng ta nữa, Sue à…
Xét cho cùng, bà nói đúng. Đây là cơ may của tôi, từ trên trời rơi xuống – cuối cùng cũng rơi xuống. Tôi có thể nói gì chứ? Tôi lại nhìn Gentleman. Tim tôi đập mạnh, tựa búa gõ trong lồng ngực. Tôi nói:
“Được. Tôi sẽ làm việc đó. Nhưng phần tôi phải là ba ngàn bảng, không phải hai. Và nếu quý cô ấy không màng đến tôi, gửi trả tôi về, thì tôi muốn có một trăm, vì đã cất công cố gắng.”
Anh ta do dự, nghĩ ngợi tới lui. Tất nhiên, tất cả chỉ là vờ vịt. Sau một giây, anh ta mỉm cười, giơ tay về phía tôi, và tôi đưa tay cho anh ta. Anh ta xiết những ngón tay của tôi, phá ra cười.
John quắc mắt. “Tôi cá mười ăn một là trong vòng một tuần cô ta sẽ khóc lóc quay về,” nó nói.
“Tôi sẽ quay về với chiếc váy nhung trên người,” tôi trả lời. “Và găng tay dài tới đây, chiếc nón có mạng, cùng một túi đầy đồng bạc. Và cậu sẽ phải gọi tôi là ‘cô’. Đúng không, bà Sucksby?”
Thằng nhỏ phun phì phì. “Tôi thà tự rứt lưỡi mình ra còn hơn phải làm vậy!”
“Tôi sẽ rứt nó ra cho cậu trước!” Tôi đáp.
Tôi nói chuyện như một đứa trẻ. Tôi là một đứa trẻ! Có lẽ bà Sucksby cũng đang nghĩ vậy. Vì bà chẳng nói gì, chỉ ngồi đó nhìn tôi chăm chú, với bàn tay đặt nơi đôi môi mềm. Bà mỉm cười, tuy gương mặt vẫn có vẻ băn khoăn. Tôi gần như có thể khẳng định, rằng bà sợ hãi.
Có lẽ bà sợ thật.
Hoặc có lẽ chỉ đến lúc này tôi mới cho rằng như vậy, khi đã biết những điều đen tối, đáng sợ gì sắp kéo tới.
Luân Đôn năm 1862. Sue Trinder, một cô gái mồ côi từ lúc lọt lòng, lớn lên giữa những kẻ trộm vặt - fingersmith - dưới sự chăm sóc yêu thương nhưng khắc nghiệt của bà Sucksby cùng gia đình. Nhưng ngay từ lúc hít hơi thở đầu tiên, số phận của Sue đã được nối kết với một cô gái mồ côi khác sinh trưởng trong một tòa nhà lớn đầy u buồn cách đó không xa.
1
Tên tôi, vào những ngày ấy, là Susan Trinder. Mọi người gọi tôi là Sue. Tôi biết năm sinh của mình, nhưng trong suốt nhiều năm không được biết ngày tháng, bèn chọn sinh nhật vào lễ Giáng sinh. Tôi tin mình là trẻ mồ côi. Tôi biết mẹ của mình đã chết. Tôi chưa bao giờ thấy bà, nên bà chẳng là gì với tôi cả. Nếu phải là ai đó, thì tôi là một đứa trẻ của bà Suckby. Nói về cha, tôi có ông Ibbs – người thợ khoá có cửa hàng ở phố Lant, Borough, gần sông Thames.
Đây là lần đầu tiên tôi nhớ việc mình đã suy nghĩ về thế giới và vị trí của bản thân.
Một con bé tên Flora trả bà Suckby một penny để dẫn tôi đi ăn xin tại một vở kịch. Dạo đó người ta từng thích dẫn tôi đi ăn xin vì tôi có mái tóc sáng màu. Flora cũng khá trắng trẻo, thế là con bé cho tôi vào vai em gái. Rạp mà cô ấy dẫn tôi đến – vào cái đêm mà lúc này tôi đang nghĩ tới – là Surrey, rạp xiếc của St George. Vở Oliver Twist. Tôi có ấn tượng rất kinh khủng về nó. Tôi nhớ độ nghiêng của rạp diễn, dốc xuống tận sàn. Một người phụ nữ say khướt tóm lấy các chiếc nơ trên váy tôi. Những tia sáng rực rỡ khiến sàn diễn lung linh hào nhoáng, tiếng gầm của diễn viên, tiếng rú rít của khán giả. Có cả một nhân vật đội tóc giả màu đỏ và đeo râu quai nón, lúc đó tôi đoan chắc hắn ta là một con khỉ mặc áo khoác, bởi hắn nhảy nhót hệt như thế. Nhưng tệ hơn là con chó mắt đỏ cứ gầm gừ luôn miệng. Tệ hơn hết thảy nữa là chủ con chó – Bill Sykes, gã ma cô. Khi ông ta đánh cô gái Nancy đáng thương bằng dùi cui, tất cả mọi người từ hàng ghế của tôi trở xuống đều đứng dậy. Một chiếc giày bốt bị ném lên sân khấu. Một người phụ nữ cạnh tôi thét lên,
“Ôi, đồ quái vật! Đồ du côn! Cô gái đáng giá bốn chục thằng côn đồ như ngươi!”
Không biết do việc mọi người đứng dậy – khiến phòng diễn dường như nhấp nhô nghiêng ngả, do tiếng la hét của người phụ nữ, hay do cảnh tượng Nancy nằm xụi lơ, trắng xác dưới chân Bill Sykes, nhưng tôi bị tóm chặt bởi cơn kinh hãi tột độ. Tôi tưởng tất cả sắp bị giết. Bèn bắt đầu hét lên. Flora không thể bắt tôi im lặng được. Và khi người phụ nữ đã la lớn nọ đặt cánh tay lên tôi, mỉm cười, tôi càng hét to hơn. Rồi Flora bắt đầu khóc – con bé mới chỉ mười hai hay mười ba tuổi, tôi đoán vậy. Con bé dẫn tôi về nhà, bị bà Sucksby tát vào mặt.
“Mày nghĩ cái gì vậy hả, mà lại dẫn con bé đến đó?” Bà nói. “Lẽ ra mày nên ngồi với con bé trên bậc. Tao không cho thuê đám nhóc để chúng bị dẫn về như thế này, xanh cả mặt vì khóc. Mày đang chơi trò gì vậy hả?”
Bà đặt tôi lên đùi, tôi lại khóc thút thít. “Ngoan nào, cừu con của ta,” bà nói. Flora đứng trước mặt bà, không nói gì, kéo kéo một lọn tóc nơi chiếc má đỏ hoe. Bà Sucksby khi giận dữ chẳng khác nào quỷ sa tăng. Bà nhìn Flora, nhịp bàn chân xỏ dép lên thảm, cứ thế đung đưa trên ghế – một chiếc ghế gỗ kêu cọt kẹt mà ngoài bà ra không còn ai khác ngồi – và vỗ bàn tay dày, cứng lên chiếc lưng run rẩy của tôi. Rồi thì,
“Ta biết cái mánh mung nho nhỏ của mày,” bà lẳng lặng nói. Bà biết tất tần tật mánh mung của mọi người. “Mày lấy được gì hả? Hai cái khăn tay phải không? Hai cái khăn tay, và túi xách của một quý bà?”
Flora kéo lọn tóc vào miệng, cắn. “Một túi xách,” chốc sau nó nói. “Và một chai nước thơm.”
“Lấy ra coi,” bà Sucksby nói, chìa tay ra. Mặt Flora tối sầm. Nhưng nó đưa ngón tay đến một vệt rách ở eo váy, thò vào trong. Bạn có thể hình dung sự ngạc nhiên của tôi khi vệt rách hoá ra hoàn toàn không phải một vệt rách, mà là miệng của một chiếc túi lụa nhỏ được đính vào bên trong váy. Nó lấy ra một túi vải đen nhỏ, một cái chai với nút đậy trên một sợi dây bạc. Trong túi vải có một đồng ba mươi xu và nửa hạt nhục đậu khấu. Chắc nó lấy được từ người đàn bà say đã túm váy của tôi. Cái chai đã bị mở nắp, có mùi hoa hồng. Bà Sucksby hít hít.
“Xoàng xĩnh quá,” bà nói, “phải không?”
Flora hất đầu. “Lẽ ra con còn lấy được nhiều hơn,” nó nói, liếc nhìn tôi, “nếu nó không mở mồm ré toáng lên.”
Bà Sucksby vươn tới đánh nó cái nữa.
“Ta mà biết mày như thế,” bà nói, “thì mày sẽ chẳng có được gì đâu. Giờ để ta nói cho mà biết: nếu muốn một đứa nhóc để lên mặt kẻ cả, thì chọn đứa nào khác của tao đi. Đừng có chọn Sue. Có nghe không hả?”
Flora sưng sỉa, nhưng bảo rằng nó sẽ làm vậy. Bà Sucksby nói, “Tốt. Giờ thì biến đi. Và để mấy thứ thó được lại, không thì ta sẽ nói với mẹ mày là mày đi với đàn ông đấy.”
Rồi bà đem tôi về giường của bà – trước tiên, dùng tay cọ xát tấm trải để chúng ấm lên, cúi xuống thở vào ngón tay tôi để tôi được ấm. Tôi là đứa duy nhất trong số tất cả bọn trẻ được bà làm thế này. Bà nói, “Giờ con không sợ chứ, Sue?”
Nhưng tôi còn sợ, bèn trả lời như thế. Tôi nói mình sợ bị lão ma cô tìm thấy, bị lão dùng gậy đánh. Bà nói đã từng nghe nhắc đến chính cái lão ma cô ấy, rằng hắn chỉ huênh hoang thôi.
“Là Bill Sykes đúng không? Biết sao không, hắn là người vùng Clerkenwell. Hắn không gây sự với người vùng Borough đâu. Những anh chàng ở Borough quá khó chơi đối với hắn.”
Tôi nói, “Ôi, nhưng, bà Sucksby! Bà đâu có thấy Nancy đáng thương và cách hắn đánh cô ấy quỵ xuống rồi giết chết cô ấy!”
“Giết chết hả?” Bà nói. “Nancy ấy hả? Đâu có, mới một giờ trước cô gái còn ở đây với ta mà. Chỉ bị đánh trên mặt một chút thôi. Bây giờ tóc của cô ta được uốn khác đi rồi, con sẽ không còn nhận ra lão kia từng chạm tay vào cô ấy đâu.”
Tôi nói, “Nhưng lão ta sẽ không đánh cô ấy nữa chứ?”
Bà bèn nói với tôi rằng Nancy cuối cùng đã ngộ ra và rời bỏ hoàn toàn Bill Sykes rồi, rằng cô ấy đã gặp một anh chàng tốt ở Wapping, anh chàng này đã sắp đặt cho cô gái làm ở một cửa hàng nhỏ bán chuột đường và thuốc lá.
Bà vén tóc quanh cổ tôi, vuốt thẳng dọc trên gối. Tóc của tôi, như đã nói, bấy giờ rất sáng màu – mặc dù khi tôi lớn nó trở thành màu nâu đơn giản – và bà Sucksby từng gội nó bằng giấm, chải đến khi nó sáng bóng lên. Giờ khi đã vuốt phẳng tóc tôi, bà nhấc một sợi lên chạm vào môi, và nói, “Nếu Flora định lên mặt với con lần nữa, nói cho ta biết, được chứ?”
Tôi vâng dạ. “Ngoan lắm,” bà nói, rồi đi khỏi. Bà đem cây nến đi luôn, nhưng để cửa mở hờ. Tấm vải nơi cửa sổ làm bằng ren, đèn đường có thể chiếu qua. Ở đây không bao giờ quá tối, cũng không bao giờ quá tĩnh. Tầng trên là hai căn phòng mà bọn trẻ ở, cả nam lẫn nữ. Chúng cười, thụi nhau, đánh rớt những đồng xu, đôi khi nhảy múa nữa. Bên trên bức tường là nơi em gái của ông Ibbs nằm, bà bị giữ trên giường vì thường tỉnh giấc trong cơn hoảng loạn, la hét ầm ĩ. Và khắp căn nhà – nằm xếp lớp trong các nôi như cá trích nằm trong hộp muối – là bọn trẻ nhỏ của bà Sucksby. Bất cứ lúc nào trong đêm chúng cũng có thể cất tiếng khóc, thút thít hoặc nức nở. Điều vặt vãnh gì cũng có thể kích động chúng được. Rồi thì bà Sucksby sẽ đi ở giữa chúng, chuốc rượu cho chúng từ một chai gin bằng chiếc thìa bạc nhỏ – có thể nghe được tiếng lanh canh khi nó chạm vào thuỷ tinh.
Nhưng tối nay, tôi nghĩ những phòng bên trên chắc không có ai, và em gái ông Ibbs rất yên lặng. Có lẽ vì yên lặng nên bọn trẻ cứ thế mà ngủ. Đã quen với tiếng ồn, tôi nằm đó thao thức. Tôi nằm, lại nghĩ về gã Bill Sykes tàn ác, về Nancy chết dưới chân gã. Từ căn nhà nào đó gần bên có tiếng một người đàn ông chửi rủa. Rồi chuông nhà thờ kêu báo giờ – tiếng hoà âm vọng một cách khả nghi qua những con phố đầy gió. Tôi tự hỏi nơi má bị tát của Flora còn đau hay không. Tự hỏi Borough gần Clerkenwell nhường nào, và quãng đường đi có vẻ nhanh ra sao đối với một người đàn ông mang gậy.
Ngay từ dạo đó tôi đã có trí tưởng tượng bay bổng. Khi trên phố Lant có tiếng bước chân ngừng lại bên ngoài cửa sổ, theo sau là tiếng chó kêu ư ử, tiếng cào móng của nó, tiếng xoay tay nắm đầy thận trọng nơi cửa quầy hàng của chúng tôi, thì tôi bật dậy khỏi gối, thiếu điều hét toáng lên – ngoại trừ việc trước khi tôi kịp làm vậy thì con chó sủa một tiếng, tiếng sủa gây sự chú ý, tôi biết nó thì phải. Không phải con quái vật mắt hồng từ rạp diễn, mà là con chó của chúng tôi, Jack. Nó có thể chiến đấu rất quả cảm. Rồi một tiếng huýt sáo. Bill Sykes không bao giờ huýt sáo được ngọt đến vậy. Là đôi môi của ông Ibss. Ông ấy đã ra ngoài mua bánh put-đing thịt nóng cho bữa khuya của ông và bà Sucksby.
“Được rồi.” Tôi nghe giọng của ông. “Ngửi nước xốt thịt này…”
Rồi giọng ông biến thành tiếng thì thào, tôi nằm trở xuống. Nên nói rằng lúc bấy giờ tôi khoảng năm hay sáu tuổi. Nhưng tôi vẫn nhớ rất rõ. Tôi nhớ những lần nói dối, những khi nghe tiếng dao nĩa, đồ sứ, tiếng thở dài của bà Sucksby, âm thanh kẽo kẹt từ chiếc ghế của bà, tiếng bà nện đôi dép đi trong nhà lên sàn. Tôi nhớ cả việc trông thấy – trước đó tôi chưa từng được thấy – những gì tạo nên thế giới: có những gã Bill Sykes xấu xa, những ông Ibbs tốt bụng, những cô Nancy, có thể ở trong tình trạng tốt hoặc xấu. Tôi nghĩ đến việc đáng mừng nhường nào khi mình đã ở hoàn cảnh mà cuối cùng Nancy đạt đến – ý tôi là, tình trạng tốt, nơi có chuột đường.
Chỉ đến nhiều năm sau đó, khi được xem Oliver Twist lần thứ hai, tôi mới hiểu rằng cuối cùng Nancy chắc chắn đã bị giết. Vào bấy giờ, Flora đã là một đứa khua khoắng rất khá. Surrey chẳng là gì với nó, nó hành sự ở các nhà hát tại West End, các hội trường – nó có thể luồn lách như chạch xuyên qua đám đông. Nhưng nó không bao giờ đem tôi đi cùng nữa. Nó cũng như mọi người, quá sợ bà Sucksby.
Cuối cùng nó cũng bị bắt, thật đáng thương, với hai tay ngay trên vòng xuyến của một quý bà. Nó bị đi đày vì tội ăn trộm.
Ở phố Lant, tất cả mọi người đều ít nhiều là những kẻ trộm. Nhưng riêng chúng tôi là kiểu trộm thà xuôi theo những trò tinh quái hơn là tạo ra chúng. Nếu tôi đã từng trố mắt khi trông thấy Flora thò tay vào vết rách trong váy và lấy ra một cái túi xách cùng nước hoa, thì kể từ đó tôi không còn ngạc nhiên đến vậy nữa. Vì nếu một ngày không có ai đến cửa hàng của ông Ibbs với túi xách hay một gói thuốc dưới viền áo khoác, trong nón, trong tay áo hay bít tất, thì ngày đó sẽ cực kỳ tẻ nhạt.
“Ổn chứ, ông Ibbs?” Anh chàng sẽ nói.
“Ổn, con trai à,” ông Ibbs trả lời. Ông ấy dường nói bằng giọng mũi nhiều hơn, như thế đấy. “Cậu biết gì nào?”
“Không nhiều.”
“Có gì cho tôi không?”
Anh chàng nháy mắt. “Có mấy thứ, ông Ibbs à, rất nóng sốt và khác lạ…”
Họ luôn nói như vậy, hoặc điều gì đó tương tự. Ông Ibbs sẽ gật đầu, rồi kéo tấm màn che trên cửa của cửa hàng, xoay chìa khoá – ông là một người cẩn trọng, không bao giờ xem các đồ thó được cạnh cửa sổ. Phía sau quầy là một tấm rèm vải len xanh lục, đằng sau có một lối đi nối thẳng tới bếp. Nếu tên trộm nằm trong số những người ông biết, ông sẽ dẫn lại bàn. “Nào, con trai,” ông nói. “Không phải với ai ta cũng làm thế này đâu. Nhưng con thì nhẵn mặt quá rồi – chà, ta coi con như người nhà ấy chứ.” Rồi thì ông sẽ bảo người kia đặt các thứ ra giữa các cốc tách lẫn vỏ bánh mì và muỗng trà.
|
Bà Sucksby có thể đang ở đó đút cháo cho một đứa bé. Tay trộm trông thấy bà, bèn bỏ mũ ra. “Khoẻ chứ, bà Sucksby?” “Tôi khoẻ, cậu trai à.” “Khoẻ chứ, Sue? Lớn quá rồi!” Tôi đánh giá họ còn cao hơn mấy người làm ảo thuật. Bởi từ áo khoác và ống tay áo, họ lấy ra nào sổ tay, khăn tay lụa, đồng hồ, thậm chí cả đồ trang sức, đĩa bạc, đế nến bằng đồng, thỉnh thoảng cả váy lót – nguyên bộ. “Chất lượng lắm đấy, thật đấy,” họ nói trong lúc đặt tất cả chúng xuống, còn ông Ibbs thì xoa tay, vẻ đầy trông đợi. Nhưng rồi ông sẽ săm soi chiến lợi phẩm của họ, mặt chảy dài. Ông là một người trông rất hoà nhã, nhìn có vẻ rất thật thà – má rất trắng, môi rõ nét, có râu quai nón. Mặt ông chảy dài xuống, có thể khiến bạn đau lòng vô cùng. “Toàn giẻ rách,” ông lắc đầu nói, chọc vào một tờ tiền giấy. “Rất khó tiêu thụ.” Hoặc, “Đế nến. Mới tuần rồi ta có cả tá đế nến thượng hạng từ một thằng trộm vặt ở Whitehall. Chẳng thể làm gì với chúng hết. Chẳng thể đem cho đi đâu.” Ông đứng dậy, vờ vịt so đo tính giá, nhưng trông như thể không dám nói ra với anh chàng vì sợ xúc phạm cậu ta. Rồi ông sẽ đưa giá đề nghị, và tay trộm tỏ ra phẫn nộ. “Ông Ibbs,” cậu ta nói, “nhiêu đó không đủ để trả công tôi đi bộ từ cầu Luân Đôn đến đây đâu. Giờ thì, công bằng đi.” Nhưng vào lúc đó thì ông Ibbs đã đi lại chỗ chiếc hộp của mình, đếm những đồng shi-ling trên bàn: một, hai, ba – ông có thể ngừng lại cùng đồng thứ tư trên tay. Tay trộm sẽ trông thấy ánh sáng của bạc – ông Ibbs luôn giữ những đồng xu của mình được cọ bóng loáng chỉ vì lý do này –thật chẳng khác mỡ treo miệng mèo. “Năm đồng luôn đi, được không ông Ibbs?” Ông Ibbs sẽ ngước khuôn mặt thật thà lên, nhún vai. “Ta muốn lắm, con trai. Thật sự muốn vô cùng. Nếu con mang tới thứ gì tuyệt hảo, ta sẽ để tiền của mình đáp lại. Nhưng mà, với thứ này–” Ông vẫy tay phía trên đống lụa, giấy tờ hay chỗ đồ đồng phát ra dăm tia sáng, “thứ này thật quá bèo bọt. Đưa thêm thì chẳng khác gì ta tự cướp của mình. Chẳng khác gì ta cướp thức ăn trên miệng đám trẻ của bà Sucksby.” Và ông sẽ đưa cho tay trộm những đồng shi-ling của hắn, hắn sẽ cho vào túi, cài nút áo khoác, ho và quệt mũi. Tiếp theo, ông Ibbs có vẻ đổi ý một chút. Ông lại bước về phía chiếc hộp của mình, “Sáng này có ăn gì chưa, con trai?” Ông hỏi. Tên trộm luôn luôn trả lời, “Chả có lấy một vụn bánh mì.” Ông Ibbs sẽ đưa hắn sáu xu, bắt hắn cam đoan dùng để mua bữa sáng, đừng đem đi cá ngựa. Tên trộm sẽ nói điều gì đó đại loại như, “Ông thật hào phóng, ông Ibbs, lúc nào cũng vậy.” Với mỗi người như thế, ông Ibbs có được lợi nhuận mười đến mười hai shi-ling. Tất cả, từ đầu tới cuối, đều có vẻ trung thực, công bằng. Bởi vì, dĩ nhiên, những gì ông nói về đám giẻ rách hoặc đế nến toàn là bố láo. Ông biết đá biết vàng, thế đấy. Khi tên trộm đã đi khỏi, ông bắt gặp ánh nhìn của tôi, và nháy mắt. Ông xoa tay, trở nên linh hoạt. “Nào, Sue,” ông nói, “con có muốn mang một miếng vải lại đây để đánh ra vàng không? Rồi con có thể – nếu con có thời gian, bé yêu, và bà Sucksby không có việc cần đến con – con có thể thực hiện thử một công việc thú vị với đám giẻ này. Một chút thôi, nhẹ nhàng, với kéo và đinh ghim của con, đây là vải gai mịn đấy – con thấy không, bé yêu? Xé ra, nếu con giằng mạnh quá…” Tôi tin mình đã học được bảng chữ cái theo cách đó: không phải bằng việc đặt các ký tự xuống, mà là tách chúng ra. Tôi biết rằng đã học được hình dạng tên của mình từ một chiếc khăn tay có ký hiệu Susan. Đối với việc đọc nói chung, chúng tôi không bao giờ màng tới. Bà Sucksby sẽ đọc nếu cần thiết, bà biết đọc, cả viết nữa. Nhưng với những người còn lại thì điều đó giống như là – chà, tôi sẽ nói là giống như nói tiếng Do Thái cổ hay khai trương một cái nhà hàng. Bạn có thể thấy được lợi ích của nó đối với người Do Thái hay kẻ diễn trò đu bay. Nhưng dù việc đó có lợi cho họ, cũng có cớ gì lợi lộc cho chúng ta đâu? Dù sao thì đó là điều tôi nghĩ bấy giờ. Tuy vậy, tôi có học cách tính từ việc quản những đồng xu. Chúng tôi giữ những đồng còn tốt, tất nhiên. Những đồng xu xấu sẽ quá bóng sáng nên cần phải làm cho dơ đi chút ít trước khi trao tay cho người khác. Tôi đã học được điều đó. Với lụa và vải lanh, có những cách giặt giũ, là ủi để khiến chúng trông như mới. Với đá quý, tôi đánh bóng với giấm nguyên chất. Với đĩa bạc đã ăn sạch thức ăn bên trên – chỉ một lần như vậy, vì sẽ dính vụn bánh và vệt thức ăn – thì khi đã ăn xong, ông Ibbs sẽ lấy những tách, chén để nung chúng thành thỏi. Vàng và thiếc cũng vậy. Ông không bao giờ mạo hiểm, chính vì vậy mà ông rất giỏi. Mọi thứ đi vào bếp của chúng tôi sẽ được xử lý để khi ra khỏi đây, nó trông như một thứ khác. Và dù đi vào bằng cửa trước – cửa vào cửa hàng, lối trên phố Lant – chúng sẽ rời khỏi đây bằng đường khác. Cửa sau. Ở đó chẳng có con phố nào cả. Chỉ có một lối đi nhỏ được nguỵ trang và một hàng hiên nhỏ, tối. Nếu đứng ở đó, bạn có thể cảm thấy bị mắc kẹt, nhưng thực ra có đường, nếu bạn biết cách quan sát. Nó dẫn vào một ngõ hẻm quanh co, tối om, chạy đến chỗ uốn cong của làn đường sắt. Từ một trong những chỗ uốn đó – dù có thể, nhưng tôi sẽ không nói rõ chỗ nào – dẫn đến một ngõ khác tối hơn dẫn ra sông, rất nhanh và kín đáo. Ở đó chúng tôi quen hai, ba người giữ thuyền. Thực ra, các chiến hữu của chúng tôi sống dọc theo con đường quanh co đó – các cháu trai ông Ibbs, những người tôi xem như anh em họ. Chúng tôi có thể gửi chiến lợi phẩm từ bếp của mình đến bất kỳ ai trong số họ để các thứ đó đi tới mọi nơi ở Luân Đôn. Chúng tôi có thể chuyển đi mọi thứ, bất kỳ cái gì, với tốc độ có thể làm bạn kinh ngạc. Chúng tôi có thể vận chuyển băng đá, giữa tháng tám, trước khi một phần tư khối đó có cơ hội tan thành nước. Chúng tôi có thể vận chuyển cả ánh mặt trời mùa hè – nếu ông Ibbs tìm được người mua. Nói ngắn gọn, không có nhiều thứ được đem đến nhà chúng tôi mà lại không bị đem ra khỏi đó, khá nhanh gọn. Thực ra chỉ có duy nhất một thứ được đem đến và kẹt lại – một thứ, bằng cách nào đó, đã chống lại được sức kéo mãnh liệt của dòng cuốn chiến lợi phẩm – một thứ mà ông Ibbs và bà Sucksby có vẻ không bao giờ nghĩ đến chuyện đặt giá. Hiển nhiên, đó là tôi. Tôi phải cảm ơn mẹ mình về việc đó. Câu chuyện của bà thật bi thảm. Bà đến phố Lant vào một đêm năm 1844. Bà đã đến, “to lùm lùm, bé yêu, cùng với con,” bà Sucksby nói – mãi cho đến khi biết nhiều hơn, tôi cứ cho rằng bà có ý nói rằng mẹ đã mang tôi đến, hẳn là nhét trong chiếc túi phía trong váy hoặc khâu vào mép áo khoác. Theo tầm hiểu biết của tôi, bà là một tay trộm. “Một kẻ trộm đáng gờm!” Bà Sucksby nói. “Rất bạo dạn! Và bảnh nữa!” “Bà Sucksby, bà ấy, bà ấy có trắng không?” “Trắng hơn con, nhưng khuôn mặt, cũng như con, sắc sảo, và mảnh khảnh hệt một tờ giấy. Chúng ta đưa bà ấy lên gác. Chẳng ai biết bà ấy ở đó, ngoại trừ ta và ông Ibbs – vì bà ấy nói mình bị cảnh sát của bốn vùng truy nã. Nếu họ bắt được, bà ấy sẽ tiêu tùng. Bà ấy đã làm cái gì chứ? Bà ấy nói mình chỉ huênh hoang chút thôi. Ta thì cho là nó phải tệ hơn cơ. Ta biết bà ấy rắn như thép, vì bà ấy có con, và ta dám thề, bà ấy không bao giờ lầm rầm – cũng không bao giờ kêu la dù chỉ một lần. Bà ấy chỉ nhìn con, đặt một chiếc hôn lên cái đầu nhỏ của con, rồi đưa ta sáu bảng để giữ con – đều là những đồng vàng, đều chất lượng tốt. Bà ấy nói còn một việc cuối cùng phải làm, điều đó sẽ đem lại cho bà một tài sản lớn. Bà định sẽ trở lại tìm con khi mọi thứ đã dàn xếp xong…” Bà Sucksby kể chuyện, và mỗi lần như thế, dù ban đầu giọng bà đều đặn, đến cuối sẽ trở thành run rẩy, mắt thì ngấn nước. Bà đã chờ mẹ tôi, nhưng bà ấy không đến. Thay vào đó lại là tin dữ. Công việc lẽ ra đem lại cho bà ấy tài sản lớn đã diễn biến xấu. Một người đàn ông bị giết trong lúc cố gắng chống cự. Con dao của mẹ đã kết liễu ông ta. Chính bạn bè của bà ấy mách lẻo. Cuối cùng cảnh sát cũng bắt được bà ấy. Bà ở trong tù một tháng. Sau đó, người ta treo cổ bà. Họ treo cổ bà ấy, như đối với những kẻ sát nhân lúc bấy giờ, trên nóc của Horsemonger Lane Gaol. Bà Sucksby đã đứng xem vụ đó từ ô cửa sổ căn phòng nơi tôi được sinh ra. Từ căn phòng đó sẽ có được tầm nhìn rất tráng lệ – phong cảnh đẹp nhất ở phía bắc Luân Đôn, mọi người nói vậy. Người ta sẵn lòng trả hậu để có được một chỗ tại cửa sổ đó vào ngày treo cổ. Dù vài cô gái thét lên khi cửa sập lạch cạch mở, riêng tôi thì không. Tôi không hề rùng mình hay chớp mắt. “Susan Trinder đấy,” ai đó thì thào. “Mẹ cô ta bị treo cổ vì tội sát nhân. Cô ta dũng cảm không chứ?” Tôi thích nghe người ta nói như vậy. Ai lại không thích chứ? Nhưng sự thật là – và bây giờ thì tôi không quan tâm việc những ai biết – sự thật là, tôi không hề dũng cảm. Vì để dũng cảm về một việc như vậy, trước tiên bạn phải cảm thấy thương tiếc. Làm thế nào tôi có thể thương tiếc một người chưa bao giờ gặp gỡ? Tôi nghĩ việc mẹ rốt cuộc lại bị treo cổ thật đáng tiếc, nhưng vì bà ấy đã bị treo cổ rồi, nên tôi mừng rằng đó là do một việc hay ho, giết một người đàn ông khi ông ta chống cự, chứ không phải việc gì đó quá tàn độc như là bóp cổ một đứa trẻ. Tôi nghĩ việc bà tạo ra một trẻ mồ côi như tôi thật đáng tiếc – nhưng, vài cô gái tôi biết có những bà mẹ là bợm rượu hoặc bị điên, những người mẹ mà các cô ấy rất ghét, không bao giờ ở gần nhau yên ổn nổi. Tôi thà có một bà mẹ đã chết còn hơn một người mẹ như thế! Tôi thà có bà Sucksby. Bà tốt hơn chán. Bà được trả tiền để giữ tôi một tháng, nhưng đã giữ tôi mười bảy năm. Nếu đó không phải tình yêu thương thì còn là gì nữa chứ? Bà đã có thể đưa tôi vào nhà tế bần. Đã có thể bỏ tôi kêu khóc tại một cái máng đầy gió thốc. Thay vào đó, bà chăm chút, không để tôi làm cái việc xoáy thứ này thứ kia vì sợ cảnh sát có thể đến bắt tôi đi. Bà để tôi ngủ bên cạnh, trong giường của chính bà. Bà làm bóng tóc của tôi bằng giấm. Đó là cách người ta làm với đá quý. Mà tôi thì không phải đá quý, thậm chí chẳng phải một hạt ngọc trai. Về sau, tóc tôi trở nên khá thường. Khuôn mặt tầm thường. Tôi có thể cạy một ổ khoá đơn giản, cắt một chiếc chìa đơn giản. Tôi có thể búng một đồng xu và phân biệt nó tốt hay xấu, chỉ dựa vào tiếng kêu. Nhưng ai cũng có thể làm những việc đó, nếu họ được chỉ cách. Khắp xung quanh tôi, những đứa trẻ khác đến, ở ít lâu, rồi được mẹ chúng nhận lại, hoặc tìm được mẹ mới, hoặc bỏ mạng, và tất nhiên, chẳng có ai nhận tôi. Tôi cũng không chết, thay vào đó, lại lớn lên, cho đến khi cuối cùng cũng đủ lớn để một mình đi giữa những cái nôi cùng chai rượu gin và chiếc thìa bạc. Thỉnh thoảng dường như tôi bắt gặp ông Ibbs nhìn mình chằm chằm với một thứ ánh sáng trong mắt – như thể, tôi thầm nghĩ – ông đột nhiên xem tôi như món đồ thuổng được, tự hỏi làm thế nào tôi lại ở đây lâu như vậy, và ông có thể trao tôi cho ai. Nhưng khi người ta nói – bây giờ họ vẫn nói thế – về máu mủ, rằng nó đậm hơn nước lã, bà Sucksby sẽ sa sầm mặt. “Lại đây, con yêu,” bà nói. “Để ta nhìn con nào.” Và bà đặt tay lên đầu tôi, vuốt má tôi bằng ngón cái, nghiền ngẫm khuôn mặt tôi. “Ta thấy bà ấy trong con,” bà nói. “Bà ấy đang nhìn ta, như cách bà ấy nhìn ta đêm đó. Bà ấy nghĩ mình sẽ quay lại và trao cho con cái tài sản đó. Ai biết được chứ? Thật đáng thương, bà ấy sẽ không bao giờ quay lại! Con vẫn sẽ có cái tài sản đó. Của con, Sue à, và của chúng ta nữa…” Bà nói như vậy, nhiều lần. Bất cứ khi nào càu nhàu hay thở dài – bà luôn thế mỗi lần đứng dậy khỏi một chiếc cũi, xoa cái lưng ê ẩm – thì mắt bà sẽ tìm đến tôi, ánh mắt bà sẽ sáng lên, mãn nguyện. Nhưng có Sue đây rồi. Bà cũng sẽ nói vậy đấy, Bây giờ mọi thứ đều khó khăn với chúng ta. Nhưng có Sue đây rồi. Con bé sẽ khiến mọi việc được ổn… Tôi để bà ấy nghĩ thế, nhưng tôi nghĩ mình biết rõ hơn. Tôi nghe nói bà từng có đứa con của chính mình nhiều năm trước, nhưng khi sinh ra thì nó đã chết. Tôi nghĩ khi nhìn chằm chằm vào mặt tôi, bà trông thấy mặt của cô bé. Ý tưởng đó khiến tôi phát run, thật kỳ quặc khi nghĩ đến chuyện được yêu thương không phải vì họ yêu thương mình mà vì tình cảm dành cho ai đó mình chưa từng biết… Những ngày ấy, tôi nghĩ mình biết tất cả về tình yêu. Tôi nghĩ mình biết tất cả về mọi thứ. Nếu bạn hỏi tôi muốn làm gì khi lớn lên, tôi dám nói mình sẽ mở trại trẻ. Có thể tôi sẽ muốn kết hôn, với một tên trộm hoặc một gã buôn đồ trộm. Năm tôi mười lăm, có một cậu chàng trộm một cái móc cho tôi, và bảo rằng cậu ta muốn hôn tôi. Ít lâu sau có một cậu khác đứng ở cửa sau nhà chúng tôi, huýt sáo bài ‘Con gái ông thợ khoá,’ rắp tâm muốn xem tôi đỏ mặt. Bà Sucksby đuổi cả hai cậu đó đi. Bà thận trọng với tôi trong vấn đề đó, cũng như trong mọi vấn đề. “Bà ấy giữ cô để trao cho ai vậy hả?” Bọn con trai hỏi. “Hoàng tử Eddie hả?” Tôi nghĩ những người đến phố Lant cho rằng tôi chậm chạp. Ngược lại với nhanh nhạy. Có lẽ là vậy, so với tiêu chuẩn của Borough. Nhưng với bản thân, tôi cho là mình đủ sắc bén. Không thể nào lớn lên trong một ngôi nhà thế này, có những hoạt động mua bán thế này, mà không có ý tưởng hay ho về việc cái gì là cái gì – cái gì có thể cho vào trong cái gì, cái gì sẽ được tạo nên. Bạn bắt kịp ý tôi chứ? Bạn đang chờ tôi bắt đầu câu chuyện của mình. Vậy thì có lẽ tôi đang chờ. Nhưng câu chuyện của tôi đã bắt đầu rồi – tôi cũng giống như bạn thôi, không biết đến việc đó. Tôi nghĩ đây là lúc nó thực sự bắt đầu. Một đêm mùa đông, ít tuần sau lễ Giáng sinh đánh dấu sinh nhật thứ mười bảy của tôi. Một đêm tối trời – khắc nghiệt, phủ đầy sương mù mà ít nhiều là một cơn mưa, cơn mưa ít nhiều là một trận tuyết. Những đêm tối trời là điều kiện tốt cho phường trộm lẫn buôn đồ gian. Các đêm tối vào mùa đông là tuyệt hơn hết thảy, vì khi đó người thường sẽ chỉ quanh quẩn gần nhà họ, ai thuộc chốn nào ở yên chốn nấy, và những toà nhà lớn ở Luân Đôn thì đóng cửa, vắng hoe, mời gọi được bẻ khoá xông vào. Chúng tôi có được nhiều thứ từ những đêm như vậy, lợi nhuận của ông Ibbs cao chưa từng thấy. Cái lạnh khiến bọn trộm ít cò kè, chịu giá rất nhanh. Ở phố Lant, chúng tôi không cảm nhận được rõ lắm về cái lạnh, vì bên cạnh ngọn lửa bếp thông thường còn có lò than của ông Ibbs. Ông ấy luôn giữ lửa bên dưới lớp than. Không bao giờ phân biệt được thứ không xuất hiện rằng nó cần được tạo hình hay nung chảy ra. Đêm ấy, ba hay bốn cậu trai ở đó, đang đổi chác chiến lợi phẩm lấy những đồng vàng. Ngoài họ, có cả bà Sucksby nơi chiếc ghế to của bà, hai đứa bé trong cái cũi bên cạnh, và một thằng nhóc cùng một cô gái đang ở cùng phòng với chúng tôi bấy giờ - John Vroom và Dainty Warren. John là một thằng nhóc gầy gò, da đen, thích chơi dao, khoảng mười bốn tuổi. Thằng nhóc ăn luôn miệng. Tôi tin là nó nhiễm giun. Đêm nay nó đang cắn đậu phộng tanh tách, ném vỏ lên sàn. Bà Sucksby thấy nó làm vậy. “Mày đàng hoàng được không hả?” Bà nói. “Mày đang bày bừa ra đấy, rồi Sue sẽ phải dọn dẹp.” John nói, “Tội Sue ghê, tim tôi đau đến rỉ máu đây này.” Nó chẳng bao giờ bận tâm về tôi. Tôi nghĩ nó ganh tị. Nó, cũng như tôi, đến đây từ khi còn nhỏ xíu, và mẹ của nó, cũng giống mẹ tôi, đã chết, khiến nó trở thành đứa trẻ mồ côi. Nhưng nó là một đứa trẻ hết sức kỳ cục, chẳng có ai đem nó đi khỏi chỗ bà Sucksby cả. Bà giữ nó từ lúc nó bốn hay năm tuổi, rồi dùng nó để nhận cứu tế – nhưng ngay cả khi đó, nó vẫn đủ tai quái để bỏ trốn khỏi xưởng làm. Chúng tôi luôn thấy nó ngủ trên bậc thềm khi mở cửa hàng. Cuối cùng, bà tìm được một chủ tàu để bắt nó đi, thằng nhỏ đã lênh đênh đến tận Trung Quốc, rốt cuộc vẫn quay về Borough, cùng với tiền, để khoe khoang. Số tiền dùng được một tháng. Giờ thì nó giúp việc ở phố Lant, làm việc cho ông Ibbs, ngoài ra cũng làm những trò mánh mung nho nhỏ của riêng nó với sự trợ giúp của Dainty. Đó là một cô gái tóc đỏ hai mươi ba tuổi, ít nhiều khá là thộn. Tuy nhiên, con nhỏ có hai bàn tay trắng trẻo, sạch sẽ và biết khâu rất giỏi. Dạo này con nhỏ đính da chó lên những con chó trộm được giùm cho John, để khiến chúng trông như giống chó ngon lành hơn là thực chất. Thằng nhỏ đang có phi vụ với một tay trộm chó. Thằng này có hai con chó cái. Khi hai con này động đực thì hắn dẫn ra phố, dụ mấy con chó khác đi xa khỏi chủ, rồi thu mười bảng tiền chuộc trước khi trả chúng lại. Việc đó hiệu quả nhất đối với những con chó thể thao hoặc có chủ nhân là các quý bà đa cảm. Vài chủ chó chẳng bao giờ xì tiền – bạn có thể cắt roẹt cái đuôi để gửi cho họ mà vẫn không thấy một cắc nào. Họ vô cảm thế đấy. Bọn chó mà chiến hữu của John chộp được bị bóp cổ, rồi bán cho thằng nhỏ với giá rẻ bèo. Tôi không biết John làm gì với chỗ thịt, đem bán – bảo đó là thịt thỏ, hay tự nó ăn luôn. Nhưng chỗ da, như tôi đã nói, thì nó nhờ Dainty đính vào những con chó lề đường tầm thường để đem bán như là chó thượng hạng ở chợ Whitechapel. Những mảnh lông sót lại được con nhỏ khâu với nhau để làm một chiếc áo khoác cho thằng nhỏ. Tối nay con nhỏ đang khâu. Nó đã xong cái cổ và vai áo cùng nửa ống tay, bốn mươi phần khác nhau của chó đã được dùng vào đó. Trước ngọn lửa, mùi rất nặng, khiến con chó của chúng tôi phát sốt lên – không phải con chiến binh già, Jack, mà là con kia, một con nâu tên Charley Wag, đặt theo tên gã trộm trong truyện. Thỉnh thoảng Dainty giơ chiếc áo khoác lên cho tất cả xem nó đẹp đến thế nào. “Thật tốt cho Dainty là cậu không cao hơn cô ta nhiều, John,” tôi nói trong một lần Dainty giơ áo lên. “Thật tốt cho chị là chị chưa chết,” nó trả lời. Nó khá thấp, và biết điều đó. “Mặc dù sẽ rất xấu hổ cho mọi người, nhưng tôi muốn có một mẩu da của chị trên tay áo khoác – có lẽ phía trên gấu tay áo, chỗ dùng để quẹt mũi. Chị sẽ cảm giác hệt như ở nhà ấy, cạnh bên một con chó bun hoặc boxer.” Nó cầm lên con dao luôn đem theo bên mình, thử độ sắc bằng ngón cái. “Tôi vẫn chưa quyết định,” thằng nhỏ nói, “việc liệu có nên đến vào đêm nào đó, lấy một ít da khi chị đang ngủ hay không. Thấy sao, Dainty, nếu tao bảo mày khâu cái đó vào áo?” Dainty đưa tay lên miệng, thét lớn. Con nhỏ đeo một cái nhẫn quá rộng đối với tay mình. Nó quấn một ít chỉ bên dưới, quanh ngón tay, chỗ chỉ đó khá đen. “Cậu thật hết thuốc chữa!” Con nhỏ nói. John mỉm cười, dùng đầu con dao gõ nhẹ lên một chiếc răng mẻ. Bà Sucksby nói, “Mày đủ rồi đấy, coi chừng tao đánh cho văng mặt. Tao sẽ không để Sue lo sợ đâu.” Tôi nói ngay, rằng nếu mình để một thằng như John Vroom khiến cho lo sợ, thì thà tự cắt họng mình còn hơn. John nói nó sẽ vui lòng được cắt dùm tôi. Bà Sucksby vươn khỏi ghế, đánh nó – cũng hệt tất cả những lần bà vươn khỏi ghế đêm nọ để đánh Flora đáng thương, hệt cách bà vươn người đánh những đứa khác trong những năm sau đó – tất cả đều vì tôi. Trong một giây, John trông như thể nó sắp đánh trả bà, nhưng rồi nó nhìn sang tôi, tựa hồ muốn đánh tôi còn đau hơn thế. Dainty cựa quậy ở chỗ ngồi của nó, thằng nhỏ bèn quay sang đánh nó. “Tao không hiểu nổi,” nó nói sau khi đã đánh con nhỏ, “sao mọi người đều mang thành kiến xấu với tao vậy chứ.” Dainty bắt đầu khóc. Nó giơ tay về phía ống tay áo của thằng nhỏ. “Đừng bận tâm những lời nặng nề của họ, Johny,” con nhỏ nói. “Tôi vẫn bám về phe cậu mà, đúng không?” “Mày bám dính, đúng đó,” thằng nhỏ trả lời. “Hệt như phân bám vào xẻng.” Nó đẩy tay con nhỏ ra, con nhỏ đành ngồi đung đưa trên ghế của mình, ôm chỗ da chó và khóc rấm rứt vào các mối khâu. “Thôi nào, Dainty,” bà Sucksby nói. “Con đang làm hỏng tác phẩm dễ thương của con đấy.” Con nhỏ khóc chừng một phút. Rồi một trong số mấy thằng con trai ở lò than bị bỏng tay vì một đồng xu nóng ran, bèn bắt đầu chửi thề. Thế là con nhỏ ré lên cười. John cho một hạt đậu phộng khác vào mồm, phun vỏ lên sàn nhà. Rồi chúng tôi ngồi yên lặng trong khoảng mười lăm phút. Charley Wag nằm trước đống lửa, vặn vẹo người, rượt đuổi những chiếc xe ngựa trong giấc mơ – đuôi nó đã bị vẹo ở chỗ từng bị một bánh xe ngựa chẹt phải. Tôi lấy bộ bài ra, chơi trò Patience. Dainty ngồi khâu. Bà Sucksby ngủ gà gật. John ngồi hoàn toàn bất động, chỉ thỉnh thoảng liếc sang bộ bài tôi chơi, để bảo nên đặt vào chỗ nào. “Bồi nhép để lên Bà đầm cơ.” Hoặc, “Lạy Chúa! Chị chậm chạp đến vậy hả?” “Cậu thù hằn đến vậy hả?” Tôi trả lời, tiếp tục trò chơi của mình. Bộ bài đã cũ rồi, các lá đều mềm oặt như giấy nát. Từng có một người đàn ông bị giết trong một trận ẩu đả vì cuộc chơi không minh bạch với những quân bài này. Tôi đặt chúng ra lần cuối cùng, xoay ghế chút đỉnh để John không thể trông thấy chúng được sắp như thế nào. Và rồi, nhất loạt, một đứa trẻ thức dậy khỏi giấc ngủ, khóc toáng lên, Charley Wag bừng tỉnh, sủa một tiếng. Một cơn gió bất chợt khiến ngọn lửa bốc cao trong lò, cơn mưa rơi nặng hạt hơn xuống chỗ than, khiến chúng kêu lèo xèo. Bà Sucksby mở mắt, “Cái gì vậy?” Bà hỏi. “Cái gì cái gì cơ?” John hỏi ngược lại. Lúc đó, chúng tôi nghe thấy: một tiếng ‘huỵch’ nơi lối đi dẫn đến phía sau căn nhà. Rồi một tiếng nữa. Âm thanh đó trở thành tiếng chân bước. Nó dừng lại ở cửa bếp – một giây im lặng – rồi, một tiếng gõ cửa, chậm chạp và nặng nề. Cộc, cộc, cộc. Thế ấy. Như tiếng gõ cửa trong một vở kịch khi hồn ma của người đàn ông quay về. Dẫu vậy, không phải tiếng gõ cửa của một tên trộm – nhẹ và nhanh. Khi nghe, ta biết ngay là loại công việc gì. Tuy nhiên, việc này có thể là bất cứ gì, bất cứ điều gì. Có thể là việc xấu. Chúng tôi đều nghĩ vậy. Chúng tôi nhìn nhau, bà Sucksby đưa tay vào cũi để bế đứa bé ra, nó nằm trong lòng bà, nín khóc. John tóm lấy Charley Wag, ghìm chặt miệng con chó lại. Mấy thằng con trai ở lò than lặng im như thóc. Ông Ibbs lẳng lặng nói, “Có khách à? Mấy đứa, dẹp chỗ này đi. Cứ mặc cái tay bỏng của mày. Nếu là cớm, chúng ta coi như tiêu tùng.” Họ bắt đầu lập cập tóm lấp những đồng tiền cùng chỗ vàng đã phải đổ mồ hôi để đổi lấy, gói vào khăn tay, đặt xuống dưới nón hoặc cho vào túi quần. Một trong số họ – cháu trai lớn nhất của ông Ibbs, Phil – đi nhanh đến cửa, đứng cạnh đó, lưng kê sát tường, tay để trong áo khoác. Cậu chàng này đã trải qua hai hạn tù, và luôn luôn thề thốt sẽ không chịu bị đến lần thứ ba. Tiếng gõ lại vang lên. Ông Ibbs hỏi, “Sạch sẽ cả rồi chứ? Giờ thì, bình tĩnh, mấy đứa, bình tĩnh. Con thấy sao, hở Sue yêu quý, con mở cửa nhé?” Tôi nhìn bà Sucksby lần nữa, và khi bà gật đầu, bèn bước lại mở chốt cửa. Cánh cửa bật mở nhanh, mạnh về phía tôi đến nỗi Phil ngỡ nó bị huých vai – tôi thấy anh ta gồng mình sát vào tường, rút con dao ra giơ lên. Nhưng chỉ là gió đã thổi tung cửa, thốc vào bếp, thổi tắt nửa số đèn cầy, khiến lò than loé lên, tung tất cả các lá bài tôi đang chơi vào không khí. Nơi lối vào có một người đàn ông đang đứng, mặc đồ sẫm màu, ướt lõng bõng, dưới chân có một cái túi da. Ánh sáng yếu ớt cho thấy hai má trắng nhợt của người đó, bộ râu quai nón, nhưng đôi mắt thì vẫn bị giấu dưới bóng của chiếc nón. Nếu anh ta không cất tiếng, tôi sẽ chẳng thể biết đó là ai. Anh ta nói, “Sue! Sue phải không? Tạ ơn Chúa! Tôi đã đi bốn mươi dặm để gặp cô. Cô để tôi đứng đây thế này à? E là cái lạnh sẽ giết chết tôi mất!” Thế là tôi nhận ra anh ta, dù đã không gặp suốt hơn một năm. Cả trăm người đàn ông cũng không ai đến phố Lant mà ăn nói như anh ta. Anh ta tên Richard Rivers, hoặc Dick Rivers, đôi khi là Richard Wells. Tuy nhiên, chúng tôi gọi anh ta bằng cái tên khác, cái tên lúc này tôi dùng khi bà Sucksby thấy tôi tròn mắt, bèn gọi, “Ai vậy?” “Là Gentleman,” tôi đáp. Tất nhiên, chúng tôi gọi theo cách đó: không phải theo kiểu nói của một quý ông đường hoàng – dùng tất cả răng để phát âm, mà theo kiểu từ ấy là một con cá đã bị cắt khúc – Ge’mun. “Là Gentleman,” tôi nói. Phil lập tức cất con dao đi, nhổ nước bọt và quay trở lại lò than. Tuy nhiên, bà Sucksby trở mình trên ghế, gương mặt đỏ ửng của đứa bé hơi ngoẹo đi, miệng hé mở. “Gentleman!” Bà kêu lên. Đứa bé bắt đầu hét toáng, Charley Wag được John thả ra bèn phóng tới sủa Gentleman, đặt vuốt lên áo khoác của anh ta. “Cậu đến thật quý hoá quá! Dainty, đem nến châm lại chỗ đèn đi. Bắc nước lên lò, để pha trà.” “Chúng tôi tưởng anh là cớm,” tôi nói trong lúc Gentleman đi vào bếp. “Tôi tin mình bị cóng thì có,” anh ta trả lời. Anh ta đặt túi xuống, rùng mình, bỏ chiếc mũ đẫm nước và găng tay ra, đến chiếc bành tô ướt lướt thướt, chỗ nước nhỏ xuống đồng loạt bốc thành hơi. Anh ta xoa tay vào nhau, vuốt qua đầu. Anh ta nuôi tóc và râu dài, bây giờ cơn mưa đã khiến chúng mất độ xoăn, trông càng có vẻ dài hơn bao giờ hết, đen thui, bóng mượt. Có vài chiếc nhẫn trên tay anh ta, cùng chiếc đồng hồ, một hạt đá đính nơi cổ tay áo. Không cần săm soi tôi cũng biết mấy chiếc nhẫn và đồng hồ là đồ giả, còn hạt đá là thuỷ tinh làm nhái, tuy vậy, chúng thật là những thứ hàng rởm quá ổn. Căn phòng sáng hơn khi Dainty xử lý những chiếc đèn cầy. Gentleman nhìn quanh, vẫn đang xoa tay và gật đầu. “Ông có khoẻ không, ông Ibbs?” Anh ta hồ hởi. “Các anh bạn khoẻ chứ?” Ông Ibbs nói, “Khoẻ lắm, chàng trai.” Mấy gã trai chẳng buồn trả lời. Phil nói vu vơ, “Đi vào cửa hậu, hở?” Một cậu khác cười phá lên. Những gã trai như thế luôn cho rằng mấy tay giống Gentleman là hạng ẻo lả. John cũng cười, to hơn những gã khác. Gentleman nhìn cậu ta. “Chào, chú em nhỏ,” anh ta nói. “Mất tiền hay sao vậy?”
|