Đông Cung (Phỉ Ngã Tư Tồn)
|
|
- Triệu Lương đệ nhất định sẽ hiểu tấm lòng của Thái tử phi.
Quả thật tôi cũng mong được gặp ả Triệu Lương đệ này. Trước nay, tôi chỉ gặp thoáng qua một lần, đó là ngày thứ hai sau đại lễ sắc lập, ả được tấn phong Lương đệ, phải tới khấu đầu yết kiến tôi. Bấy giờ, ấn tượng duy nhất của tôi về Triệu Lương đệ chỉ là một cô nàng mặc trang phục hoàng tộc đứng lẫn trong đám đông đang quây quần hành lễ, do khoảng cách quá xa nên tôi không nhìn rõ dung mạo cô ả thế nào.
Xem chừng Lý Thừa Ngân thật lòng yêu thích cô ả. Nghe đâu lúc đầu hắn không chịu lấy tôi, nhưng Hoàng hậu nói với hắn, nếu lập tôi làm Thái tử phi thì mới được nạp Triệu Lương đệ làm Lương đệ. Thế là tự nhiên tôi thành kẻ phá đám. Sở dĩ thường ngày Lý Thừa Ngân cấm Triệu Lương đệ lân la lại gần tẩm điện của tôi, mà cũng cấm chỉ tôi bén mảng sang bên đó là bởi hắn lo tôi sẽ bắt nạt cô ả. Chẳng hiểu hắn nghe ai sàm tấu, nói con gái Tây Lương không những quen thói đố kỵ nhỏ nhen mà còn biết bỏ bùa hại người, thành thử mỗi lần cãi nhau, chỉ cần tôi đả động đến Triệu Lương đệ là hắn nhảy dựng lên như mèo giẫm phải đuôi, làm như tôi sắp giết cô nàng đến nơi không bằng.
Quả thực, nhiều lúc tôi cũng thấy mình hơi đố kỵ với Triệu Lương đệ, tôi ghen vì có người dành cho cô ả nhiều tình cảm đến vậy chứ không phải vì những gì ả có. Tôi một thân một mình ở Thượng Kinh, bơ vơ không nơi nương tựa, mặc dù Vĩnh Nương tốt thật đấy nhưng tôi và bà ấy nói chuyện không hợp, thậm chí có những chuyện tôi nói mà bà ấy không hiểu.
Ví dụ, ở Tây Lương, về đêm chúng tôi nghe xạc xào bờ lau bãi sậy, chúng tôi cưỡi ngựa rong ruổi trên sa mạc bạt ngàn. Trời đêm Tây Lương xanh ánh tím, cảm giác rất gần, trong suốt vô cùng, mịm màng làm gợi nhớ món thạch nho dịu ngọt, mát lạnh, chỉ nghĩ thôi đã cảm thấy nó hiện hữu ngay nơi khóe miệng. Cả đời Vĩnh Nương chưa thấy quả nho thì sao có thể hiểu thạch nho là thế nào. Tuy A Độ hiểu những gì tôi nói, nhưng mặc kệ tôi luyên thuyên đến sùi bọt mép, muội ấy cũng chỉ đáp lại bằng ánh mắt lặng lẽ. Mỗi lần như thế tôi lại thấy nhớ nhà kinh khủng, nhớ da diết Tây Lương rộn rã tiếng cười của mình. Càng nhớ Tây Lương, tôi càng ghét nơi Đông cung lạnh lẽo tình người này.
Tôi và Vĩnh Nương đi thăm Triệu Lương đệ vào một buổi chiều nắng ráo. Theo hầu phía sau là mười hai đôi cung nữ, người cầm lồng xông hương, người phe phẩy quạt lông, người bưng tráp gấm đựng lễ vật. Ở Đông cung, chúng tôi đi đông người như thế hiển nhiên thu hút không ít sự chú ý. Bước vào sân vườn nơi Triệu Lương đệ sống, đã thấy cửa chính rộng mở, cô ả phục sẵn ở thềm ngóng đợi, chắc nghe ngóng được tin tôi sắp tới đây mà.
Trong phủ Lương đệ có trồng một cây cam đắng tỏa hương thơm lừng, trái non kết chùm xanh mơn mởn, tựa những cụm đèn lồng nhỏ xinh treo chi chít trên cành. Từ bé đến giờ, lần đầu tiên được nhìn thấy, tôi thấy hay hay, cứ ngoái đầu nhìn mãi không thôi, lúc lơ đễnh không để ý bước chân, giẫm vào váy, ngã phịch xuống đất.
Ba năm ròng tuy có bỏ công khổ luyện, song tôi vẫn thường xuyên giẫm phải vạt váy. Lần này tôi ngã đúng là mất mặt, Triệu Lương đệ vội vàng tiến đến đỡ tôi:
- Thái tử phi! Thái tử phi không sao chứ ạ?
Nói đúng ra thì cô ả lớn hơn tôi những hai tuổi… Lúc được ả dìu, tôi vẫn cắn răng chịu đựng, đau quá đi mất!
Triệu Lương đệ dìu tôi vào điện rồi sai người đi pha trà.
Vừa rồi ngã rõ đau, tôi ngồi yên trên ghế không dám nhúc nhích, hễ cựa quậy là lại nhói đau.
Vĩnh Nương tranh thủ sai cung nữ trình lễ vật, Triệu Lương đệ đứng dậy hành lễ với tôi:
- Đội ơn Thái tử phi đã ban tặng, nhưng muội thẹn không dám nhận.
Tôi không biết phải nói gì mới phải, may có Vĩnh Nương nhanh nhẹn đỡ Triệu Lương đệ dậy:
- Xin Lương đệ đứng dậy, thực lòng Thái tử phi tính ghé thăm Lương đệ từ lâu, chỉ là chưa có dịp. Lần này Hoàng hậu sai người đón Tự Nương nhập cung, Thái tử phi lo Lương đệ ở bên này thiếu người chăm sóc, bèn thu xếp ghé thăm. Mấy món lễ vật này do đích thân Thái tử phi dày công chọn lựa, tuy có chút đơn sơ nhưng cốt ở tấm lòng. Sau này, nếu Lương đệ thiếu thứ gì, xin cứ dặn người qua lấy. Ở Đông cung này, Thái tử phi xem Lương đệ như chị em thân thiết, chỉ mong Lương đệ không thấy xa cách.
Triệu Lương đệ thưa:
- Tấm lòng quý mến của tỷ, tiểu muội đã hiểu.
Nói thật là, nghe bọn họ nói chuyện tôi hiểu câu được câu chăng, cứ thấy nôn nao, bức bối. Hóa ra Triệu Lương đệ không xinh đẹp như tôi vẫn tưởng, nhưng được cái hòa nhã, ăn nói dịu dàng, dễ nghe, mặc dù mình không ưa lắm nhưng cũng không bới ra lý do để ghét.
Tôi ngồi chơi chỗ Lương đệ cả buổi chiều, chủ yếu nghe Vĩnh Nương hầu chuyện Triệu Lương đệ. Cô ả rất quý Vĩnh Nương thì phải, lúc nghe Vĩnh Nương lan man hết chuyện này sang chuyện nọ, cô ả che miệng cười suốt, về sau, Triệu Lương đệ còn khen cung nữ của tôi mới khéo làm sao!
Từ phủ Lương đệ đi ra, tôi gặp Bùi Chiếu. Hôm nay đến phiên tuần, gã dẫn một đội Vũ lâm quân đi từ phía cổng gác. Thấy tôi dẫn cả đám người rời phủ Triệu Lương đệ, dù ngạc nhiên song gã vẫn kín tiếng, người vướng giáp trụ, đành chắp tay vái chào:
- Mạt tướng tham kiến Thái tử phi!
- Miễn lễ!
Sực nhớ lần trước may có gã ra tay cứu giúp, tôi nói đầy cảm kích:
- Chuyện ngày hôm đó, cảm ơn Bùi Tướng quân!
Không có gã, chắc tôi bị lũ vô lại kia truy đuổi đến chết rồi. Thực ra, cùng lắm thì đụng tay đụng chân thôi, nhưng vì lũ khốn ấy rặt quân Vũ lâm lang của Đông cung, nhỡ đánh xong, bọn chúng ôm hận, sau này biết tôi là Thái tử phi thì không được hay ho cho lắm.
Bùi Chiếu vẫn tỉnh bơ:
- Thái tử phi nói gì, mạt tướng không hiểu.
Chưa kịp mở miệng nói thêm mấy câu, Vĩnh Nương đã kéo tôi đi bằng được. Về điện rồi Vĩnh Nương mới giáo huấn:
- Nam nữ thụ thụ bất thân, Thái tử phi không nên qua lại với Kim ngô tướng quân.
Nam nữ thụ thụ bất thân ấy à? Nếu Vĩnh Nương biết lúc tôi lang thang ngoài đường, thường xuyên thách rượu, nghe hát, đánh nhau với đám đàn ông, thế nào cũng ngã vật ra cho mà xem.
Tôi bị ngã nên đùi sưng tấy, A Độ giúp tôi xoa thuốc. Chép sách xong xuôi, tôi lại lên cơn bứt rứt muốn trốn ra ngoài chơi. Khổ nỗi dạo này Vĩnh Nương canh chừng sát sao quá, đang định đợi đến đêm khuya tĩnh lặng sẽ lẻn ra, thế mà kế hoạch lại đổ bể, chỉ tại gã Lý Thừa Ngân tự nhiên mò tới.
|
Chương 02
Bấy lâu nay, hắn chưa từng ghé qua chỗ tôi vào buổi tối, thành thử chẳng ai phòng bị gì. Vĩnh Nương đã về phòng đi ngủ, cung nữ trực đêm cũng ngủ gà ngủ gật, tôi và A Độ hăng say đánh bài, ai thua phải ăn quýt. A Độ thắng liền bốn ván, còn tôi phải ăn những bốn quả quýt to, bụng dạ réo âm ỉ đúng lúc Lý Thừa Ngân đường đột bước vào.
Theo những điều tôi học vẹt từ hồi tổ chức đại lễ sắc lập, trước khi Thái tử đến, chỗ tôi phải cắt đặt sẵn mọi thứ để cung nghênh, từ chuẩn bị y phục, lồng hương cho tới lò đặt củi an tức[1], đêm đến phải sắp sẵn trà nước, sáng hôm sau phải pha nước súc miệng… Mấy điều này được liệt kê, đặt đề mục hết sức rõ ràng. Nhưng đó là việc của cung nữ, tôi chỉ cần đôn đốc họ làm là xong. Vấn đề ở chỗ, từ xưa tới nay, Lý Thừa Ngân chưa từng ngủ lại đây, thế nên từ tôi đến Vĩnh Nương, cho đến tất cả cung nữ đều trở nên lơ là, đám người hầu càng ngày càng lười nhác, chẳng ai hơi đâu đi sửa soạn theo khuôn sáo ấy làm gì.
[1] An tức hương: nhựa của cây cánh kiến trắng hay cây bồ đề vỏ đỏ, thường dùng để chữa bệnh bằng cách tán nhỏ sắc thuốc hoặc đốt xông hương.
Tôi vừa bốc được quân bài đẹp, đột nhiên trông thấy Lý Thừa Ngân, cứ ngỡ mắt mình bị quáng, tôi đặt quân bài xuống, ngẩng lên nhìn lại cho kĩ. Ơ, hóa ra đúng là Lý Thừa Ngân!
A Độ bật dậy ngay tức thì, lần nào Lý Thừa Ngân đến, chúng tôi cũng to tiếng cãi vã, vài lần suýt thì đánh nhau. Chẳng trách hắn vừa bước vào, muội ấy đã lăm lăm thanh đao bên mình, ánh mắt nhìn hắn chòng chọc ra chiều cảnh giác.
Khuôn mặt Lý Thừa Ngân vẫn đanh lạnh như mọi khi, rồi ngồi phịch xuống giường.
Tôi chưa kịp hiểu hắn muốn làm gì, chỉ biết giương mắt ngây ra nhìn hắn.
Hắn hống hách ra lệnh, cứ như thể đang ấm ức không có chỗ giải tỏa:
- Cởi giày!
Bấy giờ cung nữ trực đêm mới sực tỉnh, thấy Lý Thừa Ngân đang ngồi trên giường, liền thấy khiếp đảm như gặp phải ma. Vừa nghe hắn ra lệnh mới giật mình, luýnh quýnh chạy đến giúp hắn tháo giày, ai dè ăn ngay một cái đạp của hắn:
- Ta bảo chủ ngươi làm cơ mà!
Chủ nó còn ai vào đây nữa, ít ra ở cái điện này, chủ nó trên danh nghĩa đương nhiên là tôi rồi.
Tôi đỡ cung nữ kia đứng dậy, đập bàn quát:
- Sao Điện hạ lại đạp người ta?
- Ta đạp thì sao! Ta còn muốn đạp cả cô nữa đấy!
Nhanh như cắt, A Độ liền tuốt thanh đao bên hông, tôi đanh giọng hỏi:
- Điện hạ đến để cãi nhau hả?
Bất ngờ hắn mỉm cười, bảo:
- Ta không đến để cãi nhau với cô, ta đến để ngủ.
Thế rồi hắn chỉ vào A Độ:
- Ra ngoài!
Tôi không rõ hắn muốn làm gì, nhưng nhìn mặt hắn là biết chẳng phải chuyện gì tốt đẹp, lại còn quát tháo ầm ĩ, kinh động không ít người. Những người đang ngủ cũng choàng tỉnh, ngay cả Vĩnh Nương. Thấy Thái tử mò đến lúc đêm hôm khuya khoắt, Vĩnh Nương vừa kinh sợ vừa mừng thầm, kinh sợ là bởi bản mặt cáu kỉnh của hắn, còn mừng bởi bà ấy nghĩ bụng, hắn cứ đến là tốt rồi, dù là đến để cãi nhau.
Vĩnh Nương bước vào, bầu không khí bớt căng thẳng phần nào. Bà ấy phân công ngươi sửa soạn trà nước, áo ngủ, nước súc miệng… Bọn người hầu được một phen tất bật, nhốn nháo, nhộn nhạo hẳn lên. Tôi bị cả đám người vây quanh, chải đầu, thay áo ngủ… Mọi thứ xong xuôi, Vĩnh Nương bèn lôi A Độ ra ngoài. A Độ khăng khăng không chịu, Vĩnh Nương liền ghé tai rù rì mấy câu, không hiểu bà ta nói gì mà mặt A Độ đỏ lựng, ngoan ngoãn theo bà ta lui ra ngoài. Nói chung, trận nhốn nháo qua đi, trong điện chỉ còn tôi và Lý Thừa Ngân.
Xưa nay, tôi chưa từng mặc độc cái áo ngủ, đứng độc có một mình trước mặt bất kỳ gã con trai nào, thấy thật kỳ cục. Hơn nữa, phen sửa soạn ban nãy cũng đủ làm tôi mệt bã người. Tôi ngáp một cái thật dài, lên giường, kéo chăn rồi lăn kềnh ra ngủ.
Còn Lý Thừa Ngân ngủ hay thức, đó không phải việc tôi cần quan tâm.
Nhưng tôi thừa biết, sau đó hắn cũng leo lên giường, khổ nỗi trên giường có mỗi chiếc chăn, hắn liền đạp tôi một cái đau điếng:
- Cô nằm dịch ra xem nào!
Tôi đang thiu thiu ngủ, bị đạp một cái bỗng choàng tỉnh.
Những lúc buồn ngủ díp mắt, tính tình tôi thường hiền hòa hơn hắn, cho nên chẳng thèm cãi nhau với hắn, thậm chí còn thương tình nhường hắn nửa cái chăn. Lý Thừa Ngân quấn chặt tấm chăn, quay lưng về phía tôi, chốc lát đã thở khò khò.
Đêm đó tôi trằn trọc mãi không sao ngủ được, tại Lý Thừa Ngân trở mình suốt, mà tôi lại không quen chung chăn với người lạ. Nửa đêm hắn kéo hết chăn, thấy lành lạnh tôi mới rùng mình tỉnh dậy, tống cho hắn một cú đạp rồi giằng lại chăn. Đêm hôm khuya khoắt chỉ vì chuyện cái chăn mà chúng tôi cãi nhau nảy lửa. Hắn tức tối nói:
- Nếu Sắt Sắt không khuyên nhủ thì đừng hòng ta đến!
Sắt Sắt là tên mụ của Triệu Lương đệ, cái tên cô ả treo ở đầu lưỡi hắn, giọng điệu lẫn sắc thái yêu chiều, cưng nựng hết mực.
Chợt nhớ ra chuyện hồi chiều, nhớ tới những gì Triệu Lương đệ nói cộng thêm những lời Vĩnh Nương từng kể, cuối cùng tôi cũng vỡ lẽ, tự dưng buồn lạ lùng.
Thực ra tôi cũng chẳng bận tâm, trước kia lúc hắn không đến, tôi vẫn sống thoải mái đấy thôi, không có gì chật vật cả. Thế nhưng hôm nay hắn đùng đùng xuất hiện, trong lòng tôi lại thấy se sẽ nỗi buồn tủi.
Tôi biết vợ chồng ngủ chung là lẽ thường tình, song tôi cũng hiểu, bấy lâu nay Lý Thừa Ngân chưa từng coi tôi là chính thê của hắn.
Thê tử của hắn là Triệu Lương đệ cơ mà. Chiều nay tôi mang quà cáp đi thăm hỏi Triệu Lương đệ, ả ta thấy tôi tội nghiệp bèn rủ lòng thương, khuyên nhủ Lý Thừa Ngân ghé chỗ tôi một đêm.
Phụ nữ Tây Lương chúng tôi xưa nay chưa từng cần ai phải thương hại.
Tôi bật dậy, nói thẳng thừng:
- Điện hạ về đi!
Hắn lạnh nhạt lên tiếng:
- Cô yên tâm, trời sáng là ta đi ngay.
Hắn trở người, xoay lưng lại, ngủ tiếp.
Tôi đành vùng dậy, choàng thêm áo rồi ra bàn ngồi.
Trên bàn đặt chao đèn bằng lụa, ánh nến dập dềnh, quầng lửa tỏa màu ấm cúng nhảy nhót như chực tràn khỏi lớp lồng đèn, trong lòng tôi, cảm xúc như cũng muốn dâng trào. Tôi chạnh lòng nhớ cha mẹ, nhớ các anh trai, nhớ con ngựa nhỏ của mình, lòng thầm nhớ Tây Lương…
Nỗi cô đơn gợi tôi nhớ Tây Lương, những ngày tháng về Thượng Kinh cô độc lắm, thế nên trong lòng chỉ hướng về Tây Lương.
Chính vào lúc ấy, tôi chợt thấy trên cửa sổ đổ một bóng hình mờ mờ.
Tôi giật mình, vươn tay mở toang cánh cửa.
Gió đêm vương vất cái lạnh bỗng làm tôi rùng mình, bên ngoài vắng tanh không có một ai, chỉ có ánh trăng se sắt chảy tràn nơi nơi.
Tôi định đóng cửa, đột nhiên thấp thoáng đằng xa là chiếc bóng trắng treo trên cành cây, nhìn kĩ mới nhận ra đó là một người vận đồ trắng.
Tôi trố mắt đứng nhìn, đây là Đông cung, canh chừng nghiêm ngặt đến từng ngóc ngách, lẽ nào lại có thích khách xông vào hay sao?
|
Gã thích khách áo trắng ấy cũng to gan thật!
Tôi trợn mắt nhìn gã, gã cũng nhìn lại tôi. Đêm khuya thanh vắng đến mức tiếng gió lùa qua còn nghe rõ mồn một, ngọn đèn trên bàn gặp gió lại dập dềnh, gã đứng trên ngọn cây, lặng lẽ quan sát tôi. Gió lùa cành lá rung rinh, cơ thể nhuốm ánh trăng của gã cũng hơi tròng trành, sau lưng là quầng trăng sáng, mái tóc dài lẫn cánh tay áo tung bay trong gió, giống như gã đang cưỡi mặt trăng.
Tôi nhận ra rồi, là Cố Kiếm, chính là gã đàn ông quái đản ấy.
Sao gã lại lọt vào đây?
Suýt chút nữa tôi cắn phải lưỡi. Sau một cái chớp mắt, gã Cố Kiếm đã biến mất dạng.
Hay mình nhìn nhầm? Hay chỉ là mơ…
Chắc mình mắc bệnh nhớ nhà, làm gì cũng lơ mơ. Rạng sáng ngày hôm sau, Lý Thừa Ngân liền bỏ đi không thấy quay lại nữa. Vĩnh Nương lấy đêm đó làm chuyện vui, nhắc đến là mặt mày rạng rỡ, tôi không nỡ nói sự thật, thực ra đã xảy ra chuyện gì đâu mà!
Đừng thấy tôi nhỏ tuổi mà coi thường, lúc tôi và A Độ tản bộ ngoài đường, từng hiếu kỳ đến mấy chỗ câu lan[2], ngõa tử[3] xem qua rồi, chưa ăn thịt heo cũng phải thấy heo chạy chứ[4]!
[2] Câu lan: còn gọi là câu đương, câu tử, vốn chỉ nơi giải trí, là chỗ biểu diễn tài nghệ của con hát thời xưa, nhưng về sau trở thành từ để gọi chung kỹ viện.
[3] Ngõa tử: là nơi tiêu khiển, giải trí và mua bán tạp hóa tại các đô thị lớn, xuất hiện từ thời Bắc Tống.
[4] Ý nói việc tuy chưa làm bao giờ, nhưng đã trông thấy người ta làm.
Vĩnh Nương cảm kích ý tốt của Triệu Lương đệ, một dạo còn rủ cô ả đến chỗ tôi chơi bài.
Hôm đó chẳng hiểu ma xui quỷ khiến thế nào mà tôi thua liên tục, một ván hòa cũng không gỡ được. Tình trường không được như ý thì thôi vậy, lẽ nào đến bài bạc cũng chẳng ra sao! Vĩnh Nương thoạt tưởng tôi thông minh đột xuất, cố tình nhường Triệu Lương đệ, hòng nịnh cô ả mát lòng mát dạ.
Từ dạo đó, Triệu Lương đệ hay ghé chỗ tôi đánh bài, thú thực, giọng điệu của cô nàng khiến người ta thích mê, chẳng hạn cô ả vừa khen đôi ủng nhỏ của Tây Lương mà tôi hằng đi:
- Trung Nguyên làm gì có loại thuộc da tinh xảo thế này!
Tôi hớn hở vội hứa, đợt này nếu cha tôi phái người đến, tôi sẽ bảo họ mang theo vài đôi giày đẹp đẹp để làm quà tặng cô nàng.
Đang dở ván bài, Triệu Lương đệ hỏi:
- Lúc nào Thái tử phi định tiến cung thăm Tự Nương ạ?
Tôi lấy làm lạ, việc gì tôi phải vào cung thăm Tự Nương? Cô ta ở trong đó còn có người của Hoàng hậu săn sóc, mọi thứ đều ổn thỏa, tôi thăm nom làm gì chứ? Huống hồ Vĩnh Nương đã kể với tôi, vì chuyện của Tự Nương mà Triệu Lương đệ đã làm ầm ĩ một trận, khóc lóc mấy ngày liền, bắt Lý Thừa Ngân phải thề độc, dù Tự Nương có sinh con trai thì hắn cũng không được ngó ngàng đến cô ta. Tôi nghĩ bụng, hẳn Triệu Lương đệ ghét Tự Nương lắm, nhưng trước mặt tôi, cô ả lại vô tình gợi chuyện, giả vờ nhân hậu.
Vĩnh Nương ngồi bên cạnh bẩm:
- Bây giờ Tự Nương đã nhập cung, Hoàng hậu nương nương chưa triệu kiến, Thái tử phi cũng không tiện thăm nom ạ!
Triệu Lương đệ “ừm” một tiếng rồi làm như thể chẳng hề để bụng. Hôm đó vận bài bạc của tôi cũng không tệ, thắng được mấy đồng lẻ. Đợi Triệu Lương đệ đi khuất, Vĩnh Nương liền dặn:
- Thái tử phi nhất định phải đề phòng, chớ để Triệu Lương đệ lấy người ra làm bia đỡ tên.
Có lúc nghe Vĩnh Nương nói mà tôi chẳng hiểu gì cả, chẳng hạn như cụm từ “bia đỡ tên” này.
Vĩnh Nương bảo:
- Triệu Lương đệ căm giận Tự Nương lắm, ắt sẽ giở trò khiến đứa bé kia không thể chào đời. Thị muốn làm gì, Thái từ phi cứ mặc thị, vui vẻ mà thuận nước giong thuyền, song Thái tử phi cũng phải cẩn trọng, đừng để bị mắc mưu thị.
Càng nghĩ càng thấy khó hiểu, đứa trẻ còn đang nằm trong bụng Tự Nương, Triệu Lương đệ định làm gì để đứa trẻ không thể chào đời? Vĩnh Nương nói:
- Cách thì nhiều lắm, Thái tử phi là người đứng đắn, không nên tìm hiểu những chuyện này.
Tôi nghĩ thầm, chắc Vĩnh Nương cố tình nói thế, bởi lẽ xưa nay đã bao giờ tôi là người đứng đắn đâu, nhưng bà ấy đã nói thế thì tôi cũng không nỡ muối mặt gặng hỏi thêm nữa.
Thời tiết chớm lạnh, tôi và A Độ tranh thủ lẻn ra ngoài chơi.
Ở ngoài đường thật thoải mái, người qua người lại, xe cộ đông như mắc cửi, náo nhiệt biết bao. Chúng tôi ghé quán trà, nghe kể chuyện như mọi khi, vị tiên sinh trước kia không hiểu đi đâu mất, giờ đã đổi sang vị tiên sinh mới này, cũng không kể chuyện Tiên Kiếm nữa, mà chuyển sang bàn chuyện chinh chiến Tây Vực từ mấy thập niên trước của triều đình.
|
- Kể từ lần bại trận ấy, Tây Lương bị đại quân thiên triều đánh cho tan tác, phải cúi đầu thần phục. Tuyên hoàng đế nhân hậu, hẹn ước cùng Tây Lương kết mối lương duyên nhiều đời, đồng thời ban hôn Công chúa Minh Viễn của thiên triều cho khả hãn[5] của Tây Lương. Hai nước hòa thuận đã mười mấy năm nay, chẳng ngờ khả hãn già nua của Tây Lương vừa qua đời, tân khả hãn liền ngông cuồng tới mức tự xưng mình là Thiên Khả hãn, rồi tuyên chiến với triều đình ta. Khi đại quân thiên triều áp sát biên giới hai nước, tân Khả hãn trở tay không kịp, bèn cung kính giao nộp con gái mình, đổi lại sự khoan dung của thiên triều.
[5] Khả hãn hoặc khắc hãn, đại hãn: là một tước hiệu thủ lĩnh cao nhất trong ngôn ngữ Mông Cổ và Thổ Nhĩ Kỳ, được xem là người đứng đầu của đế quốc.
Mọi người trong quán cười ầm lên, A Độ đứng phắt dậy, ném phăng chiếc cốc. Bình thường A Độ là người can ngăn tôi không nên manh động, lần này lại đến lượt tôi sợ muội ấy nổi nóng mà đả thương người khác nên vội lôi A Độ ra khỏi quán trà.
Bên ngoài nắng vàng rực rỡ, tự nhiên tôi nhớ tới Công chúa Minh Viễn. Đó là người phụ nữ xinh đẹp, trang phục lẫn cách trang điểm khác xa con gái Tây Lương chúng tôi. Lúc dì ấy mắc bạo bệnh rồi qua đời, cha tôi cũng đau lòng lắm.
Cha tôi rất quan tâm đến dì ấy, người nói, đối đãi tử tế với Công chúa Minh Viễn cũng chính là tử tế với Trung Nguyên.
Dân tộc Tây Lương chúng tôi cứ tưởng mình tử tế với người ta thì đương nhiên người ta cũng tử tế lại với mình. Đâu như người Thượng Kinh, lúc nào cũng tính toán, trước mặt nói một kiểu, sau lưng làm một kiểu.
Nếu là ba năm trước, thế nào tôi cũng đánh cho lũ người trong quán trà kia một trận tơi bời, hiềm nỗi bây giờ lòng tôi đã nguội lạnh lắm rồi.
Tôi và A Độ ngồi nghỉ bên cầu, những cánh buồm căng gió lướt trên sông, người chèo đò cầm cây sào dài ngoẵng, một lúc lại cắm sâu xuống lòng sông, đẩy con đò đi dần về phía xa. Nhớ hồi mới đến Thượng Kinh, nhìn thấy thuyền bè tôi vô cùng sửng sốt, lẽ nào xe lại đi được trên sông? Thấy cầu tôi còn kinh ngạc hơn, tưởng là cầu vồng, ai lại xếp đá thành cầu vồng thế này? Ở Tây Lương chúng tôi, mặc dù có sông nhưng nước sông trong veo mà nông như một dải lụa bạc vắt qua thảo nguyên, nước sông róc rách chảy, ngồi trên lưng ngựa là lội được qua, nơi ấy không có thuyền, cũng chẳng có cầu.
Từ lúc đến Thượng Kinh, tôi được chứng kiến nhiều điều chưa được thấy bao giờ nhưng trong lòng lại không thoải mái.
Đang mải thả hồn ngẩn ngơ, chợt nghe có tiếng “ùm”, rồi tiếng gọi thất thanh vang lên gần đó:
- Có ai không! Ca ca cháu rơi xuống sông rồi! Ai cứu ca ca cháu với!
Tôi ngước nhìn lên, thấy phía xa xa có một bé gái chừng bảy, tám tuổi đang gào khóc kêu cứu:
- Mau cứu ca ca cháu với! Huynh ấy rớt xuống sông rồi!
Thấy một cái đầu nhỏ trồi trên mặt nước, lúc chìm lúc nổi, tôi liền nhảy bổ xuống sông, quên béng mất mình không biết bơi. Đến khi túm được tay thằng bé, tôi cũng bị sặc, uống không biết bao nhiêu là nước, trộm nghĩ lần này xong rồi, đã không cứu được người ta, mình cũng bị chết đuối. Tôi chết cũng không sao, nhưng chết rồi thì ai chăm sóc cho A Độ, một thân một mình muội ấy chẳng biết có tìm được đường về Tây Lương không…
Bụng ních đầy nước rồi cơ thể tôi cứ thế chìm dần. Đúng lúc tôi sắp ngất lịm thì được A Độ vớt lên từ dưới nước lên. A Độ đặt tôi nằm lên một phiến đá rộng bên bờ sông, miệng tôi ộc ra toàn nước. Nhớ năm xưa, lần đầu tiên thấy vại thủy tinh nuôi cá vàng trong Đông cung, bấy giờ tôi tự hỏi, sao nó lại to thế nhỉ? Cái bụng tròn lẳn đáng yêu chưa kìa, thỉnh thoảng còn nhởn nhơ nhả bong bóng nữa chứ! Bây giờ mới vỡ lẽ, hóa ra trong bụng nó toàn nước cả đấy.
A Độ ướt sững từ đầu đến chân, nước trên áo quần thi nhau nhỏ giọt, muội ấy khuỵu gối ngồi cạnh tôi. Ánh mắt muội ấy nhìn tôi đau đáu, đầy vẻ lo âu, tôi biết mình mà không tỉnh lại, thể nào cô gái ngốc nghếch này cũng khóc ầm lên cho mà xem.
- A Độ… – Trong cơn mê man, tôi vẫn ói ra nước không ngừng – Đứa trẻ kia đâu…
A Độ liền đưa thằng nhỏ vừa ngã xuống sông lại cho tôi xem, nó ướt nhẹp, nước nhỏ tong tong từng giọt, đôi mắt đen láy nhìn tôi chằm chằm.
Tôi cố gằng bò dậy, người dân quanh đấy thấy vậy thì xúm lại xem. Cả ngày tôi lang thang ngoài đường tìm trò vui, chẳng ngờ lần này cũng đến lượt mình bị người ta nhìn chằm chằm với vẻ soi mói. Tôi và A Độ đang dở tay vắt quần áo, chợt nghe tiếng hét thất thanh của ai đó, cùng lúc, chân nam đá chân chiêu len vào giữa đám đông.
- Con tôi! Ôi, con tôi!
Xem dáng vẻ chừng như một cặp vợ chồng, bọn họ ôm chằm lấy đứa trẻ rơi xuống nước ban nãy rồi gào khóc, đứa con gái cũng đứng bên dụi mắt.
Tôi lấy làm mừng trước cảnh nhà người ta sum vầy. Ngày qua ngày, lê la ở quán trà nghe kể chuyện anh hùng nghĩa hiệp, chẳng ngờ hôm nay mình cũng được làm anh hùng một phen. Ai dè thằng nhóc ban nãy chợt khóc toáng lên, không để tôi kịp tưởng tượng:
- Cha ơi, chính gã đàn ông xấu xa này đã đẩy con xuống sông!
Nói rồi nó chĩa tay, chỉ thẳng vào tôi.
Tôi trợn mắt, há miệng, thầm nghĩ, chuyện gì đang diễn ra thế này?
- Con cũng thấy chính hắn đã đẩy ca ca xuống sông đấy ạ! – Đứa con gái giọng non nớt mà tôi nghe chẳng khác nào tiếng sấm rền bên tai.
- Lòng dạ người đời sao lại dã man thế chứ!
- Đứa nhỏ đã gây thù chuốc hấn gì với hắn thế?
- Có trời mới biết! Trông mặt cũng có vẻ nho nhã, thế mà lại làm cái chuyện xấu xa này!
- Cái loại nho nhã cặn bã! Đồ mặt người dạ thú!
- Không thể tha cho nó!
- Đúng thế!
- Không thể tha cho bọn này được!
Người từ bốn bể xộc đến, xô đẩy chúng tôi. Đương nhiên A Độ cũng chẳng hiểu chuyện gì, chỉ biết giương mắt nhìn tôi. Tôi nghe mà gân xanh hai bên thái dương giật liên hồi, chẳng ngờ làm ơn mắc oán, tức thế không biết!
- Mau đưa thằng bé đến y quán để đại phu xem bệnh!
- Phải bồi thường nữa chứ! Vô duyên vô cớ đẩy thằng nhỏ ngã xuống sông, bắt nó đền tiền đi!
Tôi phân bua:
- Rõ ràng bọn tôi cứu đứa nhỏ này mà, sao lại lật trắng thay đen, đổ vạ cho chúng tôi đẩy nó được!
- Mày đẩy nó chứ mày cứu cái gì?
Tôi suýt phụt máu tươi, cái loại… cái loại lý lẽ gì thế này?
- Mày làm con trai tao sợ rồi đây này, phải mời đại phu tới xem bệnh mới được.
- Đúng, phải mời đại phu tới xem bệnh đã, xem có bị thương không!
- Đứa trẻ vẫn còn lành lặn thế, nó có bị thương đâu! Với lại, rõ ràng tôi vừa cứu nó…
- Lại còn cãi láo! Không đền tiền mời thầy thuốc chứ gì, lôi nó lên quan huyện giải quyết!
Đám người xung quanh đồng thanh:
- Dẫn chúng lên nha môn đi!
Thế rồi người ta nhộn nhạo gào thét:
- Lên nha môn!
Tôi bực lắm, lên thì lên, cây ngay không sợ chết đứng, mình ngay thẳng thì sợ gì ai!
Đám người nhốn nháo xô đẩy, lời qua tiếng lại cũng đủ thu hút ánh mắt của người qua đường, đã thế cặp vợ chồng kia còn vừa ôm con vừa gào toáng lên:
- Mau ra đây mà xem… Còn công lý nữa không… Xô con người ta xuống sông mà còn già mồm bảo mình cứu chúng. Chẳng lẽ trẻ con lại bịa chuyện…
Thế là tôi và A Độ chẳng khác nào hai con chuột tạt ngang chợ, hàng quán thi nhau ném rau thối vào người chúng tôi, kẻ rỗi hơi đi qua bắt gặp cũng nhổ nước bọt… May là A Độ nhanh chân nhanh tay nên hai đứa không dính miếng rau thối nào, nhưng càng thế tôi càng bực.
|
Bước vào nha môn huyện Vạn Niên, lửa giận trong tôi mới nguôi ngoai phần nào, dù sao vẫn có nơi để mà cãi lý. Vả chăng lần đầu được đến chỗ này, nhìn cũng có vẻ khá đây. Dưới quyền Kinh triệu doãn[6] có hai huyện Trường An và Vạn Niên, với ý nghĩa bình an, trường tồn muôn đời, vì vậy mà Trường An và Vạn Niên được mệnh danh là hai huyện đứng đầu thiên hạ. Lúc thăng đường, khí thế bừng bừng, trong tiếng hô “UY” của đám nha dịch, huyện lệnh huyện Vạn Niên sải bước xuất hiện, ung dung an tọa, bắt đầu tra hỏi tên họ của nguyên cáo lẫn bị cáo.
[6] Kinh triệu doãn: chức quan đứng đầu phủ Kinh triệu, thuộc Tam phụ (bao gồm: Kinh triệu doãn, Tả phong dực, Hữu phủ phong) chuyên cai quản kinh đô.
Đến tận lúc này tôi mới biết đôi vợ chồng kia họ Giả, sống ở ven sông, mưu sinh bằng nghề bán cá. Lúc hỏi đến mình, tôi buột miệng bịa ra một cái tên giả, tự xưng là “Lương Tây”, mỗi lần tha thẩn bên ngoài tôi thường dùng cái tên này. Có điều huyện lệnh huyện Vạn Niên hỏi tôi làm nghề gì, tôi liền cứng họng, không biết phải đáp lại thế nào, gã sư gia ngồi bên nom dáng dấp tôi cũng chen đôi lời:
- Nói vậy tức là du thủ du thực?
Thì cũng gần như thế, kiểu lang thang nay đây mai đó, tôi liền gật đầu.
Huyện lệnh đại nhân nghe cặp vợ chồng kia nói hươu nói vượn một hồi, lại hỏi đến hai đứa trẻ, hai đứa trẻ trả lời đồng thanh trả lời, quả quyết bảo tôi đẩy thằng anh xuống sông. Huyện lệnh đại nhân thôi không truy cứu chúng nữa mà chuyển sang hỏi tôi:
- Người biết bơi không?
- Không biết.
Huyện lệnh huyện Vạn Niên gật gù, phán rằng:
- Ngươi vô duyên vô cớ đẩy người ta ngã xuống sông, suýt chút nữa thì gây án mạng, người còn gì để nói không?
Tôi tức tối giậm chân:
- Rõ ràng thảo dân thấy nó ngã xuống sông liền nhảy xuống cứu nó. Sao thảo dân có thể đẩy nó được, đẩy nó thì có ích gì?
Huyện lệnh phán rằng:
- Ngươi không biết bơi mà lại đi cứu nó, nếu ngươi không đẩy thằng bé, hà tất phải liều mình cứu nó?
Tôi cãi:
- Cứu người là trên hết, há cần nghĩ ngợi! Thảo dân thấy thằng bé rơi xuống sông liền nhảy xuống cứu, đâu có bận tâm mình không biết bơi!
Huyện lệnh nói:
- Ngươi chỉ giỏi vụng chèo khéo chống! Con người ta quen thói ích kỷ, ham sống sợ chết, ngươi và đứa trẻ vốn không quen biết, người cũng không biết bơi, cớ gì lại lao xuống cứu nó, há chẳng phải chột dạ ư? Nếu bảo ngươi không làm, hà tất phải có tật giật mình? Một khi đã có tật giật mình, vậy chuyện ngươi đẩy nó xuống sông không còn nghi ngờ gì nữa!
Tôi liếc nhìn bốn chữ “gương sáng treo cao” sau lưng lão, gân xanh hai bên thái dương bất chợt giật giật, nó giật cái nào, tôi lại muốn xắn tay áo tẩn lão huyện lệnh này cái đó.
Huyện lệnh huyện Vạn Niên thấy tôi không còn gì để nói, liền ra phán quyết:
- Ngươi vô duyên vô cớ đẩy người ta xuống sông, hại con nhà người ta bị chấn động tinh thần, giờ bản quan phạt ngươi đền nhà họ Giả mười xâu tiền để an ủi cả nhà họ.
Tôi giận không biết để đâu cho hết, liền phá lên cười:
- Hóa ra ông toàn xử án kiểu này sao?
Huyện lệnh huyện Vạn Niên thủng thẳng nói:
- Ý ngươi là bản quan xử án bất công?
- Đương nhiên rồi! Thảo dân cứu người là chuyện rành rành ra đó, thế mà ngài chỉ nghe từ một phía, quyết không tin thảo dân.
- Ngươi cãi rằng mình không đẩy đứa trẻ, vậy có nhân chứng, vật chứng gì không?
Tôi nhìn sang A Độ, bảo:
- Đây là A Độ, muội ấy chứng kiến thảo dân cứu người, sau đó cũng chính muội ấy đã vớt thảo dân và đứa trẻ kia lên.
Huyện lệnh đại nhân ra lệnh:
- Vậy gọi kẻ đó bước ra công đường để ta chất vấn.
Tôi nuốt giận nói:
- A Độ không biết nói.
Huyện lệnh huyện Vạn Niên phá lên cười:
- Hóa ra là một kẻ câm!
Lão vừa cười, tôi đã biết có chuyện chẳng lành, y như rằng A Độ tuốt vỏ đao nhanh như cắt. May mà tôi kịp giữ muội ấy lại, bằng không muội ấy đã cắt phăng đôi tai của gã huyện lệnh kia rồi. A Độ đứng yên một chỗ, gườm gườm nhìn gã huyện lệnh, nha dịch xung quanh vùng lên quát tháo:
- Trên công đường không được mang đao!
Tuy ở yên trong vòng tay tôi, song A Độ vẫn khẽ cử động, mũi đao như bông tuyết phớt bay rồi lại xoay chuyển trở về trong lòng bàn tay. Muội ấy ra tay nhanh như chớp, hộp thăm đỏ trên án thư của huyện lệnh đại nhân chợt vang lên một tiếng “bang” rồi nứt toác, không ai kịp trở tay, thăm đỏ trong hộp rơi xuống đất, que nào que nấy nứt làm đôi. Ống thăm cắm ít nhất mười que, tất cả bị chẻ làm đôi chỉ trong chớp mắt bởi nhát đao của A Độ, thậm chí nứt đôi ngay chính giữa. Những người có mặt trên công đường không khỏi trố mắt thảng thốt, dân chúng đứng xem ngoài cửa nha môn bèn ồ lên:
- Xiếc tài quá!
Sai dịch trong nha môn thầm nghĩ, đây là đao pháp tuyệt diệu chứ nào phải “xiếc hay”. Huyện lệnh huyện Vạn Niên sợ tím tái mặt mày nhưng vẫn ra vẻ bình tĩnh, bảo:
- Người… người đâu! Sao lại để bọn họ giở trò đao kiếm trên công đường?
Ngay lập tức có vài gã nha dịch đánh bạo tiến lên toan tịch thu thanh đao trên tay A Độ, tôi nói ngay:
- Các ngươi có giỏi thì cứ xông lên, cô nương này mà muốn cắt tai ai, ta cũng không cản nổi đâu.
Quan huyện gằn giọng, quát:
- Nơi đây đường đường là nha môn huyện Vạn Niên, các người muốn làm loạn hả?
Tôi nói:
- Bẩm đại nhân, oan cho thảo dân quá!
Huyện lệnh nói:
- Không có ý làm loạn thì mau giao nộp thanh đao.
Lời vừa dứt, A Độ đã ném cho lão một cái lườm, lão lập tức đổi giọng:
- Mau thu đao lại!
A Độ dắt đao vào thắt lưng, tôi trộm nghĩ hôm nay đúng là tai bay vạ gió, chẳng biết kết cục rồi sẽ đi về đâu.
Huyện lệnh huyện Vạn Niên thấy A Độ đã thu đao lại, dường như cũng an tâm phần nào, đưa mắt ra hiệu với sư gia. Vị sư gia hiểu ý liền bước xuống công đường, nhẹ nhàng hỏi tôi:
- Thân thủ của hai vị võ sĩ quả là cao cường, không hiểu hai vị là thuộc hạ của đại nhân ở phủ nào?
Tôi nghe chẳng hiểu gì, bèn trợn mắt bảo gã:
- Ngươi nói thẳng ra xem nào!
Sư gia nhún nhường, hạ giọng:
- Ý đại nhân nhà chúng tôi muốn hỏi, thân thủ của hai vị vừa nhìn đã biết người phi phàm, không biết hai vị đang theo hầu vị đại nhân nào ạ?
Tôi mừng quýnh, hóa ra lão huyện lệnh này cũng biết mềm nắn rắn buông, vừa rồi chúng tôi làm náo loạn công đường, lão lại tưởng tôi ỷ mình có sừng có mỏ, hẳn lão đang nghĩ chúng tôi là hiệp khách của phủ quyền quý nào đây mà. Tôi đắn đo một lúc, hay bây giờ mình réo tên Lý Thừa Ngân nhỉ, chỉ e lão không tin. Đầu tôi bỗng lóe lên một cái tên, có rồi!
Tôi thẽ thọt nói với ông ta:
- Đại nhân nhà chúng tôi là Kim ngô tướng quân Bùi Chiếu.
Sắc mặt sư gia như thể đã vỡ lẽ, thậm chí gã còn quay người, ngầm chắp tay với tôi, khẽ thưa:
- Thì ra là Vũ lâm lang dưới quyền Bùi đại nhân, chẳng trách lại phi thường thế!
Tôi mà thèm nhập bọn với lũ Vũ lâm lang khốn khiếp ấy? Cơ mà những lời này tôi chỉ tự nhủ thế thôi, người Trung Nguyên có câu rất hay: Tránh voi chẳng xấu mặt nào.
Sư gia lui về sau án, thủ thỉ bên tai lão huyện lệnh một chặp.
Sắc mặt lão huyện lệnh thoáng tái mét, lão đập thước một cái:
- Đã là người phụng mệnh hành sự của Kim ngô tướng quân, vậy đi mời Bùi Tướng quân đến đây làm chứng!
Tôi choáng váng, có trời mới biết lão huyện lệnh này lại lắm trò đến thế. Bụng bảo dạ, nếu hôm nay tới phiên Bùi Chiếu trực ở Đông cung thì đúng là gay go thật rồi. Nếu gã không đến hay sai một người khác mà chúng tôi không biết, vậy thì tôi chết chắc rồi. Lẽ nào phải đại náo công đường rồi bỏ của chạy lấy người sao?
Sau này nghe Bùi Chiếu kể lại tôi mới rõ, tuy gã huyện thừa này chỉ giữ chức quan thất phẩm nhỏ nhoi, hiềm nỗi hoàng thành ngay sát dưới chân thiên tử, thế mới nói đảm đương chức vị này cũng hóc búa vô cùng. Những kẻ có thể ngồi vững cái ghế ấy rặt loại cáo già lọc lõi. Lão huyện lệnh huyện Vạn Niên ấy gặp phải hai đứa khó chơi như bọn tôi đâm ra không khép được vụ án, nghe bảo tôi là quân của Bùi Chiếu liền nằng nặc sai người đi mời Bùi Chiếu đến. Những chuyện bát nháo chốn quan trường này, dù Bùi Chiếu có giảng giải thế nào thì tôi cũng không tài nào hiểu nổi.
|