Đông Cung (Phỉ Ngã Tư Tồn)
|
|
Chương 16
Chỉ cần qua được cửa khẩu là đặt chân lên lãnh thổ Tây Vực rồi, dù Lý Thừa Ngân có là đương kim Hoàng đế thì cũng khó tránh khiến các nước Tây Vực xôn xao nếu chàng cố tình đưa quân sang bên kia biên giới, vì lúc đó chỉ e họ sẽ nghĩ chàng muốn tuyên chiến, rồi xảy ra đánh nhau thật. Cũng vì thế mà ở Ngọc Môn Quan, hình dáng tôi và A Độ lúc hóa trang thành đàn ông bất ngờ bị vẽ trên cáo thị truy nã khâm phạm, tuy nhiên, tên trên cáo thị thì lại không phải của chúng tôi.
Nói thực lòng, bức tranh ấy vẽ rất giống. Lý Thừa Ngân chỉ nhìn thấy tôi mặc đồ nam một lần, thế mà chàng cũng sai người vẽ được.
Song giờ đây cả tôi và A Độ đều vận đồ nữ, mà tội phạm khét tiếng trên cáo thị lại là nam nên chúng tôi vẫn hòa mình vào dòng người xếp hàng chờ qua cửa khẩu. Có điều cả hai đều không có giấy thông hành, vấn đề hóc búa bây giờ là phải làm sao để qua được.
Tôi cũng không căng thẳng lắm, trong tay nải có không ít vàng bạc, cộng với võ công cao cường của A Độ, cùng lắm là ẩu đả một trận, thua thì đút ít tiền là xong.
Chẳng ngờ phen này chúng tôi không chỉ thua, mà còn hết đường mua chuộc.
Tôi liếc nhìn vị tướng quân trấn ải.
Là Bùi Chiếu.
Lý Thừa Ngân thật xảo quyệt. Tôi vòng vèo khắp thiên hạ hòng tránh chàng, song vẫn phải vượt Ngọc Môn Quan mới về được Tây Lương, giờ chàng lại sai Bùi Chiếu đứng án ngữ ở Ngọc Môn Quan, kiểm tra từng người một. Dù võ công của A Độ cao cường đến mấy thì lúc đánh nhau cũng sẽ kinh động đến vạn quân đồn trú quanh năm ở đây, lúc ấy, chỉ sợ tôi và A Độ có mọc cánh cũng khó mà thoát nổi.
Tôi cười giả lả với Bùi Chiếu. Bùi Chiếu cười lại với tôi.
Tôi nói:
- Ô, Bùi tướng quân cũng ở đây à?
Bùi Chiếu nói:
- Mạt tướng được điện hạ phái đến lùng bắt phạm nhân bỏ trốn.
Tôi vẫn cười, nói:
- Bùi tướng quân là Kim ngô tướng quân, thống lĩnh ba nghìn Vũ lâm quân của Đông cung, không rõ tội phạm vượt ngục nào lại kinh động đến cả tướng quân, mà phải đuổi đến tận Ngọc Môn Quan thế này?
Bùi Chiếu buông một câu nhạt thếch:
- Đương nhiên là tội phạm quan trọng của triều đình rồi.
Tôi cười hềnh hệch nói:
- Tội phạm quan trọng của triều đình…
A Độ hơi cử động, phía sau tường lũy đã xuất hiện một đám binh sĩ, giương sẵn cung, lạnh lùng nhắm vào hai chúng tôi.
Tôi thở dài, nói với Bùi Chiếu:
- Hôm nay ta quyết phải qua cửa khẩu, ngươi muốn cản ta thì bắn chết ta đi, chuyện này đâu phải lần đầu tiên.
Bùi Chiếu lại thưa:
- Thái tử phi hiểu lầm Điện hạ rồi, thực ra Điện hạ một lòng một dạ chung tình với Thái tử phi.
Tôi nói:
- Chung tình ư? Ta và Lý Thừa Ngân chẳng còn tình nghĩa gì cả, ngươi chớ có nhắc đến Lý Thừa Ngân trước mặt ta.
Bùi Chiếu nói:
- Thực ra, Thừa Thiên Môn cháy không phải do nến.
Tôi hơi sửng sốt.
- Tết Nguyên tiêu cho muôn dân vào thành trẩy hội, lúc đó quả thực không thể đóng cổng thành. Điện hạ nôn nóng trong lòng, chỉ sợ thích khách ép Thái tử phi xuất thành, sẽ khó bề truy bắt, Điện hạ liền bất chấp tất cả, sai người ngầm phóng hỏa đốt Thừa Thiên Môn.
Giọng Bùi Chiếu vẫn đều đều:
- Vì Thái tử phi mà Điện hạ bất chấp tất cả, trong khi Thái tử phi lại không thể tha thứ cho Điện hạ.
Tin này khiến tôi quá đỗi kinh ngạc, mãi sau không thốt nên lời. Thừa Thiên Môn tượng trưng cho quyền lực đế vương, từ khi Thừa Thiên Môn xảy ra hỏa hoạn, trong triều không tránh khỏi xôn xao bàn tán. Bệ hạ cũng vì chuyện này mà phải viết Tội kỷ chiếu[1], nhận tội thất đức về mình. Có nằm mơ tôi cũng chẳng ngờ, thì ra Lý Thừa Ngân sai người phóng hỏa chứ không phải tình cờ mà cháy.
[1] Các vua chúa ngày xưa ban chiếu tự nhận là có lỗi với dân gọi là Tội kỷ chiếu.
Bùi Chiếu nói: “Điện hạ thân làm Thái tử, thân bất do kỷ[2]. Hôm đó phục kích thích khách, lại ngộ thương A Độ, đều do mạt tướng cố chấp làm theo ý mình. Thái tử phi nếu có hỏi tội, đương nhiên mạt tướng sẽ gánh chịu, Thái tử phi đừng vì thế mà trách oan Điện hạ.”
[2] Thân thể không do mình làm chủ.
Dù tôi chẳng nghĩ gì, song cũng đâu phải đứa ngốc, tôi nói:
- Ngươi đừng hòng lừa ta.
Bùi Chiếu nói:
- Mạt tướng không dám.
Tôi lạnh lùng nói:
- Có gì mà ngươi không dám, chẳng phải lệnh vua khó cưỡng đó sao? Không có lệnh của Lý Thừa Ngân, ngươi dám điều động Vũ Lâm quân bao vây tiêu diệt thích khách sao? Không có lệnh của Lý Thừa Ngân, ngươi dám sai chúng phóng tên sao? Ngươi nhận hết tội về mình, chẳng qua muốn khuyên ta quay về, nhưng ta không mắc lừa các ngươi nữa đâu. Ba năm trước, khi ta nhảy xuống sông Quên, ta tưởng sẽ không phải gặp lại các ngươi nữa. Ba năm qua, ta đã quên hết tất cả, nhưng chắc ngươi cũng tính đến chuyện ta sẽ nhớ lại từ đầu. Những gì Lý Thừa Ngân từng làm, ta mãi mãi không tha thứ. Hôm nay ngươi ngăn ta qua cửa khẩu, ta sẽ liều xông qua, muốn chém muốn giết gì thì tùy ngươi.
Bùi Chiếu trầm mặc một lát, rồi nói:
- Mạt tướng sẽ không…
Tôi chẳng hiểu đầu đuôi ra sao:
- Ngươi không cái gì?
Gã ngước mắt nhìn tôi:
- Bữa đó Thái tử phi hỏi, nếu thích khách bắt người làm con tin, phải chăng mạt tướng vẫn sẽ ra lệnh trừ khử người và thích khách? Bây giờ mạt tướng đang trả lời người, mạt tướng sẽ không làm vậy.
Tôi chợt hiểu, liền ra dấu với A Độ, A Độ lập tức rút đao, kề cổ tôi.
Tôi nói:
- Mở cổng mau!
Bùi Chiếu xẵng giọng:
- Thích khách uy hiếp Thái tử phi, chớ làm Thái tử phi bị thương, mau mở cổng.
Cổng thành được mở, cánh cổng nặng trịch, phải cần mười mấy người đẩy dịch từng chút một. Phía bên kia, mặt trời chói gắt đổ nắng chang chang khiến người bỏng rát.
Ánh mặt trời ngoài Ngọc Môn Quan vẫn luôn nhức nhối như vậy, tôi kìm nén sự hả hê, thúc ngựa chạy về phía cổng thành.
Bất ngờ nghe sau lưng có tiếng vó ngựa vang rền, một đoàn kỵ binh đang lao về phía này. Cờ quạt đi trước phấp phới, tôi thấy hoa văn hình rồng thêu long trọng trên lá cờ. Tôi nheo mắt nhìn đạo quân kia lao đến mỗi lúc một gần, rồi nhận ra, Lý Thừa Ngân đang dẫn đầu đoàn quân ấy.
Trái tim tôi chợt chùng xuống.
Tôi và A Độ thúc ngựa lao về phía cổng thành.
Xa xa vẳng lại tiếng hét:
- Đóng cổng thành! Điện hạ có lệnh! Mau đóng cổng thành!
Đám quân lính nhanh chóng đẩy cánh cửa về phía trước, toan khép cổng thành.
Cánh cổng nặng trịch đã gần ngay trước mắt. Lính tráng còng lưng đẩy cổng thành, cánh cổng mỗi lúc một hẹp, mỗi lúc một gần, kẽ hở chỉ vừa đủ lọt một con ngựa, xem ra không kịp nữa rồi. A Độ lao lên trước, muội ấy ngoái lại, toan kéo tôi sang ngồi cùng ngựa. Tôi vung tay quất mạnh roi da, ngựa của A Độ bị đau liền hí một tràng dài rồi nhảy vọt qua cổng thành.
Cổng thành từ từ khép lại, tôi thấy A Độ hốt hoảng ngoái đầu nhìn tôi. Muội ấy ghìm cương, quay ngựa định vòng lại, nhưng cánh cổng nặng nề kia đã đóng lại. A Độ chọc đao vào cánh cổng nhưng cũng chẳng thể làm gì. Cổng thành đã đóng, chốt sắt đã cài, tôi nghe tiếng đao chém cật lực vào then cài, song những vết chém chỉ làm tóe ra những tia lửa vô vọng. Muội ấy không biết nói nên không thốt được tiếng nào, tôi thấy lưỡi đao chém điên cuồng giữa khe cửa, nhưng nhát nào nhát nấy đều phí hoài công sức.
Toán Vũ lâm lang đã xông lên, tôi quay người chạy về phía quan ải, chạy miết lên thành lầu. Nhoài mình trên tường trổ, tôi khom người nhìn xuống A Độ vẫn đang bơ vơ nện vào cánh cổng. Cửa ải hiểm yếu phòng thủ vô cùng kiên cố, chỉ mình muội ấy sao đủ sức lay động được nó dù chỉ là một chút? Thấy A Độ khóc trong câm lặng, gợi tôi nhớ đến Hách Thất, huynh ấy phó thác tôi cho A Độ, đồng nghĩa với việc gửi gắm A Độ cho tôi. Nếu không có tôi, có lẽ A Độ cũng chẳng thiết sống nữa. Tôi cũng vậy, nếu không có A Độ, tôi đã chết từ lâu rồi.
Đột Quyết đã diệt vong, A Đô bơ vơ hơn tôi gấp nhiều lần. Hai mươi vạn dân Đột Quyết đã chết trong vòng vây của Nguyệt Thị và Trung Nguyên, mối thù không đội trời chung còn đó, vậy mà muội ấy vẫn ở Trung Nguyên suốt ba năm, vì tôi.
Đến hôm nay, A Độ là người duy nhất khiến tôi ăn năn.
Vũ lâm quân đã áp sát chân thành, nhiều kẻ xúm quanh Lý Thừa Ngân vừa xuống ngựa. Tôi nghe sau lưng có tiếng bước chân nhốn nháo, chúng đã xông lên thành lầu.
Tôi không hề sợ hãi, cứ đứng lặng ở đó.
Cổ Lý Thừa Ngân đang quấn sa trắng, nếu tôi cứa mạnh hơn, có lẽ lúc này chàng đã không đứng ở đây.
Chàng tiến về phía tôi, chàng tiến một bước, tôi lùi một bước. Tôi cứ lùi dần, cho đến khi chạm bờ tường trổ thấp, không còn đường lùi nữa. Gió tây đùa giỡn khiến ống tay áo tung bay phần phật, giống ngày đó bên bờ sông Quên, tôi đứng ở ngay mép vực, dưới chân vực là sông sâu, mây mù vấn vít ngang lưng.
Lý Thừa Ngân nhìn tôi bằng ánh mắt thâm trầm, cuối cùng, chàng cất lời:
- Lẽ nào nàng không muốn làm thê tử của ta đến vậy ư?
Tôi cười, song không đáp.
Chàng hỏi:
- Rốt cuộc gã Cố Tiểu Ngũ kia có gì tốt đẹp?
Bàn chân tôi đã chạm vào trống rỗng, hư không, chỉ có mũi chân vẫn bám trên tường trổ, cả người đong đưa như thể sẽ buông mình rơi xuống bất cứ lúc nào. Vũ lâm quân đứng rạt ra xa, lặng lẽ nhìn tôi, còn ánh mắt Lý Thừa Ngân chất chứa những nỗi khổ sở, phức tạp đang kìm nén.
Tôi nói:
- Cố Tiểu Ngũ có gì tốt đẹp, không bao giờ ta nói cho chàng biết.
Lý Thừa Ngân cười phá lên:
- Tiếc thay hắn đã chết rồi.
Phải, tiếc thay chàng đã chết rồi.
Chàng nói với tôi:
- Nàng theo ta về, ta sẽ bỏ qua tất cả, chẳng những thế, ta sẽ yêu thương nàng nhiều hơn. Dù nàng còn nhớ nhung gã Cố Tiểu Ngũ kia hay không, chỉ cần nàng theo ta về, ta hứa sẽ không bao giờ nói đến chuyện này nữa.
Tôi cười với chàng, rồi nói:
- Chỉ cần chàng hứa với ta một việc, ta sẽ cam tâm theo chàng quay về.
Khuôn mặt chàng đanh lạnh, không chút biểu cảm, chàng hỏi:
- Chuyện gì?
Tôi nói:
- Chàng bắt cho ta một trăm con đom đóm.
Chàng hơi thảng thốt, nhìn tôi vẻ khó hiểu. Tôi thấy trước mắt dần nhạt nhòa, nhưng miệng vẫn nhoẻn cười:
- Nước sông Quên, đặng quên tình… Sông Quên thần kỳ cho ta ba năm quên lãng, nhưng không để ta một đời được quên.
Nước mắt lăn dài trên gò má, tôi cười nói:
- Giá mà ta có thể quên được như chàng, thì tốt biết bao.
Chàng ngơ ngẩn nhìn tôi, như thể từ đầu đến cuối, chàng không hiểu những gì tôi nói. Còn tôi, tôi không biết sắc mặt mình thế nào, rõ ràng tôi đang cười mà nước mắt vẫn rơi. Tôi nói:
- Lần này, ta nhất định sẽ quên được chàng.
|
Tôi quay người, như chú chim tung cánh giữa trời, như cánh bướm sà đậu bên khóm hoa, tôi không mảy may do dự gieo mình xuống. Tôi biết rằng, nơi đây không phải sông Quên, dưới kia là vô số những mảnh đá dăm lởm chởm, một khi ngã xuống, chỉ có thịt nát xương tan.
Tôi nghe thấy nhiều tiếng kêu la thất thanh, Lý Thừa Ngân lao lên, chàng vung dây lưng quấn lấy tôi. Mọi sự dường như tái diễn lại cảnh từ ba năm về trước. Người tôi treo lơ lửng giữa không trung, còn chàng đã mấp mé bên mép tường vì lao theo tôi. Một tay bám vào gạch tường, tay kia kéo tôi, bàn tay chàng nổi gân xanh, hình như vết thương ở cỗ đã rỉ máu, song chàng quyết không buông tay, còn hét lớn:
- Người đâu!
Tôi biết một khi Vũ lâm quân xông lên giúp chàng, tôi sẽ không còn bất kỳ cơ hội nào nữa, tôi với tay cắt xẹt trước mắt chàng. Chàng thét lên:
- Không!
Tôi cắt dải dây lưng, giữa không trung, dải lụa mỏng manh đứt lìa. Tôi cố mỉm cười thật tươi, nụ cười cuối cùng dành cho chàng:
- Ta phải quên được chàng, Cố Tiểu Ngũ.
Tôi thấy trong đôi mắt ấy vẻ bàng hoàng, máu vẫn ứa ra từ cổ, dường như chàng vừa chịu đựng một nỗi đau đớn nặng nề mà đường đột, chàng hơi ngửa ra sau. Tôi thấy máu rỉ ra từ vết thương của chàng, rơi xuống mặt mình. Tôi nhoẻn cười nhìn chàng, có lẽ chàng muốn kéo tôi lại nhưng vô ích, thứ duy nhất níu được chỉ là gió. Tiếng chàng thảm thiết vang lên bên tai tôi:
- Là ta… Tiểu Phong ơi… Ta là Cố Tiểu Ngũ…
Tôi biết, cuối cùng thì chàng đã nhớ ra, đây có lẽ là sự trả thù đau đớn nhất mà tôi dành cho chàng. Ba năm trước, chính chàng bày ra cuộc thảm sát ấy, giết chết tình cảm giữa chúng tôi. Ba năm sau, cơ sự đã đến nước này, tôi đành cắt lìa những gì từng có giữa chúng tôi.
Tôi thấy chàng định lao xuống, có lẽ chàng định nối bước theo tôi giống ba năm về trước, nhưng nơi này nào phải sông Quên, nếu nhảy xuống thì chỉ có thịt nát xương tan. Bùi Chiếu ngăn chàng, tôi thấy chàng vung tay đấm vào ngực Bùi Chiếu khiến gã chảy máu miệng. Hẳn chàng đã đấm rất mạnh, song Bùi Chiếu vẫn quyết không buông tay, lại thêm nhiều người xông lên giữ chàng.
Bầu trời trong xanh… Tiếng gió rót ào ào bên tai, tất cả dần trở nên nhạt nhòa trước mắt.
Tôi thấy mình ngồi trên cồn cát, ngắm mặt trời khuất bóng. Tôi thấy trái tim mình dần rũ héo, chờ ánh tà dương le lói sau rặng đồi phía xa. Màn đêm đặc quánh buông mình phủ khắp đất trời, tia sáng cuối cùng đã biến mất.
Dường như tôi thấy đám người túm tụm quanh đó cười ồ lên, rất nhiều người Đột Quyết không tin Cố Tiểu Ngũ giết được vua sói mắt trắng nên vẫn khinh thường ra mặt. Chàng nhấc cây cung, dùng ngón tay gảy dây cung như gảy dây đàn. Dây cung phát ra tiếng “boong boong”, dân chúng đứng quanh đó phá lên cười ngặt nghẽo. Trong tiếng cười nhạo báng, chàng bắn rụng một trăm con dơi với một loạt tên liên hoàn…
Dường như tôi thấy rất nhiều con đom đóm thi nhau bay vút lên cao, tưởng như có vô vàn vệt sao băng vừa vuột khỏi đầu ngón tay chúng tôi. Lúc thần tiên rải sao băng xuống, hẳn cũng thế này chăng? Hàng nghìn, hàng vạn con đom đóm quây quần quanh tôi và chàng, chúng khẽ bay lướt qua, rồi lần lượt tỏa đi khắp nơi, tựa những ánh sao băng vạch sắc vàng vào màn đêm. Tôi nhớ trong lời bài hát có cảnh, thần tiên và người chàng yêu đứng giữa dòng sông, cảnh ấy cũng rực rỡ, hoa lệ như thế này chăng?
Dường như tôi thấy mình đang đứng bên bờ sông Quên, bàn chân đã chạm vào trống rỗng, hư không, gió trên vách núi lay tôi đứng không vững, như thể sẽ rơi xuống bất cứ lúc nào. Gió vẫn giật áo quần bay phần phật, ống tay áo như một lưỡi dao mỏng dính, không ngừng cà vào cánh tay. Chàng không dám tiến thêm một bước. Tôi nói với chàng:
- Trước kia ta nhìn lầm chàng, giờ mới sinh ra cảnh nước mất nhà tan, là trời phạt ta phải chịu nỗi đau này.
Tôi gằn từng tiếng:
- Muôn đời muôn kiếp, mãi mãi về sau ta sẽ quên được chàng!
Dường như tôi thấy mình ngồi bơ vơ trong đêm tân hôn ngày đó. Đêm tân hôn ấy, chàng nhấc bỏ chiếc khăn trên đầu tôi. Khăn voan được nhấc lên, trước mắt sáng lóa, ánh nến lung linh soi rọi khắp phòng, chảy tràn trên khuôn mặt, trên người chàng. Chàng mặc bào đen thêu rất nhiều hoa văn tinh xảo. Mấy tháng trước đó, dưới sự đôn đốc của Vĩnh Nương, tôi đã thuộc làu quyển “Điển lễ”, giờ đã hiểu đấy là chín chương thêu trên áo đen và xiêm cam. Năm chương trên áo gồm rồng, núi, chim trĩ, lửa, tôn ri; rau tảo, gạo trắng, phủ, phất hợp thành bốn chương trên xiêm. Áo trung đơn bằng sa trắng, cổ phủ, viền xanh đen, có soạn và tà áo. Thắt đai da, móc vàng sáng chói, dây đai bản to màu trắng không lót đỏ, viền đỏ xanh, khuy đan bện. Áo tế đồng màu với xiêm, gồm hai chương là núi và lửa.
Chàng mặc áo cổn, mũ miễn của dịp đại lễ, ngọc trắng rủ chín chuỗi, kết thành tua, màu như lụa, bông tơ xanh che tai, trâm cài sừng tê… tôn lên vẻ khôi ngô, tuấn tú, dáng vẻ đường hoàng.
Lúc đó, tôi tưởng đây là lần đầu tiên chúng tôi gặp gỡ, nhưng không ngờ, chúng tôi đã từng gặp nhau ở đất Tây Lương, dưới ánh trăng ngập tràn.
Sau cùng tôi nhớ, khoảnh khắc mình cắt lìa dải dây lưng, lệ đã tràn trong đôi mắt chàng.
Nhưng muộn rồi, ba năm đôi ta chỉ có cãi vã, vậy mà vẫn yêu nhau. Đây là sự trừng phạt mà thánh thần dành cho những kẻ đã từng uống nước sông Quên. Lẽ ra đôi ta nên mãi mãi chia lìa, mãi mãi không được nhớ về nhau.
Tôi yên lòng nhắm mắt, cơ thể rơi xuống vực sâu, chờ đợi thân mình vỡ vụn.
Nhưng tôi bị hẫng lại, chẳng thấy cơn đau như trong tưởng tượng, tôi liền mở mắt, thấy cánh tay mát rượi của A Độ đang ôm lấy mình. Tuy A Độ gắng sức nhảy vọt lên, song không ai trên đời có thể chịu được sức rơi mạnh đến thế, hình như tôi còn nghe rõ tiếng xương cốt của A Độ vỡ vụn. Muội ấy đã lấy thân mình làm tấm đệm cho tôi tiếp đất. Trước mắt tôi là máu từ mũi, từ tai, từ mắt A Độ ứa ra, tôi gào lên:
- A Độ!
Hai chân tôi đau nhói, không thể nào đứng lên được, tôi cố gắng bò dậy, cuống quýt muốn ôm lấy A Độ, nhưng chỉ cần khẽ cử động lại đau buốt. Vẻ mặt A Độ đầy đau đớn, song đôi mắt đen láy của muội ấy vẫn nhìn tôi, cái nhìn điềm tĩnh trước nay chưa từng thay đổi, không mảy may trách móc, như thể tôi vừa bày một trò nghịch ngợm nào đó, hoặc như trước kia, tôi từng dẫn muội ấy lẻn ra phố. Tôi ôm A Độ, thì thào gọi tên muội ấy.
Tôi biết rõ, từ lâu, tôi đã không còn Tây Lương để về. Tôi chỉ mong A Độ bỏ chạy trước, nhưng tôi có lỗi với A Độ. Tôi biết, A Độ sẽ không để mình tôi phải lẻ loi giữa cuộc đời này. Mà tôi cũng biết, tôi không thể để A Độ một mình bơ vơ. A Độ nhắm mắt, mặc cho tôi có gọi thế nào đi chăng nữa, muội ấy cũng không hay.
Tôi nghe tiếng cổng thành đang mở, binh lính đổ về phía chúng tôi. Tôi biết bọn chúng vẫn muốn đưa tôi về kiếp sống khốn khổ, chúng muốn đưa tôi về chốn Đông cung cô quạnh. Nhưng tôi không muốn phải chịu đựng những nỗi khổ sở ấy thêm nữa.
Tôi nói với A Độ:
- Chúng ta cùng về Tây Lương thôi.
Tôi nhặt thanh đao của A Độ, lưỡi đao đã sửt mẻ nhiều chỗ sau khi A Độ chém cật lực vào then sắt. Cuối cùng tôi cắm phập thanh đao vào lồng ngực mình. Chẳng hề đau. Có lẽ tôi đã nếm trải đủ mọi đớn đau, khổ sở trên cõi đời, chết có là gì nữa đâu…
Máu tuôn rơi, đôi bàn tay nhuốm máu nắm chặt tay A Độ, tôi nhoài người nằm bên muội ấy. Tôi biết, cuối cùng chúng tôi cũng được về nhà.
Những cảm giác, sự ấm áp dần lìa xa tôi, bóng tối bủa giăng. Dường như tôi trông thấy Cố Tiểu Ngũ, chàng đang phi ngựa về phía này, tôi biết chàng chưa chết, chàng chỉ đi bắt một trăm con đom đóm cho tôi thôi.
Giờ đây, tôi muốn tự tay chàng thắt cho tôi chiếc dây lưng của mình, và chúng tôi mãi mãi không chia lìa.
Tôi khẽ mỉm cười, trút hơi thở cuối cùng.
Trên mảnh đất hoang vu, dường như có ai đang hát bài ca nọ:
“Có con cáo nhỏ cô đơn
Ngồi trên cồn cát ngắm trăng một mình.
Cơ mà đâu phải ngắm trăng
Cáo đang mong đợi cô nàng chăn dê
Có con cáo nhỏ bơ vơ
Ngồi trên cồn cát thẩn thơ sưởi mình.
Nào đâu cáo muốn sưởi mình
Cáo đợi cô mình cưỡi ngựa đi qua…”
Thì ra con cáo nhỏ ấy đã không đợi được người con gái nó mong hoài bấy lâu.
Hoàn Chính văn
|
Phiên ngoại: Hồ Thái Dịch phù dung vẫn nở
- A Mục!
Tôi kéo tay áo cậu ấy, nhưng sửa lại cách xưng hô, khẽ gọi:
- Điện hạ…
A Mục ngước nhìn tôi vẻ ngỡ ngàng. Cậu ấy vận áo bào trắng rộng thùng thình, con ngươi đen láy, vẻ mặt còn vương nét ngây thơ.
Theo quy định của cung cấm, tôi không được phép gọi thẳng tên mụ của Thái tử, song từ năm bảy tuổi tôi đã tiến cung, A Mục nhỏ tuổi hơn tôi, lúc đó mới lên năm. Hai chúng tôi thân nhau như anh em, tôi lớn hơn nên lúc nào cũng che chở cậu ấy. Lúc cậu ấy không thuộc bài, ngay trước mắt Thái phó mà tôi cũng lén gỡ bí, lúc cậu ấy bị phạt, tôi còn bắt chước nét chữ của cậu ấy, chép giúp cậu ấy một tập sách dày mà không hề bại lộ. Chúng tôi cùng nhau bắn nỏ trong ngự hoa viên, cùng nhau chơi chọi dế, trèo cây, trêu ghẹo một vài cung nữ khó tính…
Chúng tôi dần trưởng thành, nhưng tôi biết, tình bạn giữa chúng tôi không hề thay đổi. Mỗi lần buồn phiền, A Mục thường tâm sự với tôi. Còn tôi, tôi luôn nghĩ cách giải quyết giúp cậu ấy.
Chuyện buồn phiền của A Mục thì nhiều lắm, Bệ hạ chỉ có mình cậu ấy là con trai, đương nhiên sẽ đặt nhiều kỳ vọng vào cậu ấy. Song, đứng trước một vị Hoàng đế anh minh, dù là ai thì cũng thấy mình thật tầm thường, nhỏ bé.
A Mục từng hỏi tôi:
- Đệ phải làm gì mới được như Phụ hoàng đây?
Tôi không biết nên trả lời thế nào.
Bệ hạ là vị quân vương có tài thao lược về quân sự, từng chinh phạt Tây Vực, bình định Nam Di, đánh bại vô số thành trì lớn nhỏ, xây dựng cơ nghiệp bền vững muôn đời… Đứng trước địa đồ núi sông của bản triều, người ta khó kìm được cảm giác sục sôi. Hơn trăm năm kể từ ngày dựng nước, lãnh thổ quốc gia chưa bao giờ rộng lớn đến thế. Hằng năm cứ đến kỳ tuế cống[1], chư hầu các nước lại đổ về chầu, dâng cống phẩm tỏ lòng quy phục. Tôi từng được theo cha, hầu Bệ hạ lên Thừa Thiên Môn, nghe muôn dân tung hô vạn tuế, âm thanh vang dội khắp cửu thành. Ngay cả những đứa trẻ còn chưa hiểu chuyện như chúng tôi cũng có cảm giác trời đất rung chuyển, khí huyết sục sôi. Vậy mà Bệ hạ cũng chẳng nhếch mép cười lấy một lần, mỗi lần người chỉ đứng chốc một lát rồi sai người hầu buông rèm, xa giá về thẳng Tây cung. Dường như trong mắt vị đế vương kiêu hãnh, lạnh lùng ấy, những phồn hoa trên đời cũng chỉ là mây khói…
[1] Nộp cống hằng năm.
Có người cha như thế, chẳng trách A Mục thật đáng thương.
Bệ hạ thông thạo cả cung lẫn ngựa, thiên triều giành được thiên hạ từ trên lưng ngựa. Trong quá trình dạy dỗ các thế hệ con em quý tộc thì cưỡi ngựa, bắn tên là môn học vỡ lòng, văn võ chỉ đứng thứ hai. Một tay cha dạy dỗ tôi thành tài, trong số các anh em cùng trang lứa, võ công của tôi được đánh giá ở mức khá, song vẫn kém xa với Bệ hạ.
Tôi từng được chứng kiến Bệ hạ thể hiện bản lĩnh. Hôm đó, tôi và A Mục hầu người bách bộ trong ngự hoa viên, có đôi chim non líu lo hót trên cành, Bệ hạ cầm bộ nỏ trên tay A Mục, nhón một viên đạn vàng, nhắm bắn đôi chim kia. Có lẽ câu nói “Một mũi tên trúng hai con chim nhạn” chính là đây. Chỉ một viên đạn đã bắn rơi hai con chim, ắt hẳn lực bắn phải rất mạnh.
Bệ hạ vốn không thích những thứ thành đôi, thành cặp. Các triều đại trước, khi hồ Thái Dịch trong cung nở sen Tịnh đế[2], người ta coi đó là điềm lành, có không ít những vị học sĩ đã tức cảnh sinh tình nảy ý thơ. Vậy mà năm Khâm Hòa thứ hai, hồ Thái Dịch nở sen Tịnh đế, không ai dám tâu lên Bệ Hạ, sau cùng nội thị họ Vương đánh bạo, sai người lén cắt cành sen ấy đi mới yên chuyện.
[2] Là hai đóa sen nở trên cùng một cuống, loài hoa sen thanh tao, thuần khiết, hiếm có bậc nhất, xưa kia dành để tiến vua nên mới có tên “Tịnh đế”
Cũng bởi tính khí Bệ hạ vốn kỳ quái, lúc xây Tây Uyển, thậm chí đến cả số điện thờ phụ cũng là số lẻ. Công bộ lang trung Trương Liễm vốn là người tỉ mỉ, cẩn thận, nhưng trong chuyện này lại vô cùng thoải mái. Tuy Lễ bộ[3] cũng biết làm thế là phạm phải quy tắc của liệt tổ liệt tông, nhưng nói cho cùng thì Tây Uyển cũng chỉ là rừng uyển của hoàng thất, không thể xem như cung điện chính thống được, nên đành mắt nhắm mắt mở cho qua.
[1] Bộ Lễ hay Lễ bộ là tên gọi của một cơ quan hành chính thời phong kiến, tương đương với Bộ giáo dục và Bộ Ngoại giao ngày nay.
Sở dĩ Lễ bộ biết điều như thế cũng bởi tính khí ngang tàng của Bệ hạ tăng dần theo năm tháng, nhưng không ai dám khuyên can.
Nói thì vậy, song Bệ hạ không phải vị vua mê muội, lẩm cẩm. Người vẫn vô cùng anh minh khi chọn người hiền tài, chuyện triều chính giải quyết đâu ra đấy.
Còn ở hậu cung lại chẳng có vị phi tử nào đắc sủng. Bệ hạ cũng không mấy mặn mà với thanh sắc, thỉnh thoảng có mở hội đi săn, song cũng không hẳn là thú vui. Quần thần cũng đành chịu thua vị vua không đam mê tửu sắc, không ham thích những thú vui hay của ngon, vật lạ này.
Nghe nói các bậc bề tôi rất đỗi lo lắng vì Bệ hạ chỉ có một vị hoàng tử nối dõi. Đối với hoàng thất, chuyện này thực sự nghiêm trọng, nên tránh sao khỏi nỗi buồn lo.
Rất nhiều tấu chương nhắc nhở được dâng lên, như thể nếu Bệ hạ không sinh được chín, mười hoàng tử, e rằng sẽ có lỗi với bàn dân thiên hạ.
Vậy mà Bệ hạ vẫn chẳng mảy may quan tâm.
Năm Khâm Hòa thứ tư, cuối cùng Hiền phi Lý Thị cũng mang thai. Triều đình và muôn dân đều mong ngóng Hiền phi sẽ hạ sinh cho Bệ hạ thêm một người con trai. Không may Lý Thị sinh khó, vượt cạn sinh được một công chúa thì Hiền phi qua đời.
Công chúa có hiệu là Triêu Dương.
Bệ hạ lấy tên chính điện Triêu Dương để phong thụy hiệu cho công chúa, đủ thấy người cưng chiều con gái thế nào.
Công chúa Triêu Dương sinh ra đã trắng trẻo, đáng yêu vô cùng. Có lẽ vì thương công chúa vừa chào đời đã mồ côi mẹ nên đích thân Bệ hạ chăm sóc công chúa ngày đêm. Thậm chí trong những buổi thiết triều, Bệ hạ còn dắt theo công chúa, đặt công chúa ngồi trên đùi mình, dường như việc chơi đùa với cô con gái nhỏ còn quan trọng hơn cả chuyện quốc gia đại sự…
Thoạt đầu quần thần cũng bất bình, dần dà lại nhận ra mặt tích cực của công chúa Triêu Dương.
Nếu Bệ hạ có nổi giận, không kẻ nào dám làm trái ý thiên tử, chỉ cần sai bảo mẫu ẵm công chúa đến, thì có khi tội tày trời cũng thành vô tội.
Công chúa Triêu Dương thường bật cười khanh khách, vươn tay sà vào lòng Bệ hạ.
Lúc Bệ hạ ẵm công chúa, trên gương mặt luôn nở nụ cười rạng rỡ.
Năm Triêu Dương lên bốn tuổi đã được vua ban thực ấp[4] vạn hộ cùng rất nhiều nô bộc. Thậm chí vì thương con gái mà Bệ hạ không tiếc công xây dựng một ngự hoa viên trên Ly Sơn, chỉ bởi công chúa Triêu Dương mắc chứng hen suyễn, Thái y khuyên nên đưa công chúa đến vùng suối nước nóng để tĩnh dưỡng.
[4] Vùng đất và những hộ dân được ban cho quan lại và chịu sự quản lý của họ.
Người trong thiên hạ đều hay biết, báu vật Bệ hạ coi trọng nhất trên đời chỉ có mình Triêu Dương.
A Mục thường nói với tôi rằng:
- Trọng An này, không biết mai sau ai có phúc lấy được Triêu Dương nhỉ?
Tôi hiểu ý cậu ấy, ai lấy được Triêu Dương, người ấy sẽ có cả thiên hạ.
Triêu Dương ngày một trưởng thành, càng thêm xinh xắn, nhưng cũng nghịch ngợm hơn hẳn thuở bé.
Giữa chốn hoàng cung này, chỉ có Triêu Dương là sống hồn nhiên, vô tư.
Tôi thường nghe tiếng công chúa cười, như tiếng chuông ngân vang lảnh lót, lại như một loài chim biết hát, không phải chính công chúa là một chú chim non lém lỉnh đấy chứ?
Khi trưởng thành, Triêu Dương rất thích quấn chân A Mục, cũng bởi Bệ hạ chỉ có một người con trai và một người con gái, bọn họ là anh em ruột thịt. Công chúa thường vận đồ nam, cùng chúng tôi lén xuất cung ra ngoài chơi, dù sao thì trong cung cũng chẳng ai dám ngăn cản muội ấy. Ba chúng tôi thường xuyên ra phố, vào quán uống trà, xem ca hát tạp kỹ, nghe nghệ nhân kể chuyện …
Những ngày tháng đó thật vui vẻ, trong sáng và thuần khiết.
Giờ nhớ lại, cả cuộc đời tôi, quãng thời gian hạnh phúc nhất là khi có A Mục và Triêu Dương bên mình.
Khi Triêu Dương qua đời, trái tim chúng tôi tan vỡ.
Nhưng người đau khổ nhất chính là Bệ hạ, chỉ qua một đêm mà tóc người bạc trắng.
Bệ hạ ngồi một mình trong điện Triêu Dương, lặng lẽ không quan tâm đến bất kì ai.
A Mục quỳ rất lâu ngoài điện, song cũng chẳng được người triệu kiến.
Bệ hạ hạ chiếu mai táng cho Triêu Dương ở Du Lăng.
|
Nơi ấy là lăng tẩm của người, toàn bộ được xây dựng theo lễ chế của Hoàng đế, cũng bởi công trình quá đồ sộ, nên mãi vẫn chưa hoàn thành. Giờ đây, trở thành nơi mai táng cho đứa con gái nhỏ người hằng yêu thương. Triều thần cùng muôn dân không ngớt lời bàn tán, dị nghị, cuối cùng Bệ hạ buộc phải bỏ bớt tượng đặt trước lăng, thu hẹp chiều dài của mộ đạo, chỉ cốt làm lắng đi những lời bàn tán ồn ào.
Mười ngày không thiết triều, trăm ngày quốc tang, Bệ hạ thực hiện tất cả các lễ chế để truy điệu Triêu Dương. Nhưng trên thực tế, chuyện triều chính không chỉ ngưng mười ngày, bởi từ đó trở về sau, Bệ hạ không còn thiết triều nữa.
Tấu chương của quan lại các cấp chất thành chồng cao tại Trung thư tỉnh, Môn hạ tỉnh, Thái phó không khỏi than thở với A Mục. Nhiều lần A Mục tiến cung, song vẫn không được Bệ hạ triệu kiến. Tôi biết A Mục đang lo lắng vô cùng, nhưng cũng chỉ biết an ủi:
- Đợi Bệ hạ vượt qua nỗi đau này rồi mọi chuyện sẽ ổn thôi.
Thế nhưng trong cung ai cũng biết, Bệ hạ không thể nào vượt qua nỗi đau này. Dường như Bệ hạ đã biến thành một người khác, chẳng còn hứng thú với bất kì ai, bất kì việc gì nữa. Nếu trước đây người là vị vua lạnh lùng, có hoài bão lớn, thì giờ đây vị vua ấy chỉ là người cha với trái tim nguội lạnh, âu sầu.
Tình hình sức khỏe của Bệ hạ ngày một suy yếu, có thời gian người ngã bệnh rất trầm trọng, vậy mà vẫn một mực sai người đi triệu sứ thần Tây Lương.
Tây Lương là nước thuộc địa lạ lùng nhất dưới quyền thiên triều: đất nước nhỏ bé, thế lực yếu, lại toàn là sa mạc… Các nước chư hầu khác theo lệ phải phái hoàng tử đến Thượng Kinh, lấy danh nghĩa là học hỏi lễ nghi của Trung Nguyên, nhưng trên thực tế là làm con tin. Vậy mà duy nhất Tây Lương không có con tin, chẳng những vậy, Tây Lương còn tỏ thái độ ngạo mạn xấc xược, thường xuyên không đến triều cống, nhưng Bệ hạ lại rất nể nang Tây Lương. Người chinh chiến Tây Vực, bình định các nước xung quanh, chỉ chừa lại Tây Lương.
Nghe người già trong cung nói, có lẽ nguồn cơn của việc này bắt đầu từ Minh Đức Hoàng hậu.
A Mục và tôi đều biết, Minh Đức Hoàng hậu là cái tên cấm kị, tuyệt đối không được nhắc đến.
Minh Đức Hoàng hậu vốn là Thái tử phi ở Đông cung của Bệ hạ khi người còn tại vị Thái tử, tiếc thay phúc mỏng phận bạc, năm Nguyên Khánh thứ hai mươi, trước khi Bệ hạ nối ngôi đã qua đời vì bạo bệnh. Hình như Bệ hạ chẳng mấy tình nghĩa với Thái tử phi quá cố này, đến tận năm Khâm Hòa thứ chín, Lễ bộ nhắc tới, lúc ấy người mới miễn cưỡng hạ chiếu thư, truy phong người đó làm Minh Đức Hoàng hậu. Chuyện xưa đã trôi qua hai mươi năm, lễ truy phong cũng vô cùng sơ sài, đơn giản. Minh Đức Hoàng hậu được an táng tại Định Lăng, Bệ hạ cũng không hề ban chiếu xây lăng tẩm theo lễ chế dành cho Hoàng hậu, thậm chí người không hề hạ chiếu nói sau khi mình tạ thế, sẽ để vị Hoàng hậu được truy phong này tuẫn táng tại Dụ Lăng.
Trước và sau khi truy phong Hoàng hậu, Bệ hạ không hề đến lễ an táng Thái tử phi.
Trong cung đồn rằng Bệ hạ không ưa vị Thái tử phi này, năm đó vì mối bang giao giữa hai nước, Bệ hạ bị ép phải sắc lập người con gái ngoại tộc làm Thái tử phi, người luôn cho rằng đó là mối nhục của hoàng thất. Có lẽ vì thế mà trong sử sách chỉ ghi chép một dòng gồm hơn mười chữ giới thiệu về cuộc đời của vị Minh Đức Hoàng hậu này.
A Mục nhớ mãi chuyện cấm kị ấy, bởi có lần công chúa Triêu Dương không biết tìm đâu ra một bộ quần áo của người Hồ, muội ấy hớn hở vận lên người rồi đi yết kiến Bệ hạ. Không ngờ Bệ hạ lại nổi trận lôi đình. Người hạ lệnh đánh chết tất cả người hầu bên cạnh Triêu Dương, Triêu Dương khóc lịm cả người, vì quá sợ hãi mà ngã bệnh suốt mười ngày liền. Mà Bệ hạ cũng rất hối hận, người túc trực bên giường công chúa, cho đến khi công chúa khỏi hẳn mới thôi.
Vì chuyện này mà Trần quý phi bị phế truất, nghe nói chính bà ấy đã xúi bẩy công chúa mặc xiêm áo của người Hồ.
Lúc tôi đưa A Mục đến thăm Triêu Dương, bà bảo mẫu già nua thì thào kể cho chúng tôi nghe, Bệ hạ kỵ nhất việc có người trông giống Minh Đức Hoàng hậu. Trần quý phi xui công chúa mặc quần áo của người Hồ, tội thật đáng chết.
A Mục quả là to gan, cậu ta gặng hỏi bà bảo mẫu: “Vậy, A Hoàng có giống Minh Đức Hoàng hậu không?
Phụng Hoàng là tên mụ của Triêu Dương, A Mục quen gọi là A Hoàng.
Bà bảo mẫu ngẩn người một lúc, rồi lắc đầu nói: “Không giống chút nào, vẻ ngoài của Minh Đức Hoàng hậu không giống công chúa.”
Tôi thầm nghĩ, khó mà giống nhau được. Không biết con gái ngoại tộc có tướng mạo sẽ thế nào nhỉ?
Bà bảo mẫu lại nói: “Minh Đức Hoàng hậu có nước da trắng sáng, thân hình gầy, nhỏ, tuy không có nét mặt hoa da phấn như con gái Trung Nguyên nhưng rất hiếu động.”
Nói đến đây, bà ấy chợt thở dài: “Thoáng cái mà đã gần ba mươi năm, chẳng ngờ…”
Bà ấy không nói tiếp, tôi thấy A Mục dường như đang trầm ngâm suy nghĩ gì đó.
Đấy là lần đầu tiên Bệ hạ nổi giận với Triêu Dương, và cũng là lần cuối cùng.
A Mục từng nói rằng, trên đời này, người duy nhất Bệ hạ thực sự yêu thương, chỉ có Triêu Dương.
Sâu thẳm trong thâm tâm mình, tôi cũng nghĩ vậy.
Nhưng Triêu Dương đã qua đời sau đó…
Từ lúc Triêu Dương qua đời, ngày qua ngày Bệ hạ càng chán chường việc triều chính, mà sức khỏe của người cũng dần suy yếu. Người không còn hứng thú với việc triều chính như không còn hứng thú với chính sinh mệnh của mình. Người không còn đi săn, không dự yến tiệc, thường xuyên nhốt mình trong điện, không uống rượu mà cũng chẳng sa vào thanh sắc, sức khỏe của người lại yếu dần theo thời gian.
Dường như cái chết của Triêu Dương đã mang theo toàn bộ sức sống của người, chẳng những mái tóc người bạc phơ, đến cả trái tim cũng héo tàn. Tôi chưa thấy ai đau lòng đến như thế này. A Mục và tôi cũng rất đau buồn vì sự ra đi của Triêu Dương, song có vẻ nỗi đau buồn ấy không bằng một phần nhỏ của Bệ hạ.
Đích thân cha vào cung khuyên giải Bệ hạ. Cha ốm yếu bấy lâu nay, bao năm chinh chiến đã khiến người mắc rất nhiều bệnh. Người còn đang ốm không gượng dậy nổi, song vẫn cố chấp đòi vào cung.
Người nhà không can ngăn được, đành chuẩn bị xe đưa cha vào cung. Kẻ hầu người hạ trong điện đều lui ra ngoài, duy có tôi hầu cha quỳ trước mặt Bệ hạ, cảm giác cơ thể người đang run rẩy. Tôi không dám lỏng tay đỡ, tôi biết nếu mình lỏng tay, hẳn cha sẽ sụp xuống bất cứ lúc nào. Và tôi cũng biết mình nên lánh đi, nhưng cha suy nhược như thế này, tôi không đành lòng lui xuống. Cách Bệ hạ đối xử với cha tôi hơn hẳn những người khác, Bệ hạ đích thân đưa tay ra dìu cha dậy.
Trong hơi thở hổn hển, người nắm chặt tay Bệ hạ, như thường ngày tôi vẫn nắm tay A Mục, nói:
- Bệ hạ, Thái tử phi đã tạ thế từ lâu rồi.
Giọng cha run rẩy, nhưng những câu chữ thốt ra nhẹ bẫng, tôi gần như chẳng nghe thấy gì. Chỉ câu nói đó thôi đã khiến Bệ hạ thảng thốt, tôi thấy tóc người đã điểm hoa râm, cặp mắt đục ngầu, bàn tay đang cầm tay cha tôi run rẩy. Tự lúc nào, Bệ hạ đã trở thành ông già suy sụp đến mức này?
|
Cha thở dốc, nói:
- Thái tử phi đã an giấc ngàn thu từ ba mươi năm trước rồi.
Dường như mắt cha đã đong đầy nước mắt, người nói tiếp:
- Bệ hạ, xin người hãy tỉnh táo lại, Thái tử phi đã chết lâu rồi.
Chưa bao giờ tôi thấy Bệ hạ mang vẻ mặt như lúc này, người luôn ôn tồn với cha, duy chỉ lúc này là cục cằn, khuôn mặt méo xẹo. Người níu chặt vạt áo cha, trên mu bàn tay vằn vện gân xanh, tiếng gầm gừ dữ tợn trở nên khàn đục:
- Ngươi nói láo!
Cha tôi run rẩy, còn tôi không dám thở mạnh. Trong điện chỉ nghe thấy tiếng thở dồn dập từng hồi của cha. Giọng Bệ hạ dịu xuống, thậm chí người đã cười, nói:
- Bùi Chiếu, ngươi biết nàng ấy đang ở Tây Lương. Nàng ấy lừa chúng ta, chẳng lẽ thông minh như ngươi mà cũng mắc lừa nàng ấy?
Cha vừa ho vừa thở hổn hển rồi cất tiếng gọi khẽ:
- Bệ hạ…
Ánh mắt cha đau đáu, vô vọng. Tiếng người chẳng khá hơn:
- Công chúa Triêu Dương không phải do Thái tử phi thân sinh. Công chúa không hề giống Thái tử phi, trong lòng người hiểu rõ hơn ai hết. Công chúa do Hiền phi Lý Thị hạ sinh. Thái tử phi về trời đã ba mươi năm rồi… Mười mấy năm trước thần từng đến viếng thăm, cỏ đã phủ xanh trên mộ rồi…
Đó là lần đầu tiên tôi thấy Bệ hạ khóc. Giọt nước mắt trào ra, nhỏ xuống ngực áo bào trong câm lặng. Ngực áo bào thêu họa tiết tinh xảo, giọt nước mắt loang loáng trên đầu rồng, chực rơi xuống. Cha tôi ôm gối của người, như xoa dịu, như an ủi, lại như cảm thông… Lúc ấy, Bệ hạ khóc nấc lên như một đứa trẻ…
Hết
|