Đông Cung (Phỉ Ngã Tư Tồn)
|
|
Bùi Chiếu khẽ đáp:
- Bẩm Thái tử phi, Thái tử Điện hạ có lệnh phải giết bằng được thích khách, xin thứ tội cho mạt tướng không thể tuân theo ý người.
Tôi túm chặt cánh tay gã:
- Nhưng người đó không phải thích khách, hơn nữa sư phụ ta còn đang bảo vệ A Độ, A Độ cũng không phải thích khách. Mau bảo bọn chúng dừng lại ngay!
Bùi Chiểu bối rối ra mặt, rồi gã từ từ rút cánh tay lại. Tôi nổi đóa mắng:
- Đúng là Cố Kiếm từng hành thích bệ hạ, nhưng bệ hạ có làm sao đâu. Vả lại các ngươi muốn bắt Cố Kiếm thì cứ bắt đi, nhưng A Độ vô tội, ngươi mau bảo người của ngươi dừng lại ngay.
Bùi Chiếu trầm giọng nói:
- Điện hạ đã có lệnh, một khi thích khách xuất hiện, dù thế nào cũng phải hạ gục hắn, tuyệt đối không để hắn thoát. Xin Thái tử phi thứ lỗi, mạt tướng không thể nghe theo ý của người.
Tôi tức tối, nói:
- Vậy còn ta? Nếu Cố Kiếm đang giữ ta trong tay, các ngươi cũng bắn chết cả ta lẫn sư phụ ư?
Bùi Chiếu ngước nhìn tôi, ánh mắt u án, ánh lửa của trận tên như một chùm hoa lửa li ti bập bùng trong mắt gã, rồi tàn lụi đi trong chốc lát. Tôi nói:
- Nhanh bảo bọn họ dừng lại, nếu không ta sẽ nhảy xuống đó chết cùng họ!
Bùi Chiếu bất ngờ giơ tay, nói:
- Mạt tướng xin thất lễ!
Người tôi bỗng tê rần, rồi chân cẳng bủn rủn, tôi ngồi thụp xuống, không thể nào nhúc nhích được nữa. Gã dám điểm huyệt tôi. Tôi mắng chửi một hồi, vậy mà hắn lờ đi, chỉ ngoảnh lại, hô:
- Chuẩn bị!
Ba ngàn quân trên nóc điện đồng loạt nhỏm dậy, bọn chúng nửa ngồi nửa quỳ, tay kéo căng dây cung, đầu mũi tên hướng thẳng vào hai người bị bủa vây giữa thế trận lửa dưới kia.
Tôi tức đến phát khóc, chỉ biết gào thét:
- Bùi Chiếu! Hôm nay ngươi thử bắn xem, ta thề sẽ giết ngươi!
Bùi Chiếu bỏ ngoài tai những gì tôi nói, quay đầu thét lớn:
- Bắn!
Tôi nghe những tiếng rít xé toạc không gian, không biết bao nhiêu mũi tên bay vọt qua đỉnh đầu, lao thẳng vào người đứng giữa vòng lửa. Cố Kiếm nhảy vọt lên định thoát thân, nhưng làn tên dày khiến sư phụ phải thoái lui. Mắt tôi nhòe nước, chỉ còn thấy trận mưa tên bao phủ đất trời. Cố Kiếm bất ngờ gạt tay, thả A Độ xuống đất, hẳn sư phụ muốn thoát thân trước, nhưng tên bay mỗi lúc một dày, mũi này nối mũi kia, không có lấy một khe hở, bóng dáng Cố Kiểm và A Độ bị che khuất. Tôi điên cuồng mắng chửi, vậy mà Bùi Chiều vẫn nhắm mắt làm ngơ. Tôi gào khóc thảm thiết, trước kia tôi chưa bao giờ khóc lóc thê thảm như thế này, thậm chí tôi còn van nài gã cho quân lính dừng lại, vậy mà Bùi Chiếu vẫn không màng đến.
Chẳng biết bao lâu sau Bùi Chiếu mới hô ngừng, lúc ấy mắt mũi tôi nhòe nhoẹt, chỉ thấy phía dưới kia những mũi tên đã chất thành một gò núi nhỏ, chẳng thấy bóng dáng người đâu. Đám Vũ lâm lang thân đeo khiên giáp đứng chắn hàng đầu đã lùi về phía sau một bước, cho hàng quân thứ hai tay lăm lăm giáo mác chọc vào gò núi chất bằng tên kia, rồi hò nhau xới tung cả đám tên lên.
Tôi thấy máu đã nhuộm đỏ màu áo trắng của Cố Kiếm.
Tôi há hốc miệng mà không tài nào khóc bật ra được tiếng khóc, những giọt nước mắt lăn theo gò má, chảy vào miệng, mặn chát. A Độ, A Độ của tôi.
Ba năm nay, A Độ và tôi luôn sát cánh bên nhau, đến hận nước thù nhà còn chưa trả mà muội ấy vẫn theo tôi vượt nghìn dặm xa xôi tới đây, A Độ luôn che chở cho tôi bằng cả tính mạng của mình… Vậy mà tôi lực bất tòng tâm, giương mắt nhìn muội ấy chết dưới làn tên bay.
Chẳng rõ tự lúc nào, Bùi Chiếu đã thả tôi xuống dưới, gã vừa giải huyệt đạo trên người, tôi liền giật lấy thanh kiếm rồi chỉ thẳng vào mặt gã. Gã nhìn tôi, nói:
- Thái tử phi muốn giết xin cứ giết, lệnh vua khó cưỡng, mạt tướng không thể không theo.
Chân nam đá chân chiêu, tôi chạy về phía A Độ, bọn lính đứng chặn ở giữa không cho tôi qua. Tôi liếc nhìn Bùi Chiếu, hắn phất tay. Lúc đó, bọn Vũ lâm lang mới rẽ ra tạo thành một lối đi cho tôi.
Khắp người A Độ vấy toàn máu. Tôi gào khóc, nước mắt lã chã rơi xuống khuôn mặt muội ấy. Cơ thể A Độ vẫn còn ấm, tôi kiểm tra khắp người muội ấy, cốt tìm xem muội ấy có bị thương chỗ nào không, còn chữa trị được chăng? Trên người A Độ không có vết thương, chỉ có phần đùi bị thương, tôi vừa khóc vừa gọi tên A Độ, rồi mí mắt muội ấy khẽ cử động.
Tôi nửa mừng nửa kinh ngạc, nức nở gọi tên A Độ. Cuối cùng A Độ cũng mở mắt. Sau đó, muội ấy gắng gượng chỉ vào Cố Kiếm đang nằm bên, tôi không hiểu gì cả, chỉ thấy muội ấy ngóng sang Cố Kiếm, còn tay nắm chặt vạt áo tôi.
- Muội muốn ta qua đó xem à?
Tôi đoán thế. A Độ khẽ gật đầu.
Tôi không rõ A Độ muốn làm gì, nhưng giờ đây, trong cơn hấp hối, muội ấy muốn tôi làm gì, tôi quyết làm bằng được.
Tôi đến bên Cố Kiếm, đôi mắt sư phụ khép hờ, sư phụ vẫn còn sống.
Tôi vô cùng kinh ngạc, mắt sư phụ hơi hấp háy, sư phụ đã nhận ra tôi, trên lưng người găm chi chít mũi tên, chi chít như lưng một con nhím, không chừa lấy một tấc da thịt còn nguyên vẹn. Lòng tôi quặn đau, bao lần sư phụ từng cứu tôi, lúc ở núi Thiên Hằng sư phụ đã cứu tôi, vừa nãy thôi giữa làn mưa tên, sư phụ cũng cứu tôi… Tôi khuỵu xuống, gọi tên người.
Tôi không biết Lý Thừa Ngân lại giăng cái bẫy này, chính tôi đã bắt tội sư phụ.
Khóe môi Cố Kiếm mấp máy, tôi xích lại gần hơn, Bùi Chiếu tiến lên toan ngăn tôi:
- Nương nương, xin người cẩn thận kẻo thích khách giở trò.
Tôi cáu gắt:
- Sư phụ ta đã ra nông nỗi này rồi, lẽ nào còn tấn công được ai?
Tôi kề tai bên môi Cố Kiếm, nghe sư phụ thì thào:
- A Độ… sao rồi…?
Không ngờ sư phụ còn nhớ tới A Độ, tôi nói:
- Không sao đâu, muội ấy chỉ bị thương thôi.
Khóe môi sư phụ khẽ nhếch lên như đang mỉm cười.
Lưng sư phụ chi chít vết thương, trong khi A Độ chỉ bị thương ở đùi. Bỗng nhiên tôi hiểu ra:
- Sư phụ đã che cho muội ấy ư?
Thay vì trả lời, sư phụ nhìn tôi với ánh mắt ngây dại.
Bất chợt, tôi thấy xao lòng, đáng lẽ sư phụ đã thoát được rồi, vậy mà người lại cứu A Độ, rõ ràng người đã thả A Độ xuống. Chỉ cần bỏ lại A Độ, chưa biết chừng cố thì có thể thoát được thân, thế mà người vẫn không nỡ, thế mà người vẫn liều cả mạng sống của mình để cứu A Độ. Sao người lại cứu A Độ?
Rõ ràng tôi biết câu trả lời, vậy mà vẫn cố hỏi:
- Sao sư phụ lại cứu A Độ…?
Tiếng sư phụ rất nhỏ, dường như sẽ bị gió cuốn phăng đi bất cứ lúc nào, tôi đành xích lại gần hơn, nghe được tiếng người thều thào:
- Muội ấy… Nếu như muội ấy… muội sẽ…sẽ rất đau lòng…
Lòng tôi quặn thắt, vậy mà sư phụ vẫn cười:
- Ta không… không muốn… làm muội buồn…
Tôi nói:
- Sao sư phụ ngốc thế? Ta lại chẳng thích người… Sao sư phụ khờ thế…?
Sư phụ đăm đăm nhìn tôi:
- Là ta…có lỗi với muội…
Tôi đọc thấy trong đôi mắt ấy dâng đầy nỗi ân hận, mà bản thân chẳng nỡ lòng nào, sư phụ sắp không trụ được nữa rồi. Cuối cùng, nước mắt tôi giàn giụa:
- Sư phụ…
Sư phụ ngước nhìn bầu trời sao, hơi thở gấp dần:
- Sao… ngày hôm đó… cũng sáng… như hôm nay… Muội ngồi trên cồn cát… hát… hát bài… con cáo…
Sư phụ nói ngắt quãng, không thành câu, nhưng tôi chợt hiểu, liền dịu giọng nói:
- Ta biết… ta hát… ta hát cho người nghe nhé…
Tôi khẽ nâng đầu sư phụ lên, mặc kệ Bùi Chiếu nghĩ sao, mà cũng mặc kệ đám Vũ lâm lang nghĩ gì, lòng tôi đau như cắt, tôi nhớ bài hát ấy, bài hát duy nhất tôi thuộc:
“Có con cáo nhỏ… cô đơn
Ngồi trên cồn cát… ngắm trăng một mình.
Cơ mà đâu phải… ngắm trăng
Cáo đang mong đợi… cô nàng chăn dê…”
Mấy câu hát ngắc ngứ. Bài này tôi thuộc làu nhưng hôm nay, chẳng hiểu sao mà hát câu nào câu nấy đều lạc giọng. Tôi cứ hát, cứ hát, lúc sau mới nhận ra mình đang khóc, nước mắt rơi xuống khuôn mặt Cố Kiếm. Sư phụ mỉm cười nhìn tôi, cho đến khi cơ thể dần lạnh ngắt… tay người mới thõng trên mặt đất. Bộ quần áo màu trắng bị tên bắn rách bươm, loang lổ máu. Tôi thấy có thứ gì dưới vạt áo, liền khẽ rút ra xem, thì ra là đôi hoa thắng nhuốm màu máu. Tôi chợt nhớ buổi tối hôm tết Nguyên Tiêu ấy, sư phụ đã mua cho tôi một cặp hoa thắng, nhưng sau đó tôi gỡ xuống, quẳng dưới chân người. Thì ra sư phụ vẫn luôn giữ nó bên mình. Thứ tôi vứt đi mà sư phụ lại nâng niu như báu vật như thế này ư?
Tôi quỳ gối bên sư phụ, buông giọng hát thảm thiết. Dường như có trận gió sa mạc quét qua, gió siết vào cuống họng, đau không thể nói thành lời:
“Có con cáo nhỏ bơ vơ
Ngồi trên cồn cát thẩn thơ sưởi mình.
Nào đâu cáo muốn sưởi mình
Cáo đợi cô mình cưỡi ngựa đi qua…”
Bùi Chiếu bước lại gần, đỡ tôi:
- Thái tử phi…
Tôi vung tay vả vào mặt gã, dường như gã ngẩn người, nhưng vẫn kéo tôi đứng dậy:
- Mạt tướng đưa Thái tử phi đến gặp Điện hạ.
- Ta không gặp ai hết!
|
Tôi lạnh lùng nói, rồi lườm gã:
- Lũ các người… các người…
Tôi lắp bắp không nghĩ ra từ nào để mắng chửi chúng. Chúng chỉ nghe theo lệnh của Lý Thừa Ngân, Lý Thừa Ngân mới chính là kẻ đầu trò.
Cố Kiếm đã chết, A Độ thì đang lay lắt…
Tất cả là tại tôi, là vì tôi…
Đáng lẽ Cố Kiếm không sa vào cái bẫy chúng giăng, nhưng chỉ vì tôi…
Đáng lẽ Cố Kiếm đã không chết, tất cả chỉ tại tôi…
Chính tôi bảo Cố Kiếm cứu A Độ, nên sư phụ mới liều mình cứu A Độ…
Hết lần này đến lần khác, những người thân thiết lần lượt bỏ mạng vì tôi…
Bọn chúng giết ông ngoại, giết mẹ, giết Hách Thất, giờ chúng lại giết cả Cố Kiếm…
Bọn chúng giết người thân của tôi, giết những người yêu thương tôi, bọn chúng giết không trừ một ai…
Bùi Chiếu nói:
- Vết thương của A Độ cần chữa trị kịp thời. Bẩm Thái tử phi, mạt tướng đã sai người đi mời thái y…
Tôi lạnh lùng trừng mắt với gã, song Bùi Chiếu không hề né tránh ánh nhìn của tôi, cũng chẳng biện bạch điều gì.
Tôi không muốn nói gì với gã nữa.
Vết thương của A Độ rất nghiêm trọng nhưng tôi không để bọn chúng chạm vào người muội ấy, tự tay tôi bế muội ấy lên. Lần nào A Độ cũng bế tôi, cuối cùng cũng có ngày chúng tôi đổi vị trí cho nhau. Cơ thể A Độ nhẹ bẫng, lần trước A Độ bị thương nặng, may nhờ có Cố Kiếm mới tai qua nạn khỏi, lần này chẳng biết có vượt qua được không?
Xương bả vai phải của A Độ bị gãy, ngoài ra còn gãy một chiếc xương sườn. Thái y rút mũi tên, sau đó cố định lại xương, đắp thuốc xong xuôi, A Độ chìm vào hôn mê.
Tôi ngồi thu lu bên giường muội ấy, ai đến khuyên cũng mặc, thậm chí chẳng buồn ngước mắt nhìn lên. Hai tay tôi ôm chặt lấy thân mình, lòng đã quyết, đợi A Độ lành lặn, tôi sẽ dẫn muội ấy về Tây Lương.
Bấy giờ quần áo trên người tôi đã khô vết máu, tóc tai tôi bù xù xổ tung. Lúc Lý Thừa Ngân đến, chàng chau mày, nói:
- Thay quần áo cho Thái tử phi.
Vĩnh Nương bối rối. Bà ấy vừa bước lên, tôi đã rút thanh đao ra, gườm gườm nhìn bà ấy.
Lý Thừa Ngân phẩy tay, kẻ hầu người hạ đều lui ra ngoài.
Chàng bước đến trước mặt tôi, qua lọn tóc lòa xòa, tôi thấy mũi giầy chàng tiến từng bước, từng bước lại gần… Tôi định vung đao, thì chàng lại chậm rãi khom lưng ngồi xuống, nhìn tôi.
Tôi cũng chằm chằm nhìn lại.
Chàng khẽ nói:
- Tiểu Phong, kẻ đó tất phải loại trừ, võ công của hắn lợi hại hơn người. Hắn dám uy hiếp hoàng đế, trong vòng vây truy sát mà hắn vẫn thoát dễ dàng, ta buộc phải giết hắn…
Tôi lạnh lùng nhìn chàng thay vì tức giận.
- Để nàng làm mồi nhử là lỗi của ta, nhưng ta bất đắc dĩ mới phải làm vậy. Triệu Lương đệ là con nhà thế gia, cả cha và anh trai ả đều là trọng thần, ta cần một lý do chính đáng mới trừ khử được ả. Nhà họ Triệu và Cao tể tướng cấu kết với nhau, Phụ hoàng muốn loại bỏ bè phái nhà họ Cao nên mới hạ quyết tâm lật lại vụ án nhà họ Trần. Một khi phá được án cũ của Trần Thị, Cao Vu Minh ắt sẽ bị trừng trị… Vụ Triệu Lương đệ hãm hại nàng… thoạt đầu ta chỉ có thể tương kế tựu kế… Giờ nàng yên tâm, mọi việc đã kết thúc rồi…
Chuyện chàng nói phức tạp quá, tôi không thể hiểu được.
Chàng kể thêm rất nhiều chuyện, phần lớn liên quan tới cục diện chính trị trong triều. Nhân có oan tình từ mười năm trước của gia đình Nguyệt Nương, mọi việc mới được truy xét. Bây giờ cả nhà họ Cao đã bị bêu đầu, họ Triệu bị gán tội chết, vụ Triệu Lương đệ đầu độc Tự Bảo lâm hòng hãm hại tôi cũng bị phơi bày, ả bị trục xuất khỏi Đông cung, tủi hổ mà quyên sinh… Xưa kia, nhà họ Cao ỷ vào thế lực của Hoàng hậu, sau khi Hoàng hậu bị phế bỏ, bọn chúng lại âm mưu đưa Cao Quý phi ra hòng tranh giành ngôi vị Hoàng hậu. Nhưng mưu mô nhất phải kể tới nhà họ Triệu, chúng từng góp tay giúp Hoàng hậu hãm hại mẹ ruột chàng. Hậu cung luôn là nơi chứa đựng những âm mưu, đấu đá, toan tính và lọc lừa… Chàng đã báo thù cho mẫu thân, tất cả những kẻ dính líu đến chuyện hai mươi năm về trước, chàng đều truy xét không trừ một ai. Có lẽ đây chính là chuyện khiến chàng đắc ý nhất trong cuộc đời, có lẽ là thế này chăng?
Cái gì mà Cao tể tưởng? Cái gì mà nhà họ Triệu? Cái gì mà Cố Kiếm, thậm chí còn có cả Nguyệt Nương…?
Tôi không hiểu được.
Nhất là khẩu khí của chàng khi nói về Triệu Lương đệ, dửng dưng như thể chàng đang kể về một con kiến vừa bị giẫm chết.
Người con gái từng ‘đầu ấp tay gối’ với chàng ba năm, người con gái chàng từng coi như báu vật đấy sao?
Thì ra tất cả đều là diễn kịch cả ư?
Lẽ nào một chút ân tình cũng chưa từng có ư?
Trước kia tôi rất ghét Triệu Lương đệ, nhất là khi ả vu cáo hãm hại tôi. Vậy mà giờ khắc này, tôi chỉ cảm thấy ả thật đáng thương, vô cùng đáng thương.
Trái tim Lý Thừa Ngân hẳn là được đẽo từ đá. Dẫu là con chó, con mèo, nuôi nó ba năm cũng chẳng nhẫn tâm giết bỏ, nói gì đến một con người… Tôi cứ tưởng ba năm trôi qua, mọi sự rồi sẽ biến đổi, thế nhưng kẻ duy nhất không thay đổi chính là chàng. Bất kể chàng có từng nhảy xuống sông Quên hay không, dù chàng có lãng quên tất cả hay không, chàng vĩnh viễn không thể nào quên được quyền lực, mưu tính của mình. Chàng chưa một lần ngại ngần khi lợi dụng những kẻ xung quanh, chàng không hề tiếc rẻ khi lợi dụng tình cảm, chỉ cốt sao đạt được mục đích.
Chàng vươn tay, định xoa mặt tôi.
Tôi liền nói:
- Cút đi!
Lý Thừa Ngân nói:
- Bọn họ không làm nàng bị thương đâu, họ đều là những tay cung cự phách trong Vũ lâm lang do đích thân Bùi Chiếu đôn đốc. Những mũi tên ấy bắn ra, chỉ đáp xuống quanh nàng, tuyệt đối không có mũi nào có thể bắn trúng nàng. Ta không nên đưa nàng vào tình thế nguy hiểm như vậy, thực lòng ta rất hối hận …
- Vậy A Độ thì sao?
Tôi lạnh nhạt nhìn chàng.
- Lỡ như A Độ chết cùng Cố Kiếm thì sao…
Chàng ngẩn người, nói:
- Tiểu Phong, A Độ chỉ là một đứa nô tì…
Tôi tát “bốp” vào mặt chàng. Chàng không hề né tránh, còn tôi giận run người:
- Muội ấy dùng cả tính mạng để bảo vệ ta, muội ấy theo ta lặn lội vạn dặm xa xôi từ Tây Lương tới đây… A Độ trong mắt chàng chỉ là một đứa nô tì, nhưng trong lòng ta, muội ấy chẳng khác nào chị em ruột thịt.
Tôi nhớ tới Cố Kiếm, nhớ sư phụ hy sinh thân mình cứu A Độ. Người nói với tôi rằng, người không muốn làm tôi buồn thêm nữa. Đến cả Cố Kiếm cũng hiểu, nếu A Độ ra đi, tôi sẽ đau lòng mà chết.
Lý Thừa Ngân đưa tay ra ôm tôi, nói:
- Tiểu Phong, ta yêu nàng. Ngày ta bị ốm, khư khư nắm tay nàng, đến lúc tê rần mà nàng vẫn không buông, lúc ấy ta đã tự nhủ, sao trên đời lại có cô gái ngốc đến thế, nhưng ta không ngờ, ta lại yêu cô gái ngốc nghếch ấy. Khi nàng bị thích khách bắt cóc, quả thực ta sốt ruột đến phát điên… Lúc ấy ta tự hỏi, nếu không cứu được nàng, ta phải làm sao… Xưa nay ta chưa từng sợ hãi… vậy mà lúc nàng trở về, nàng bảo rằng nàng yêu Cố Tiểu Ngũ. Ta biết Cố Tiểu Ngũ chính là Cố Kiếm, ghen tuông khiến ta suýt hóa điên. Phải, ta cố tình giết hắn, bởi hắn không những là thích khách mà còn là Cố Tiểu Ngũ. Giờ Cố Tiểu Ngũ chết rồi, là lỗi của ta, ta không nên giết hắn. Nhưng Tiểu Phong, tất cả chỉ là bất đắc dĩ mà thôi. Từ nay trở về sau, sẽ không còn ai dám hại nàng nữa, ta thề với nàng, nàng hãy tin ta lần này, được không?
Nước mắt tôi rơi ướt mu bàn tay, sao tôi lại hay khóc thế này?
Ba năm trước nhảy xuống sông Quên, lòng tôi não nùng, chỉ mong vĩnh viễn sẽ quên con người này. Cuối cùng, tôi đã thật sự quên chàng, tôi chỉ nhớ những chuyện sau khi lấy Lý Thừa Ngân mà thôi, lúc ấy chàng khôi ngô tuấn tú, chàng ôn tồn lịch thiệp… Lúc ấy tôi một lòng một dạ mong chàng thích mình, dẫu chỉ là thi thoảng chàng cười với tôi thôi cũng được.
Giờ chàng ôm tôi trong lòng, nói những lời đắm say, thế nhưng tất cả những thứ ấy không phải điều tôi ao ước.
Tôi lắc đầu, thoát khỏi vòng tay chàng:
- Sư phụ không phải Cố Tiểu Ngũ. Cố Tiểu Ngũ đã chết lâu rồi.
Chàng ngơ ngác nhìn tôi, rất lâu sau mới cất được lời:
- Ta đã nhận lỗi rồi, nàng còn muốn ta phải làm sao nữa?
Tôi thấy mệt nhoài, thật sự không muối nói gì thêm, đành ngả đầu vào cột trụ:
- Thì ra chàng thích Triệu Lương đệ như thế, chỉ vì ả mà ngày ngày chàng cãi vã với ta. Giờ đây chàng lại nói, tình cảm đó chỉ là lừa gạt… Thoạt đầu chàng qua lại mật thiết với Cao tể tướng, giờ lại bảo, lão đại nghịch bất đạo, đáng tội chết… Thoạt đầu chàng ghét cay ghét đắng ta, nằng nặc đòi bỏ ta, bây giờ lại nói yêu ta… Loại người như chàng… chàng bảo ta phải tin thế nào đây…
Lý Thừa Ngân im lặng, một lúc sau mới lên tiếng:
- Tiểu Phong, ta là Thái Tử, có rất nhiều chuyện… đó là bổn phận của ta.
Tôi bật cười:
- Phải rồi, một kẻ muốn lên ngôi hoàng đế, tránh sao khỏi nhẫn tâm và máu lạnh.
Khi đó, Cố Kiếm nói với tôi câu này, tôi hoàn toàn không bận tâm, bây giờ tôi mới hiểu.
Một khi đã xích gần đến ngôi vị hoàng đế, chàng phải ruồng rẫy chà đạp lên rất nhiều, rất nhiều những thứ tình cảm khác. Tình cảm giữa tôi và A Độ, chàng không thể hiểu được, bởi chàng không có tình cảm đó. Người như chàng nào đã tin tưởng ai, nào đã dành cho ai…
Tôi hỏi:
- Nếu một ngày nào đó, ta là mối đe dọa tới ngôi vua của chàng, giang sơn của chàng, xã tắc của chàng, liệu chàng có giết cả ta?
Lý Thừa Ngân vờ né tránh:
- Tiểu Phong, so với Hoàng cung, Đông cung là nơi nguy hiểm hơn cả, làm Thái tử còn khó hơn làm Hoàng đế… Con đường ta đi đầy gian truân, nàng không biết…
Tôi ngắt lời chàng:
- Chàng sẽ làm thế phải không? Sẽ có một ngày chàng giết cả ta?
Chàng đau đáu nhìn tôi, cuối cùng nói:
- Không bao giờ.
Tôi cười, từ tốn nói:
- Chàng sẽ làm vậy.
Tôi thủng thẳng nói từng tiếng:
- Chàng đã từng nghe đến một nơi gọi là sông Quên chưa?
Chàng ngơ ngẩn nhìn tôi.
- Nước sông Quên, đặng quên tình…
Tôi chậm rãi quay người, lại ngân nga bài ca dao quen thuộc:
“Có con cáo nhỏ bơ vơ
Ngồi trên cồn cát thẩn thơ sưởi mình.
Nào đâu cáo muốn sưởi mình
Cáo đợi cô mình cưỡi ngựa đi qua…”
Tôi biết, Cố Tiểu Ngũ trong lòng tôi đã chết thật rồi…
Lý Thừa Ngân biết Triệu Lương đệ sai người đầu độc Tự Bảo lâm, vậy mà chàng coi như không biết gì…
Người con gái từng cùng chàng ‘má ấp tay kề’, tính mệnh cũng chỉ như cỏ rác…
Rõ ràng Lý Thừa Ngân chỉ lợi dụng Triệu Lương đệ, vậy mà ngày ngày chàng vẫn có thể đằm thắm, mặn nồng với ả.
Người con gái chàng từng thề nguyện bên nhau đến đầu bạc răng long, tính mệnh cũng chỉ như cỏ rác…
Lý Thừa Ngân biết Triệu Lương đệ hãm hại tôi, vậy mà chàng vẫn tỉnh bơ. Chàng cố tình lấy tôi làm mồi nhử hòng dụ Cố Kiếm xuất hiện, rồi thừa cơ giết chết sư phụ…
Chàng sẽ không bao giờ nhảy xuống sông Quên với tôi thêm một lần nữa…
Cố Tiểu Ngũ trong trái tim tôi đã ra đi vĩnh viễn thật rồi…
|
Chương 15 Bất kể ngày đêm tôi không quản cực nhọc túc trực bên giường A Độ. Lúc vết thương chuyển biến xấu, muội ấy sốt cao gợi tôi lại nhớ đến Cố Kiếm, lần trước có Cố Kiếm cứu giúp, lần này thì chẳng còn ai.
Lúc A Độ sốt cao, tôi cũng lăn đùng ra ốm.
Hôm đó, trời mưa tầm tã, tôi bưng một chậu đá qua cầu, chẳng may trượt chân, ngã đau điếng người.
Lúc ấy ngã chỉ sứt trán chút thôi, vậy mà đến tối, tôi lại sốt cao.
Bấy giờ A Độ cũng sốt, Lý Thừa Ngân nói tại A Độ truyền bệnh cho tôi, rồi chuyển A Độ đi nơi khác. Chàng nói như thế bệnh của tôi mới khỏi được.
Là ai đã hại A Độ ra nông nỗi này?
Tôi tức đến phát điên, tay lăm lăm thanh đao của A Độ, không kẻ nào dám tiến đến gần.
Lý Thừa Ngân cũng bực tức, liền sai người kéo tôi đi bằng được.
Không biết chúng đưa A Độ đến nơi nào, tôi thì bị nhốt trong điện, chẳng còn sức mà gây gổ, tôi chỉ cần A Độ, mà không biết A Độ ở đâu.
Tôi không ăn cơm, cũng không uống thuốc, Vĩnh Nương bưng thuốc lên, tôi hất văng bát thuốc trên tay bà ấy. Tôi chỉ cần A Độ thôi, tôi không thể ở lại Đông cung này thêm một ngày nào nữa. Tôi cần A Độ, tôi muốn về Tây Lương.
Tôi mê man suốt một ngày trời, những cơn ác mộng tìm về triền miên. Tôi mơ thấy mẹ, tôi mơ thấy mình khóc rất nhiều. Tôi mơ thấy cha, cảm nhận bàn tay thô ráp của người xoa đầu mình. Cha nói:
- Con gái ơi, khổ cho con quá.
Con không khổ, con chỉ thấy kiệt quệ vì mỏi mệt, không sao vùng vẫy được nữa. Con như một con cá thiếu nước; một bông hoa đã đến độ héo tàn.
Lý Thừa Ngân và Đông cung là thứ gông cùm nặng nề nhất trên đời này, con không mang nổi.
Sau đó Vĩnh Nương khẽ lay tôi dậy, bà ấy nói:
- A Độ về rồi.
Đúng là họ đã đưa A Độ về, dù muội ấy vẫn hôn mê trên giường. Không hiểu sao Lý Thừa Ngân lại đổi ý.
Tôi xoa tay A Độ, cảm giác bàn tay muội ấy nóng ran. A Độ vẫn sốt ly bì, nhưng chỉ cần muội ấy ở đây, để tôi được chăm sóc muội ấy, thế là đủ.
Vĩnh Nương nói:
- A Độ về rồi, Thái tử phi uống thuốc đi.
Tôi tu một hơi hết sạch bát thuốc to đắng ngắt, song tôi cũng chẳng buồn ăn thêm quả hạnh ngâm cho đỡ đắng. Tôi cười tươi với Vĩnh Nương, chẳng hiểu sao mà bà ấy lại rơm rớm nước mắt.
Tôi lấy làm lạ, bèn hỏi:
- Vĩnh Nương, bà sao thế?
Vĩnh Nương không nói, chỉ thẽ thọt:
- Tóc Thái tử phi bị rối rồi, để nô tì hầu người chải tóc.
Chiếc lược sừng lướt trên tóc mang lại cảm giác khoan khoái, dễ chịu. Tay Vĩnh Nương dịu dàng và ấm áp như bàn tay mẹ. Bà ấy chải đầu cho tôi, giọng đều đều kể:
- Nhớ hồi mới tới Đông cung, Thái tử phi đổ bệnh nặng, mấy đêm liền người nóng hầm hập. Thái y không dám tùy tiện cắt thuốc, sợ nguy hiểm đến tính mạng. Nô tì túc trực bên người, lúc ấy người vẫn chưa thạo tiếng Trung Nguyên, trong mơ người nghẹn ngào gọi ‘thiện tử, thiện tử’, sau này nô tì mới biết, thì ra thiện tử trong tiếng Tây Lương có nghĩa là mẹ.
Tôi quên cả rồi, chỉ nhớ hồi chân ướt chân ráo tới Đông cung, tôi từng ốm một trận, lúc ấy nhờ Vĩnh Nương và A Độ chăm sóc mãi mới khỏi.
Vĩnh Nương nhẹ nhàng giúp tôi vấn tóc lên:
- Năm đó người mới mười lăm tuổi, thoáng chốc đã ba năm trôi qua.
Tôi ngoảnh đầu lại thì thấy bà ấy nhoẻn miệng cười:
- Người trong cung không nhớ ngày sinh của nương nương mà điện hạ cũng quên mất, hôm nay nương nương tròn mười tám tuổi.
Tôi quên khuấy mất. A Độ còn đang sống dở chết dở, tôi nào còn tâm trí nhớ tới điều này. Đáng lẽ Dịch đình lệnh phải nhớ những chuyện này, song nghe nói tình hình hậu cung cũng đang rối như canh hẹ. Từ lúc Cao Quý phi xảy ra chuyện, những kẻ còn lại chắc chẳng ai chú ý tới những việc vặt vãnh này.
Duy chỉ có Vĩnh Nương còn nhớ.
Bà ấy lấy lược dày, chăm chút chải hai bên tóc mai cho tôi:
- Từ giờ về sau, Thái tử phi đã là người lớn thật rồi, không nên buông tuồng, cẩu thả nữa.
Buông tuồng, cẩu thả?
Tôi thấy bốn tiếng ấy xa xăm lắm… Tôi của ngày xưa buông tuồng, cẩu thả dường như đã biến mất từ lâu lắm rồi. Ba năm trước, tôi đã chết giữa dòng sông Quên, mà tôi của ngày nay, chỉ trú ngụ trong cái xác của nàng ta, sống quãng đời ba năm vô tri vô giác. Tôi quên hất tất thảy, tôi quên sạch thù sâu oán nặng, tôi chung sống với kẻ thù suốt ba năm nay, cho đến khi… yêu chàng thêm lần nữa.
Có điều, chàng mãi mãi sẽ không nhớ ra tôi.
Cũng may, mong sao chàng đừng bao giờ nhớ ra.
Sức khỏe của A Độ dần hồi phục cũng là lúc mùa hè sắp qua.
Trong lúc dưỡng thương, muội ấy đã dùng tay ra hiệu, nói với tôi một số việc, ví dụ như, Cố Kiếm đã cứu muội ấy thế nào. Thì ra từ lâu lắm rồi, vì giúp A Độ trị thương mà Cố Kiếm đã hao tổn mất một nửa nội lực. Nếu không phải vậy, có lẽ sư phụ đã chẳng chết vùi giữa làn mưa tên.
A Độ cũng ngốc y như tôi vậy.
Rồi tôi chậm rãi ra dấu tay hỏi A Độ:
- Muội thích sư phụ đúng không?
A Độ không trả lời, nhưng tôi thấy một làn sương mỏng dâng đầy trong mắt muội ấy, lát sau muội ấy ngoảnh mặt trông ra hồ hoa sen ngoài cửa sổ rồi quay lại liền nhoẻn cười với tôi.
Tôi biết, muội ấy vừa khóc.
A Độ giống hệt tôi, ngay cả lúc khóc cũng cố cười.
A Độ nói tôi mới biết khá nhiều việc, ví như lần đầu tiên Lý Thừa Ngân bị đâm, lúc đó A Độ đuổi theo thích khách rồi bị gã đánh trọng thương. Tôi cứ tưởng đó là người do Hoàng hậu phái đến, cuối cùng A Độ lại phát hiện sự thật không phải như thế.
- Người của Điện hạ. – A Độ viết trên giấy. – Do Tôn Nhị cầm đầu.
Cái tên ấy khiến tôi quá đỗi kinh ngạc. Tôn Nhị? Nếu Tôn Nhị là người của Lý Thừa Ngân, vậy Hoàng hậu bị vu oan ư? Vậy ra bà ấy không sai người hành thích Lý Thừa Ngân, mà mọi chuyện đều là khổ nhục kế do chính Lý Thừa Ngân tự dàn dựng thôi sao? Lúc ở phường Minh Ngọc, cũng chính Tôn Nhị kéo đồng bọn đến bày trò vảy mực, hòng tách tôi và Lý Thừa Ngân ra khỏi Bệ hạ. Thì ra tất thảy những âm mưu này, cốt là để Lý Thừa Ngân khỏi liên can ư?
Rốt cuộc chàng đã làm gì? Rốt cuộc Lý Thừa Ngân đã làm những gì…
A Độ từ từ viết ra giấy, thuật lại từng chi tiết cho tôi nghe: Bữa đó, muội ấy canh bên ngoài phường Minh Ngọc, chợt cảm thấy có gì bất thường, liền bám theo Tôn Nhị, cốt để dò xét chân tướng sự việc. Không ngờ lại bị Tôn Nhị phát hiện, bọn tay chân dưới quyền Tôn Nhị đều là những kẻ võ công cao cường, một mình A Độ không thể đấu lại chúng. Thay vì giết A Độ, bọn chúng nhốt muội ấy vào một chỗ kín đáo. May thay, vài hôm sau Cố Kiếm đến cứu A Độ, sau đó dẫn muội ấy đến ngôi miếu hoang gặp tôi. A Độ gặng hỏi Cố Kiếm, vì sao lại đưa tôi đến trốn ở miếu hoang, bấy giờ mới hay, thì ra cả Cố Kiếm và Tôn Nhị đều do Lý Thừa Ngân sai khiến. Mà cũng chính Lý Thừa Ngân sai Cố Kiếm đến uy hiếp Bệ hạ, hòng khiến Bệ hạ tưởng có kẻ muốn ngăn cản người lật lại bản án cũ nhà họ Trần. Không ngờ tôi lại xông ra, tình nguyện làm con tin, thế là Cố Kiếm mới tương kế tựu kế toan dẫn tôi bỏ trốn.
Tôi không còn dám nghĩ, mà cũng không muốn nghĩ gì thêm nữa. Cứ nghĩ tới là cả người lại như rơi vào tiết đông rét buốt, lạnh toát, run rẩy từng hồi. Giờ đây, đối với tôi, Lý Thừa Ngân hoàn toàn là một người xa lạ, một người xa lạ đáng sợ, tôi chẳng bao giờ biết chàng đang toan tính những gì. Ba năm trước, chàng từng làm những chuyện khủng khiếp, ba năm sau chàng càng đáng sợ. Chàng giăng bẫy Cố Kiếm, phải chăng muốn giết người diệt khẩu? Rõ ràng Cố Kiếm còn là họ hàng với chàng, sư phụ từng giúp chàng làm bao nhiêu việc ác. Ngay cả A Độ mà Lý Thừa Ngân cũng không nương tay, phải chăng chàng muốn tôi không bao giờ biết được sự thật?
Tôi cảm thấy tim mình đã hóa băng, rốt cuộc, chàng đang làm gì? Lần đầu tiên trong đời, tôi thấy lòng dạ con người trên thế gian này thật nham hiểm, cõi Đông cung này thật hiểm ác, và Lý Thừa Ngân vô cùng đáng sợ.
Đáng sợ đến mức tôi phải run lên vì khiếp sợ.
|
Tôi và A Độ vẫn bị giam lỏng, nhưng giờ thì tôi phó mặc. Chốn Đông cung cô quạnh này chỉ có tôi và A Độ nương tựa lẫn nhau.
Nguyệt Nương đến thăm tôi mấy lần, tôi dặn tỷ ấy:
- Tỷ thân cô thế cô ở trong cung, nhớ phải cẩn thận.
Tình yêu của bậc đế vương, sao có thể bền lâu được? Hoàng thượng đưa tỷ ấy vào cung, cốt mượn tiếng hòng lật lại bản án cũ nhà họ Trần, chứ mỹ nhân trong cung nhiều vô kể, e là còn nhiều hơn cả Đông cung nữa. Cao Quý phi qua đời đột ngột, nghe người ta xì xào thì Cao Quý phi mất chỗ dựa, đâm bấn loạn đến nỗi nuốt vàng tự vẫn. Chuyện hậu cung truyền đến Đông cung lúc nào chẳng tức thì.
Tôi biết tình cảnh của Nguyệt Nương có phần tế nhị, đành rằng nhìn bề ngoài Hoàng thượng có vẻ hết mực ưu ái tỷ ấy, nhưng xét cho cùng thì Nguyệt Nương vẫn là gái xuất thân từ chốn thanh lâu. Giờ đây, những thế lực mới trong triều đang dần hình thành, Bệ hạ lại nạp thêm phi tử. Quần thần khuyên người nên sắc lập Hoàng hậu, song Bệ hạ còn chần chừ chưa quyết.
Nếu có Hoàng hậu mới, không biết liệu Nguyệt Nương có bị Hoàng hậu mới sinh lòng đố kị hay không? Vĩnh Nương từng kể chuyện Lan Phi đời triều trước, cũng chỉ vì xuất thân hèn kém mà bị Hoàng hậu hại chết. Thực lòng tôi không muốn Nguyệt Nương rơi vào thảm cảnh đó.
Nguyệt Nương nở nụ cười rạng rỡ, nói với tôi:
- Muội yên tâm, tỷ biết cách ứng phó mà.
Rồi Nguyệt Nương gảy cho tôi nghe một khúc nhạc.
“Thu về hái sen hồ Nam
Sen cao quá đầu
Cúi đầu bóc hạt sen
Hạt thanh tưởng nước”[1]
[1] Trích Tây Châu khúc, một bài dân ca tiêu biểu cho nghệ thuật dân ca của Nam Thiếu.
Tiếng hát Nguyệt Nương tha thiết êm đềm tựa giọt sương đọng trên lá sen long lanh. Giọng hát như một cơn gió vút qua tường cao vời vợi trong chốn thâm cung, gió lay xích đu đong đưa, bầu trời xanh gọi gió xôn xao, mây trôi lững lờ… Trên trời biếc có chú chim sải cánh bay mãi về phía tây, nó bay về Tây Lương, dẫu Tây Lương không có hồ sen đẹp như thế này, dẫu Tây Lương không có người đẹp hái sen… nhưng Tây Lương vẫn là quê hương của tôi…
Tôi nhớ những tháng ngày ở phường Minh Ngọc, dạo ấy tôi sống vui vẻ, vô tư biết mấy.
Tôi thở dài:
- Chẳng biết lúc nào tỷ mới lại hát cho muội nghe nữa nhỉ?
Nguyệt Nương nói:
- Lần sau tỷ lại đến thăm muội.
Tôi không lên tiếng, bởi lòng đã hạ quyết tâm phải về Tây Lương.
Vết thương của A Độ đã bình phục, chúng tôi có thể khởi hành được rồi.
Lý Thừa Ngân sai Bùi Chiếu chọn ra mấy người làm tùy tùng của tôi, trên danh nghĩa là bảo vệ, còn thực chất là để canh chừng. Đám người ấy canh giữ tôi không chút sơ hở, nếu tôi và A Độ cứ liều mình bỏ trốn, e là hơi khó. Thôi đành tùy cơ ứng biến vậy.
Ngày Thất tịch mùng bảy tháng bảy, đối với hoàng cung thì đây là ngày vui. Từ hơn nửa tháng trước, trong cung đã rục rịch đăng đèn, kết hoa, sắm thuyền, bày biện ngự uyển là bởi ngày mừng thọ Bệ hạ trùng với đêm Thất tịch. Bữa đó, yến được thết ở đảo Quỳnh Sơn giữa hồ Nam Uyển, lầu Đế Hoa và đình Thiên Lục trên đảo có không gian thoáng mát là nơi thích hợp để nghỉ ngơi dịp hè.
Lý Thừa Ngân nhập cung từ sáng sớm tinh mơ, tôi tới muộn hơn. Theo lệ, cứ vào dịp mừng thọ, Bệ hạ lại ban thưởng cho quần thần, nên trong điện Thừa Đức cũng thết yến. Còn tiệc ở hậu cung do Hiền phi, người mới được Bệ hạ sắc phong chủ trì, mọi việc được bố trí hết sức ổn thỏa. Tôi lên thuyền từ phía sau điện Cam Lộ, trên thuyền còn vẳng nghe có tiếng nhạc từ đôi bờ đưa về, thì ra Hiền phi đã bố trí những nghệ nhân hòa tấu sáo trúc đứng dưới bóng râm bên bờ hồ. Nước gợn sóng nhạc, phiêu bồng tựa cõi tiên.
Mặt trời ngả núi cũng là lúc yến tiệc chính thức bắt đầu, hồ Nam Uyển rợp bông trắng lá xanh, lớp lớp bông sen tinh khôi gối đầu lên nhau, chỉ là sen không có mùi hương. Hiền Phi sai người thả đèn hoa sen có kèm bánh thơm xuống hồ, bánh thơm cách ánh nến qua lớp đĩa đồng, hơi nóng dậy hương nồng nàn, hương theo gió bay xa, ngay cả cung tần, mỹ nữ hậu cung cũng không sánh được. Trên đình hóng mát ven hồ, bộ Nhạc dàn dựng khúc Lăng Ba[2], cung nữ xập xòe váy áo xanh biếc như những nàng tiên lá sen đang dập dìu trong điệu Lăng Ba. Ánh nến trên đình lung linh chảy tràn xuống sông nước dập dờn, hắt lên thứ ánh sáng lấp lánh tựa ngàn sao.
[2] Một vũ khúc nổi tiếng ở thời Đường.
Bệ hạ rất hài lòng với cách bài trí ở nơi đây, người khen Hiền phi linh hoạt, tinh tế, nhất là tiết mục đèn sen tỏa hương. Hiền phi mỉm cười thưa rằng:
- Chỉ tiếc đây không phải ý tưởng của thần thiếp, chuyện là thần thiếp hay cảm khái, hoa sen rất đẹp, chỉ tiếc là không có hương. Cung nữ A Mãn theo hầu thần thiếp vốn thông minh, nhanh nhạy, liền nghĩ cách, sai người làm loại đèn hoa sen này. Được Bệ hạ khen ngợi, âu cũng là phúc của A Mãn, thần thiếp xin được gọi A Mãn đến tạ ơn Bệ hạ.
Cô cung nữ tên A Mãn kia chỉ khoảng mười sáu, mười bảy tuổi, lúc ấy, cô ta khoan thai bước đến, uyển chuyển hành lễ với Bệ hạ. Khi cô nàng ngước nhìn lên khiến nhiều người không khỏi giật mình, cô A Mãn này xem ra còn thanh thoát, yêu kiều hơn cả Nguyệt Nương. Ai nấy đều nghĩ, cô nàng đẹp tựa búp sen. Bấy giờ Bệ hạ cũng sững sờ, chắc bởi vẻ mỹ miều của cô cung nữ. Sau đó, người thưởng cho A Mãn một đôi bình ngọc, một tráp trầm hương. Tôi cứ nghĩ Bệ hạ sẽ nạp A Mãn làm phi tử, không ngờ Bệ hạ lại hỏi Lý Thừa Ngân:
- Ngân Nhi, con thấy cung nữ này thế nào?
Lý Thừa Ngân ngồi đối diện tôi, trông chàng có vẻ uể oải, từ đầu đến giờ chưa hề lên tiếng. Nghe Bệ hạ nhắc tên mình, chàng mới đảo mắt nhìn lướt qua A Mãn rồi thưa một câu nhạt nhẽo:
- Cũng đẹp ạ.
Bệ Hạ nói:
- Bên con thiếu người hầu hạ, chi bằng gọi A Mãn đến Đông cung, ta sẽ sai Dịch đình lệnh chọn người khác giữ chức nữ quan bên chỗ Hiền Phi.
Lý Thừa Ngân thưa:
- Nhi thần đội ơn thiện chí của phụ hoàng, có điều nhi thần không thiếu người hầu hạ.
Thấy tôi nhấp nhổm, Bệ hạ liền hỏi:
- Thái tử phi có gì muốn nói?
Tôi bẩm:
- Bẩm phụ hoàng, điện hạ tính hay e thẹn, người ngượng không dám nhận. A Mãn xinh đẹp như vậy, điện hạ không cần, vậy kính xin phụ hoàng ban A Mãn cho con.
Bệ hạ cười khà khà, rồi chuẩn y.
Tôi biết Lý Thừa Ngân đang trừng trộ với mình, song tôi xem như không biết. Hiền phi dường như rất vui, ngay lập tức đã sai A Mãn đến hầu bên bàn tôi. Đêm khuya, tiệc tàn, lúc xuất cung, Hiền phi còn chuẩn bị xe ngựa chu đáo đưa tiễn A Mãn theo sau xe tôi.
Tiệc tùng trong cung khiến tôi mệt lử, nhất là phải đội trên đầu cả một bộ trâm cài nặng trịch. Xe chạy tròng trành lắc lư, như sắp gãy cổ đến nơi, tôi bèn gỡ bộ trâm cài đầu phiền phức xuống, rồi buông tiếng thở dài, thầm ước ao cuộc sống như thế này sẽ sớm chấm dứt.
Mãi xe mới dừng, rèm hé mở, thái giám soi đèn lồng đứng bên ngoài, kê ghế cho tôi bước xuống. Tôi vừa cúi người, Lý Thừa Ngân đã nhảy phắt xuống ngựa, hằm hằm lao về phía tôi, vung chân đá ghế chiếc. Đám thái giám giật thót mình, lùi về phía sau, quỳ sụp xuống.
Tôi không khỏi tò mò hỏi:
- Chàng làm trò gì thế?
Chàng vươn tay, lôi tôi từ trong xe ra ngoài như diều hâu quắp gà con.
A Độ định xông lên cứu tôi nhưng bị Bùi Chiếu chặn lại. Lý Thừa Ngân xốc tôi lên vai, còn tôi thì mắng chửi chàng như tát nước. Bấy giờ A Độ đã đụng tay đụng chân với Bùi Chiếu, thân thủ của Bùi Chiếu rất cao siêu, nhất thời A Độ chưa thể dứt ra ngay được. Tôi vùng vằng mắng chửi cắn cấu Lý Thừa Ngân, rồi nhéo cật lực vào eo chàng. Ngọc trắng khảm trên thắt lưng rụng không sót chiếc nào, song chàng vẫn vác tôi lao thẳng vào điện Lệ Chính.
Phịch!
Đầu tôi đập vào chiếc gối sứ, đau điếng người! Lý Thừa Ngân quẳng tôi lên giường như quẳng một bao gạo. Tôi chồm dậy, chàng đưa tay đẩy tôi ngã xuống giường. Mấy tháng chưa đánh nhau, quả nhiên chân tay bớt linh hoạt đi ít nhiều. Hai chúng tôi chỉ còn thiếu đập cả tòa điện này nữa. Nội thị đứng ngoài cửa thụt thò ngó ra ngó vào, bị Lý Thừa Ngân quẳng bình hoa suýt trúng người, gã sợ hãi, vội rụt lại, không quên cài then cửa. Quần nhau một trận làm tôi thở không ra hơi, cuối cùng tôi mệt lử, nằm im, chẳng buồn nhúc nhích. Tôi không còn vùng vằng nữa, Lý Thừa Ngân cũng ôn tồn hơn.
Chàng ôm tôi từ phía sau, hình như chàng rất thích ôm tôi như thế này. Tôi gối đầu lên cánh tay chàng, có cảm giác cồm cộm.
Hẳn chàng cũng mệt lắm rồi, hơi thở phả vào gáy tôi tê tê. Chàng thì thầm điều gì đó, đại khái đang dỗ ngon dỗ ngọt hòng lừa tôi.
Tôi không hé môi nói nửa lời.
Một lúc lâu sau không thấy chàng nói gì, tôi mới lén ngoái lại nhìn, thì ra chàng đã ngủ rồi.
Tôi giơ tay ấn mi mắt chàng, chàng ngủ say, nằm bất động, không nhúc nhích.
Tôi rón rén bò dậy, trước tiên mặc áo váy tử tế, sau đó mở cửa sổ. A Độ lẳng lặng tiến vào, đưa tôi một chiếc kéo.
Tôi ngồi dưới đèn, bắt đầu cắt tỉa móng tay cho kỹ càng.
Tôi thận trọng tránh để hơi thở của mình thổi bạt đống bột trắng dính dưới móng tay.
Loại thuốc mê của Đại Thực này quả nhiên hiệu nghiệm, tôi chỉ cào xước cánh tay Lý Thừa Ngân có một chút mà giờ chàng đã lăn ra ngủ.
Cắt móng tay xong xuôi, tôi rửa tay sạch sẽ, kiểm tra thuốc mê không bị sót lại rồi mới thay bộ quần áo màu đen.
A Độ đưa đao cho tôi. Thấy Lý Thừa Ngân đang say ngủ, tôi chỉ muốn kề đao vào cổ chàng, cứa nhẹ một cái và tất cả thù hận sẽ tan thành mây khói.
Chàng ngủ không yên giấc, tuy ngấm thuốc mê, song chân mày vẫn hơi cau lại, mí mắt giật giật, dường như đang mơ. Tôi kề nhẹ lưỡi đao sắc bén, lạnh ngắt vào cổ chàng, chàng không hề hay biết, chỉ cần tôi hơi dùng sức một chút thôi, cổ họng chàng sẽ bị cứa rách.
Khóe môi chàng khẽ giật, hình như chàng đang mơ một giấc mơ đau khổ đến tột cùng. Tôi xích thanh đao từng chút, từng chút lại gần chàng, lưỡi đao cứa trên da thịt, rướm một tia máu mảnh như sợi chỉ, chỉ cần mạnh tay một chút nữa thôi… Dường như trong mơ chàng cũng cảm nhận được cơn đau này, cơ mặt bắt đầu giần giật, ngón tay khẽ run lên như muốn chụp nắm thứ gì. Có lẽ chàng đang kêu la, gào thét, nhưng những tiếng phát ra chỉ khe khẽ, đến mức tôi gần như chẳng nghe rõ.
Tay tôi khẽ run lên, thanh đao tuột khỏi tay đáp xuống sàn gạch đánh “keng”. A Độ tưởng Lý Thừa Ngân đã tỉnh, liền hớt hải xông đến. Còn tôi thì hai tay bưng mặt.
Cuối cùng tôi đã nhớ ra, nhớ khi rơi xuống sông Quên, chàng theo tôi nhảy xuống. Chàng đã ôm tôi vào lòng. Gió đưa chúng tôi lao xuống mỗi lúc một nhanh…. Chàng ôm tôi giữa vòng gió xoáy… Nhiều lần toan chụp mỏm đá, nhưng chúng tôi rơi quá nhanh, đá vụn lả tả rơi cùng tôi và chàng, như làn mưa sa…. Giống buổi tối nọ ở ven sông, vô vàn đom đóm cất cánh vút bay từ ống tay áo, dường như có cơn mưa sao rực rỡ, soi tỏ khuôn mặt chàng và tôi… Giữa đất trời bao la, đôi mắt chàng vẫn đắm đuối nhìn vào mắt tôi…
Biết bao lần cảnh ấy lặp lại trong mơ, giấc mơ nối tiếp giấc mơ, song chẳng bao giờ ngờ, người đó lại là chàng.
Đến khi nhớ lại chuyện ba năm trước, tôi vẫn không thể nào nhớ ra, tiếng gió vờn bên tai cùng lời chàng nói.
Thì ra chỉ một câu này: “Ta và nàng cùng quên.”
Nước sông Quên xanh biếc, lạnh buốt ùa đến bủa giăng chúng tôi. Tôi thoi thóp thở giữa dòng chảy, xộc vào miệng là làn nước giá lạnh. Chàng nhảy xuống túm lấy tôi, chỉ để nói với tôi một câu như thế.
“Ta và nàng cùng quên.”
Tất thảy những khó khăn, gian nguy, thì ra chàng cũng biết, chàng cũng thấy mình có lỗi với tôi.
Trên bờ vực con sông Quên, chàng đã không chút do dự nhảy xuống theo tôi, thực ra chàng cũng như tôi, muốn quên đi tất cả.
Chàng cũng hiểu, Cố Tiểu Ngũ đã chết rồi, chúng tôi đã chết dưới đáy sông Quên.
Chúng tôi như cô hồn dã quỷ, chúng tôi chưa từng sống lại. Tôi bám víu lấy ba năm quên lãng, sống tạm bợ qua ngày, còn chàng, chàng gạt phăng tất cả quá khứ chỉ bằng ba năm quên lãng.
Trên thế gian này, ai gian truân hơn ai?
Trên thế gian này, lãng quên luôn hạnh phúc hơn khắc ghi.
A Độ nhặt thanh đao lên, chuyển đến tay tôi.
Vậy mà tôi không đủ dũng khí để giết chàng.
|
Tôi ngắm nhìn khuôn mặt ấy, dù trong mơ mà chàng cũng lộ rõ vẻ đau đớn. Tiểu hoàng tử mà chàng từng kể đã sống đáng thương như thế nào, cho đến ngày hôm nay, chàng vẫn mang vẻ đáng thương ấy. Giữa chốn Đông cung này chẳng có lấy một người thân, chàng vẫn cô đơn, lẻ loi tồn tại giữa cõi đời này, cô đơn, lẻ loi tiến đến ngôi vị Hoàng đế. Tất cả những yêu thương, những tình nồng, những cảm thông và trân trọng, chàng đều bỏ lại trên con đường phải đi. Biết đâu, quên lãng đối với chàng lại là sự trừng phạt hữu ích hơn cả, chàng vĩnh viễn không bao giờ biết, tôi từng yêu chàng biết bao.
Tôi kéo A Độ bỏ trốn.
Thoạt đầu, Lý Thừa Ngân để Bùi Chiếu bố trí hơn mười cao thủ theo sát tôi, nhưng vì tối nay tôi và Lý Thừa Ngân gây gổ, tình hình có vẻ căng thẳng, đám người đó biết điều lánh đi. Tôi và A Độ thuận lợi ra khỏi điện Lệ Chính.
Đối với tôi, lẻn ra khỏi Đông cung chỉ là chuyện cơm bữa, huống hồ lần này, chúng tôi đã lên kế hoạch từ rất lâu. Không những thuộc lòng lịch tuần tra của Vũ lâm quân, mà còn nhân lúc tháng sáu trời nóng nực, nội thị trong Đông cung thường luân phiên đổi ca, lúc ấy chúng tôi sẽ mở một cánh cửa phụ để lách ra ngoài. Tôi và A Độ lẩn tránh suốt dọc đường, men theo bờ tường, luồn lách qua mấy lối rẽ, lúc sắp đến cánh cửa nhỏ kia, bỗng A Độ kéo giật tôi lại.
Tôi thấy Vĩnh Nương đứng ở đó, trên tay cầm đèn lồng, thỉnh thoảng bà ấy lại đảo mắt nhìn xung quanh, như đang chờ ai đó.
Tôi và A Độ núp sau một khóm trúc xanh, một hồi lâu sau mà Vĩnh Nương vẫn còn đứng đó.
Tôi kéo tay áo A Độ, A Độ hiểu ý, liền từ từ tuốt đao, rón chân tiến lại gần Vĩnh Nương.
Vĩnh Nương chợt buông tiếng thở dài rồi chống đầu gối ngồi xuống.
A Độ quay sống đao, điểm huyệt Vĩnh Nương, cả cơ thể bà ấy tức khắc trở nên cứng đờ, không còn động đậy được nữa.
Tôi vươn tay, ôm cơ thể cứng ngắc của Vĩnh Nương vào lòng, thì thầm:
- Vĩnh Nương ơi, ta đi đây, ta sẽ nhớ bà lắm.
Ở Đông cung này, chỉ có mình Vĩnh Nương với A Độ là hết mực quan tâm tới tôi.
Khóe môi Vĩnh Nương hơi nhích lên, huyệt câm cũng bị điểm, bà ấy không tài nào thốt ra tiếng. Tôi siết chặt vòng tay, mới nhận ra trước ngực bà ấy phồng lên, cồm cộm chọc vào người hơi đau. Không biết là thứ gì, tôi liền rút ra xem, hóa ra là một bọc vàng. Vĩnh Nương vẫn chăm chăm nhìn tôi, mắt rơm rớm. Tôi thấy mũi mình cay xè, chợt hiểu, thì ra bà ấy đang đợi mình.
Bà ấy cũng chuẩn bị cho tôi bọc vàng này.
Tôi không biết nên nói gì. Trước kia bà ấy luôn ép tôi đọc sách, ép tôi học phép tắc, ép tôi làm cái này làm cái nọ, ép tôi lấy lòng Lý Thừa Ngân…
Cho nên lúc vạch kế hoạch chạy trốn, tôi đã đề cao cảnh giác với bà ấy.
Không ngờ bà ấy đã sớm nhận ra, nhưng không hề bẩm báo với Lý Thừa Ngân. Nếu bà ấy bẩm báo Lý Thừa Ngân thật, chúng tôi sẽ mãi mãi chẳng bao giờ trốn thoát.
Ở Đông cung này, thì ra cũng có người tử tế, thật lòng với tôi.
A Độ kéo tay áo tôi, tôi biết càng nấn ná càng dễ bị người ta phát hiện. Tôi nén dòng nước mắt, ôm Vĩnh Nương thật chặt, rồi kéo A Độ, lẳng lặng đi qua cánh cửa phụ.
Cánh cửa này vốn dành cho người hầu, đằng sau cánh cửa có một con hẻm nhỏ. Chúng tôi đi qua hẻm, luồn lách qua nhà dân, tạt ngang con phố chợ Đông, đi mãi tới khi tờ mờ sáng, mới chui tọt vào quán rượu của Mễ La.
Mễ La đang đợi chúng tôi. Tỷ ấy thì thầm:
- Cổng thành phía Tây thế nào cũng bị kiểm tra gắt gao, chỉ e không dễ ra khỏi thành. Hôm nay có một đội buôn nhân sâm người Cao Ly đang chuẩn bị lên đường rời thành, đáng lẽ bọn họ đi về hướng đông bắc, nhưng tỷ đưa tiền cho tay dẫn đoàn rồi, hai muội sẽ theo họ rời thành. Thân hình đám người Cao Ly ấy thấp bé, còi cọc, bọn muội đứng chen ở giữa cũng không khiến người khác nghi ngờ đâu.
Mễ La đã chuẩn bị sẵn cho chúng tôi y phục của người Cao Ly, thậm chí có cả mũ và râu giả. Chúng tôi rục rịch hóa trang, thay quần áo, dán râu, sau cùng đội mũ theo kiểu Cao Ly. Lúc soi gương đồng, quả nhiên giống hệt hai gã dân buôn Cao Ly nhỏ thó.
Trời hửng sáng, trên phố dần đông người qua lại, quán trọ cũng dậy tiếng ồn ào, cửa hàng bên cạnh gỡ ván lát, bà chủ bên đó đang rửa mặt, ông chủ phốp pháp ngáp dài một cái, nói đãi bôi với Mễ La. Đám người Cao Ly vừa xuống lầu, họ nói bằng chất giọng Cao Ly vừa nhanh vừa xoắn xít. Kể từ lúc đại tướng quân Bùi Huống bình định Cao Ly, vấn đề thông thương giữa Trung Nguyên và Cao Ly càng trở nên nhộn nhịp, chung quy dân buôn thường hám lợi, bao nhiêu của ngon vật lạ ở Trung Nguyên đã trở thành thứ thường ngày không thể thiếu đối với người Cao Ly.
Chúng tôi cùng đám thương nhân người Cao Ly lấy bánh ăn sáng, sau đó thu vén hành trang chuẩn bị lên đường. Đội buôn này có khoảng trăm con ngựa thồ nhân sâm và dược liệu từ Cao Ly đến, sau đó lại mua tơ tằm và lá chè ở Trung Nguyên để trở về Cao Ly. Ngựa cột trong sân chờ chất hàng, hòm xiểng lần lượt được bốc lên lưng ngựa. Đàn ngựa thắt chuông đồng ở cổ rung leng keng chen lẫn thứ tiếng Cao Ly nói như cãi nhau, ồn ào, om sòm.
Tôi và A Độ mỗi người một ngựa, trà trộn vào đoàn người, theo bọn họ rời thành. Lính canh cổng kiểm soát vô cùng gắt gao, có người kể với chúng tôi rằng một tên tội phạm vừa trốn khỏi thiên lao nên chín cổng thành phải tăng cường kiểm tra, gắt gao nhất chính là cổng thành phía Tây. Nghe nói quân lính sẽ kiểm tra, rà soát tất cả những ai ra khỏi thành tây vào ngày hôm nay, chỉ cần có vẻ khả nghi là lập tức bắt giữ, rồi đưa về nha môn. Tôi và A Độ nơm nớp lo sợ, những tội phạm bỏ trốn mà họ nói kia, rất có thể chính là tôi và A Độ.
Ai ai cũng bị vặn hỏi nên những người xếp hàng đợi mỗi lúc một đông trước cổng thành. Tôi sốt ruột chờ đợi, bao lâu sau mới đến lượt chúng tôi. Tay hiệu úy[3] giữ thành kiểm tra giấy tờ thông hành thật cẩn thận, sau khi đếm số người, gã chau mày hỏi:
[3] Một chức quan võ thời xưa.
- Sao lại thừa ra hai người?
Gã người Cao Ly dẫn đoàn khoa chân múa tay một hồi, bập bõm vài câu tiếng Trung Nguyên mới giải thích cho lính gác cổng hiểu. Chuyện là bọn họ gặp hai người đồng hương ở Thượng Kinh, trước lúc đánh nhau đã cư ngụ ở Thượng Kinh, giờ nghe nói chiến sự ổn định rồi, muốn trở về cố hương.
Gã đó bảo:
- Không được, trên giấy thông hành ghi mười bốn người là mười bốn người, không được phép thừa ra dù chỉ một người.
Đột nhiên tôi tinh ý, trỏ vào tôi và A Độ, bắt chước chất giọng Trung Nguyên trọ trẹ của dân Cao Ly, nói:
- Hai húng ôi ở nại, cho các chậu đi (Hai chúng tôi ở lại, cho các cậu đi).
Gã hiệu úy dò xét chúng tôi một lúc, ngẫm ngợi, đoạn trả giấy thông hành cho trưởng đoàn, sau đó trỏ vào hai người Cao Ly đứng sau tôi, nói:
- Hai người này ở lại. Những người khác có thể đi.
Gã trưởng đoàn người Cao Ly khua chân múa tay, rối rít van nài lính gác thành, nói nếu đi thì cả đoàn phải cùng đi. Tôi cũng xin hộ mấy câu, chúng tôi nhao nhao nói thứ tiếng Trung Nguyên ngọng líu ngọng lô, khiến gã gác cổng bực bội nói:
- Có đi không nào, hay ở lại cả lũ với nhau?
Nhưng chúng tôi nào có chịu buông xuôi, cả nhóm vây quanh lính gác cổng, đua nhau nói. Bấy giờ, hàng người xếp phía sau càng lúc càng dài, nhiều người sốt ruột nhao nhao la ó. Trước đây, triều đình và Cao Ly từng xung đột trong nhiều năm, người Trung Nguyên vốn đã có thành kiến với Cao Ly, nay càng thêm phần khinh miệt, họ chê người Cao Ly bát nháo không có phép tắc.
Đám dân buôn Cao Ly tức tím tái mặt mày, chực lao vào đánh nhau. Tay hiệu úy thấy tình hình căng thẳng, sợ lớn chuyện, lại thêm phần lo đám người đứng ở cổng càng lúc càng đông, gã vội khoát tay:
- Hai đứa Cao Ly ta vừa điểm mặt không được phép rời thành, còn lại, mau đuổi những kẻ khác ra ngoài!
Cả đám người lẫn đàn ngựa thồ bị đuổi khỏi cổng thành, hai gã thương nhân người Cao Ly kia đành chịu nán lại trong thành. Trong lòng tôi áy náy vô cùng, gã trưởng đoàn lén giật tay áo, đoạn chìa tay với tôi.
Tôi chưa kịp hiểu ý, gã đã vân vê chòm râu, cười nói bằng thứ tiếng Trung Nguyên ngọng líu ngọng lô:
- Ưa chiền đây! (Đưa tiền đây!)
Tôi sửng sốt:
- Mễ La chẳng đưa tiền cho ông rồi còn gì?
Gã trưởng đoàn người Cao Ly cười giảo hoạt:
- Hai người, ong ành, chêm chiền! (Hai người ở trong thành, thêm tiền.)
Tôi nhớ hai gã cùng đoàn bị giữ lại trong thành, liền bảo A Độ đưa cho gã một thỏi vàng.
Kể từ lúc đó, tôi thấy hối hận vì sự hào phóng của mình.
Mắt gã Cao Ly như phát sáng khi thấy thỏi vàng. Suốt đường đi, gã luôn kiếm cớ vòi vĩnh, nào là ăn cơm bọn tôi trả tiền, rồi thì ở trọ bọn tôi cũng phải móc hầu bao, suốt cả ngày, hễ mở miệng là lại thét giá. Tuy tôi chậm hiểu nhưng ba năm nay, hầu như ngày nào tôi cũng long nhong dạo khắp các phố phường Thượng Kinh với A Độ, tôi thừa biết giá cả thế nào. Bình thường, chỉ cần hai lá vàng là có thể mua một căn nhà rồi, đằng này bọn Cao Ly kia ăn mỗi bữa cơm thôi mà cũng đòi tôi một lá vàng, chúng vòi vĩnh chẳng khác nào coi tôi là kẻ tiêu tiền như nước. Tôi thầm nhủ, đằng nào cũng là tiền của Lý Thừa Ngân, tôi vung tay một chút cũng không xót ruột. Huồng hồ, bạn chúng còn đang bị giữ chân trong thành, thôi thì để chúng ăn chặn một chút cũng chẳng đáng bao nhiêu, tôi đành giả vờ mình mù mờ giá cả. Tuy lũ Cao Ly ấy tham lam vô độ, nhưng sống cũng cơ cực lắm, hàng ngày trời chưa sáng rõ đã phải thức dậy, rồi đến tối muộn mới được nghỉ chân. Ngày nào cũng rong ruổi suốt tám, chín khắc, ba năm rồi, bây giờ tôi mới có dịp ngồi lâu trên lưng ngựa đến thế. Ngựa lắc lư khiến xương cốt đau ê ẩm, tối đến vừa dừng chân trong quán trọ, đầu chạm gối là tôi ngủ ngay tức thì.
Đêm nay, tôi đang ngủ ngon thì A Độ chợt lay tôi dậy. Muội ấy lăm lăm thanh đao trên tay, trong bóng tối, hai mắt mở to. Tôi cuồng cuồng bật dậy, thì thào hỏi:
- Người của Lý Thừa Ngân tìm đến à?
A Độ lắc đầu. Cũng chẳng rõ muội ấy không biết, hay không đoán ra.
Chúng tôi nín lặng chờ đợi trong bóng tối, bỗng một tiếng “xẹt” vang lên, nếu không tinh ý, chắc cũng chẳng nghe thấy. Rồi một đoạn ống trúc nhỏ xíu chọc qua giấy dán cửa sổ, thò vào. A Độ và tôi đưa mắt nhìn nhau, đầu ống trúc chợt phun khói trắng, tôi vừa hít đã cảm giác chân tay bủn rủn, thì ra thứ khói trắng ấy là thuốc mê. A Độ xông lên, dùng ngón tay cái bịt đầu ống trúc, giữ chặt một đằng rồi bất ngờ đẩy mạnh.
Ngoài kia khẽ vang lên tiếng rên rỉ rồi “rầm” một tiếng, dường như có thứ gì đó nặng lắm vừa chạm đất. Đầu óc tôi choáng váng, A Độ mở cửa sổ, gió mát lạnh ùa vào giúp tôi tỉnh táo hơn. A Độ lấy nước cho tôi uống, lúc bấy giờ mới đỡ ngấm thuốc. A Độ mở cửa phòng, hóa ra là gã trưởng đoàn người Cao Ly đang nằm sóng soài ngoài hành lang. Gã bị ống trúc chứa thuốc mê chọc đúng huyệt đạo, miệng há hốc, ngồi bất động. A Độ cầm đao kề vào gáy gã, rồi quay sang nhìn tôi.
Tôi chỉ sợ bên trong có ẩn tình, liền nói với A Độ:
- Kéo hắn vào đây, tra hỏi trước đã.
A Độ lôi gã vào rồi đóng chặt cửa. Tôi đá cho gã một cú, hỏi:
- Ngươi là ai?
Gã vẫn tỏ ra bướng bỉnh:
- Ngươi muốn giết thì giết đi, đại trượng phu hành tẩu khắp giang hồ, đã sẩy tay, hà tất phải hỏi.
- Thì ra loại người đánh thuốc mê người khác, thủ đoạn hèn hạ như thế mà cũng được gọi là đại trượng phu hả?
Mặt gã trâng tráo, không biết thẹn là gì, gã hắng giọng nói:
- Vì lợi ích quyết không từ thủ đoạn!
Tôi nói:
- Giờ thì ngươi lỗ rồi nhé!
Gã còn định nói gì thêm nhưng A Độ đã rạch nhẹ một nhát lên đùi gã, máu tuôn xối xả. Gã kêu rống lên như lợn bị cắt tiết, hỏi gì cũng nói bằng hết. Thì ra thấy tôi hào phóng, gã Cao Ly này thèm thuồng nên nảy sinh ý đồ giết người cướp của. Gã định đánh thuốc mê tôi và A Độ, không ngờ vừa thổi được ít khói đã bị A Độ chọc ngược lại, điểm trúng huyệt đạo.
- Hóa ra là phường đạo tặc giả dạng thương nhân! – Tôi giơ chân đạp gã. – Nói mau! Rốt cuộc ngươi hại bao nhiêu người rồi hả?
Nước mắt giàn giụa, gã liên tục xin tha mạng. Gã nói gã đích thực là dân buôn, chẳng qua nhất thời nổi lòng tham, nên mới trót dại làm liều, chứ xưa nay chưa từng hại ai, nhà còn có mẹ già bảy mươi tuổi và đứa con nhỏ mới lên ba.
Phải chăng người đời ai cũng tham lam vô độ như gã? Gã Cao Ly này hám tiền tài, quan viên hám chức tước, còn Hoàng đế lúc nào cũng muốn mở mang lãnh thổ, vậy nên chiến tranh mới triền miên…
Xưa nay, chưa có ai được thỏa mãn.
Tôi sực nhớ tới Lý Thừa Ngân, từ khi chàng còn là tiểu hoàng tử, cũng phải lần từng bước mới tới được ngày hôm nay. Phụ hoàng lấy ngôi vua để cám dỗ chàng, vậy nên chàng cứ bước dần cho đến ngày hôm nay.
Mà tôi, tôi chỉ cần một người cùng tôi chăn cừu, thả ngựa trên mảnh đất Tây Lương. Ham muốn của tôi chỉ đơn sơ, giản dị vậy thôi, song cũng khó mà đạt được.
A Độ gõ nhẹ chuôi đao vào đầu gã, đầu gã vẹo sang một bên rồi lăn đùng ra ngất xỉu. Tôi và A Độ bịt miệng gã, trói dưới gầm bàn… A Độ ra hiệu hỏi tôi có nên trừ khử gã không, tôi lắc đầu:
- Gã không dám báo quan đâu, nói gì thì nói, tại gã có ý đồ giết người cướp của trước. Cứ trói gã ở đây đã, chúng ta không thể tiếp tục chung đường với gã được nữa, cũng đúng lúc phải rẽ về phía Tây.
Trời còn chưa sáng rõ, chúng tôi đã nhanh chóng rời quán trọ, tránh để lộ tung tích. Đi được một lúc, mặt trời mới mọc. Đến chiều, chúng tôi tạt vào chợ bán ngựa và đổi sang một cỗ xe bò. Tôi và A Độ cải trang thành nông dân và phụ nữ nông thôn, thong dong tiến về hướng tây.
Tất nhiên vẫn có binh mã đuổi theo, nhiều lúc bị cả đội quân từ phía sau bắt kịp, nhưng chúng trông chiếc xe bò tồi tàn của chúng tôi, liền phóng đi mất hút, không thèm liếc lấy một cái. Cứ qua một thành trì, tình hình kiểm soát lại càng thêm gắt gao, nhưng mấy lần tôi và A Độ không vào thành mà đi vòng qua đường làng. Cuộc hành trình đương nhiên nhiều cơ cực, cũng chẳng rõ đã đi được bao lâu, mãi mới đến được Ngọc Môn Quan.
Trước mắt là cửa ải hiểm yếu canh giữ giữa núi, lúc ấy tôi thấy phấn chấn hẳn lên.
|