Đông Cung (Phỉ Ngã Tư Tồn)
|
|
Tôi không biết mình đang nói gì nữa, tôi mắng ra rả, tôi mắng cả Trung Nguyên là một lũ bịp bợm… Nhưng thực ra, trong lòng tôi hiểu rằng, tôi chỉ hận một mình Cố Tiểu Ngũ. Sao hắn lại đối xử với tôi như vậy? Tôi chưa từng căm ghét ai đến vậy. Thà Cố Tiểu Ngũ cứ giết tôi đi, thà sư phụ đừng cứu tôi… biết đâu tôi đã sớm chết… Tôi chửi mắng đến mệt lử. Tôi nhìn Cố Kiếm, giọng mỉa mai:
- Lần này ngươi cứu ta, ngươi định làm gì ta nữa… để sau này gặp Hoàng đế Trung Nguyên lĩnh thưởng?
Sư phụ nhìn tôi, một lúc lâu sau mới lên tiếng:
- Tiểu Phong, đúng là ta cố tình quen biết muội, trước kia ta luôn lừa muội, thế nhưng… thế nhưng lần nào ta cũng buồn bã khôn cùng. Muội vẫn chỉ là một đứa trẻ, dù ta nói thế nào, muội cũng tin. Càng lừa muội, ta càng thêm áy náy. Lúc gửi bồ câu đưa thư cho Lý Thừa Ngân, ta mong hắn đừng bao giờ đến… Muội ngồi đợi trên cồn cát, còn ta đứng cách đó không xa đợi cùng muội, đợi ba ngày ba đêm… Trăng đêm ấy đổ tràn xuống khuôn mặt muội, khuôn mặt muội lúc đó giống hệt con cáo nhỏ trong bài hát…
Giọng sư phụ thấp dần:
- Ta biết mình mê muội… Rõ ràng muội chỉ là một đứa trẻ… nhưng khi đó, thật tình ta chỉ mong Lý Thừa Ngân vĩnh viễn đừng xuất hiện, rồi ta còn muốn đưa muội bỏ trốn… dẫn muội đến một nơi nào đó thật xa Tây Lương… Nhưng sau đó, hắn vẫn xuất hiện và mọi việc diễn ra theo kế hoạch, buộc lòng ta phải lánh mặt muội… Ta không biết nữa… Ta vẫn ôm một tia hy vọng nhỏ nhoi, chỉ cầu mong muội đừng thích hắn… Thế nhưng… lúc Lý Thừa Ngân đòi đi giết vua sói, ta đã hiểu, sự tình không còn đường lui nữa rồi. Chính ta đã giúp hắn giết con sói dữ kia, sói cắn vào chân hắn, ta đã hỏi: “Sao Điện hạ phải làm vậy?” Thực ra trong lòng ta đã khinh bỉ chính mình hơn bao giờ hết, sao ta phải làm tất cả những chuyện này… Ta biết hắn giết vua sói để đi gặp muội. Ta đã giúp hắn, chính ta đã đẩy muội vào lòng hắn…
Tôi không hiểu sư phụ đang nói gì, sắc mặt sư phụ buồn bã, sau cùng chỉ nói:
- Tiểu Phong, ta có lỗi với muội.
Tôi lặng thinh không đáp, trên đời này không ai có lỗi với tôi cả, mà là tôi có lỗi với tất cả.
Tôi có lỗi với ông ngoại, tôi cõng rắn cắn gà nhà, vì tôi nên ông ngoại mới tin tưởng Cố Tiểu Ngũ, khiến Đột Quyết diệt vong…
Tôi có lỗi với Hách Thất, nếu không vì tôi, chắc huynh ấy đã không phải bỏ mạng…
Tôi có lỗi với A Độ, nếu không vì tôi, muội ấy đã chẳng bị tổn thương…
Tôi có lỗi với toàn thể nhân dân Đột Quyết, những người họ hàng của tôi, chính tôi vô tình khiến họ bị thảm sát…
Trên đời này, chẳng ai có lỗi với tôi cả, trừ Cố Tiểu Ngũ…
Nhưng không sao, rồi tôi sẽ giết hắn, tôi sẽ tìm cơ hội giết hắn.
Tôi ngước nhìn những vì sao trên bầu trời đêm, xin thề với thánh thần rằng, sẽ có ngày tôi giết hắn.
Tảng sáng, tôi vừa chợp mắt được một chút, tiếng trống hạt[2] dưới chân núi gọi tôi bừng tỉnh. Tôi mở mắt, thấy A Độ đang bật dậy. Cố Kiếm mang bộ mặt nặng trĩu, nói với A Độ:
- Dẫn Công chúa đi!
[2] Một loại trống cổ của Trung Quốc.
Tôi bướng bỉnh nói:
- Ta không đi. Nếu chết thì cả ba cùng chết.
Cố Kiếm tuốt kiếm, giọng bình tĩnh:
- Ta phải đánh lạc hướng địch, A Độ sẽ đưa muội đi. Con người Lý Thừa Ngân vốn máu lạnh, lẽ nào muội vẫn mong hắn sẽ thực lòng với muội? Một khi muội rơi vào tay hắn, sẽ càng tạo điều kiện cho hắn tiến đánh Tây Lương mà thôi.
Tây Lương!
Tôi suýt nhảy dựng lên. Cố Kiếm nhìn tôi, tôi líu lưỡi, nói:
- Hắn định tấn công Tây Lương?
Cố Kiếm bật cười:
- Đối với bậc đế vương, thiên hạ này biết thuở nào mới có tận cùng?
Tôi nghẹn họng, không thốt nên lời, tiếng trống hạt gióng quá ba hồi, quân Trung Nguyên dưới núi đã bắt đầu xung phong.
Cố Kiếm nói:
- Đi mau!
Tuy người ngợm đang xây xát, song thân thủ của A Độ vẫn khá linh hoạt, muội ấy kéo tôi leo lên vách núi, tôi vội ngoảnh đầu nhìn lại, chỉ kịp thấy Cố Kiếm đứng trên mỏm đá, ánh nắng sớm mai phủ lên người, máu loang đẫm bộ bào trắng, sau một đêm, máu chuyển màu đen. Gió thốc tay áo, sư phụ đứng trong nắng sớm như một pho tượng, tay lăm lăm trường kiếm. Tôi nghĩ đến những gì sư phụ nói đêm qua, tưởng như một cơn mộng mị. Rồi chợt nhớ dạo dầu khi chúng tôi vừa quen biết, lúc ấy, sư phụ cứu một đứa bé trước vó ngựa, người ngã lăn trên đất, áo trắng nhuộm bụi vàng, vậy mà lúc ấy, sư phụ vẫn oai phong, lẫm liệt vô cùng. Chuyện lúc đó cũng hệt như một giấc mơ. Và mọi việc xảy ra trong mấy ngày nay, đối với tôi, tất cả như cơn ác mộng.
Tôi và A Độ ẩn náu trong núi, ban ngày thì trốn, ban đêm tiếp tục chạy. Quân lính Trung Nguyên sục sạo khắp nơi, nhưng chúng tôi lanh lẹ lẩn tránh, tạm thời chúng không thể tìm ra được. Tôi và A Độ trốn trên núi nhiều ngày, khát thì lấy tuyết làm nước uống, đói thì đào hang chuột, trong đó lúc nào cũng có sẵn quả khô và hạt, ăn cho đỡ xót ruột. Chẳng hay Cố Kiếm còn sống hay đã chết, mà chính tôi cũng không biết mình trốn trên núi được bao lâu rồi.
Có lẽ đã bước sang tháng Tám, vì tuyết đã rả rích rơi. Dường như chỉ trong một đêm mà tuyết đã bao trùm cả núi Thiên Hằng, tuyết có ở khắp nơi, cỏ cây rũ tàn, héo úa. Tuyết rơi, ngọn núi này không còn là nơi thích hợp để trú ẩn, thậm chí loài linh dương cũng không còn ra ngoài kiếm ăn nữa. Gió đêm trên núi lạnh đến mức có thể khiến con người hoá băng. Trước đợt tuyết rơi, đoán chừng toán quân Trung Nguyên đã rút hẳn, vì quân đồn trú dưới tuyết lâu, cạn kiệt lương thực là điều vô cùng đáng sợ, kẻ cầm đầu buộc phải cân nhắc. Tôi và A Độ cố thủ trên núi thêm hai ngày, không thấy có dấu vết bọn chúng lùng sục nữa, mới đánh liều xuống núi xem sao.
Chúng tôi đã gặp may, xuống núi rồi đi cả một ngày đường về phía nam, lại gặp được dân du mục. Ông ta đun chảy tuyết cho chúng tôi rửa mặt mũi, chân tay, còn luộc thịt dê mời chúng tôi ăn. Tôi và A Độ nhếch nhác như người rừng, ẩn mình lâu ngày trên núi, không được ăn một bữa no nê, sau đợt tuyết rơi, trên núi càng khó sống. Ngồi trong căn lều ấm cúng và uống sữa dê, tôi và A Độ như hai kẻ vừa trở về từ địa ngục. Tuy người đàn ông du mục này là dân Nguyệt Thị, song cũng rất đồng cảm với tình cảnh của Đột Quyết, ông ta tưởng chúng tôi là nữ tù nhân vừa trốn khỏi Đột Quyết nên đối đãi với chúng tôi rất ân cần. Ông ta bảo đại quân Trung Nguyên đã rút về phía nam, mấy nghìn người Đột Quyết cũng bỏ trốn, chạy cả về cực tây.
Tôi không nghĩ được gì nhiều, sữa nóng đun chảy mọi ý định trả thù. Tôi biết, nếu chỉ dựa vào tôi và A Độ, e rằng chẳng cách nào chống lại được bọn người Trung Nguyên, chứ đừng nói đến chuyện báo thù cho ông ngoại. Tôi quyết định dẫn A Độ về Tây Lương, tôi rất nhớ cha mẹ tôi. Tôi nghĩ bằng mọi giá phải về được Vương thành, rồi kể cho cha nghe toàn bộ những chuyện xảy ra ở Đột Quyết, nói người nhất định phải đề phòng bè lũ Trung Nguyên. Ông ngoại mất rồi, hẳn mẹ sẽ rất đau lòng, tôi nóng lòng muốn gặp và an ủi bà. Mặc dù ông ngoại không còn trên đời này nữa, song mẹ vẫn còn có tôi ở bên cơ mà.
|
Phần 4: Vực nước sâu
Chương 12
Dọc đường đi, lòng tôi nóng như có lửa đốt, chỉ sợ mình về chậm một bước, Tây Lương cũng bị Lý Thừa Ngân thảm sát giống như Đột Quyết. Bất chấp gió tuyết, tôi và A Độ gấp rút lên đường, cả chặng đường trải qua bao nhiêu cơ cực, cuối cùng đã nhìn thấy Vương thành Tây Lương.
Thấy thành quách vẫn bình yên vô sự, tôi bất giác thở phào nhẹ nhõm. Cổng thành vẫn mở toang như thường lệ, tiết trời sắp vào đông, những đội buôn thưa dần, lính gác co mình trong tấm áo da, núp trong cổng tò vò ngủ gật. Tôi và A Độ âm thầm tiến vào Vương thành.
Đêm khuya thanh vắng của tiết cuối thu lạnh lẽo, cung điện hiện ra thân thương mà trang nghiêm, tôi không đánh động lính gác mà tiến thẳng vào vương cung qua lối cổng nhỏ. Vương cung của Tây Lương chỉ có vài nghìn cảnh vệ, phòng thủ rất lỏng lẻo, suy cho cùng, Tây Lương chẳng gây thù địch với ai, khách vãng lai đều là dân buôn bán. Tuy là Vương cung nhưng thực chất cảnh giới còn không nghiêm ngặt bằng phủ đô hộ An Tây. Trước đây, tôi thường lén ra khỏi Vương cung bằng lối cửa nhỏ, ở ngoài chơi chán rồi lại về bằng lối ấy, chưa lần nào bị lộ.
Cả toà cung điện chìm trong giấc ngủ say. Tôi dẫn A Độ về phòng mình, bên trong lặng như tờ, không một bóng người. Tiết trời buốt lạnh, A Độ lạnh đến mức mặt mày trắng bệch, tôi lấy một tấm áo da, choàng lên người muội ấy, ủng đi nhiều cũng mòn, thủng lỗ, hở cả ngón chân, tôi lại tìm hai đôi ủng mới để đi, giờ thì ấm rồi.
Men theo hành lang, tôi chạy về phía tẩm điện của mẹ, chỉ mong sớm được gặp bà.
Phía tẩm điện không châm đèn, nhưng trong cung có đốt lò, trên nỉ trải sàn cũng đặt đến mấy chậu sưởi to. Tôi thấy cha đang ngồi trước lò sưởi, hình như người đang cúi đầu.
Tôi khẽ gọi:
- Cha ơi!
Cha giật thót người, từ từ quay lại, nhìn tôi, hai mắt đỏ quạch:
- Con gái, con đã bỏ đi đâu?
Chưa bao giờ tôi thấy cha như thế này, mắt tôi cay xè, tưởng chừng như nỗi tủi thân trong lòng bấy lâu nay đều vỡ oà, chực theo khoé mắt mà tuôn ra. Tôi kéo tay áo cha, hỏi:
- Cha ơi, mẹ đâu ạ?
Mắt cha càng hoen đỏ, tiếng người nghèn nghẹn:
- Con gái ơi, mau chạy đi, mau trốn đi!
Tôi ngẩn người nhìn cha, A Độ đã bật dậy, tuốt đao. Bốn bề bỗng sáng ánh đèn, rất nhiều lính cầm đèn lồng, bó đuốc xông vào. Kẻ dẫn đầu trông rất quen, gã chính là sứ thần mà Trung Nguyên phái đến Tây Lương cầu thân, lúc này gã vênh váo ra vẻ ta đây, thủng thẳng bước vào. Gã nhìn cha tôi, không quỳ xuống vái chào mà hống hách nói:
- Tây Lương vương, Công chúa đã về, đã đến lúc phải thực hiện hôn ước giữa hai nước. Giờ thì ngài không thể kiếm cớ thoái thác được nữa rồi.
Lũ người này thật đáng ghét, tôi kéo tay cha, gặng hỏi:
- Mẹ đâu rồi cha?
Giọt nước mắt chợt chảy dài trên gương mặt cha, lần đầu tiên tôi thấy cha khóc. Tôi giật thót mình khi thấy cha bất ngờ tuốt đao bên hông, chỉ thẳng vào lũ người Trung Nguyên, giọng khàn khàn:
- Lũ Trung Nguyên này… Con ơi, con nhìn đám người Trung Nguyên này đi, chính chúng nó đã dồn mẹ con vào chỗ chết. Chính chúng nó ép Tây Lương chúng ta, bắt ta phải giao mẹ con cho chúng, mẹ con không cam tâm chịu nhục, bà ấy đã dùng đao tự vẫn chính tại Vương cung này. Lũ chúng nó… lũ chúng nó còn dám xông vào Vương cung, nhìn thấy xác mẹ con rồi chúng nó mới thoả lòng… Chính chúng nó đã ra tay sát hại mẹ con…
Giọng cha giống như đang nguyền rủa, vang vọng giữa chốn Vương cung, còn tôi như bị đấm một cú trời giáng, phải lùi về phía sau. Cha tự rạch má mình, máu đầm đìa trên mặt, người vung đao về phía sứ thần Trung Nguyên. Thấy người dũng mãnh như loài sư tử, lũ người Trung Nguyên nháo nhác tản ra tứ phía, một tiếng động trầm thấp vang lên, đầu sứ thần rơi xuống dưới lưỡi đao của cha. Cha gạt đao, thở hổn hển, đám binh lính Trung Nguyên xộc lên, thắt chặt vòng vây, có kẻ hét:
- Tây Lương vương, ngài giết sứ thần Trung Nguyên, lẽ nào định tạo phản?
Mẹ! Mẹ ơi! Tôi đã vượt muôn ngàn đắng cay để trở về đây, vậy mà vẫn không thể gặp mẹ nữa rồi…
Toàn thân run rẩy, tôi chỉ vào lũ người đó, rít giọng quát:
- Lý Thừa Ngân đâu? Hắn đâu? Hắn trốn đâu rồi?
Không kẻ nào trả lời. Một tên bước ra từ đám đông, trông phục sức trên người có vẻ là tướng quân Trung Nguyên. Gã nhìn tôi, nói:
- Bẩm Công chúa, Tây Lương vương trong lúc hoảng loạn đã ngộ sát sứ thần Trung Nguyên, đợi đến lúc yết kiến Điện hạ, thần sẽ bẩm báo lên người để làm sáng tỏ sự việc. Mong Công chúa bình tĩnh, tránh làm ảnh hưởng đến thể diện hai nước.
Tôi nhận ra gã Tướng quân này, lúc đuổi theo tôi và A Độ trên thảo nguyên, chính gã đã hạ gục thanh đao trên tay A Độ, còn bắt tôi về đại bản doanh của quân lính Trung Nguyên. Võ công của gã hẳn rất cao cường, chắc chắn tôi không phải đối thủ của gã. Lần trước, may nhờ có sư phụ giúp tôi trốn ra khỏi doanh trại của bọn chúng, giờ sư phụ không có ở đây, ai có thể cứu tôi?
Tôi nói:
- Ta muốn gặp Lý Thừa Ngân.
Gã Tướng quân Trung Nguyên đáp:
- Tây Lương vương đã hứa gả Công chúa cho Thái tử Điện hạ nhằm kết mối thâm giao giữa hai nước. Thái tử Điện hạ cũng có thành ý, người đích thân hạ giá đến Tây Vực rước Công chúa về. Rồi Công chúa sẽ được yết kiến Điện hạ, hà tất phải nóng vội?
Tôi căm tức nhìn đám binh lính đang siết chặt vòng vây, cha vung đao đâm loạn xạ, song cuối cùng vẫn bị chúng chế ngự. Vương cung xảy ra chuyện lớn như thế này mà không một vệ binh nào đến xem xét, chứng tỏ cả Vương thành này, từ trong ra ngoài đã bị người Trung Nguyên kiểm soát. Cha bị bọn chúng đè sấp xuống đất, người vẫn mắng như tát nước. Lồng ngực tôi nóng sực như chảo dầu sôi, sự giày vò đè nặng lên lục phủ ngũ tạng, tôi định xông lên thì bọn chúng đã kề đao vào cổ cha, chỉ cần tôi manh động, chưa biết chừng chúng sẽ giết người ngay tức khắc. Người Trung Nguyên vẫn nói chúng tôi là lũ man rợ, nhưng chúng giết người còn hung ác hơn chúng tôi, tàn bạo hơn chúng tôi. Khi nước mắt tôi rơi lã chã, gã Tướng quân nọ cất lời:
- Công chúa, xin người khuyên Vương thượng vài câu, chớ để ngài tự làm mình bị thương.
Cổ họng nghẹn ứ khiến tôi không thốt nên lời. Có người nắm cánh tay tôi, là A Độ, những ngón tay mát lạnh làm chỗ dựa cuối cùng cho tôi. Tôi nhìn muội ấy, đôi mắt đen láy in bóng hình tôi, cái nhìn đầy nôn nóng, sốt ruột. Tôi hiểu, chỉ cần tôi nói một câu thôi, muội ấy sẽ chẳng do dự, liều mạng xông lên vì tôi. Nhưng sao phải làm vậy? Sao phải kéo A Độ vào chuyện này? Đột Quyết đã diệt vọng, Tây Lương thì rơi vào tay Trung Nguyên, tôi bảo:
- Cấm các ngươi được đụng vào cha ta, ta theo các ngươi là được chứ gì!
Cha đã trở nên lẩm cẩm. Nghe nói cha ra nông nỗi này từ khi mẹ qua đời, thỉnh thoảng, cũng có lúc người tỉnh táo nhưng cũng có lúc người lẩn thẩn. Khi nào minh mẫn, cha lại đòi đánh giết bọn Trung Nguyên, còn lúc không tỉnh táo thì lại làm những chuyện mà tôi chưa thấy bao giờ. Tôi nghĩ thà cha cứ mãi hồ đồ, mẹ qua đời, trái tim cha cũng chết theo. Các ca ca của tôi bị giam lỏng, những người phụ nữ trong cung thì hoang mang, lo sợ, còn tôi, tôi vẫn dằn lòng nín nhịn.
Thù còn đó, sao mình có thể chết dễ dàng được?
Tôi tiếp nhận chiếu thư của Trung Nguyên, quyết định lấy Lý Thừa Ngân. Trung Nguyên vừa bình định Đột Quyết đã gấp rút nâng đỡ thế lực mới trên đất Tây Vực, đề phòng Nguyệt Thị ngày càng lớn mạnh. Đột Quyết vừa diệt vong, các bộ tộc ở Tây Vực càng thêm hỗn loạn, Hoàng đế Trung Nguyên hạ chiếu sắc phong cha tôi làm Định Tây Khả Hãn, tước hiệu ấy tôn quý không gì sánh được. Vì thế mà Nguyệt Thị rất bất bình, bọn chúng liên quân với Trung Nguyên đánh bại Đột Quyết, thoạt đầu mơ tưởng sẽ nuốt gọn cả vùng lãnh thổ rộng lớn của Đột Quyết, vậy mà Tây Lương lại sắp trở thành thông gia với Trung Nguyên. Các nước chư hầu ở Tây Vực trước kia ngầm tôn vinh Đột Quyết như nước đứng đầu, nay quay sang phục tùng Tây Lương.
Khoác lên mình tấm áo cưới đỏ rực mà người Trung Nguyên mang đến, tôi theo đoàn quân hộ tống của Trung Nguyên chầm chậm tiến về phía đông.
Khi đến chân núi Thiên Hằng, tôi mới được gặp Lý Thừa Ngân. Đáng lẽ, theo khuôn phép của Trung Nguyên, vợ chồng chưa cưới không được phép gặp mặt trước lễ thành thân, nhưng vì chúng tôi đã quen biết từ lâu, vả lại giờ đang trên đường hành quân, mọi việc đều có thể tuỳ cơ ứng biến. Sau nhiều lần tôi đòi gặp, cuối cùng Lý Thừa Ngân cũng đến lều của tôi. Đám đầy tớ đã lui ra ngoài, trong trướng chỉ còn lại hai chúng tôi.
Tôi ngồi trên thảm nỉ, hồi lâu vẫn không cất lời. Cho đến khi hắn trở gót quay đi, tôi mới nói:
- Chàng đồng ý với ta một chuyện, ta sẽ cam tâm tình nguyện lấy chàng.
Vẫn quay lưng về phía tôi, hắn chỉ hỏi:
- Chuyện gì?
- Chàng bắt cho ta một trăm con đom đóm.
Người hắn cứng đờ, sau cùng hắn mới chậm rãi xoay người nhìn tôi. Thậm chí lúc đó tôi đã cười:
- Cố Tiểu Ngũ, chàng bằng lòng không?
Ánh mắt ấy vẫn như buổi tối nọ bên bờ sông, nhưng chẳng còn sự điềm đạm, mọi thứ xưa kia rặt phỉnh lừa, dối trá, lòng tôi đã biết từ lâu. Còn hắn thì sao? Bấy lâu nay diễn kịch, hắn cũng thấy mệt mỏi rồi chăng?
Cuối cùng, hắn mở lời, giọng bình thản như chưa từng có sóng gió:
- Trời đã vào đông, không còn đom đóm nữa. Ở Trung Nguyên rất vui, có đom đóm, có chim chóc, có rất nhiều loài hoa đẹp, trong phòng trang hoàng cũng rất đẹp… Rồi nàng sẽ thích Trung Nguyên.
Tôi nhìn hắn đăm đăm, còn hắn né tránh ánh nhìn của tôi.
Tôi hỏi:
- Chàng đã bao giờ thật lòng thích ta chưa, dù chỉ một chút?
Hắn không đáp, thẳng tay vén tấm mành rồi rảo bước ra khỏi lều.
Gió thốc thẳng vào lều cuốn theo tuyết, gió gợn hơi lửa ảm đạm trong chậu sưởi đặt trong lều, lửa bập bùng, rồi lại tắt. Trời vào đông dậy cơn buốt cóng.
Tôi và A Độ bỏ trốn lúc nửa đêm. Lý Thừa Ngân đích thân dẫn ba nghìn kỵ binh truy đuổi. Chúng tôi bỏ chạy vào núi, thế mà chúng vẫn theo sát sau lưng.
|
Tảng sáng, tôi và A Độ leo lên một vách núi cao và dốc.
Ẩn náu lâu ngày trên núi, chúng tôi thường xuyên gặp lũ chó sói. Từ ngày vua sói bị bắn chết, lũ sói mất con đầu đàn, lâm vào cảnh giao tranh kịch liệt. Mỗi lần đụng độ đàn sói, chúng chỉ lo cắn xé lẫn nhau, không hề gây hấn với chúng tôi, tôi nghĩ có thể Trung Nguyên đã dùng cách này để đối phó với Tây Vực. Bọn chúng tiêu diệt Đột Quyết, cũng như giết đi con sói đầu đàn, những bộ tộc còn lại sẽ lao vào giành giật nhau, chém giết rồi nội chiến liên miên… Sẽ chẳng còn nước nào đe doạ đến Trung Nguyên nữa. Tất cả có khác nào bầy sói kia, chúng chỉ lo tàn sát đồng loại, tranh đoạt ngôi vị vua sói, đâu còn là mối nguy hại đối với con người nữa!
Tiếng áo quần bị gió thổi phần phật, tôi đứng bên vách núi, gió khiến chúng tôi khó mở nổi mắt. Nếu gieo mình từ đây, phải chăng tất cả những buồn đau sẽ như vết khói mờ, tan dần vào hư vô?
Lý Thừa Ngân đã đuổi tới nơi, tôi lùi về phía sau một bước, tướng quân cầm đầu phe Trung Nguyên lo tôi nhảy thật, gã nói:
- Bẩm Điện hạ, xin người cho phép thần lên khuyên Công chúa.
Suốt chặng đường hành quân, tôi cũng hiểu sơ sơ vài câu tiếng Trung Nguyên, tôi còn biết vị tướng quân người Trung Nguyên này họ Bùi, còn là đại tướng mà Lý Thừa Ngân trọng dụng nhất. Nhưng giờ đây, ngay cả Bùi Tướng quân cũng không khuyên nổi Lý Thừa Ngân, tôi thấy hắn xuống ngựa, leo lên vách núi.
Tôi cũng không cản hắn, chỉ lặng lẽ dõi theo hắn trèo lên vách đá. Gió reo như tiếng nức nở, mây mù bay ngang khe núi, chẳng biết rốt cuộc vực sâu đến chừng nào. Hắn đứng bên bờ vực, thở hổn hển sau cả chặng đường vội vã. Tôi chỉ xuống vực sâu, hỏi:
- Chàng biết dưới đó là gì không?
Chắc bởi gió tuyết giật đùng đùng nên mặt hắn trắng bệch. Gió thốc hạt tuyết quất vào mặt ran rát, tôi vuốt đám tuyết còn bám trên mặt, rất có thể hắn không biết khuyên tôi thế nào nên lặng thinh. Tôi nói với hắn:
- Dưới đó có sông Quên. Nước sông Quên, đặng quên tình… Ở Tây Vực có một truyền thuyết, có lẽ xưa nay chàng chưa từng nghe. Truyền thuyết kể rằng chỉ cần nhảy xuống sông Quên là con người ta sẽ quên đi tất cả mọi muộn phiền chốn nhân gian, thay da đổi thịt, làm lại cuộc đời. Thần kỳ lắm, thánh thần lại có sức mạnh như thế đấy, nước thần sẽ giũ sạch mọi đau khổ trên thân thể chúng ta, nước thần cũng cho phép chúng ta quên đi muộn phiền, song trước nay chưa một ai có thể sống sót trở về từ sông Quên, sự quan tâm của thần thánh, nhiều khi rất đỗi tàn nhẫn… Chàng dùng cha ta, huynh đệ, tỷ muội của ta để uy hiếp ta, buộc ta phải lấy chàng…
Tôi cười với hắn:
- Nhưng… sống chết thế nào… ta mới là người quyết định.
Hắn nhìn tôi trân trối, nói:
- Nếu nàng dám manh động, ta sẽ mai táng cả Tây Lương theo nàng.
Tôi bình thản nói, đấy là lần đầu tiên tôi gọi hắn là Điện hạ, mà có lẽ cũng là lần cuối cùng:
- Điện hạ sẽ không làm vậy đâu. Điện hạ có chí lớn muốn bình định Tây Vực, thống nhất thiên hạ, chẳng gì có thể bì được với sự nghiệp trị vì thiên hạ của Điện hạ. Đột Quyết vừa mới ổn định, Nguyệt Thị đang hùng mạnh, Điện hạ vẫn cần Tây Lương để giữ chân Nguyệt Thị, mà cũng cần Tây Lương để tỏ rõ tấm lòng của Điện hạ với các nước Tây Vực. Điện hạ dùng thủ đoạn nham hiểm để dẹp yên Đột Quyết nhưng lại mở tấm lòng từ bi hòng vỗ về Tây Lương. Thái tử thiên triều cao quý mà lại hạ mình cưới một cô công chúa Tây Lương man di về làm chính phi ư? Các nước chư hầu Tây Vực hẳn sẽ cảm động phát khóc trước tấm lòng của Điện hạ.
Tôi giễu hắn bằng cái nhìn mỉa mai.
- Nếu Điện hạ tàn sát Tây Lương, những thứ mất đi không chỉ có mình Tây Lương nhỏ bé, mà còn có tất cả những gì chàng vất vả, tốn sức gây dựng bấy lâu nay.
Lý Thừa Ngân nghe tôi nói thế, sắc mặt hơi đổi khác, cuối cùng hắn không cưỡng được mình, tiến lên một bước, tôi liền lùi lại phía sau một bước. Bàn chân đã chạm vào trống rỗng, hư không, gió trên vách núi lay tôi đứng không vững, như thể sẽ rơi xuống bất cứ lúc nào. Gió vẫn giật áo quần bay phần phật, ống tay áo như một lưỡi dao mỏng dính, không ngừng cà vào cánh tay. Hắn không dám tiến thêm một bước.
Tôi nói:
- Trước kia ta nhìn lầm chàng, giờ mới sinh ra nước mất nhà tan, là trời phạt ta phải chịu nỗi đau này.
Tôi gằn từng tiếng:
- Muôn đời muôn kiếp, mãi mãi về sau ta sẽ quên được chàng!
Lý Thừa Ngân kinh hãi, vươn người toan túm lấy tôi, thế nhưng chỉ giữ được ống tay áo. Tôi giơ tay trái, lưỡi dao sắc lẹm cắt xẹt cánh tay áo, cơ thể tôi lơ lửng giữa không trung. Nhanh như cắt, Lý Thừa Ngân rút dải dây lưng, vung ra như một sợi roi dài, quấn lấy người tôi, treo tôi lơ lửng giữa lưng chừng vực sâu. Dải dây lưng ấy, hôm đó chính tôi đã thắt cho chàng, dải dây lưng của tân nương ngày cưới được nạm chi chít san hô và ngọc trai… Tôi từng khao khát thứ hạnh phúc đầu bạc răng long, tôi từng tưởng thế là vĩnh hằng, tôi từng ngỡ, chính thánh thần se duyên cho tôi yêu con người này… Trước lúc chàng lên đường ra trận, tự tay tôi thắt chiếc dây lưng ấy cho chàng, thầm nhủ vô vàn những yêu thương cùng lòng cảm mến, mong sao chàng sẽ bình yên trở về, rồi chính tay chàng sẽ thắt cho tôi dải dây lưng của mình… Đến lúc ấy, chúng tôi chính thức trở thành vợ chồng dưới sự chứng giám của thánh thần… Tôi vung con dao nhỏ trên tay, cắt lìa sợi dây, gió núi thổi qua khe gập ghềnh, những hạt ngọc trai tuôn rơi tựa giọt mưa sa… Tôi thấy rõ vẻ mặt chàng lúc đó, khổ sở, đớn đau muôn phần…
Tôi khẽ ngả người ra sau, cả người đã buông rơi. Nhiều kẻ hoảng sợ kêu gào, trong đó có cả gã Bùi Tướng quân người Trung Nguyên nọ, giọng hắn có vẻ kinh hãi hơn cả:
- Điện hạ…
Mọi thứ trên vách núi thoáng chốc đã khuất khỏi tầm mắt, chỉ còn sắc trời trong veo… cứ ngỡ như gió nâng mây, tôi rơi qua những tầng mây mù. Cơ thể tôi lộn nhào, mặt chúi xuống, chẳng còn thấy bầu trời đâu nữa, gió liên miên đâm chọc khiến tôi không tài nào hé mắt được. A Độ từng kể dưới đáy vực này có dòng sông Quên, thế nhưng sông Quên như thế nào? Là một hồ nước xanh biếc ư? Hay là vực thẳm có thể nuốt trọn bất kỳ ai… Sự tuyệt vọng, trống rỗng bủa vây, tôi nhớ mẹ, nghĩ mình đi gặp mẹ thế này hoá ra lại hay. Lòng tôi đã chết, trần đời này chỉ có mẹ là người yêu thương tôi nhất.
Bỗng có người nắm lấy tay tôi, gió ào ào lướt qua vành tai, người đó ôm tôi vào lòng. Gió đưa chúng tôi lao xuống mỗi lúc một nhanh… Chàng ôm tôi giữa vòng gió xoáy… Nhiều lần toan chụp lấy mỏm đá, nhưng chúng tôi rơi quá nhanh, đá vụn lả tả rơi cùng tôi và chàng, như làn mưa sa… Giống buổi tối nọ ở ven sông, vô vàn đom đóm cất cánh vút bay từ ống tay áo, như có cơn mưa sao rực rỡ, soi tỏ khuôn mặt tôi và chàng… Giữa đất trời bao la, đôi mắt chàng vẫn đắm đuối nhìn vào mắt tôi.
Đôi mắt ấy chỉ đong đầy bóng hình tôi.
Tôi có nằm mơ cũng không ngờ, chàng sẽ nhảy xuống giữ tôi. Tôi cứ ngỡ, chàng chưa bao giờ yêu tôi thật lòng.
Chàng gọi:
- Tiểu Phong!
Gió lướt qua vành môi thổi bạt tiếng chàng, nhẹ đến nỗi chẳng lọt vào tai. Tôi nghĩ, hẳn mình nghe nhầm rồi chăng, hoặc tất cả chỉ là ảo giác. Làm gì có chuyện chàng nhảy xuống, vì chàng là Lý Thừa Ngân, chứ nào có phải Cố Tiểu Ngũ của tôi. Cố Tiểu Ngũ của tôi đã chết rồi, chàng đã hy sinh trong cuộc chiến với Nguyệt Thị và Trung Nguyên.
Chàng nói một câu bằng tiếng Trung Nguyên, tôi chẳng thể hiểu.
Câu nói cuối cùng đọng lại trong hồi ức, mà có lẽ chàng nhảy xuống theo tôi chỉ để nói với tôi câu đó. Song tôi chẳng muốn biết chàng đã nói những gì… Tôi chỉ cảm thấy thanh thản và bình yên, tôi biết vào khoảnh khắc cuối cùng của cuộc đời, tôi không lẻ loi một mình… Thân thể nặng trĩu rơi xuống nước, nước xanh biếc vây xung quanh tôi, đau tựa ngàn nhát dao sắc lạnh xé vào da thịt. Tôi buông xuôi, phó mặc cho người lắng xuống đáy nước sâu, như đứa con trở về với mẹ, như bông hoa nhỏ xinh đáp mình xuống đất, là một cõi đi về rất đỗi bình yên, bấy lâu nay tôi vẫn luôn hiểu…
Nước sông Quên, đặng quên tình…
…
“Có con cáo nhỏ cô đơn,
Ngồi trên cồn cát ngắm trăng một mình,
Cơ mà đâu phải ngắm trăng,
Cáo đang mong đợi cô nàng chăn dê.
Có con cáo nhỏ bơ vơ,
Ngồi trên cồn cát thẩn thơ sưởi mình,
Nào đâu cáo muốn sưởi mình,
Cáo đợi cô mình cưỡi ngựa đi qua.”
Khó nghe thế! Đổi bài khác đi!
Nhưng ta chỉ biết mỗi bài này…
…
Muôn đời muôn kiếp, mãi mãi về sau ta sẽ quên được chàng!
|
Chương 13
Trong ký ức, đốm sáng lập loè lúc tỏ lúc mờ, dường như tấm màn sương mù dày đặc vừa được vén mở, hé lộ ra ảo ảnh. Tôi hé mắt, mọi thứ xung quanh dần trở nên rõ ràng. Tôi thấy A Độ đang ngồi bên cạnh, tôi thấy Vĩnh Nương với khoé mắt đỏ hoe…
Tôi thấy những hoa văn tinh xảo thêu trên màn, tôi dần dần nhận ra, nơi đây là Đông cung, là tẩm điện của tôi.
Tôi từ từ mở mắt, tưởng mình vừa gặp ác mộng. Trong cơn mơ tôi thấy những điều đáng sợ: tôi bị thích khách bắt cóc, rồi Cố Kiếm chính là gã thích khách nọ, tôi đứng ở Thừa Thiên Môn, mắt đăm đăm nhìn lên lầu cao nơi Lý Thừa Ngân đang đứng… Và điều đáng sợ cuối cùng, tôi mơ thấy mình đã quen biết Lý Thừa Ngân từ lâu, chàng hoá thành Cố Tiểu Ngũ, chàng tàn sát Đột Quyết, giết ông ngoại, bức tử mẹ… Cha trở nên lẩn thẩn và tôi nhảy xuống sông Quên… Cơn ác mộng ấy thật đáng sợ… Đáng sợ đến nỗi tôi không muốn nhớ lại…
May thay tất cả chỉ là ác mộng, tôi chậm rãi nắm tay Vĩnh Nương, mỉm cười muốn nói:
- Ta đói…
Nhưng tôi chẳng thốt nổi câu nào, cổ họng nhói đau, luồng khí từ cổ thoát ra ngoài mà không bật thành tiếng. Tôi vội đưa tay sờ lên cổ mình, Vĩnh Nương ứa nước mắt, giữ tay tôi:
- Thái tử phi chớ lo, thái y nói người bị ngạt khói nên tạm thời cổ họng bị tổn thương. Chữa trị cẩn thận sẽ mau khỏi thôi…
Tôi nhìn A Độ, rồi lại nhìn Vĩnh Nương. Cung nữ dâng lên một chén nước mát, Vĩnh Nương tự tay bón cho tôi. Nước có vị ngọt và man mát làm tôi thấy dễ chịu hơn, cơn đau họng chẳng mấy đã dịu xuống. Tôi uống một ngụm lớn, Vĩnh Nương nói:
- Từ từ, từ từ nào… kẻo sặc… Trời đất ơi, mấy ngày rồi Thái tử phi chẳng ăn uống được gì… Nô tì lo muốn chết…
Mấy ngày?
Tôi hôn mê mấy ngày?
Tôi ra hiệu bảo lấy giấy bút, Vĩnh Nương sai người lấy cho tôi. Cung ngữ dâng nghiên mực, tôi chấm mực, nhưng lúc hạ bút, lại lưỡng lự…
Viết gì đây?
Tôi muốn hỏi gì đây? Hỏi Đột Quyết phải chăng đã diệt vong, hỏi phải chăng bấy lâu nay cha tôi đã thành người lẩn thẩn? Từ ngày đến Trung Nguyên, cha chưa từng phái người đến thăm tôi, còn tôi ngày đêm vẫn mong về Tây Lương, vậy mà chẳng ai đến thăm hỏi. Ngày xưa tôi chẳng lấy làm lạ, cứ mải trách cha vô tình, giờ mới biết, thì ra từ lâu Tây Lương của tôi đã trở thành giấc mộng hão huyền. Tôi không dám hỏi A Độ. Sao tôi có thể làm thế, sao tôi có thể hỏi Vĩnh Nương?
Mãi lâu sau tôi vẫn không hạ được bút…
Mực trên ngòi bút đã ngưng tụ thành giọt, nhỏ xuống, loang thành đốm mực trên trang giấy…
Tôi sực nhớ tới “Cửa vẩy mực”, nhớ tới bức tranh núi non tráng lệ bằng phấn hồng và than kẻ mày mà Lý Thừa Ngân từng vẽ, tôi nhớ tới phường Minh Ngọc, nhớ lại điệu múa tối hôm đó, rồi nhớ cảnh chết chóc tàn khốc… Nhớ chàng bẻ đôi mũi tên, cao giọng thề… Tôi nghĩ về cuộc chiến đẫm máu rất chân thực trong mơ, tôi thấy mình nghêu ngao hát trên cồn cát, tôi nhớ Cố Tiểu Ngữ từng bắt một trăm con đom đóm cho tôi, rồi cả cơn gió buốt thấu xương trên dòng sông Quên… Và vẻ mặt đau đớn của chàng khi tôi cắt lìa dải dây lưng…
Quẳng bút xuống, tôi chui vào chăn, tôi sợ mọi thứ lại hiện về tìm tôi trong trí nhớ.
Vĩnh Nương tưởng tôi thấy khó ở, bèn vỗ nhẹ lên lưng tôi như dỗ dành một đứa trẻ nhỏ.
A Độ đã ra ngoài, tiếng bước chân se sẽ, song tôi vẫn nghe thấy.
Tôi bỗng thấy buồn, nhưng tôi không dám hỏi A Độ về Đột Quyết, không dám hỏi những chuyện trước đây. Những chuyện trong giấc mơ của tôi phải chăng là thật? A Độ hẳn sẽ buồn hơn tôi, vì muội ấy là người Đột Quyết, song vẫn theo tôi đến tận Trung Nguyên, cùng tôi chung sống với kẻ thù bấy lâu nay… Tôi thấy mình bỗng trở thành kẻ hèn nhát, chẳng hay biết điều gì.
Tôi mê mệt ngủ tới tầm tối thì Vĩnh Nương lay tôi dậy, cho tôi uống một bát thuốc rất đắng.
Rồi Vĩnh Nương hỏi tôi có muốn ăn món gì không.
Tôi lắc đầu, tôi không muốn ăn.
Bây giờ còn thiết ăn gì nữa?
Vĩnh Nương vẫn sai người làm món bánh canh, bà ấy nói:
- Bánh canh mềm lại có nước, người ốm ăn món này sẽ mau khoẻ!
Tôi không muốn ăn bánh canh, cầm đũa gắp một miếng rồi buông.
Bánh canh gợi tôi nhớ đến Lý Thừa Ngân.
Đúng hơn là, mọi thứ ở Đông cung này đều nhắc tôi nhớ về Lý Thừa Ngân.
Mà tôi chỉ mong mình dứt ra khỏi những suy nghĩ về chàng. Không biết những chuyện trước kia thật giả thế nào, nhưng tôi không muốn gặp chàng nữa.
Vĩnh Nương vừa bưng bát bánh canh xuống thì Lý Thừa Ngân đến thăm. Chàng hồ hởi bước vào, nét mặt rạng ngời như thường lệ. Chỉ riêng tôi biết, tất cả đã khác xưa. Giữa chúng tôi đã tồn tại một quá khứ đớn đau, dòng sông Quên thần kỳ cho tôi quên đi tất cả, và cũng lấy đi trí nhớ của chàng. Hai kẻ u mê, chẳng hiểu nguồn cơn nào đã run rủi cho chúng tôi lấy nhau thế này, và ngô nghê thế nào mà tôi đã ở bên chàng suốt ba năm…
Đang miên man nghĩ ngợi thì Lý Thừa Ngân rảo bước đến bên giường, định vươn tay ra, xoa trán tôi.
Tôi nghiêng mặt tránh né.
Tay chàng chưng hửng giữa chừng, song chàng chẳng lấy làm giận, nói:
- Mãi nàng mới tỉnh, làm ta lo quá!
Tôi chẳng nói chẳng rằng, chỉ nhìn chàng, vẻ dửng dưng như những người xa lạ. Chàng nhận ra sự khác lạ của tôi, bèn hỏi:
- Nàng sao thế?
Thấy tôi phớt lờ, chàng liền nói:
- Hôm nàng bị thích khách bắt cóc, lại đúng dịp tết Nguyên tiêu, chín cổng thành đều mở…
Cơn bức bối trong tôi khó nói thành lời. Tôi đã quên bóng dáng chàng đứng trên cổng lầu hôm đó, nhưng tôi sợ hình ảnh chàng bên bờ vực sông Quên sẽ khắc sâu trong tim tôi trọn đời. Giờ đây nhắc lại thì có ích gì? Chàng vẫn định ngon ngọt lừa tôi nữa sao? Chàng đã giũ sạch những chuyện trước kia, song tôi vẫn nhớ, tôi đã nhớ lại cả rồi!
Chàng nói:
- Mấy ngày lục soát khắp nơi trong thành mà không tìm được nàng, ta cứ tưởng…. – Nói đến đó, giọng chàng thấp dần. – Ta cứ tưởng sẽ không được gặp lại nàng nữa…
Chàng giơ tay kiếm tìm bờ vai tôi. Tôi nhớ đôi mắt sũng lệ, lờ đờ của cha, tôi thấy mẹ nằm trên vũng máu, tôi nhớ tiếng gào thét cuối cùng của ông, tôi nhớ đôi bàn tay đẫm máu của Hách Thất đẩy tôi lên lưng ngựa… Thế rồi tôi bất ngờ rút cây trâm trên đầu, đâm thẳng vào ngực chàng.
Tôi dồn hết sức lực vào nhát đâm ấy. Chàng không ngờ tôi sẽ làm vậy, chỉ ngây ra, rồi bỗng đưa tay chặn trước ngực theo bản năng. Đầu trâm nhọn hoắt chọc xuyên qua lòng bàn tay, ứa máu. Chàng sững sờ nhìn tôi, ánh mắt ấy phức tạp, tôi không sao cắt nghĩa được, tựa như chàng không tin tôi sẽ đối xử với chàng như vậy.
Thực ra, chính tôi cũng không tin. Tôi ấn ngực mình, cảm giác toàn thân đang run rẩy.
Thời gian trôi qua thật lâu, chàng mới nắm chặt đầu cây trâm, rút mạnh. Chàng hành động chóng vánh, mà không hề rên một tiếng, chỉ có đôi chân mày khẽ cau lại, như thể máu thịt này không thuộc về mình. Máu ứa ra, tôi nhìn máu đầm đìa chảy theo cổ tay chàng dính vào ống tay áo. Chàng cầm chiếc trâm còn vương máu, rồi nhìn tôi, lòng tôi bấn loạn.
Chàng quẳng cây trâm xuống đất đánh “keng” một tiếng, chuỗi thạch anh văng bốn hướng, lanh canh đập nẩy trên sàn. Tiếng chàng se sẽ, như sợ làm kinh động đến thứ gì đó:
- Sao lại thế?
|
Chàng bảo tôi phải nói thế nào, kể ra những chuyện khủng khiếp trong quá khứ ư? Tôi và chàng, giữa chúng tôi là ân oán, là đôi bờ cách trở bởi biển máu hận thù. Thì ra lãng quên không hẳn là bất hạnh, có khi đó lại là một sự may mắn. Ước gì tôi có thể quên như chàng thì tốt biết mấy.
Tôi ngoảnh mặt né tránh. Chàng lại nói:
- Ta hiểu rồi.
Tôi không biết chàng hiểu gì, nhưng thoáng nghe trong giọng chàng có chút lạnh lùng:
- Thấy nàng ốm đau ra nông nỗi này nên ta không định hỏi tới. Nhưng một khi đã vậy, ta buộc phải hỏi câu này, sao nàng thoát được khỏi tay thích khách? Lúc A Độ cõng nàng về, có hỏi thế nào muội ấy cũng không chịu khai hành tung của thích khách, càng không chịu nói đã cứu nàng ở đâu. Ta không tiện dùng hình truy hỏi dân Tây Lương các nàng, nhưng nàng phải nói cho ta hay, rốt cuộc kẻ nào đứng đằng sau thích khách…
Tôi nhìn người đàn ông này, người đã ôm tôi nhảy xuống sông Quên. Chàng đã quên thật rồi, nhưng tôi vĩnh viễn không thể quên được. Tôi không quên được chính chàng đã giết ông ngoại, tôi không quên được chính chàng khiến tôi phải chịu cảnh nước mất nhà tan, tôi không quên mình giờ đây đã chẳng còn Tây Lương để về… Tôi mấp máy môi, nhưng không thốt nổi thành lời, thay vào đó là cái nhìn đầy mỉa mai. Chàng còn hỏi tôi thích khách là ai cơ đấy? Lẽ nào chàng không biết thích khách là ai ư? Hay sông Quên cũng khiến chàng quên Cố Kiếm là ai rồi?
Tôi nhìn chàng, ánh mắt chúng tôi chạm nhau. Rất lâu sau, chàng bỗng ném ra ngay trước mặt tôi một đôi ngọc bội. Tôi giương mắt nhìn đôi ngọc bội hình uyên ương bóng mịn như mỡ dê, tôi biết chúng, tôi từng cầm một mảnh ngồi ba ngày ba đêm trên cồn cát. Lúc ấy chàng xưng mình là Cố Tiểu Ngũ, lúc ấy tôi háo hức ngồi đợi người tưởng sẽ là chồng mình, lúc ấy tay chàng cầm một mảnh ngọc bội, mỉm cười trêu đùa tôi, lúc ấy sắc đêm bao trùm sa mạc Tây Lương và chúng tôi cùng nhau thúc ngựa về Vương thành…
Dạo đó, đôi ta nào có hằn học như bây giờ. Tôi là Cửu Công chúa vô tư lự của Tây Lương, còn chàng, chàng là Cố Tiểu Ngũ, thương nhân buôn chè đến từ Trung Nguyên.
Tay Lý Thừa Ngân còn đang ứa máu, chàng siết chặt cánh tay tôi, chặt đến nỗi xương cốt nhói đau, nhức nhối. Chàng ép tôi phải ngước lên, rồi nhìn xoáy vào mắt tôi, hỏi:
- Tại sao?
Chàng lặp đi lặp lại, tại sao?
Tôi cũng muốn biết. Tại sao? Tại sao số phận lại đùa giỡn, hết lần này đến lần khác dồn chúng tôi vào mối quan hệ đoạn tuyệt này. Tôi thấy trong mắt chàng có sự khổ sở khó nói nên lời và thoáng tia khao khát cuối cùng, dường như chàng còn mong mỏi tôi sẽ nói câu gì đó.
Tôi hé môi, song vẫn im lặng.
Máu từ bàn tay chàng loang trên mặt tôi âm ấm, chàng nói:
- Tại sao nàng có thể bình yên trở về từ chỗ thích khách? Tại sao A Độ lại không chịu nói cho ta biết hành tung của gã thích khách kia? Sao trong tay nàng lại có đôi ngọc bội uyên ương này… Uyên ương ư…? Hay chính ta đã chia cắt đôi uyên ương các người?
Chàng siết mạnh vai khiến tôi đau nhói, tôi bỗng thấy lòng mình nguội lạnh. Lúc đứng bên bờ sông Quên, rốt cuộc chàng nghĩ gì mà lại nhảy xuống? Phải chăng chỉ để nói với tôi câu đó? Nhưng dạo ấy tôi đâu có biết tiếng Trung Nguyên. Tôi quên mất chàng nói gì từ lâu rồi. Tôi chỉ nhớ tiếng hét cuối cùng của Bùi Chiếu, chắc gã phải kinh hãi lắm. Nhưng Lý Thừa Ngân không phải là Cố Tiểu Ngũ, có lẽ, Cố Tiểu Ngũ của tôi đã hy sinh trong cuộc chiến ngày đó rồi. Cuối cùng, tôi ngước mắt trông lên hai con ngươi đen láy, rốt cuộc chàng là ai? Là Cố Tiểu Ngũ từng bắt cho tôi một trăm con đom đóm? Hay là người chồng đã lên đường ra trận vào đúng ngày cưới của chúng tôi? Hoặc, lúc ở sông Quên, phải chăng vẻ hối hận trên khuôn mặt chàng khi thấy tôi cắt lìa dải dây lưng không có thật?
Hết lần này đến lần khác tôi mắc lừa người đàn ông này, cho đến tận bây giờ, có trời mới biết, rốt cuộc chàng có lừa tôi hay không? Chàng bẻ mũi tên thề với thích khách, nói những lời hùng hồn, đầy lý lẽ, thế mà chỉ trong chớp mắt, chàng sánh vai với Triệu Lương đệ trên Thừa Thiên Môn… Cố Tiểu Ngũ của tôi thực sự đã chết rồi, chỉ nghĩ như vậy, tôi đã thấy lòng quặn thắt. Giọng tôi khàn khàn, đáng sợ như thể đây không phải giọng của mình. Tôi nói:
- Chính chàng đã chia lìa đôi ta, chính chàng đã chia lìa ta… và Cố Tiểu Ngũ.
Chàng thảng thốt, rồi lại cười phá lên, vẻ khinh miệt:
- Cố Tiểu Ngũ?
Tôi nhìn chàng, máu từ tay chảy ròng xuống áo bào. Lúc đứng bên bờ vực sông Quên, trái tim tôi đã hoá tro tàn, đến giờ khắc này, tôi chẳng còn sức lực để vùng vẫy. Tôi thấy bải hoải, tôi thấy rã rời, tôi mệt mỏi lắm rồi, rồi nhả từng chữ:
- Chàng đã giết Cố Tiểu Ngũ.
Cố Tiểu Ngũ của tôi, chàng đã giết chàng trai duy nhất tôi từng yêu. Cố Tiểu Ngũ đã vĩnh viễn nằm lại với Đột Quyết, Cố Tiểu Ngũ bỏ mạng khi hôn lễ của chúng tôi còn dang dở, Cố Tiểu Ngũ bị chàng giết trên chính mảnh đất Tây Lương…
Tôi đã quên tất cả những chuyện trước kia, để rồi đến nơi này, để rồi lấy Lý Thừa Ngân… Chúng tôi đều quên hết quá khứ, thậm chí tôi còn không biết Cố Tiểu Ngũ đã chết…
Cơn giận của chàng hoá thành tràng cười:
- Được! Được! Được lắm!
Rồi chàng quay người bỏ đi.
Lúc Vĩnh Nương quay lại thì kinh ngạc lắm, bà ấy nói:
- Sao Điện hạ đã đi rồi?
Rồi bà ấy kêu toáng lên.
- Trời ơi, sao dưới sàn nhiều máu thế này?
Bà ấy gọi cung nữ vào lau dọn, sau đó hỏi dồn tôi, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì. Tôi không muốn cho bà ấy biết, chỉ thần người, mặc bà ấy lải nhải bên tai. Tôi phải làm sao đây? Tôi còn về Tây Lương được không? Giả sử tôi về được Tây Lương, nhưng Cố Tiểu Ngũ đã ra đi vĩnh viễn rồi…
Vĩnh Nương nghĩ chắc tôi muốn ngủ nên không gặng hỏi nữa. Bà ấy gọi A Độ vào ngủ với tôi, A Độ vẫn theo lệ cũ, nằm dưới thảm trải trước giường tôi.
Song tôi không thể nào chợp mắt được. Tôi bật dậy, A Độ cũng dậy theo, lại tưởng tôi khát nước bèn rót cho tôi một tách trà.
Tôi không cầm tách trà đó, mà kéo tay muội ấy, viết mấy chữ vào lòng bàn tay.
Tôi hỏi: “Chúng ta về Tây Lương nhé?”
A Độ gật đầu.
Tôi thấy rất an tâm. Tôi đi đâu thì muội ấy sẽ theo đó. Tôi không biết trước kia muội ấy từng chịu nhiều đau khổ đến thế, thậm chí tôi không biết vì sao muội ấy lại cam tâm tình nguyện theo tôi đến nơi này. Tôi níu tay A Độ, ngẩn người rồi bỗng nhỏ giọt nước mắt. A Độ thấy tôi khóc thì bối rối, liền dùng gấu tay áo lau nước mắt cho tôi. Tôi lại viết vào lòng bàn tay A Độ, nói với muội ấy rằng tôi không sao. Dường như A Độ rất xót xa, muội ấy ôm tôi vào lòng, khẽ xoa đầu tôi như đang an ủi một đứa trẻ. Muội ấy cứ vỗ về như thế, cuối cùng tôi cũng chợp được mắt.
Thực ra, trong thâm tâm tôi biết rằng, tôi đã thất bại. Trước kia tôi thích Cố Tiểu Ngũ, sau khi mất trí nhớ, tôi lại thích Lý Thừa Ngân. Dù chàng lừa dối tôi từ đầu đến cuối, vậy mà tôi vẫn cứ yêu chàng.
Nước sông Quên, đặng quên tình. Hễ ai đắm mình trong dòng nước thánh thần đó, về sau sẽ quên hết những chuyện đau khổ từng trải qua. Tôi quên chàng, chàng cũng quên tôi, chúng tôi không còn vướng bận tiền duyên, thế nhưng, đã quên nhau rồi sao trái tim tôi vẫn hướng về chàng? Trước kia chàng đối xử tệ bạc với tôi, song tôi không ngăn được mình thích chàng. Ba năm chúng tôi không chỉ một lần hắt hủi nhau, cớ gì lại đến bước đường ngày hôm nay? Thánh thần đã từng nghe lời khẩn cầu của tôi, để tôi được quên đi những khổ đau, sầu muộn mà chàng gây ra cho tôi, vậy mà hôm nay, thánh thần đang trừng phạt tôi chăng? Người khiến tôi nhớ lại tất cả, còn tạo trớ trêu đưa đẩy tôi yêu chàng thêm một lần nữa.
Kể từ đó, Lý Thừa Ngân không còn ghé chỗ tôi nữa.
Tôi ốm dai dẳng một thời gian dài, mãi đến khi mở miệng nói được thì cây ngọc lan ngoài hiên đã héo rũ, mà anh đào đang rộ phớt hồng như mây.
Anh đào trổ bông sớm hơn cây đào, cây mận, hoa vừa đơm mà đã khiến đất trời ngập sắc xuân. Trong vườn có mấy cây anh đào đương độ sum suê, hoa nở rộ, bung màu như ráng chiều rực rỡ, như mây bồng bềnh, như lụa hững hờ phủ dưới mái hiên…
Lúc tôi còn ốm nằm một chỗ thì ngoài kia đã xảy ra rất nhiều chuyện, nhờ Vĩnh Nương kể tôi mới hay. Thoạt đầu, Thủ phụ[1] Diệp Thành bị vạch tội mua quan bán tước, rồi nghe nói vụ việc lần này có liên quan đến rất nhiều người, chỉ một thời gian ngắn mà trong triều ai nấy đều bất an, chỉ lo mình bị vu tội “kết bè kết đảng với nhà họ Diệp”. Rồi cả chuyện Đại tướng quân Bùi Huống ca khúc khải hoàn sau cuộc chinh phạt Cao Ly, Bệ hạ đã ngự ban không ít vàng bạc. Còn nữa, Bệ hạ còn nạp thêm một quý phi tuổi đời còn rất trẻ, vô cùng xinh đẹp, trong cung gọi là Nương Tử. Nghe nói Bệ hạ hết mực sủng ái vị quý phi này, thậm chí người tạm thời nắm quyền ở hậu cung là Cao Quý phi cũng còn kém xa. Sở dĩ người ta xôn xao bàn tán liệu có phải Bệ hạ sẽ sắc lập vị quý phi kia lên ngôi hoàng hậu, vì kiểu ân sủng này xưa nay quả hiếm thấy. Nhưng dù là chuyện triều chính hay hậu cung, tôi nghe vào tai trái ra tai phải, chẳng mấy chốc đã quên hết.
[1] Người đứng đầu nội các.
|