Đông Cung (Phỉ Ngã Tư Tồn)
|
|
Đội kỵ binh đuổi theo càng lúc càng gần, tôi thúc ngựa lao về phía trước như mũi tên đã bắn khỏi cung. Nhưng giữa thảo nguyên bao la không một lằn ranh, không một chướng ngại vật, dù sức ngựa chạy nhanh đến mấy thì sớm muộn gì cũng bị bắt kịp.
Tôi không ngừng ngoái đầu nhìn đám binh sĩ truy đuổi mình, bọn chúng đuổi tới sát tôi lắm rồi, ít nhất phải có đến nghìn tên. Giữa thảo nguyên, trông đám kỵ binh ấy quả thật tôi thấy rùng mình. E rằng đến cha tôi cũng không tùy tiện điều động nhiều người như vậy chỉ để bắt tôi. Vừa phi ngựa phóng như bay, tôi vừa thắc mắc, rút cuộc, những binh sĩ đó là từ đâu đến?
Chẳng mấy chốc, vó ngựa của tôi đã gần đến chân núi Thiên Hằng, phía xa xa, loáng thoáng trông thấy vài đốm đen, tai văng vẳng tiếng ngân dài. Đúng là bài ca chăn cừu của người Đột Quyết rồi, giai điệu ấy vọng vào tai tôi đầy thân thuộc, tôi tự nhủ đó hẳn là người do ông ngoại cử đến đón mình. Tôi bèn kẹp chặt bụng ngựa, thúc nó chạy nhanh hơn nữa. Toán người Đột Quyết cũng nhận ra tôi, họ đứng trên yên ngựa, gắng sức vẫy tay ra hiệu.
Tôi cũng vẫy tay chào lại, ắt họ cũng nhìn thấy đội quân phía sau tôi. Ngựa phi mỗi lúc một nhanh, tôi mỗi lúc một gần họ. Cờ trắng của Đột Quyết đã ở ngay trước mắt, đuôi cờ buông mình dài thượt, xõa tung trước gió chiều, chẳng khác nào một con cá dập dềnh giữa không trung. Tôi quen người cầm cờ, không ai khác chính là thần cung Hách Thất, vốn là cung thủ dưới trướng được ông ngoại trọng dụng nhất. Thấy đám kỵ binh đuổi theo tôi đông nghịt, Hách Thất liền cắm phịch cán cờ vào giữa khe đá, rút vội cây cung sau lưng.
Tôi đang rạp mình trên yên ngựa phóng băng băng nhưng cũng nhìn thấy rõ. Tôi cuống cuồng thét:
- Ta không biết bọn họ là ai đâu!
Vì chúng bám đuôi tôi nãy giờ, nên tôi rất tò mò muốn biết, rốt cuộc chúng là lính phe nào.
Khi khoảnh cách giữa tôi và Hách Thất rút ngắn còn khoảng mười trượng, tôi mới dần nới lỏng cương ngựa. Sau lưng Hách Thất có khoảng mấy chục cung thủ, dưới nắng chiều lấp lóa, tay họ lăm lăm cung tên màu xanh, vừa nheo mắt ngắm bắn đám kỵ binh đang đuổi theo tôi sát nút, vừa thúc ngựa quây tôi vào giữa phe mình. Hách Thất nở nụ cười tươi chào tôi:
- Kính chào tiểu công chúa!
Sở dĩ họ nể mặt mẹ tôi nên ngay từ thưở nhỏ, đám binh sĩ dưới trướng Đại thiền vu Đột Quyết đều xưng tụng tôi như thế, dù tôi không phải nữ vương của Đột Quyết. Gặp được Hách Thất, tôi thấy yên tâm hẳn, thậm chí quên ngay đám kỵ binh đang đuổi phía sau. Tôi phấn khởi nói:
- Hách Thất, chào huynh!
Đội quân tinh nhuệ ấy chỉ còn cách chúng tôi chừng hai tầm tên bắn[5], chúng đến kéo theo trời rung đất chuyển, tiếng vó ngựa rầm rầp sát bên tai.
[5] Hai tầm tên bắn: Người xưa dùng khoảng cách khi bắn tên làm thước đo.
-Chà! – Dường như Hách Thất vừa thở phì một tiếng, vẻ mặt khoái trá, nói. – Quân đông gớm, định đánh nhau với chúng ta chắc?
Dứt lời, Hách Thất liền giương cung, tên đã đặt trên dây, bên cạnh huynh ấy, lá cờ trắng của Đột Quyết no gió tung bay phần phật. Bất kì bộ tộc nào trên thảo nguyên hễ thấy lá cờ này giương lên ở đâu, sẽ tự hiểu dũng sĩ dưới quyền Đại Thiền vu Thiết Nhĩ Cách Đạt đang có mặt ở đó, kẻ nào dám đụng vào dũng sĩ của Đột Quyết, kỵ binh của Đột Quyết tất san phằng lán lều bọn chúng ở, bắt sạch dê bò bọn chúng nuôi, diệt tận gốc thị tộc của bọn chúng… Ở Ngọc Môn Quan này, có kẻ nào dám xấc láo, khinh thường lá cờ trắng này cơ chứ!
Đám kỵ binh kia càng lúc càng đến gần, bọn chúng nghênh ngang như thể xưa nay chưa hề nhìn thấy lá cờ này. Lớp giáp sắt dưới nắng chiều gay gắt trở nên vàng rực, trông càng sáng. Tôi bất giác hít một hơi thật sâu…
Giáp mỏng, yên ngựa, mũ sắt… chúng là kỵ binh của Nguyệt Thị. Tuy không có cờ hiệu, song tôi vẫn nhận ra, đây đích thị là quân của Nguyệt Thị. Mặc dù chưa một lần sang Nguyệt thị, nhưng tôi từng chứng kiến quân lính Nguyệt Thị thao luyện ở phủ đô hộ[6] An Tây. Bộ tộc ấy nuôi toàn ngựa khỏe, giáp trụ rõ nét, cung tên sắc bén, lính tráng dũng mãnh, thiện chiến vô cùng… Hách Thất cũng nhận ra, huynh ấy ngoái đầu nhìn tôi, nói:
[6] Phủ đô hộ: Là cơ quan quản lý các khu vực biên giới của một số triều đại phong kiến ở Trung Quốc.
- Bẩm Công chúa, bây giờ người nên chạy ngựa về hướng đông, băng qua sông Tân Lý, lều của Đại Thiền vu ở phía đông con sông.
Tôi gào lên:
- Muốn đánh thì cứ đánh đi, chẳng lẽ ta lại tháo chạy một mình hay sao?
Hách Thất gật đầu rồi nhường đao của mình cho tôi. Lòng bàn tay tôi rịn mồ hôi khi cầm thanh đao. Đội quân của Nguyệt Thị lợi hại thế nào, tôi thừa hiểu, huống hồ quân địch ở trước đông như kiến, phăm phăm lao tới như vũ bão. Dù Hách Thất là thần cung, song phe tôi chỉ khoảng mấy chục người, e là khó lòng địch nổi.
Đảo mắt thấy đám kỵ binh kia mỗi lúc một áp sát, tay tôi bủn rủn, chực đánh rơi thanh đao. Tuy tôi luôn thấy mình chẳng thua kém gì các ca ca của tôi, song cũng phải nói thật, xuất trận đánh địch, có lẽ đây là lần đầu.
Cờ hiệu màu trắng phần phật tung bay ngay sau lưng tôi, vầng dương sắp lặn xuống sát đường chân trời trên thảo nguyên, cỏ chè vè nhấp nhô dậy sóng theo làn gió, chẳng khác nào gió cát cuồn cuộn trên sa mạc. Thoắt cái đất trời đã nhuốm lạnh, mắt tôi hấp háy liên hồi, vì mồ hôi lăn tròn rơi xuống khóe mắt cay sè.
Đám binh sĩ kia trông thấy bóng cờ trắng, cuối cùng ghìm cương ngựa, chúng dàn ngang thế trận, dần áp sát. Hách Thất gằn giọng, quát:
- Có Hách Thất của Đột Quyết ở đây, vó ngựa của các ngươi đang giẫm lên thảo nguyên của Đột Quyết, lẽ nào định không tuyên chiến mà đánh hay sao?
Tài bắn cung của Hách Thất nức tiếng gần xa, Hách Thất trong tiếng Đột Quyết có nghĩa là mũi tên. Nghe truyền, một khi Hách Thất muốn bắn trúng con mắt bên trái của con chim nhạn đang chao lượn trên bầu trời, tuyệt nhiên sẽ không lệch sang con mắt bên phải, vì lẽ đó mà Đại Thiền vu vô cùng tin tưởng Hách Thất. Quả nhiên bọn kia vừa nghe đến cái tên Hách Thất, cũng khó tránh khỏi nao núng, một tên rong ngựa tiến lên, liến thoắng tuôn một tràng dài. Tôi không biết tiếng Nguyệt Thị, nhờ Hách Thất phiên dịch mới biết thì ra đám kỵ binh ấy vừa để lạc mất một tên nô lệ nên mới đuổi tới đất này. Còn đây có phải địa giới của Đột Quyết hay không thì thực ra biên giới giữa Nguyệt Thị, Đột Quyết và Tây Lương ở chân núi Thiên Hằng này xưa nay vốn là việc chẳng ai quản lý, nếu nói đây là lãnh thổ của Đột Quyết, e có phần gượng gạo.
- Lạc mất nô lệ ư?
Tôi lấy làm lạ, bèn nhắc lại. Gã thủ lĩnh phe Nguyệt Thị giơ roi ngựa trỏ vào tôi, rồi ngón tay múa may nói gì đó. Hách Thất phẫn nộ, gào lớn:
- Công chúa, hắn dám nói người chính là nô lệ bị lạc của chúng.
Tôi bực mình, liền tuốt đao, nói:
- Hỗn láo!
Hách Thất gật đầu:
- Bọn này chỉ giỏi kiếm cớ thôi.
Thấy gã tướng quân của Nguyệt Thị tiếp tục luyên thuyên, tôi hỏi:
- Hắn nói gì thế?
- Hắn nói nếu bên ta không giao người cho chúng, chúng buộc phải điều binh đánh cướp. Đột Quyết bao che cho nô lệ của Nguyệt Thị, đẩy hai nước vào thế giao tranh, đều là do người Đột Quyết không biết điều.
Tôi bực lắm, cười phá lên:
- Có mà bọn chúng không biết điều ấy, còn dám đổ vạ cho chúng ta.
Hách Thất trầm giọng, nói:
- Tiểu Công chúa nói chí phải, có điều địch cậy thế đông, lại nhằm vào tiểu Công chúa… Bẩm công chúa, người cứ đi về hướng đông tìm lều của Đức vua, rồi bảo người phái viện binh tới. Đám người Nguyệt Thị xấc xược, vô lễ này, nếu không địch nổi, hẳn phải báo cho Đại Thiền vu hay, chớ để mình mắc bẫy bọn chúng.
Nói đi nói lại, ý Hách Thất vẫn muốn để tôi thoái lui. Dẫu nơm nớp lo sợ, song tôi vẫn ưỡn ngựa, xẵng giọng, nói:
- Huynh cử người khác về báo tin đi, chứ ta quyết không bỏ chạy!
Hách Thất ngập ngừng rồi nói:
- Tiểu Công chúa ở đây, Hách Thất không đủ người để bảo vệ Công chúa.
Ngẫm lại một hồi cũng thấy điều Hách Thất nói là hiển nhiên. Nếu tôi ở đây, chỉ e sẽ vướng chân bọn họ. Đành rằng, tôi bắn tên cũng khá, song tôi chưa một lần ra trận, trong khi bọn họ đều là những dũng sĩ Đột Quyết được rèn giũa nơi sa trường.
- Được rồi. – Tôi giữ chặt chuôi đao, nói. – Để ta đi báo tin!
Hách Thất gật đầu, lấy túi nước bên hông ngựa xuống, dặn tôi:
- Đi thẳng về hướng đông chừng ba trăm dặm, nếu không tìm được lều của Đại Thiền vu, thì rẽ về hướng bắc, quân của Tả Cốc Lãi vương cách đó không xa, chừng trăm dặm đổ lại.”
- Ta biết rồi.
Hách Thất cầm cán đao đập mạnh vào mông ngựa, quát lớn:
- Đi!
Chú ngựa nhỏ lồng lên rồi lao vút đi, đám kỵ binh của Nguyệt Thị la om sòm. Thế ngựa phi nhanh như bay, trong nháy mắt đã bỏ lại sau lưng tất thảy. Tôi không ngừng ngoái đầu lại nhìn, chỉ thấy đám người của Nguyệt Thị đen kịt như đàn kiến chuyển tổ ngày mưa, Hách Thất và mấy chục binh sĩ Đột Quyết bị chúng quây lại. Một đám lính Nguyệt Thị khoảng chục tên tách đoàn định đuổi theo tôi, nhưng mũi tên của Hách Thất đã lao đến bủa vây, bọn chúng không kẻ nào tránh được loạt tên chí mạng ấy, người ngựa đổ rầm, trong lúc gấp gáp không kẻ nào đuổi kịp. Ngựa của tôi càng phóng càng nhanh, lúc ngoảnh lại nhìn chỉ còn thấy bóng cờ trắng, những thứ khác đều phai nhòa dưới ráng chiều, sắc trời ảm đạm và bóng đêm phủ mờ vạn vật.
|
Tôi thúc ngựa phi nhanh trên thảo nguyên. Trời không trăng không sao, oi ả như báo hiệu một cơn dông sắp đến. Lần đầu tiên tôi gặp kiểu thời tiết này, nơm nớp lo sợ trời sẽ đổ mưa. Giữa thảo nguyên mà gặp mưa to đâu phải chuyện đùa, tôi ngước nhìn bầu trời, trời đen kịt, không một bóng trăng sao, khó mà đoán được phương hướng, tôi chỉ lo sẽ bị lạc đường.
Trên thảo nguyên thì làm gì có đường, cứ thế mà đi thôi. Tôi thúc ngựa chạy suốt đến nửa đêm, may sao đám lính Nguyệt Thị kia không đuổi theo. Nhưng phe Hách Thất cũng chưa phá được vòng vây, tôi vừa sốt ruột không biết Hách Thất an nguy thế nào, vừa sợ bị lạc đường. Đã cuống lại vội, tôi suýt bật khóc. Bất chợt, một tiếng “roẹt” dội tới, tia chớp loằng ngoằng ánh tím xé toạc màn đêm âm u, lóe sáng một góc trời, tiếng sấm dội từng cơn ầm ầm.
Sắp mưa thật rồi, tôi phải tìm chỗ trú mưa thôi. Những tia chớp loáng như những con rắn rẽ mây đen trườn khắp bốn phía, nhờ ánh chớp loang loáng, tôi mới nhìn thấy một dốc đá phía xa. Thì ra tôi chạy đến tận nửa đêm, quanh quẩn mãi cuối cùng vẫn ở dưới chân núi Thiên Hằng.
Tìm phiến đá trú mưa trước đã, thà thế còn hơn chết vì dầm mưa. Tôi thúc ngựa tiến về trước, chú ngựa nhỏ khéo léo giẫm lên đá núi, tôi lo đá dăm cắm vào móng ngựa, bèn trườn xuống, dắt nó men theo đường núi. Cơn mưa dông ồ ạt kéo đến, mưa như những ngọn roi gân bò quất xối xả lên người, lên mặt đau buốt. Quần áo sũng nước mưa, nước mưa xuôi theo tóc len vào mắt khiến mắt tôi không thể nào mở nổi. Tôi vuốt khuôn mặt ướt nhèm, mãi mới trông thấy một phiến đá to nhô hẳn ra, núp dưới phiến đá đó thì có thể trú mưa được rồi.
Tôi dắt ngựa bò xuống mỏm đá to, cả người cả ngựa co ro ở đó. Bên ngoài, mưa vẫn rào rào như trút nước. Nhớ tới Hách Thất, lòng tôi nóng như lửa đốt. Chú ngựa nhỏ quỳ trên đá, dường như nó cũng hiểu nỗi lo lắng của tôi, thỉnh thoảng thè lưỡi liếm láp lòng bàn tay tôi. Tôi ôm cổ nó, thì thầm:
- Chẳng rõ đám Hách Thất thế nào rồi…
Trời vẫn mưa tầm tã, nước đổ xuống từ vách núi cao tụ thành tấm mành nước trắng xóa phủ lên mặt phiến đá. Không biết trời còn mưa đến bao giờ, một lúc lâu sau mưa mới ngớt. Núi đá bên ngoài còn no nước, nước róc rách chảy như một dòng suối nhỏ. Gió nhẹ vén tấm rèm mây đen, khoe mảnh trăng khuyết trong ngần.
Tôi hắt xì, áo quần ướt nhẹp, dính vào cơ thể, cơn gió thổi qua mà lạnh run người. Ngòi lấy lửa đem theo đã ngấm nước mưa, chỗ này lại không có củi khô, muốn nhóm lửa cũng không được.
Bên ngoài, tiếng nước chảy nhỏ dần, chú ngựa nhỏ sáp lại gần, đầu lưỡi ấm nóng của nó liếm lên mặt tôi. Tôi thầm nghĩ nếu mưa đã tạnh hẳn thì cũng nên tranh thủ thời gian xuống núi tìm đường tiếp.
May mà lúc xuống núi có trăng, trăng chỉ tôi hướng phải đi. Ngựa cuồng chân dưới vách đá hồi lâu, lúc này hăng hái lắm, lao vun vút về phía rạng đông. Hình như mặt trời sắp ló dạng, nếu không sao người tôi lại nóng thế này?
Tôi mơ hồ nghĩ, tay cương cũng nới lỏng dần, lưng ngựa tròng trành chao nghiêng như một chiếc nôi, thật thoải mái làm sao! Cả đêm thức trắng, giờ tôi buồn ngủ díp cả mắt.
Không rõ tôi đã thiếp đi bao lâu, hình như mới một lúc, mà có khi đã lâu lắm rồi. Ngựa đi qua một con sông, ngựa lội bì bõm bắn nước lên người lạnh buốt, lúc ấy tôi mới giật mình choàng tỉnh. Đồng không mông quạnh trải khắp bốn bề, núi Thiên Hằng lùi lại tít phía sau. Nhìn từ xa, ngọn núi hùng vĩ ấy chẳng khác nào một người khổng lồ đầu đội trời, chân đạp đất. Người khổng lồ đội trên đầu một chiếc mũ trắng tinh, tích tụ băng tuyết quanh năm không tan chảy, con sông dưới chân tôi cũng bắt nguồn từ băng tuyết trên đỉnh Thiên Hằng gom dòng đổ xuống, vì thế nên nước sông lạnh thấu xương.
Người run rẩy, tôi nhớ ra mình chưa ăn uống gì, chẳng trách người lại uể oải, mệt mỏi. Lương khô buộc sẵn sau yên ngựa đây rồi, song miệng tôi khô khốc, nhạt nhẽo, chẳng muốn ăn. Tôi thầm nghĩ, hay xuống ngựa, uống chút nước nhỉ? Bỗng thấy gần đó có một bóng đen khẽ cử động, chực lao thẳng về phía mình, tôi nghĩ ngay đến bọn lính Nguyệt Thị. Cố căng mắt nhìn, cũng chỉ trông thấy cái bóng lờ mờ, song di chuyển rất nhanh, may sao đằng đó chỉ có một người một ngựa.
Nếu là người của Tả Cốc Lãi vương thì tốt quá… Tôi cố tuốt đao sau lưng, ngộ nhỡ gặp địch thì sẽ dốc sức chiến đấu đến cùng.
Đấy hẳn là ý nghĩ cuối cùng của tôi, rồi trước mắt sụp tối, tôi ngã nhào khỏi yên ngựa.
Người Tây Lương từ nhỏ đã thạo cưỡi ngựa và bắn cung. Bất kể là trai hay gái, lúc biết đi cũng là lúc biết cưỡi ngựa. Tôi từ nhỏ đã lớn lên trên lưng ngựa, đường đường là Cửu Công chúa của Tây Lương mà lại ngã ngựa, chuyện này mà đến tai người dân sống ở Vương thành Tây Lương, chỉ e người ta sẽ cười nhạo.
Lúc tỉnh lại, tay vẫn lăm lăm thanh đao, tôi chớp mắt nhìn bầu trời trong xanh, mây trắng sà xuống như chỉ ngang tầm tay. Thì ra tôi đang ngả lưng trên một sườn đồi thoai thoải, cây cối trên sườn đồi che khuất ánh nắng chói chang, gió thu hây hây, mát mẻ, tiếng vó ngựa quen thuộc vọng lại từ một nơi nào đó rất gần… Tôi tự nhủ hãy cố thả lỏng…
- Tỉnh rồi à?
Giọng này nghe quen quen. Tôi cố gắng ngồi dậy mà đầu óc choáng váng, chớp chớp mắt, vẫn thấy khó mà tin được.
Gã buôn chè người Trung Nguyên – Cố Tiểu Ngũ – đang ngồi trên dốc cỏ, uể oải gặm một miếng thịt bò khô.
Tôi vô cùng sửng sốt:
- Sao huynh lại ở đây?
Hắn nói:
- Tình cờ đi ngang qua.
Tôi không tin!
Bụng tôi sôi ùng ục, tôi nhớ sau yên ngựa có lương khô, liền huýt sáo gọi ngựa về. Nó chạy lại, tôi căng mắt nhìn, trên lưng ngựa không có gì, đến bộ yên cũng đâu mất. Tôi nhìn kỹ lần nữa, gã Cố Tiểu Ngũ đang ngồi chễm trệ trên yên ngựa của tôi, mà thịt bò sấy hắn đang gặm, chẳng phải lương khô tôi mang theo đấy ư?
- Này! – Tôi tức tối, quát. – Lương khô của ta đâu?
Miệng vẫn đang nhai thịt, hắn bẽn lẽn giơ nửa miếng thịt trên tay lên:
- Vẫn còn miếng cuối cùng….
Miếng cuối cùng gì chứ, mẩu cuối cùng thì có.
Tôi trừng mắt nhìn hắn, đoạn nhét tọt mẩu thịt bò khô bé tẹo vào miệng, tức mình gào lên:
- Huynh ăn hết rồi? Tôi biết ăn cái gì đây?
- Muội đói à. – Hắn nhấc túi nước,uống một ngụm rồi ỡm ờ nói. – Muội mới ốm dậy, ăn mấy thứ này không tốt đâu.
Ốm cái gì chứ? Tôi nhảy lên:
- Huynh ở đâu ra thế hả? Lại còn ăn hết lương khô của ta! Đền đi! Mau đền cho ta!
Hắn cười giả lả:
- Muội cũng ăn đấy thôi, còn đền gì nữa!
Tôi nổi cơn thịnh nộ, sục sạo tìm thanh đao Hách Thất đưa.
Trông tôi loay hoay như con kiến bò trong chảo nóng, hắn bèn tỉ tê:
- Hay muội theo ta về Vương thành nhé, ta đền muội hẳn một con bò?
Tôi ném cho hắn cái lườm:
- Sao ta phải về Vương thành với huynh?
- Chẳng phải cha muội dán cáo thị thông báo, người sẽ thưởng ngay một trăm nén vàng cho ai tìm và đưa được muội về Vương thành. – Hắn nhìn tôi vẻ rất nghiêm túc. – Những một trăm nén vàng đấy! Mua được bao nhiêu bò rồi còn gì!”
Tôi tức điên lên, chẳng phải tức vì cái gì xa xôi, vì một trăm nén vàng kia kìa:
- Cha ta dán cáo thị như thế thật à?
Hắn bảo:
- Chẳng lẽ lại là giả? Ta chắc chắn đấy!
- Ta chỉ đáng giá một trăm nén vàng thôi à? – Tôi thất vọng ra mặt. – Ta cứ tưởng tối thiểu cũng phải một vạn thỏi vàng chứ! Chưa kể còn phải phong hầu, thưởng cả vô số dê, bò, nô lệ nữa…
Thế mà cha vẫn thường bảo tôi là Tiểu Công chúa người yêu quý nhất. Yêu quý gì mà chỉ treo thưởng có một trăm nén vàng. Người thật keo kiệt! Keo kiệt quá!
Cố Tiểu Ngũ phì cười, không biết hắn đang cười cái gì. Tôi rất ghét vẻ mặt hắn lúc cười, nhất là cái kiểu cười mỉm rồi nhìn tôi chằm chằm, chẳng khác nào đang nhìn một trăm nén vàng.
Tôi quát:
- Huynh đừng có nằm mơ, còn lâu ta mới về với huynh!
Cố Tiểu Ngũ nói:
- Vậy muội định đi đâu? Từ lúc muội bỏ đi, sứ giả Nguyệt Thị tức giận lắm, họ nói đức vua cố tình để muội đi. Nguyệt Thị còn sai quân lính đi tìm muội về. Muội cứ lang thang trên thảo nguyên thế này, lỡ gặp phải quân Nguyệt Thị thì khốn…
Đúng là khốn đốn thật, thì chẳng đã gặp quân Nguyệt Thị rồi còn gì. Nhớ đến đó, tôi bất giác than: “Trời ơi!”, suýt thì quên mất Hách Thất. Tôi phải khẩn trương đi báo tin cho ông ngoại!
Cố Tiểu Ngũ thấy mặt tôi tái mét, liền hỏi:
- Muội sao thế?
Tôi định không nói, nhưng trên thảo nguyên mênh mông này, giờ chỉ có hắn ở bên tôi, hơn nữa, kiếm thuật của sư phụ thuộc hàng anh hùng cái thế, chưa biết chừng kiếm pháp của gã Cố Tiểu Ngũ này cũng thuộc loại siêu phàm.
Quả nhiên, sau khi nghe xong chuyện Nguyệt Thị truy đuổi tôi, Cố Tiểu Ngũ liền bảo:
- Theo như muội nói thì lều của Đại Thiền vu cách chỗ này ít nhất ba trăm dặm?
Tôi gật đầu.
- Còn Tả Cốc Lãi vương cũng phải cách đây khoảng trăm dặm?
Tôi lại gật đầu.
- Ngặt nỗi người dân Đột Quyết du mục nay đây mai đó, muội định tìm kiểu gì?
- Chuyện đó thì khỏi phải nghĩ nhiều, kiểu gì tôi cũng phải cứu được Hách Thất.
Cố Tiểu Ngũ chau mày rồi nói:
- Nước xa không cứu nổi lửa gần, phủ đô hộ An Tây ở ngay trước mặt, sao không mượn quân của họ để đánh Nguyệt Thị?
Tôi ngẩn người. Phải công nhận Trung Nguyên rất mạnh, về quân sự, phủ đô hộ An Tây còn đảm đương trọng trách trấn thủ Tây Vực, khiến các nước phải nể sợ. Song cho dù giữa các nước xảy ra tranh chấp cũng chẳng ai đi cầu cứu viện binh của Trung Nguyên cả. Vì trong mắt người Tây Vực chúng tôi, giao chiến là chuyện giữa người Tây Vực với nhau, Trung Nguyên là thiên triều thượng quốc, phái hùng binh đến đóng giữ ở nơi này thì là chuyện đã đành, song chẳng mắc mớ gì đến việc tranh chấp giữa các nước Tây Vực với nhau. Cũng như anh em trong nhà gây hấn, nói gì thì nói, làm gì có chuyện gọi người ngoài tới can.
Tôi nói:
- Tuy phủ đô hộ An Tây gần đây thật nhưng chuyện này không thể để họ biết được.
Cố Tiểu Ngũ nhướng mày:
- Sao lại thế?
Tôi chẳng biết nói thế nào, tóm lại đây là điều cấm kỵ đối với tất cả các nước Tây Vực. Tôi bảo:
- Chuyện các nước Tây Vực đánh nhau thì có liên quan gì đến hoàng đế Trung Nguyên?
Cố Tiểu Ngũ nói:
-“Dưới khắp gầm trời, đâu chẳng đất vua, trên mọi bến bờ, ai không thần tử.”[7] Hễ là chuyện thiên hạ, tất có liên quan đến Hoàng đế Trung Nguyên, huống hồ Trung Nguyên lập phủ đô hộ An Tây cốt để trấn an Tây Vực. Nguyệt Thị tỏ thái độ xấc xược, cũng đã đến lúc nên dạy cho bọn họ một bài học.
[7] Trích Kinh thi.
Mấy lời trưởng giả của hắn, tôi nghe chẳng lọt tai. Hắn dắt hai con ngựa, rồi tiếp lời:
- Rẽ về hướng nam, đi nửa ngày đường là đến phủ đô hộ An Tây, ta đưa muội đi cầu viện binh.
Tôi lưỡng lự, chưa vội quyết:
- Việc này… không hay lắm thì phải?
- Thế muội có muốn cứu Hách Thất không?
- Đương nhiên là muốn!
Hắn đỡ tôi lên ngựa, nói:
- Vậy còn chần chờ gì nữa!
Đi được một quãng rất xa, tôi mới sực nhớ ra:
- Sao huynh tìm được ta?
Trời trưa nắng gắt, phủ lên khuôn mặt trắng ngần tựa ngọc Hòa Điền hoàn mỹ của hắn. Hắn cười tươi, khoe hàm răng trắng bóc:
- Gặp may thôi!
|
Chương 10
Chúng tôi thúc ngựa về hướng nam, quả nhiên tới phủ đô hộ An Tây không cần tới nửa ngày đường, tầm xế chiều thành lũy đã hiện sừng sững ngay trước mắt. Khoảng hơn một trăm năm về trước, Hoàng đế Trung Nguyên đã lập phủ đô hộ An Tây rồi đóng quân, vỡ hoang, trấn giữ miền hiểm yếu này. Nơi đây vốn là tuyến xung yếu trên con đường thông thương mà mọi lái buôn từ Nam qua Bắc phải đi qua, cũng sầm uất không kém Vương thành Tây Lương.
Tôi cứ lo mình và Cố Tiểu Ngũ, hai kẻ thân cô thế cô, thế nào phủ đô hộ An Tây cũng tỏ ra phớt lờ, nào ngờ Cố Tiểu Ngũ dẫn tôi vào thành, xông thẳng đến trước cổng nha môn, gõ trống công đường.
Sau này tôi mới biết chiếc trống ấy có ý nghĩa rất lớn, tuy gọi là “trống thái bình” song thực ra nó còn được biết với cái tên “trống tinh”, hồi trống gióng lên kêu gọi chinh chiến. Đám lính canh xông ra, đưa chúng tôi vào phủ, chẳng cho chúng tôi giải thích một lời. Đô hộ đại nhân ngồi chễm chệ trên công đường. Ông ta mặc giáp, chòm râu rậm, rất có dáng vẻ uy phong, lẫm liệt của một viên mãnh tướng. Trong số những người Trung Nguyên tôi từng gặp, ông ta là người có dáng dấp của một vị tướng cầm binh xông pha trận mạc nhất.
Đô hộ đại nhân thấp giọng hỏi chúng tôi, tôi không hiểu tiếng Trung Nguyên, đành líu lưỡi nhìn Cố Tiểu Ngũ. Thế mà Cố Tiểu Ngũ lại ra hiệu bảo tôi tự trình bày, lần này chắc tôi đành chịu. May sao Đô hộ đại nhân biết nói tiếng Đột Quyết. Thấy tôi có vẻ không biết tiếng Trung Nguyên, ông ta liền hỏi bằng tiếng Đột Quyết:
- Kẻ dưới công đường kia vì sao mà gióng trống?
Mẹ tôi là người Đột Quyết nên tôi cũng thạo tiếng Đột Quyết. Tôi thuật lại chuyện Nguyệt Thị tràn quân sang địa phận của Đột Quyết rồi khẩn thiết xin ông ấy phái binh cứu Hách Thất.
Quan Đô hộ tỏ vẻ băn khoăn, cũng bởi từ khi Trung Nguyên lập phủ đô hộ An Tây tới nay, trừ việc dẹp yên quân phiến loạn, họ chưa bao giờ can thiệp vào chuyện chính sự giữa các tiểu quốc ở Tây Vực. Tuy Nguyệt Thị xâm phạm lãnh thổ Đột Quyết là chuyện sai rành rành, nhưng suy cho cùng, Đột Quyết có quân đội hùng hậu, trong khi Nguyệt Thị vốn yếu, lấy yếu lấn áp mạnh, chuyện hiếm hoi này quả thật không hợp lẽ thường tình nên ông ấy lưỡng lự.
Quả nhiên, ông ta nói:
- Kỵ binh Đột Quyết nổi danh khắp quan ngoại, vì cớ gì người Đột Quyết không tự mình xuất binh mà phải cầu xin cứu viện?
Tôi nói, sở dĩ chúng tôi xin cứu viện của phủ đô hộ An Tây, cũng bởi lều chúa thường xuyên đi rời không cố định, còn Tả Cốc Lãi vương dù cũng ở gần, song từ đây đến đó e là mất không ít thời giờ, tôi chỉ mong phủ đô hộ có thể cứu kịp thời Hách Thất.
Cứ nghĩ đến việc phe Hách Thất chỉ có mấy chục mạng người mà phải chống cự với ngần ấy binh sĩ Nguyệt Thị là ruột gan tôi lại nóng như có lửa đốt. Đô hộ đại nhân vẫn do dự, bấy giờ Cố Tiểu Ngũ bất ngờ nói một câu bằng tiếng Trung Nguyên.
Cố Tiểu Ngũ vừa dứt lời, gã quan Đô hộ kia có vẻ giật mình kinh hãi, đứng bật dậy. Cố Tiểu Ngũ tiến lên, khom người hành lễ, giọng hắn lí nhí khiến tôi chẳng nghe thấy gì, huống hồ tôi lại không biết tiếng Trung Nguyên. Chỉ thấy quan đô hộ gật đầu lia lịa sau vài câu nói của hắn.
Lát sau, quan Đô hộ đã phái một viên Thiên phu trưởng[1] dẫn theo hai nghìn binh sĩ, tháp tùng chúng tôi lên đường cứu người ngay trong đêm.
[1] Đây là chức võ quan chỉ huy đơn vị gồm một nghìn quân. Ngày xưa, người ta chia quân đội thành những đơn vị mười người, năm mươi người, một trăm người, một nghìn người, một vạn người và tương ứng có các chức vụ: thập phu trưởng, ngũ thập phu trưởng, bách phu trưởng, thiên phu trưởng, vạn phu trưởng.
Tôi mừng rơn. Lúc rời phủ đô hộ An Tây, tôi hỏi Cố Tiểu Ngũ:
- Huynh nói gì mà gã quan đó lại đồng ý phái quân đi cứu người thế?
Cố Tiểu Ngũ nở nụ cười xảo quyệt, nói:
- Chuyện này không thể tiết lộ với muội được!
Tôi dẩu môi hờn dỗi.
Quân đội Trung Nguyên có kỷ luật rất nghiêm ngặt, tuy hành quân trong đêm, song đội ngũ vẫn chỉnh tề, ngoài tiếng vó ngựa chen lẫn tiếng mai giáp thỉnh thoảng cọ vào nhau sàn sạt, tiếng bó đuốc cháy phần phật, tuyệt không nghe thấy bất kỳ âm thanh nào khác. Tôi để ý thấy người Trung Nguyên dùng đuốc cán gỗ quấn sợi thô, tẩm dầu hoả. Dầu hoả chính là thứ có rất nhiều dưới núi Thiên Hằng, màu đen, rất dễ bắt lửa, thỉnh thoảng dân du mục vẫn dùng để đun nước. Có điều người trong Vương thành chê nó nhiều khói, nặng mùi nên ít khi dùng. Không ngờ quân sĩ Trung Nguyên lại tẩm lên đuốc. Tôi thấy người Trung Nguyên quả là thông minh, bọn họ nghĩ ra những cách mà chúng tôi không tài nào nghĩ ra được.
Chúng tôi hành quân suốt đêm, lúc tảng sáng mới đuổi kịp đám quân lính của Nguyệt Thị. Bấy giờ chúng đã vào đến lãnh thổ Nguyệt Thị.
Đạo quân Nguyệt Thị đi rất nhanh, lúc chúng tôi bắt kịp đã chẳng thấy màu cờ trắng đâu, thậm chí Hách Thất và mấy chục dũng sĩ Đột Quyết, cả người lẫn ngựa đều mất tăm. Tôi hốt hoảng, chỉ sợ chúng đã giết toàn bộ quân của Hách Thất. Cố Tiểu Ngũ quay sang bàn bạc với tay Thiên phu trưởng bằng tiếng Trung Nguyên, binh sĩ Trung Nguyên truyền lệnh rồi bắt đầu dàn đội hình.
Cha tôi từng nói, người Trung Nguyên rất chú trọng trận pháp trong lúc giao chiến, lấy ít địch nhiều vô cùng lợi hại. Nhất là lúc này, binh lực Trung Nguyên hơn hẳn quân sĩ bên Nguyệt Thị một bậc, họ đang ngầm bố trí vòng vây. Gã Tướng quân phe Nguyệt Thị liền ghìm ngựa quay lại, quát tháo om sòm.
Tôi chẳng hiểu hắn đang nói gì. Cố Tiểu Ngũ buôn chè qua các nước Tây Vực, tất hiểu tiếng Nguyệt Thị. Hắn nói:
- Gã đó đang chất vấn chúng ta, sao lại dẫn binh tràn vào lãnh thổ Nguyệt Thị.
Tôi nói:
- Tối qua hắn dẫn binh xông vào địa phận của Đột Quyết thì sao? Đã thế còn dám nói ta là nô tì đi lạc của chúng nữa chứ, bây giờ lại dám giở cái lẽ cây ngay không sợ chết đứng à?
Cố Tiểu Ngũ nói dăm ba câu với Thiên phu trưởng đứng bên cạnh, Thiên phu trưởng liền sai người đi đáp lời. Cố Tiểu Ngũ cười, nói:
- Ta nói với bọn họ rằng, chúng ta đang hộ tống Công chúa Tây Lương về, tiện đường đi ngang qua, rồi bảo bọn họ không cần hoảng loạn, chúng ta tuyệt không xâm phạm lãnh địa Nguyệt Thị.
Tôi thầm nghĩ, nếu nói đến loại người trơ tráo, vô liêm sỉ, Cố Tiểu Ngũ mà tự nhận mình đệ nhị thiên hạ thì đố ai dám vỗ ngực xưng mình đệ nhất. Hắn nói dối mà hùng hồn, lý lẽ đâu ra đấy, phải chăng người dân Trung Nguyên ai cũng như hắn? Không chỉ sư phụ mà Cố Tiểu Ngũ cũng vậy.
Đôi bên vẫn đang lời qua tiếng lại, tay Thiên phu trưởng đã dẫn một nghìn kỵ binh, nhân lúc trời tờ mờ sáng đánh bọc sườn từ phía sau, đợi khi phe Nguyệt Thị kịp nhận ra thì quân tiên phong từ đằng này đã bắt đầu đột kích.
Trận chiến này có thắng cũng chẳng có gì lạ. Quân Nguyệt Thị thua to, gần như không kẻ nào thoát được, đa số đều bỏ mạng dưới tên đao sắc bén của kỵ binh Trung Nguyên, số còn lại đương nhiên địch không nổi, liền buông vũ khí quy hàng. Cố Tiểu Ngũ tuy chỉ là gã buôn chè nhưng cũng thật gan góc. Đứng trước cảnh máu chảy đầu rơi, thương vong vô số này, hắn lại không hề chau mày, cứ như cảnh tàn sát vừa rồi chỉ là một trò vui. Tay Thiên phu trưởng người Trung Nguyên hiển nhiên đã quen nơi chiến trường, gã giải quyết những kẻ đầu hàng đâu ra đấy. Hai nghìn kỵ bịnh áp giải khoảng trăm tên tàn binh của Nguyệt Thị đi về phía đông.
Nhân lúc nhốn nháo, tôi lao vào giữa đám quân Nguyệt Thị tìm Hách Thất, song chẳng thấy tăm hơi huynh ấy đâu. Tay Tướng quân Nguyệt Thị bị bất làm tù binh, bị người ta trói chặt, dẫn đến trước mặt Thiên phu trưởng, gã Thiên phu trưởng lại cung kính giao người cho Cố Tiểu Ngũ. Tôi để Cố Tiểu Ngũ thẩm vấn gã Tướng quân Nguyệt Thị kia, song gã ngang bướng, kiên quyết không chịu khai. Cố Tiểu Ngũ lạnh lùng phán:
- Đã không khai thì giữ lại có ích gì?
Tay Thiên phu trưởng nghe vậy, lập tức sai người lôi hắn đi chặt đầu. Quân lệnh như sơn, đầu của gã Tướng quân Nguyệt Thị lập tức bị người ta chém bay. Bọn họ còn nắm tóc, giơ cái đầu dâng lên trước mặt chúng tôi. Máu tươi từ cổ chảy xuống bãi cỏ xanh biếc.
|
Tôi không kìm nổi lòng mình, thêm vào đó, cả ngày trời chưa có thứ gì lót dạ, đầu tôi váng vất từng cơn, người bên cạnh trông sắc mặt tôi kém tươi, có lòng đưa tôi túi nước, nhưng tôi uống không vào, chỉ nghe tiếng Cố Tiểu Ngũ sai người dẫn tới một tay lính Nguyệt Thị khác. Trước tiên cho gã thấy thủ cấp của tướng quân mình, sau hỏi tăm tích của Hách Thất. Người Nguyệt Thị tuy dũng mãnh, thiện chiến, song kẻ bị bắt làm tù binh ắt sa sút ý chí, lại tận mắt chứng kiến tướng lĩnh bị chém, sợ đến nỗi khai hết từ đầu đến cuối.
Thì ra đám Hách Thất vừa đánh vừa lui về chân núi Thiên Hằng. Bọn họ chiếm núi đá cố thủ, cho đến lúc dùng cạn tên. Song bọn lính Nguyệt Thị cũng không giết mà chúng cướp ngựa, đuổi bọn họ vào tận sâu trong núi hoang. Lũ Nguyệt Thị ấy thật tàn ác, trong núi có bầy sói dữ, mà Hách Thất lại không tên không ngựa, giả như gặp bầy sói, vậy chỉ có chết chứ sống sao được!
Trong lòng tôi nóng như lửa đốt, vội vã dẫn người đi tìm Hách Thất. Cố Tiểu Ngũ nói:
- Người Đột Quyết đâu có dễ chết thế?
Thoạt nghe, tôi có cảm giác hắn đang an ủi mình, nhưng sau đó lại thấy bực bội, khó chịu.
Chúng tôi tìm quanh núi Thiên Hằng, mãi đến khi mặt trời gác núi, tôi gần như tuyệt vọng. Núi Thiên Hằng rộng lớn thế này, rốt cuộc đến lúc nào mới tìm ra Hách Thất? Tôi cầu nguyện Hách Thất sẽ không bị lũ sói ăn thịt, huynh ấy mà bị sói ăn thịt, ông ngoại chắc chắn sẽ đau lòng lắm. Nhưng tôi lại tự nhủ Hách Thất là dũng sĩ có tiếng trên thảo nguyên, đâu dễ bị lũ sói ăn thịt, tuy bên người không ngựa, trên tay không tên nhưng Hách Thất là Hách Thất cơ mà, thế nào huynh ấy cũng sống sót trở về.
Mặt trời sắp xuống núi, gió thổi mang theo nhiều hơi lạnh của đêm, mấy tên lính đi trước bỗng la lên, tôi vội ghì cương ngựa, hỏi:
- Sao rồi?
Đám người ấy liến thoắng la hét bằng tiếng Trung Nguyên, rồi tôi thấy Hách Thất lồm cồm bò lên từ vách đá, tay trái siết chặt một hòn đá nhọn, cánh tay phải đẫm máu, theo sau có vài người cũng bò dậy, đứng trên vách đá. Dáng vẻ họ nhếch nhác, mặt mũi đầy bụi đất, song ánh mắt vẫn anh dũng, quả cảm nhìn toán quân sĩ Trung Nguyên.
Tôi gào toáng lên, lật mình nhảy phắt xuống ngựa, tất tưởi nhào tới ôm chầm lấy Hách Thất. Chắc tôi chạm phải vết thương trên người Hách Thất khiến huynh ấy nhăn nhó mặt mày, song huynh ấy vẫn nhoẻn miệng cười:
- Tiểu Công chúa!
Cả đội vui mừng hò reo, trông đám lính Trung Nguyên phấn khởi hơn hẳn chiến thắng lúc sáng.
Buổi tối, chúng tôi dựng trại dưới chân núi Thiên Hằng. Lều trại người Trung Nguyên mang theo không nhiều, toàn bộ đều dành cho những người bị thương. Hách Thất bị gãy tay phải, Thiên phu trưởng sai người đắp thuốc trị thương cho huynh ấy. Hách Thất không hề kêu rên. Tìm được Hách Thất, tôi thấy lòng nhẹ nhõm hơn hẳn, ăn một lát đã hết cả chiếc bánh nướng to tướng. Cố Tiểu Ngũ ngồi đối diện, lặng lẽ nhìn tôi ăn bánh. Tôi đang ăn ngon lành, bỗng dưng bị hắn nhìn chằm chằm nên miếng cuối cùng mắc ở cổ họng, nuốt không trôi, mà nhả cũng không ra. Thấy tôi bị nghẹn, Cố Tiểu Ngũ cười ngặt nghẽo, đến nước uống cũng chẳng đưa cho tôi.
Trầy trật rất lâu tôi mới tìm được túi nước của mình, uống cả túi nước, miếng bánh nướng mới chịu trôi xuống bụng. Đang tính hỏi chuyện hắn nên tôi chẳng thèm so đo với hắn làm gì. Tôi hỏi:
- Tối hôm qua, lúc ở phủ đô hộ An Tây, huynh nói gì mà quan Đô hộ lại đồng ý phát binh đi cứu viện thế?
Cố Tiểu Ngũ cười tươi, khoe hàm răng trắng bóng:
- Ta nói với ông ta rằng, ông ta cứ thấy chết mà không cứu đi, rồi từ nay về sau không có chè ngon mà uống nữa đâu.
Tôi tin mới lạ đấy!
Bầu trời lấp lánh ánh sao, tôi ngẩng đầu trông, ngàn sao trên trời chẳng khác nào những cụm đèn lồng treo tít trên cao, nhỏ xíu, ánh sao sáng tỏ. Giữa ngàn sao có dải sáng trắng mờ mờ, nghe người ta nói, những nàng tiên thường tắm gội ở một dòng sông sao. Lúc những nàng tiên tắm gội, hẳn sẽ vốc những ngôi sao lên tay như chúng ta hay dùng tay vốc cát, thế rồi hàng ngàn, hàng vạn giọt sao trượt qua kẽ tay, hoà mình vào dòng sông sao, thỉnh thoảng có giọt bắn toé lên, liền biến thành sao băng. Đúng lúc ấy, một vệt sao băng nhỏ xinh lao vút về đằng chân trời như một mũi tên, loáng cái đã biến mất. Tôi chỉ kịp thốt lên: “Á!” Người ta nói, thấy sao băng là phải nhanh tay thắt đai áo, vừa thắt vừa ước điều gì đó thì điều ước ắt sẽ linh nghiệm. Nhưng tay chân tôi lóng ngóng, lần nào gặp sao băng cũng vậy, mải cầu nguyện thì quên thắt đai áo, mải thắt đai áo thì quên mất phải cầu nguyện. Tôi chán nản nằm phịch xuống thảm cỏ, sao băng mất hút rồi còn đâu. Cố Tiểu Ngũ hỏi tôi:
- Muội vừa “á” gì đấy?
- Có sao băng!
- Sao băng có gì hay mà phải “á” lên?
- Thấy sao băng trước tiên phải thắt đai áo, vừa thắt vừa ước thì điều ước đó ắt sẽ thành hiện thực. – Tôi thật sự chẳng muốn giải thích cho hắn hiểu – Người Trung Nguyên các huynh không hiểu đâu.
Hình như hắn vừa phì cười:
- Muội định ước gì thế?
Tôi bặm môi không thèm trả lời. Tôi không dễ bị dụ đâu. Hắn cũng im lặng một hồi, lát sau, hắn bỗng cao giọng, nói:
- À, ta biết rồi nhé, muội ước mình sẽ lấy được Thái tử Trung Nguyên chứ gì?
Tôi bật phắt dậy:
- Thái tử Trung Nguyên là cái gì chứ, còn lâu ta mới lấy hắn!
Hắn cười tít mắt, nói:
- Ta biết muội không thèm lấy hắn, muội ước lấy được ta chứ gì?
Bấy giờ tôi mới nhận ra mình mắc bẫy của hắn, bèn “xì” một tiếng rồi lờ hắn luôn.
Tôi lại thả người xuống bãi cỏ, ngắm nhìn bầu trời đêm đầy sao, gần và thấp thế kia, chỉ cần với tay là chạm tới. Nơi thiên thần trú ngụ quây quần nhiều vì sao thế kia, hẳn phải đông vui lắm.
Có chú dế mèn nhảy lên đầu rồi bị vướng vào tóc tôi, lại còn kêu rả rích nữa chứ. Tôi chụp tay bắt nó, từ từ gỡ nó ra khỏi tóc, nó cựa quậy trong lòng bàn tay tôi, tôi thổi phù đưa nó xuống bãi cỏ rồi nó biến mất hút. Chắc nó vẫn quanh quẩn gần đây thôi, vì tôi vẫn nghe thấy tiếng dế rỉ rả trong đêm.
Cố Tiểu Ngũ cũng ngả mình nằm gối lên yên ngựa của hắn. Cứ tưởng hắn ngủ rồi, nhưng hắn đang nhắm mắt, uể oải nói:
- Này! Muội hát một bài đi!
Cơn gió hiền hoà, dịu êm như bàn tay mẹ vỗ về khuôn mặt tôi. Tuy tâm trạng đã khá hơn, song tôi vẫn quen thói tranh cãi với Cố Tiểu Ngũ:
- Sao huynh cứ bảo ta hát thế? Sao huynh không hát cho ta nghe?
- Ta không biết hát.
- Gì chứ? Ai mà chẳng biết hát. Hát đi! Hát bài hồi nhỏ mẹ huynh hay hát cho huynh nghe ấy.
Cố Tiểu Ngũ im lặng một lúc lâu, mãi sau tôi mới thấy hắn nhẹ nhàng lên tiếng:
- Ta không có mẹ.
Tôi có anh trai, có mẹ, còn mẹ hắn ngã bệnh rồi qua đời đã lâu, tôi bỗng thấy áy náy. Nhớ lại những lần thấy mẹ tiếp hắn niềm nở hơn hẳn tiếp tôi, trong lòng tôi tự hiểu, có lẽ vì hắn mồ côi mẹ từ nhỏ, cho nên mẹ tôi mới quan tâm tới hắn nhiều hơn. Tôi bật dậy, trộm nhìn sắc mặt Cố Tiểu Ngũ, chỉ sợ hắn cảm thấy tủi thân. Nhưng dưới ánh sao mờ, sắc mặt hắn ra sao, tôi cũng không rõ.
|
“Có con cáo nhỏ cô đơn,
Ngồi trên cồn cát ngắm trăng một mình,
Cơ mà đâu phải ngắm trăng,
Cáo đang mong đợi cô nàng chăn dê.
Có con cáo nhỏ bơ vơ,
Ngồi trên cồn cát thẩn thơ sưởi mình,
Nào đâu cáo muốn sưởi mình,
Cáo đợi cô mình cưỡi ngựa đi qua.”
Cuối cùng Cố Tiểu Ngũ cũng lên tiếng. Hắn nhăn nhó nói:
- Khó nghe thế! Đổi bài khác đi!
- Ta chỉ biết bài này…
Bỗng nghe đâu đó có tiếng kèn vang lên, tôi mừng vui khôn tả, vội vã đứng dậy nhìn quanh, hoá ra là Hách Thất ngồi dưới sườn dốc thoải, đang thổi kèn tất lật. Trước đây, tôi chỉ nghe danh thần cung của Hách Thất, không ngờ huynh ấy thổi kèn lại hay thế. Hách Thất chỉ dùng một tay nên nhiều nốt không ấn được, nhưng tiếng kèn vẫn dìu dặt, lúc trầm lúc bổng, quyện trong làn gió đêm mát rượi, nghe êm tai quá. Tôi ngẩng đầu nghe, tiếng kèn của Hách Thất nghe thật não nề, dần dần chỉ còn tiếng hát của mười mấy người Đột Quyết nọ, giọng những người đàn ông trầm ấm mà âm vang, càng nghe càng thấy bi thương, hùng tráng. Giọng hát ấy tựa gió sa mạc, lại giống cánh chim ưng chao liệng giữa thảo nguyên, quanh quẩn nơi sâu thẳm rồi không ngừng ngân vang. Trời đất lặng lẽ như tờ, côn trùng núp trong lùm cỏ không còn cất tiếng ngân nga, con ngựa nhỏ cũng thôi hí rền, những người Trung Nguyên cũng bật tiếng… Làn điệu đồng ca lắng đọng trong lòng.
Tôi nghe đến ngây người, tận khi những người Đột Quyết thôi hát, lại rộ tiếng cười đùa. Cố Tiểu Ngũ hỏi một câu bâng quơ:
- Họ hát bài gì thế?
- Bài ca xuất chinh của người Đột Quyết. – Tôi nghĩ một lúc rồi nói. – Trước khi ra trận, họ thường hát bài này. Tang Cách trong bài hát vốn là một mỹ nhân nức tiếng người Đột Quyết, người yêu của nàng phải đi chinh chiến bốn phương, sau này không thấy trở về, chỉ có con ngựa quay lại. Bấy giờ nàng vuốt ve yên ngựa, nhìn ống tên trống rỗng của người yêu rồi hát khúc ca này.
Hình như hắn mỉm cười:
- Sao lại phải đi chinh chiến bốn phương?
- Bọn họ là dũng sĩ của Đột Quyết, chiến đấu vì Đột Quyết, chinh chiến bốn phương là điều bất đắc dĩ thôi. – Tôi bực mình lườm hắn. – Có nói huynh cũng không hiểu.
Hắn nói:
- Có gì mà không hiểu chứ? Người Trung Nguyên có câu: “Cốt khô Vô Định, xót thương. Trong mơ, khuê nữ còn vương vấn tình”[2], thực ra cũng như nhau cả thôi.
[2] Trích Lũng Tây hành của Trần Đào, bản dịch của Phụng Hà.
Vừa nghe có chuyện hay, tôi liền háo hức, nằng nặc đòi Cố Tiểu Ngũ kể cho nghe bằng được. Thấy tôi chèo kéo, hắn ngẫm một lúc rồi nói:
- Được rồi, kể cũng được, nhưng muội không được hỏi gì đâu đấy, chỉ cần một câu: “Tại sao lại thế?”, ta sẽ không kể tiếp nữa.
Tuy điều kiện có vẻ hà khắc song cố kìm không hỏi “Tại sao lại thế?” thì cũng dễ, tôi lập tức gật đầu đồng ý. Cố Tiểu Ngũ nghĩ một lúc rồi kể:
- Rất lâu, rất lâu về trước, có một vương quốc ảo, ở vương quốc ảo đó, có một cô nương tuổi đang độ xuân thì…
- Cô nương ấy đẹp không? Dễ thương không? – Tôi nóng lòng hỏi. – Biết cưỡi ngựa không?
Hắn bật cười:
- Cô nương ấy rất đẹp, rất đáng yêu, cũng biết cưỡi ngựa. Mỗi lần cưỡi ngựa dạo chơi ở vương quốc ảo, cô ấy thường đeo mạng che mặt, chính là loại mũ có rèm sa ấy. Một hôm, cô nương ấy đang thong dong cưỡi ngựa, gió bỗng thổi bay chiếc mũ… Một vị công tử nhặt được chiếc mũ ấy, liền trả lại cho cô nương kia. Hai người họ tuy lần đầu gặp mặt, song đã một lòng hẹn ước phải thành thân, tức là cưới gả ấy…
Tôi rất thích thú với đoạn mở đầu câu chuyện, liền hỏi:
- Vị công tử kia trông đẹp trai chứ? Có xứng với cô nương xinh xắn đó không?
Hắn nói:
- Đẹp hay không thì chưa rõ, song vị công tử này là con trai của Đại tướng quân, vô cùng dũng mãnh, thiện chiến. Ước hẹn chưa được bao lâu, vị công tử kia được lệnh xuất chinh, liền dẫn binh xông pha trận mạc. Cô nương nọ ở nhà đợi chàng, đợi mãi, nhiều năm ròng không thấy chàng trở về. Người nhà của cô gái giục cô đi lấy chồng, tuổi thanh xuân không phải là mãi mãi, chỉ e không ai chịu lấy. Cô nương ấy khăng khăng không chịu, một mực đợi chờ, nào ngờ tin từ biên ải gửi về, thì ra chàng công tử kia đã hy sinh nơi trận mạc.
Hắn kể đến đó thì dừng lại, tôi rối rít hỏi:
- Vậy cô nương ấy thế nào? Biết tin chàng công tử kia chết rồi, cô ấy sẽ ra sao?
- Nàng rất buồn, song một mực không tin, võ nghệ của chàng công tử kia rất cao cường, lại tinh thông binh pháp, hơn nữa, hằng năm đều xuất chinh, trải qua bao nhiêu lần chiến sự, sao có thể rơi vào trận địa mai phục của địch, rồi bị quân địch giết dễ dàng thế được? Nàng nhốt mình trong phòng suy nghĩ suốt mười ngày đêm, cuối cùng hạ quyết tâm, phải tìm cho ra chân tướng sự việc. Nhưng nàng chỉ là phận gái chân yếu tay mềm, không có quyền thế gì, dẫu người nhà làm quan thì cũng không đủ bản lĩnh để giải quyết những việc này. Lúc ấy, vừa hay Quốc vương của vương quốc ảo hạ chiếu thư tuyển phi tần. Với vẻ đẹp trời ban, nàng tự nguyện nhập cung, trở thành phi tử của hoàng đế. Tính nàng dịu dàng hoà nhã, lại thông minh, nhạy bén, Quốc vương rất mực sủng ái, dần dần nàng đã có địa vị trong hậu cung. Rồi nàng kết giao với đám quần thần, lợi dụng tay chân của bọn họ, điều tra manh mối về trận chiến mấy năm trước, cốt tìm ra nguyên nhân khiến chàng công tử kia bỏ mạng nơi sa trường. Sau đó, nàng dần thu thập được manh mối, mới biết nguyên nhân cái chết của chàng không phải do địch mai phục, mà bị chính phe mình hãm hại. Nàng liền lần theo manh mối để điều tra, kết quả thật sự nằm ngoài sức tưởng tượng, hoá ra Hoàng hậu cũng dính líu đến việc này.
- Hoàng hậu đố kỵ nàng đã lâu, bởi Quốc vương hết mực sủng ái nàng, giờ đây nàng lại hạ quyết tâm tìm ra chân tướng cái chết của chàng công tử kia. Chuyện này mà đến tai Quốc vương, Hoàng hậu có thể sẽ bị truất ngôi. Đúng lúc này, nàng hạ sinh cho Quốc vương một vị hoàng tử, Hoàng hậu liền sai người bỏ độc vào thuốc tẩm bổ. Nàng uống bát thuốc có thuốc độc, ngày một hao gầy, ốm yếu, về sau ngã bệnh mà qua đời. Trước lúc chết, nàng hy vọng có thể công khai nguyên nhân cái chết của chàng công tử nọ cho dân chúng được biết, nhưng không kịp. Hoàng hậu nói nàng bị bệnh lao rồi sai người giam lỏng, cấm người khác đến thăm, và còn ẵm mất Tiểu Hoàng tử mới chào đời…
Tôi thấy hồi hộp, bèn hỏi:
- Hoàng hậu còn muốn giết cả Tiểu Hoàng tử ư?
Sắc mặt Cố Tiểu Ngũ vẫn vậy, hắn lắc đầu:
- Hoàng hậu không giết Tiểu Hoàng tử, bà ta không có con nên đã nuôi Hoàng tử trưởng thành, dạy dỗ Hoàng tử, vậy nên Tiểu Hoàng tử coi Hoàng hậu như mẹ ruột của mình, thế nhưng Tiểu Hoàng tử không hề hay biết, mẹ ruột của mình đã chết dưới tay Hoàng hậu. Sau này Tiểu Hoàng tử mới biết rõ chân tướng sự việc, nhưng chàng lực bất tòng tâm. Tuổi chàng còn nhỏ, Hoàng hậu lại có thế lực trong tay. Tiểu Hoàng tử không thắng được bà ta. Lúc này, Quốc vương cũng đang phân vân, bởi lẽ ông ấy không chỉ có Tiểu Hoàng tử là con trai, mà còn có rất nhiều hoàng tử khác nữa. Quốc vương do dự, không biết nên truyền ngôi cho ai. Trong khi những đứa con khác của ông vẫn đang ngầm ganh đua quyết liệt, bọn họ thừa biết Tiểu Hoàng tử không phải do Hoàng hậu thân sinh, mà Hoàng hậu luôn canh cánh nỗi lo với Tiểu Hoàng tử… Nhưng cuối cùng, Quốc vương vẫn lập Tiểu Hoàng tử làm thái tử. Ở vương quốc ảo, chẳng có mấy vị Thái tử thọ quá tuổi ba mươi, bọn họ không bị ám sát thì cũng bị vua cha phế truất, rồi bị giam cầm cho đến chết. Có Thái tử nuôi dã tâm soán ngôi, thẳng tay mưu sát vua cha… Có người thành công, song cũng có kẻ thất bại. Người thắng lên làm vua, sau cũng chết, kẻ bại trận không giành được ngôi báu, tất phải chết… Đông cung thực chất là một nơi đẫm máu…
Kể đến đó, Cố Tiểu Ngũ bỗng trở nên bần thần, tôi cũng chưng hửng nhìn hắn, câu chuyện này chẳng thú vị gì cả, không hay như đoạn đầu. Song không hiểu vì sao, tôi không hề ngắt lời Cố Tiểu Ngũ. Hắn dừng một lúc rồi tiếp tục câu chuyện, giọng điệu như không có gì:
- Mặc dù được làm thái tử, song cuộc sống của Tiểu Hoàng tử cũng chẳng tốt hơn là bao. Hoàng hậu đề phòng chàng, còn Quốc vương lại giao cho chàng câu đố rất khó giải. Quốc vương nói, con đã là thái tử, con nên làm tấm gương cho muôn dân trong thiên hạ noi theo, rồi Quốc vương phái Tiểu Hoàng tử đến một nơi, giao cho chàng làm một chuyện tưởng như không cách nào giải quyết được…
- Tiểu Hoàng tử thật đáng thương! – Tôi nói. – Rốt cuộc Quốc vương muốn chàng ấy làm gì?
- Câu chuyện tới đây là hết. – Cố Tiểu Ngũ vỗ vào yên ngựa rồi lại buông mình nằm xuống, vẻ mặt khoan khoái. – Ngủ thôi!
Tôi bực mình nghĩ, kể chuyện chẳng đầu chẳng cuối gì cả, bảo người ta ngủ kiểu gì? Tôi nói:
- Ta có hỏi tại sao đâu, sao huynh không kể nữa?
Cố Tiểu Ngũ nói:
- Thì hết chuyện rồi chứ sao, hết rồi thì ta biết kể cái gì?
Hắn xoay người, quay lưng lại phía tôi. Tôi thấy vai hắn co ro trong lớp da dê giữa trời đêm se lạnh, như thể đã ngủ thật rồi.
Tôi kéo tấm chăn da lên, che tới tận cằm, rúc người trong hơi ấm, thầm nghĩ, gã Cố Tiểu Ngũ trông thế mà vô tình, kể xong chuyện càng khiến người ta thấy ghét. Nhưng nhìn bộ dạng hắn ngủ, tôi lại cảm thấy có vẻ gì đó đáng thương. Tiểu Hoàng tử trong câu chuyện hắn kể không có mẹ, hắn cũng mồ côi mẹ từ tấm bé, những người không có mẹ đều rất tội nghiệp. Cứ nghĩ tới việc, nếu chẳng may mẹ mình cũng qua đời sớm, tôi lại không cầm được nước mắt.
Chắc tại tôi nghe câu chuyện kia trước lúc đi ngủ nên vừa thiu thiu ngủ, Tiểu Hoàng tử nọ đã theo cả vào trong giấc mơ. Cậu ta nhỏ xíu, trông dáng vẻ chắc chỉ tầm ba, bốn tuổi, ngồi thu lu, khóc lóc như một con thú nhỏ bị thương. Nhớ có lần tuyết vừa rơi, trong bẫy săn có con cáo nhỏ bị thương, con cáo ấy cũng co quắp thế này, nó ngước đôi mắt hoen ướt, đen láy nhìn tôi đầy cảnh giác, song cũng phảng phất nét sợ. Vai nó co ro, bất thình lình, nó giấu chiếc mõm nhọn hoắt xuống chân. Tuyết vẫn rơi, tôi thấy mủi lòng, cánh tay bất giác vươn ra toan kéo nó. Ngờ đâu khi vừa ngẩng lên, nó đã biến thành Cố Tiểu Ngũ. Tôi giật thót mình, lòng cứ thấy kỳ lạ, rồi choàng tỉnh. Lúc ấy trời gần sáng, bóng trăng đã xế, ánh sao lưa thưa, lửa trại lụi dần, sắc đêm thêm sậm… Hai nghìn kỵ binh trên thảo nguyên vẫn đang say giấc nồng, chỉ có lính tuần tra vẫn đi đi lại lại. Đám cỏ bên cạnh đẫm sương mai, có giọt nhỏ xuống mặt, tôi liền lè lưỡi liếm, có vị ngòn ngọt, rồi tôi trở mình, tiếp tục giấc ngủ còn dang dở.
Sáng hôm sau, chúng tôi lại nhổ trại lên đường, thẳng tiến về hướng đông năm, sáu ngày liền, mãi mới gặp được quân tuần tra của Đột Quyết. Nghe nói lều của Đại Thiền vu đang ở gần đó, Hách Thất mừng rơn. Tôi cũng thấy vui mừng, sắp được gặp ông ngoại rồi. Hai nghìn quân Trung Nguyên hộ tống chúng tôi về lại không thể dừng chân trên lãnh thổ Đột Quyết, họ lập tức cáo từ trở về.
|