Đông Cung (Phỉ Ngã Tư Tồn)
|
|
Hách Thất rất kính nể đám người Trung Nguyên ấy, thậm chí còn khen họ có quân kỷ nghiêm minh, tác phong nhanh nhẹn, lúc lâm trận vô cùng dũng mãnh, đều là những hảo hán. Hách Thất tiễn bọn họ một đoạn khá xa, tôi cũng theo chân tiễn đoàn quân Trung Nguyên về phía tây. Ráng chiều chói chang, Cố Tiểu Ngũ cúi đầu, nhắm mắt như đang ngủ gật, trông hắn có vẻ uể oải, tôi nói:
- Này, huynh về rồi chuyển lời tới cha ta, bảo ta đã đến Đột Quyết bình an rồi nhé!
Cố Tiểu Ngũ nói:
- Nhưng cũng phải xem ta có về Vương thành buôn chè không chứ!
Tôi nói:
- Huynh không về bán chè đi, còn định lang thang đâu nữa?
Hắn cười, song không trả lời tôi. Bấy giờ, đoàn quân Trung Nguyên đã đi được một quãng xa, hắn vẫy tay với tôi rồi rong ngựa đuổi theo.
Tôi giơ tay che trán, thảo nguyên bạt ngàn trải dài đến tận chân trời, mãi lâu sau vẫn trông thấy hắn đã bắt kịp đoàn người, vẫy vẫy tay với chúng tôi. Cuối cùng đoàn quân đã đi xa tít tắp, trông theo chỉ còn một đám bụi đất cuộn lên. Tôi dõi theo bóng lưng hắn, chợt nhớ lại câu chuyện hắn kể hôm qua, thấy buồn rười rượi, như vừa mất mát thứ gì.
Sau lưng bỗng có tiếng cười khì, tôi liền ngoảnh lại, thì ra là Hách Thất, huynh ấy ghìm cương ngựa đứng ngay đằng sau. Tôi thẹn quá hoá giận, liền hỏi:
- Huynh cười gì thế?
Hách Thất gật đầu rồi lại lắc lắc, cười, nói:
- Tiểu Công chúa, chúng ta mau về thôi!
Gặp ông ngoại tôi vui lắm, bao nhiêu phiền não đều quên sạch. Cả năm chưa gặp, ông ngoại càng cưng chiều, mặc tôi càn quấy, nhõng nhẽo. Cánh tay của Hách Thất bị thương, ông ngoại lo tôi gặp chuyện, liền sai tiểu muội của Hách Thất theo sát tôi mỗi ngày. Tiểu muội của Hách Thất trạc tuổi tôi, từ nhỏ đã học võ nghệ, đao thuật vô cùng cao siêu. Tôi thích nhất mỗi lần gọi tên muội ấy.
- A Độ! A Độ ơi!
Nghe như tôi đang gọi một chú chim non, bất kể tôi đang ở nơi nào, chỉ cần hô một tiếng, muội ấy sẽ lập tức xuất hiện trước mặt tôi.
Điều khiến tôi bất ngờ nhất là, vua Nguyệt Thị lại sai sứ thần đến, ngỏ lời nhờ ông ngoại tôi quyết định chuyện cưới xin. Ông ngoại không mời sứ thần vào lều, chỉ phái người chuyển lời tới sứ thần của vua Nguyệt Thị:
- Tuy Tiểu Công chúa không phải công chúa của Đột Quyết chúng tôi, song mẫu thân của Công chúa là con gái Đại Thiền vu. Tiểu Công cháu chính là cháu gái của người, Đại Thiền vu chỉ hy vọng Công chúa lấy được bậc anh hùng. Nếu Đức vua Nguyệt Thị có lòng muốn lấy Tiểu Công chúa, vậy mời Đức vua thân chinh tới trước cửa lều, so tài cùng dũng sĩ Đột Quyết chúng tôi. Chỉ cần ngài bắt được vua sói mắt trắng, Đại Thiền vu tức thì gả Tiểu Công chúa cho ngài. Đây là chỉ dụ của Đại Thiền vu, mà cha của Tiểu Công chúa, tức Quốc vương Tây Lương cũng bằng lòng với sự sắp đặt của Đại Thiền vu.
Sứ thần Nguyệt Thị gặp phải vố này, liền hậm hực bỏ về.
Chỉ dụ của Đại Thiền vu Thiết Nhĩ Cách Đạt chẳng mấy chốc đã truyền khắp chốn thảo nguyên, không ai không biết, nếu muốn lấy Tiểu Công chúa Tây Lương, tất phải giết được vua sói mắt trắng. Nghe đồn bầy sói trên núi Thiên Hằng có hàng nghìn, hàng vạn con, song chúng chỉ tôn một con sói mắt trắng duy nhất làm sói đầu đàn. Bầy sói ấy cũng như con người, chúng chỉ khuất phục vua chúa mạnh nhất. Con sói chúa ấy toàn thân đen sì, riêng mắt trái có một quầng lông trắng xoá như màu sữa ngựa. Người ta nói nó rất hung tợn, gần như đã thành tinh. Bầy sói trên thảo nguyên vốn đã đáng gờm, song vua sói mắt trắng mới thực sự đáng sợ. Những tốp kỵ binh nhỏ lẻ hoặc dân du mục mà gặp phải vua sói ắt mất mạng. Nó thường dẫn theo một bầy phải đến hàng trăm con tấn công loài người, sau đó ăn thịt cả người lẫn ngựa. Chính bà ngoại kể cho tôi nghe câu chuyện này. Một dạo, tôi cứ ngỡ vua sói mắt trắng chỉ là truyền thuyết, xưa nay chưa một ai tận mắt thấy nó, thế mà ai ai cũng thề thốt rằng trên núi Thiên Hằng quả thực có vua sói, nó thống lĩnh một đàn mấy vạn con sói.
Vua Nguyệt Thị bị Đại Thiền vu nói khích, nghe đâu đích thân dẫn người lên núi Thiên Hằng tìm giết vua sói mắt trắng. Nếu lão giết được nó thì sao nhỉ? Tôi không muốn lấy lão già ấy đâu. Nhưng làm gì có ai giết được vua sói mắt trắng. Không chỉ người Đột Quyết nghĩ vậy mà toàn bộ dân chúng trên thảo nguyên đều tự nhủ như thế. Đành rằng Vua Nguyệt Thị hùng hổ dẫn người lên núi cũng không tìm ra vua sói thì cũng bởi đã có ai thật sự nhìn thấy con sói ấy đâu, nó chỉ tồn tại trong truyền thuyết mà thôi. Tôi cứ nghĩ vậy để tự an ủi, Vua Nguyệt Thị tuổi già sức yếu, núi Thiên Hằng rộng mấy trăm dặm, có nhiều thú dữ, chưa biết chừng lão sẽ ngã ngựa cũng nên, lão mà ngã ngựa thì chỉ có nằm một chỗ, tôi cũng không phải lấy lão.
Những ngày ở Đột Quyết, tôi ung dung, tự tại và vui vẻ hơn hẳn khi ở Tây Lương. Ngày ngày có A Độ ở bên, chúng tôi không đi săn thì cũng đi bẫy chim. Con gái Đột Quyết thường lấy chồng sớm, A Độ lại đang tuổi cập kê, thỉnh thoảng có người đứng ngoài lều của muội ấy, hát suốt đêm khiến tôi khó ngủ. Thế mà chẳng ai đến hát ở lều của tôi, tôi tự nhủ, đám người ấy hẳn đã biết, muốn lấy tôi đồng nghĩa với việc phải giết được vua sói, đối với dũng sĩ trên thảo nguyên âu đó cũng là việc rất khó, chứ không phải vì tôi xấu xí nên chẳng ai đến hát tỏ tình!
Hôm ấy, tôi đang thiu thiu ngủ trong lều, đột nhiên thấy bên ngoài nhốn nháo, ồn ào. Tôi trở mình bật dậy, gọi A Độ toáng lên. Muội ấy hớt hải vén cửa lều bước vào, tôi hỏi:
- Sao thế? Có chuyện gì à?
Trông mặt A Độ ngơ ngác, tôi nghĩ chắc muội ấy cũng như mình thôi, có biết gì đâu. Lúc ấy, người do ông ngoại sai đến khom lưng vái chào chúng tôi:
- Đại Thiền vu cho truyền Tiểu Công chúa đến trước lều.
Tôi sốt ruột hỏi:
- Sắp đánh nhau à?
Lần trước, sứ giả Nguyệt Thị mang bộ mặt sầm sì trở về, mà với tính cách của Vua Nguyệt Thị, đừng hòng lão chịu để yên. Vua Nguyệt Thị bị khích đi tìm vua sói mắt trắng, song có ai tìm được vua sói đâu. Hiển nhiên, đó chỉ là cái tròng của Đại Thiền vu, người ông thương tôi nhất, dành cho Vua Nguyệt Thị. Nếu Vua Nguyệt Thị giận quá hoá thẹn, chưa biết chừng còn đánh nhau với Đột Quyết cũng nên. Lần này, Nguyệt Thị động binh với Đột Quyết, đối với toàn Tây Vực mà nói, thật sự chẳng phải chuyện đùa. Tuy Đột Quyết là cường quốc mạnh nhất Tây Vực, là nước có thế lực chiếm giữ phía bắc sa mạc, cực đông của lãnh thổ trải dài đến tận ven biển, song Nguyệt Thị cũng là nước lớn nhất, nhì Tây Vực, dẫu không cường thịnh bằng Đột Quyết nhưng thực lực cũng không phải vừa. Huống hồ trong mười mấy năm thanh bình vừa qua, Tây Vực đã thông suốt con đường thương mại khiến thành thị ngày một sầm uất. Cũng như Tây Lương chúng tôi, nếu không có con đường thông thương buôn bán, ắt chẳng được phồn vinh như ngày nay. Nếu xảy ra chiến tranh, có lẽ khó mà xây dựng lại được tất cả.
Tôi kéo A Độ, vội vã chạy sang lều của ông ngoại. Trướng lớn của Đại Thiền vu hay còn gọi là lều chúa, được dựng từ nhiều tấm da bò, thêu chi chít hoa văn gam màu tươi tắn, bức hoành trắng muốt treo trước cửa đề chữ cầu may. Dưới nắng thu, nét chữ dát vàng chói mắt, đến nỗi chẳng ai dám ngước nhìn. Đôi câu chữ óng ánh đổ bóng xuống nền đất như thỉnh cầu sự phù hộ của các chư thần trên thiên đình. Dưới ánh nắng chói chang, tôi nheo mắt nhìn bóng dáng ai vừa quen thuộc, gần gũi vừa xa lạ, bỡ ngỡ đang đứng trước lều. Tuy hắn vận trên người trang phục của dân Tây Lương, song chẳng giống người Tây Lương chút nào. Hắn ngoảnh đầu cười với tôi, quả nhiên là người Trung Nguyên chứ không phải người Tây Lương.
Hắn chính là gã lái buôn Cố Tiểu Ngũ.
Tôi buột miệng hỏi:
- Huynh đến đây làm gì thế?
- Cưới muội.
Tôi nghệt mặt nhìn hắn, một lúc lâu sau mới cười, nói:
- Này, huynh đến đây buôn chè đấy à?
Thay vì trả lời, Cố Tiểu Ngũ chậm rãi giơ mũi chân hẩy hẩy thứ gì đó dưới đất.
Tôi kinh hãi khi trông thấy thứ ấy, suýt thì rớt cả cằm.
Một con sói đen trũi, kích thước xem chừng phải gấp đôi những con sói hoang bình thường, dù xác đã cứng đờ, song con ngươi vẫn trợn trừng như muốn nhảy bổ tới, xé xác ai đó. Duy nhất có một chòm lông quanh mắt trái là trắng muốt như màu sữa ngựa. Tôi dụi mắt, sững sờ một lúc, rồi khuỵu xuống, nhổ một sợi lông trên mắt trái của con sói. Sợi lông trắng muốt, chắc chắn không phải nhuộm, mà đích thực là màu lông vốn có của nó.
Tầng lớp quý tộc Đột Quyết đã tụ tập đông đủ trước lều chúa, lặng lẽ nhìn xác con sói to lớn này. Có đứa nhỏ mạnh dạn tiến lên, bắt chước tôi nhổ một sợi lông trên mắt trái con sói, nó soi dưới ánh mặt trời rồi gào tướng lên:
- Màu trắng! Màu trắng này!
Giọng bọn trẻ líu lo khiến tôi thêm bồn chồn. Tiếng ông ngoại xuyên qua đám người:
- Bất kể có phải người Đột Quyết hay không, tất là dũng sĩ.
Mọi người nhao nhao nhường đường cho Đại Thiền vu. Ông ngoại thong dong bước lại gần, đảo mắt trông xác con sói rồi gật gù, quay sang Cố Tiểu Ngũ và nói:
- Giỏi lắm!
Được Đại Thiền vu khen một câu có khi còn khó hơn tuyết trên đỉnh Thiên Hằng tan chảy. Có điều, Cố Tiểu Ngũ đã giết được vua sói mắt trắng, trong khi chính Đại Thiền vu tuyên bố, ai giết được vua sói, sẽ gả tôi cho người ấy.
Chưa bao giờ tôi nghĩ người đó lại là Cố Tiểu Ngũ. Tôi lẵng nhẵng theo sau hắn, gặng hỏi hắn giết vua sói mắt trắng bằng cách nào.
Hắn chỉ nói bâng quơ:
- Dọc đường dẫn đội đi buôn chè, tình cờ gặp bầy sói, rồi ta đánh chết con sói đó.
Tôi khẽ nhếch mép, làm sao mà tin được lời hắn chứ? Nghe nói Vua Nguyệt Thị dẫn ba vạn kỵ binh lên núi Thiên Hằng cũng có tìm thấy cọng lông nào của vua sói đâu, mà Cố Tiểu Ngũ chỉ tình cờ đi buôn chè lại giết được vua sói à?
Có đánh chết tôi cũng không tin!
Nhưng vì Đại Thiền vu đã hứa ắt phải giữ lời, tức thì đã có vài người Đột Quyết xôn xao bàn tán, xem ra gã buôn chè người Trung Nguyên kia thật sự sắp lấy Công chúa Tây Lương rồi. Cố Tiểu Ngũ được xem như anh hùng cái thế, song tôi vẫn có cảm giác hắn đang giở trò bịp bợm. Rồi hôm đó, Hách Thất ngà ngà say và lời qua tiếng lại với hắn, hai người bọn họ đòi so tài một phen.
Bọn họ thi thố cũng thật chán, chẳng hiểu thế nào lại kéo nhau ra thảo nguyên bắn dơi, ai bắn được nhiều hơn thì người ấy thắng.
Chỉ có những kẻ đã từng bắn dơi mới hiểu, bắn dơi khó thế nào.
Dân chúng Đột Quyết đều đinh ninh phần thắng chắc chắn sẽ thuộc về Hách Thất, song họ vẫn đánh cược một lần xem sao. Bản thân tôi cũng nghĩ Hách Thất sẽ thắng, tuy tay phải của huynh ấy chưa lành hẳn những dù là dùng tay trái thì cũng chẳng ai ở Đột Quyết này bì được tài bắn cung như thần của huynh ấy.
Tin tức về cuộc so tài chỉ trong nửa ngày trời đã truyền khắp nơi. Người ta bảo Hách Thất muốn lấy tôi, dẫu sao huynh ấy cũng là võ sĩ lợi hại nhất dưới trướng Đại Thiền vu, chưa biết chừng sau này còn là tướng quân dũng mãnh nhất của Đại Thiền vu. Còn tôi, tuy là công chúa Tây Lương nhưng ai chẳng biết Đại Thiền vu thương tôi nhất, Hách Thất lấy tôi, Đại Thiền vu ắt sẽ càng tín nhiệm huynh ấy.
|
Song tôi vẫn tự nhủ, Hách Thất không suy nghĩ kỳ quái thế đâu, tôi đoán có thể do A Độ đã kể với huynh ấy rằng tôi không muốn lấy Cố Tiểu Ngũ.
Tôi lờ mờ nhận ra rằng, Cố Tiểu Ngũ không phải loại thương nhân tầm thường, nhưng tôi vẫn mong mình không phải lấy chồng sớm.
Chủ tế của Đột Quyết xướng bài hát ca ngợi rồi nhỏ máu dê vào bát rượu, sau đó đưa bát rượu cho hai vị anh hùng sắp tranh tài, bọn họ dốc một hơi cạn bát rượu. Tối nay, hai người bọn họ quyết phân tài cao thấp. Hách Thất vốn là người anh hùng nổi danh khắp Đột Quyết, còn Cố Tiểu Ngũ nhờ chiến công giết được vua sói mắt trắng nên nhiều người Đột Quyết cũng coi hắn như anh hùng. Hai người họ thi thố phen này khiến dân chúng xôn xao, mà chính tôi cũng thấy khó xử vì không rõ mình mong kết quả thắng nghiên về bên nào…
Nếu Cố Tiểu Ngũ thắng, chẳng lẽ tôi phải lấy hắn thật sao?
Còn nếu Hách Thất thắng thì sao? Lẽ nào tôi phải lấy Hách Thất?
Tôi giật thót mình khi nghĩ vậy. Hách Thất chỉ thay tôi răn đe Cố Tiểu Ngũ, cho hắn chừa cái lối vênh váo mà thôi, giống mấy tên con trai hay đứng hát nghêu ngao ngoài lều của A Độ, nếu bọn chúng ầm ĩ quá, Hách Thất sẽ có cách bắt chúng phải im lặng ngay tức khắc. Tôi nghĩ chuyện này cũng tương tự như vậy, việc Cố Tiểu Ngũ giết được vua sói khiến ai nấy đều cảm thấy khó tin. Hắn còn tỏ vẻ chẳng hề bận tâm, ngang nhiên nói với ông ngoại rằng hắn muốn cưới tôi, vậy nên Hách Thất mới nghĩ cách để trị hắn.
Cuộc so tài đến tai Đại Thiền vu, ông phấn chấn muốn tận mắt đến xem họ thi đấu. Tôi bồn chồn, đứng ngồi không yên, bèn theo sau ông ngoại, cùng đám người lúc nào cũng tò mò đi ra bờ sông. Võ sĩ dưới trướng Đại Thiền vu mang tên đến, chia đều thành hai ống đặt dưới chân hai người. Hách Thất cầm cung tên của mình, thấy trên tay Cố Tiểu Ngũ trống không, bèn nói:
- Đệ lấy cung tên của ta mà dùng!
Cố Tiểu Ngũ gật đầu. Đại Thiền vu cười, nói:
- Nơi Đột Quyết ta đóng quân, chẳng lẽ lại không có nổi một cây cung?
Đại Thiền vu ban cây cung sắt của mình cho Cố Tiểu Ngũ, tôi thấy lúng túng thay hắn. Cây cung sắt kia nặng hơn hẳn loại cung bình thường, trông hắn thư sinh, yếu ớt thế kia, chỉ e khó mà giương được cung. Mà hình như Hách Thất cũng nghĩ vậy, huynh ấy không muốn xử ép Cố Tiểu Ngũ, liền bẩm với Đại Thiền vu:
- Xin Đại Thiền vu ban cây cung này cho thần, còn để Cố Tiểu Ngũ dùng cây cung của thần.
Đại Thiền vu lắc đầu, phán rằng:
- Không giương nổi cây cung này thì nói gì đến chuyện lấy cháu gái ta.
Đám người túm tụm quanh đó cười ồ lên, rất nhiều người Đột Quyết không tin Cố Tiểu Ngũ giết được vua sói mắt trắng, bọn họ vẫn tỏ vẻ khinh thường ra mặt. Cố Tiểu Ngũ nhấc dây cung, dùng ngón tay gảy dây cung như thể gảy dây đàn. Dây cung phát ra tiếng “boong boong”, dân chúng quanh đó phá lên cười. Trông Cố Tiểu Ngũ trắng trẻo, thư sinh, chẳng khác nào đám nhạc công người Trung Nguyên mà những quý tộc Đột Quyết thường mua về, giờ lại gảy dây cung khiến người Đột Quyết càng khinh thường.
Sắc trời dần tối, khoảng không ven sông chi chít dơi bay lượn. Đại Thiền vu gật đầu, tuyên bố:
- Bắt đầu đi!
Bên cạnh Hách Thất và Cố Tiểu Ngũ đã sắp sẵn một trăm mũi tên, ai bắn được một trăm con dơi trước, người ấy sẽ thắng. Hách Thất giương cung đầu tên, tuy dùng tay trái song trăm phát trúng cả trăm, trong chốc lắt đã thấy dơi đang bây trên trời bỗng rơi lả tả. Về phần Cố Tiểu Ngũ, hắn vẫn thong thả, rút năm mũi tên, từ từ căng dây cung.
Tôi thốt lên:
- Cố Tiểu Ngũ!
Tuy không biết hắn có rành bắn cung hay không, nhưng hắn cũng phải hiểu dây cung chỉ được căng từng mũi một thôi chứ! Cố Tiểu Ngũ ngoảnh lại, mỉm cười với tôi rồi kéo dây cung.
Nói thật, tôi vô cùng ngạc nhiên, hắn căng dây cung một cách nhẹ nhàng, không những vậy, còn bắn một lúc năm phát tên lao vút như sao băng, mũi sau nối đuôi mũi trước, khiến đám người xung quanh không khỏi trầm trồ kinh ngạc.
- Tên liên hoàn! Tên liên hoàn kìa!
Mấy tay quý tộc Đột Quyết sửng sốt thốt lên, thậm chí Đại Thiền vu cũng phải gật gù. Ở Trung Nguyên có một vị đại tướng sử dụng ngón sở trường là tên liên hoàn, trong trận giao tranh với Đột Quyết trước đây, ngón tên liên hoàn ấy đã hạ gục được Tả Đồ Kỳ vương. Nhưng cũng chỉ là truyền miệng thế thôi, chứ mười mấy năm nay, quý tộc Đột Quyết chưa thấy tên liên hoàn bao giờ. Thế mà Cố Tiểu Ngũ lại thành thục bắn liên tục mấy phát tên liên hoàn, đám dơi đang bay nháo nhác cũng không tránh khỏi loạt tên của hắn, rơi lộp bộp như mưa rào. Tuy Hách Thất bắn tên rất nhanh, song vẫn không bì được với hắn, chỉ trong chốc lát mà Cố Tiểu Ngũ đã giải quyết hết một trăm mũi tên. Đám nô lệ thu gom số dơi, chất thành một đống bên bờ sông, một trăm con dơi trông chẳng khác nào một trăm bông hoa đen đúa, quái dị.
Hách Thất cũng bắn được một trăm con, nhưng so với Cố Tiểu Ngũ thì chậm hơn. Sắc mặt Hách Thất vẫn bình tĩnh, huynh ấy nói:
- Ta thua rồi!
Cố Tiểu Ngũ nói:
- Nhờ cây cung tốt nên tôi mới bắn được chuỗi liên hoàn vừa rồi, nếu dùng cây cung của huynh, chắc chắn sẽ chậm hơn. Vả lại, tay phải của huynh vẫn chưa lành hẳn, phải dùng đến tay trái, nếu bảo trận này tôi thắng huynh thì cũng chẳng vinh quang gì. Hai chúng ta không ai thua ai cả. Huynh là dũng sĩ chân chính, nếu cánh tay không bị thương, tôi sao có thể đọ nổi!
Kỹ thuật bắn cung của Cố Tiểu Ngũ đã làm tất cả mọi người dao động, thấy hắn khiêm tốn, điềm đạm, đám người kia càng không khỏi trầm trồ khen ngợi. Người Đột Quyết vốn cởi mở, ngay thẳng, sòng phẳng. Người như Cố Tiểu Ngũ xem ra rất hợp với tính khí của người Đột Quyết. Đại Thiền vu cười sang sảng:
- Khá lắm, dũng sĩ Đột Quyết của chúng ta không hề thua.
Ông nhìn Cố Tiểu Ngũ rồi nói:
- Này người Trung Nguyên kia, nói xem, ngươi muốn được ban thưởng thứ gì?
- Bẩm Đại Thiền vu, ngài đã ban cho tiểu nhân thứ quý giá nhất rồi ạ! – Cố Tiểu Ngũ tủm tỉm cười. – Trên đời này, còn gì quý báu hơn Tiểu Công chúa của ngài?
Đại Thiền vu phá lên cười, những quý tộc Đột Quyết khác cũng phấn khởi ra mặt, xem ra vụ cưới xin này chắc như đinh đóng cột rồi.
Thầy cúng chọn ngày lành, nhân lúc tiết thu mát dịu để cử hành hôn lễ của chúng tôi. Tôi vẫn còn đắn đo, lén hỏi A Độ:
- Theo muội, ta có nên lấy hắn không?
A Độ nhìn tôi bằng đôi mắt đen láy luôn đong đầy vẻ điềm đạm, trầm tĩnh. Chính tôi cũng không rõ nữa, cuối cùng, tôi mạnh dạn hẹn Cố Tiểu Ngũ ra bờ sông.
Tôi không biết phải nói sao, song tôi luôn cảm thấy bất an nếu phải lấy hắn trong tình trạng lơ mơ thế này.
|
Chương 11
Buổi tối mùa thu, gió lướt qua phả hơi mát lạnh, tôi quấn chặt chiếc áo choàng da, thẫn thờ ngoài bờ sông, nghe dòng nước đổ tiếng róc rách, từ xa xa vọng lại tiếng chim nhạn gọi bầy. Tôi ngẩng đầu ngó quanh, đằng tây đã nhô cao một chòm sao sáng, sắc trời tím sẫm như một tảng thạch nho.
Có tiếng gió lùa xào xạc trong đám cỏ tranh, Cố Tiểu Ngũ đạp lên bụi cỏ, tiến về phía tôi.
Tôi bỗng thấy hốt hoảng. Cố Tiểu Ngũ mặc áo của dân tộc Đột Quyết, thắt lưng dắt một con dao nom như người Đột Quyết thực thụ. Cố Tiểu Ngũ không những thạo cung nỏ mà còn thuần thục tiếng Đột Quyết, mấy hôm nay, hắn chiếm được cảm tình của Đại Thiền vu. Tuy Cố Tiểu Ngũ là người Trung Nguyên nhưng Đại Thiền vu ngày càng tín nhiệm hắn, thậm chí còn ban cung sắt của người cho hắn. Bên cạnh đó, kể từ buổi so tài nọ, dường như Hách Thất và Cố Tiểu Ngũ đã kết tình huynh đệ. Cố Tiểu Ngũ dạy Hách Thất bắn tên liên hoàn, còn Hách Thất chỉ bảo cho hắn vài kinh nghiệm sống trên thảo nguyên. Mỗi lần gặp bọn họ sánh vai bên nhau, Đại Thiền vu lại gật đầu hài lòng. Đổi dao chính là nghi thức kết nghĩa của người Đột Quyết nên Hách Thất đã đổi dao với Cố Tiểu Ngũ. Trên chiến trường, anh em kết nghĩa còn thân thiết hơn cả anh em ruột thịt, thậm chí sẵn sàng hy sinh vì nhau. Chẳng trách dao dắt bên thắt lưng Cố Tiểu Ngũ chính là dao của Hách Thất, thoạt nhìn tôi liền nhớ tới lần Hách Thất dúi nó vào tay tôi, giục tôi chạy trước.
Nhác trông thấy tôi từ xa, Cố Tiểu Ngũ liền nhoẻn miệng cười, tôi cũng mỉm cười đáp lại. Trông vẻ mặt hắn tươi rói, tôi cũng thấy bình tĩnh hơn. Tuy tôi không nói gì, hắn cũng không lên tiếng, song ắt hắn hiểu vì sao tôi hẹn hắn ra đây. Quả nhiên hắn nói:
- Ta mang cho muội cái này.
Tim tôi đập như trống dồn, không phải thắt lưng đấy chứ? Giả sử bây giờ hắn tặng thắt lưng của hắn cho tôi, tôi nên trả lời thế nào nhỉ? Theo phong tục Đột Quyết và Tây Lương, người con trai hát xong mới trao thắt lưng… Hắn còn chưa hát cơ mà! Tôi thẹn thùng, trái tim đập rộn ràng, thế mà hắn lại nói:
- Buổi tối chắc muội chưa ăn no đúng không? Ta đem cho muội một miếng sườn dê nướng thật to đây!
Tôi há miệng, trợn mắt, bỗng cảm thấy tức nghẹn họng, mãi sau mới nói được một câu:
- Có huynh chưa ăn no ấy!
Cố Tiểu Ngũ ngơ ngác nói:
- Dĩ nhiên ta ăn no rồi… Ta thấy tối nay muội chưa ăn gì nên mới mang sườn dê cho muội chứ!
Tôi hậm hực không lên tiếng, trong không gian chỉ lảnh lót tiếng của loài chim nào đó vọng lại từ đằng xa. Dòng nước vẫn róc rách chảy, cá dưới sông quẫy tưng bừng, làm bọt nước bắn lên. Miếng sườn dê thơm phức của Cố Tiểu Ngũ đặt ngay trước mặt tôi, quả thực buổi tối tôi chưa ăn gì, vì bụng dạ chỉ nghĩ tới chuyện chốc nữa hẹn hắn nên không thiết ăn. Giờ trông miếng sườn dê thơm phức này, bụng tôi sôi ùng ục. Hắn bật cười, đưa con dao cho tôi, nói:
- Ăn đi nào!
Sườn dê ngon quá đi mất! Miệng tôi bóng mỡ, tôi hớn hở hỏi hắn:
- Sao huynh biết ta thích ăn sườn dê?
Cố Tiểu Ngũ nói một câu bằng tiếng Trung Nguyên, tôi nghe chẳng hiểu, hắn nói lại với tôi bằng tiếng Đột Quyết, thì ra là:
- Không có việc gì khó, chỉ sợ người không có lòng.
Lần đầu tiên tôi nghe thấy câu ấy, chẳng hiểu sao lại khẽ chột dạ. Người như thế nào thì được gọi là có lòng nhỉ? Tuy tôi và Cố Tiểu Ngũ quen nhau chưa lâu, nhưng tôi luôn có cảm giác mình đã biết hắn từ lâu lắm rồi. Chắc bởi giữa chúng tôi từng xảy ra rất nhiều chuyện, lần nào hắn cũng ra tay giúp đỡ, bảo vệ tôi. Mặc dù hắn toàn nói những lời khiến tôi bực bội, nhưng nghe câu vừa rồi, tôi lại không hề tức giận. Chúng tôi lặng lẽ ngồi bên bờ sông, vẳng nghe đằng xa có tiếng hát của người Đột Quyết, đó là bài tình ca trầm thấp mà êm dịu, có chàng dũng sĩ Đột Quyết đứng ngoài cửa lều của người con gái mình yêu, nhờ lời ca tiếng hát để bày tỏ tình cảm thầm kín tận đáy lòng với người ấy.
Trước đây, tôi không nhận ra giọng hát ấy lại đi vào lòng người đến thế, nó thoắt ẩn, thoắt hiện như tiên khúc. Bầy đom đóm rập rờn quanh những bụi cỏ mọc ven sông, từng đốm chợt sáng rồi chợt tắt, thật giống những ngôi sao băng, hoặc tựa như nắm bụi vàng ai đó vung tay vẩy xuống. Thậm chí tôi còn nghĩ, bầy đom đóm lập loè ấy chính là sứ giả nhà trời, họ cầm những chiếc đèn lồng nhỏ xíu, nhóm lên những đốm lửa lung linh giữa trời đêm lộng gió. Vùng đất ven sông thoáng đó đã rải rác những ánh lửa li ti, tiếng cười vui như xa cách cả một tầng mây. Tôi chợt nghĩ, nếu thần tiên nhìn xuống trần gian từ trên trời cao, chắc cũng có chung cảm giác này? Cũng phiêu diêu, cũng hư ảo, cũng mơ hồ và xa xăm…
Cuối cùng, tôi hỏi Cố Tiểu Ngũ:
- Tóm lại huynh có thực lòng muốn lấy ta không?
Cố Tiểu Ngũ có vẻ hơi bất ngờ, liếc nhìn tôi rồi nói:
- Đương nhiên ta muốn!
- Nhưng tính cách của ta không tốt đẹp gì, vả lại huynh là người Trung Nguyên, ta là người Tây Lương, ta thích ăn cơm kê, thích ăn thịt dê… Huynh nói tiếng Trung Nguyên ta nghe không hiểu, chuyện Trung Nguyên nhà huynh ta cũng không rõ. Nếu bảo huynh ở lại Tây Lương, nơi cách Trung Nguyên đến hàng nghìn dặm, chắc chắn huynh sẽ rất nhớ nhà. Còn giả sử huynh không muốn ở Tây Lương mà về Trung Nguyên thì ta sẽ rất nhớ nhà. Đành rằng huynh giết được vua sói mắt trắng, song chưa chắc đã là vì ta. Huynh cũng nói rồi đấy thôi, chẳng qua là tình cờ trên đường đi buôn chè… Tuy ta còn nhỏ nhưng cũng hiểu những chuyện này đâu thể ép buộc…
Tôi tuôn một lèo không ngừng nghỉ, từ lúc quen nhau tới giờ, những gì phiền phức tôi đều nói hết, nói đến rạc cả cổ họng. Cố Tiểu Ngũ không hề ngắt lời tôi, mãi khi thấy tôi đặt miếng sườn dê xuống, uống ngụm nước, hắn mới nói:
- Nói nãy giờ mà toàn những chuyện chẳng liên quan gì! Ta chỉ hỏi muội, rốt cuộc muội có bằng lòng lấy ta không?
Nước trong miệng suýt nữa thì phun ra ngoài, tôi trừng mắt nhìn hắn hồi lâu, mặt bỗng nóng bừng:
- Bằng lòng hay không… ơ…
- Nói đi! – Cố Tiểu Ngũ giục – Tóm lại muội có bằng lòng không?
Lòng tôi rối bời. Mấy hôm nay, mọi thứ như hư ảo, như mộng mị, nhiều việc xảy ra chớp nhoáng. Tôi thực sự chưa từng nghĩ mình sẽ lấy chồng sớm thế này. Hơn nữa, thoạt đầu tôi thấy gã Cố Tiểu Ngũ này thật đáng ghét, còn bây giờ lại không thể nào ghét được. Tôi chẳng biết nên trả lời thế nào, nhìn những con đom đóm lập loè giữa khoảng không, tôi hạ quyết tâm, nói:
- Vậy huynh bắt cho ta một trăm con đom đóm, ta sẽ bằng lòng lấy huynh.
Dứt lời, Cố Tiểu Ngũ liền đứng phắt dậy. Tôi ngơ ngác nhìn hắn chẳng khác nào một chú nhóc nghịch ngợm, vươn tay tung một cú lộn nhào. Hắn nhảy vọt lên, như một ngôi sao… không, không giống sao băng, trông hắn như sắp lao thẳng xuống bãi sông. Sau một cái khua tay bất ngờ, hắn đã chụp được mấy con đom đóm, chúng toả sáng lập loè giữa những kẽ tay. Tôi đùm vạt áo, cuống quýt nói:
- Mau lên! Mau lên!
Hắn thả đom đóm vào cái bọc mà tôi đùm bằng vạt áo rồi lại nhảy lên lần nữa. Võ công của người Trung Nguyên giống như một bức tranh, hoặc một bài thơ phóng khoáng. Nhất cử nhất động của Cố Tiểu Ngũ như đang nhảy múa, trên đời này chẳng có điệu múa nào khí khái, hào hùng đến thế. Hắn tung người giữa không trung, xoay những góc tuyệt diệu, đuổi theo lũ đom đóm thoắt ẩn thoắt hiện. Ống tay áo khẽ gợn theo làn gió, tôi chỉ hướng cho hắn:
- Bên trái kìa! Bên phải có nhiều lắm!
- Ối!
- Nó chạy mất rồi! Bên kia! Trời ơi, đằng kia kìa!
…
Tiếng cười của chúng tôi dạt đến tận bờ sông bên kia. Bầy đom đóm gom trong vạt áo mỗi lúc một nhiều. Chúng chụm lại, cùng toả ánh hào quang như thể trong lòng tôi đang có cả vầng trăng rằm. Bầy đom đóm bên bờ sông đã dạt đi mất, có những con bị Cố Tiểu Ngũ vơ gọn, đặt vào lòng tôi.
- Đủ một trăm con chưa?
Hắn tiến lại gần, đầu kề sát đầu tôi, những ngón tay thon dài khẽ kéo vạt áo.
- Có cần đếm không?
Đếm được khoảng mười mấy con, tôi nhận ra trên người Cố Tiểu Ngũ bỗng thoang thoảng làn hương mát lành, dịu nhẹ, mùi hương ấy người Đột Quyết và cả người Tây Lương đều không có, nó chờn vờn khiến tôi mất tự nhiên, mặt nóng bừng, hắn đứng quá gần. Bỗng đâu có trận gió thổi đến, đưa sợi tóc của hắn phe phẩy trên mặt tôi, nhẹ, mềm mà rộn rạo… Tay nâng vạt áo bỗng buông lỏng khiến bầy đom đóm chen nhau bay vụt đi, tản vào không gian như những ngôi sao băng nhỏ xíu rồi vây quanh chúng tôi. Ánh sáng rạng rỡ chiếu lên khuôn mặt chúng tôi, tôi thấy đôi mắt đen láy của chàng đang nhìn mình say đắm. Chợt nhớ mấy gã hay đứng hát ngoài lều của A Độ, bọn họ nhìn A Độ bằng ánh mắt nóng bỏng, khiến người ta phải mủi lòng. Nhưng ánh mắt của Cố Tiểu Ngũ điềm đạm hơn hẳn, ánh mắt đong đầy bóng hình tôi, lòng tôi khẽ xốn xang. Ánh mắt chúng tôi giao nhau, Cố Tiểu Ngũ chợt thẹn thùng, ngoảnh mặt nhìn những con đom đóm đang bay trong không trung, nói:
- Bay mất rồi!
Tôi bất giác nói:
- Giống sao băng nhỉ?
Hắn cười rộ lên:
- Sao băng kìa!
Đom đóm thi nhau bay vút lên cao, tưởng như có vô vàn vệt sao băng vừa vuột khỏi đầu ngón tay chúng tôi. Lúc thần tiên rải sao băng xuống, hẳn cũng thế này chăng? Tình này, cảnh này tựa như mơ. Tôi nghĩ mình vĩnh viễn không thể nào quên được buổi tối bên bờ sông hôm ấy, hàng nghìn, hàng vạn con đom đóm quây quần quanh tôi và Cố Tiểu Ngũ, chúng khẽ bay lướt qua, rồi lần lượt toả đi khắp nơi, tựa những ánh sao băng vạch sắc vàng vào màn đêm. Tôi nhớ trong lời bài hát có cảnh, thần tiên và người chàng yêu đứng giữa dòng sông, cảnh ấy cũng rực rỡ, hoa lệ như thế này chăng?
Đại Thiền vu sai sứ giả về bẩm báo với cha tôi, ông đã chọn được một đứa cháu rể, chính là Cố Tiểu Ngũ. Cha tôi đang tiến thoái lưỡng nan giữa Nguyệt Thị và Trung Nguyên, nghe vậy, người liền viết thư hồi âm, kính mong ông ngoại đứng ra làm chủ hôn cho tôi. Thư trả lời của cha đến nơi cũng là lúc hôn lễ đang cử hành.
Tục cưới hỏi của người Đột Quyết đơn giản những cũng không kém phần long trọng, doanh trại quây quần giết mổ bao nhiêu là cừu, gió đưa hương rượu nồng thoảng hương tới muôn nơi. Mấy ngày qua, Cố Tiểu Ngũ đã kết thân với những quý tộc của Đột Quyết. Người Đột Quyết vốn tôn sùng những bậc anh hùng, Cố Tiểu Ngũ giết được vua sói mắt trắng, sau đó lại thắng được Hách Thất, giờ đây trong suy nghĩ của người Đột Quyết, chàng là vị anh hùng trẻ tuổi. Thầy tế hát bài ca mừng vui, chúng tôi sánh bước bên nhau, tiến về phía thầy tế trên đài cao. Đúng lúc đó, bỗng có tiếng vó ngựa dồn dập, tên lính tất tả chạy đến nơi Đại Thiền vu đang ngồi.
Qua đám đông hyên náo, tôi thấy Đại Thiền vu cau mày, bất chấp thầy tế đang cao giọng nói lời ca tụng, tôi chạy như bay đến chỗ ông ngoại:
- Ông ơi!
Đại Thiền vu xoa đầu tôi, mỉm cười nói:
- Không có gì đâu, Vua Nguyệt Thị cử người đến mắng vốn thôi, ông sẽ sai lính đi đuổi cổ chúng.
Không biết từ lúc nào, Cố Tiểu Ngũ đã xuất hiện ngay sau lưng tôi. Chàng khom người hành lễ theo kiểu của người Đột Quyết:
- Bẩm Đại Thiền vu, xin cho cháu được ra trận.
- Cháu? – Đại Thiền vu ngước nhìn chàng. – Vua Nguyệt Thị có năm vạn quân đấy.
Hơn nữa, Vua Nguyệt Thị là lão tướng từng trải chốn sa trường. Cố Tiểu Ngũ tuy thạo cung nỏ nhưng phải đối mặt với hàng vạn quân địch, chỉ e tài bắn tên có tinh thông đến mấy cũng chẳng ích gì.
Cố Tiểu Ngũ nói:
- Đại Thiền vu có thể dụng kế “dĩ dật đãi lao”[1] nghênh địch chỉ bằng ba vạn kỵ binh. Nếu Đại Thiền vu vẫn không yên tâm, xin ngài cử một viên tướng đi cùng, cháu sẽ áp sát thế trận, nếu có thể bắn lén từ phía sau, khiến trận tuyến của Nguyệt Thị trở nên hỗn loạn, âu cũng góp được chút công mọn.
[1] Dĩ dật đãi lao: tức lấy an nhàn để đối phó với mệt mỏi. Một kế trong ba mươi sáu kế.
|
Đại Thiền vu vẫn đang do dự, Hách Thất liền bẩm:
- Binh pháp Trung Nguyên rất khá, trên đường đi, chính bọn họ đã cầm quân đánh bại quân Nguyệt Thị.
Sau đó Đại Thiền vu bèn gật đầu, nói với Cố Tiểu Ngũ:
- Đi đi, rồi đem đầu của thủ lĩnh Nguyệt Thị về đây, làm tế phẩm dâng lên thánh thần trong hôn lễ của các cháu.
Cố Tiểu Ngũ quỳ lạy theo lễ nghi của người Trung Nguyên rồi thưa:
- Mong trời đất phù hộ Đại Thiền vu!
Chàng đứng dậy, nhìn tôi rồi nói:
- Ta đi rồi sẽ về.
Lòng tôi bộn bề lo lắng, đưa mắt dõi nhìn chàng quay người bước đi. Tôi vội vã đuổi theo, tháo dây lưng của mình thắt lên eo chàng.
Theo nghi thức thành hôn, tân lang, tân nương trao nhau dải thắt lưng và hai người chính thức trở thành vợ chồng dưới sự chứng kiến của thần linh. Tôi toan bảo chàng gỡ dây lưng của chàng trao tôi, nhưng đám nô tài đã dẫn ngựa đến, không để tôi kịp nói với chàng vài câu. Vừa leo lên ngựa chàng vừa nói với tôi:
- Ta đi rồi sẽ về.
Tôi níu tay áo chàng, bịn rịn không nỡ rời xa. Trong lòng tôi bỗng vấn vương nhiều chuyện cũ, tôi nhớ ba ngày ba đêm tôi ngồi đợi trên cồn cát vì chàng trai này; tôi nhớ lúc tôi ngã ngựa, chàng đã cứu tôi; tôi nhớ đêm nọ, chàng kể chuyện cho tôi nghe; tôi nhớ chàng đã giết vua sói mắt trắng và thắng cả Hách Thất; tôi nhớ bầy đom đóm ven sông… Từ dạo ấy, tôi đã dặn lòng, tôi và chàng sẽ mãi mãi bên nhau… Vậy mà giờ đây, chàng sắp ra trận, tôi không kìm được nỗi niềm vấn vương.
Hình như chàng thấy ánh nhìn của tôi, liền nở nụ cười, cúi người vuốt ve má tôi. Những ngón tay ấm áp, không phải tay cha, cũng không giống tay ông ngoại, mà giống tay mẹ. Tôi chợt nghĩ chàng tinh thông cung nỏ là thế, sao bàn tay chàng lại chẳng có lấy một vết chai?
Tôi đang nghĩ lại vài chuyện vụn vặt thì chàng đã rụt tay về, cả đội ba vạn quân đã chuẩn bị xong xuôi. Vị tướng quân mà Đại Thiền vu phái đi là ca ca bên họ ngoại của tôi, cũng chính là cháu trai Y Mạc Diên của Đại Thiền vu. Y Mạc Diên cười, bảo tôi:
- Tiểu muội yên tâm, ta sẽ chăm sóc đệ ấy chu đáo.
Người Đột Quyết xưa nay quen chinh chiến, chuyện xông pha nơi chiến trường với họ chẳng khác nào cơm bữa. Tôi quý ca ca Y Mạc Diên lắm, cũng bởi lúc nhỏ huynh ấy thường dẫn tôi đi săn, huynh ấy hết mực thương yêu tôi, chúng tôi như huynh muội ruột thịt. Tôi dõng dạc nói:
- Ai cần huynh chăm sóc chàng chứ? Huynh cứ lo thân mình đi đã, muội đợi huynh về uống rượu mừng đấy!
Ai nấy đều cười, tíu tít nói:
- Tiểu Công chúa cứ yên tâm, đến lúc thịt dê nướng xong, chúng tôi sẽ mang thủ cấp của tướng Nguyệt Thị về.
Cố Tiểu Ngũ cưỡi ngựa theo sau cờ của Y Mạc Diên, chàng cũng vận chiến bào da bò của người Đột Quyết, khuôn mặt khuất dưới mũ sắt. Thấy tôi dáo dác tìm chàng trong đám đông, chàng liền nhoẻn cười, giơ tay lên vẫy. Tôi trông dây lưng thắt trên eo chàng, đai lưng của tôi quấn quanh đai lưng chàng, vừa rồi tôi thắt vội, băn khoăn không biết lát nữa nó có tuột ra không, dây lưng mà bị tuột thì xui xẻo lắm… Nhưng không đợi tôi nghĩ ngợi nhiều, tiếng vó ngựa rầm rập cuốn theo bụi mù, tràn xuống thảo nguyên như cơn triều cường, chẳng mấy chốc đã cách xa tận chân trời.
Thấy tôi tiu nghỉu đứng mãi ở đó, A Độ bèn dùng tay ra hiệu với tôi. Tôi hiểu, tôi biết muội ấy đang an ủi tôi, rằng chỉ lát nữa thôi chàng sẽ trở về. Tôi gật đầu, tuy Nguyệt Thị có đến năm vạn quân, song đám lính tráng ấy lội đường xa đến đây hẳn đã mệt mỏi rã rời, đạo quân tinh nhuệ của Đột Quyết một chọi mười, ba vạn là đủ để nghênh chiến, huống hồ lều chúa còn đây, mười vạn quân luôn sẵn sàng tiếp ứng bất cứ lúc nào.
Dê nướng vàng ruộm trên lửa, đám nô tì dâng sữa ngựa và rượu ngon, khắp nơi rộn rã tiếng nói cười. Hẳn người ta đều cho rằng, chỉ một lát nữa thôi, thế nào cũng có tin thắng trận báo về và lúc ấy, những binh sĩ của Đột Quyết đang hát khúc ca khải hoàn trên đường trở về. Lòng tôi canh cánh lúc biệt ly, mặt mày nóng bừng như phát sốt. Y Mạc Diên về mà thấy, không biết sẽ trêu chọc gì tôi nữa đây? Hẳn huynh ấy sẽ nói tôi không nỡ rời xa Cố Tiểu Ngũ. Đám thanh niên quý tộc của Đột Quyết thầm coi Y Mạc Diên như người đứng dầu, hội thi hát tối nay, đám người ấy thế nào cũng ngâm nga trêu đùa. Lòng tôi nao nao muộn phiền, tự nhủ Cố Tiểu Ngũ không biết hát, chàng về, tôi nhất định phải nói với chàng, kẻo khi đó lại không biết giấu mặt vào đâu.
Nhưng tôi không hề hay biết, chuyến đi này, họ ra đi và vĩnh viễn không bao giờ trở lại.
Nhiều năm sau, tôi xem sách sử của Trung Nguyên ghi chép lại chuyện này, chỉ sơ sài dăm ba câu: “Tháng Bảy, Thái tử Thừa Ngân đích thân tiến vào Tây Vực, liên minh cùng chư hầu Nguyệt Thị, bốn mươi vạn đại quân tập kích Đột Quyết, Thiền vu Thiết Nhĩ Cách Đạt của Đột Quyết hung hãn không chịu hàng, bỏ mạng trong cảnh loạn lạc. Đột Quyết bị giết cả thảy hơn hai mươi vạn người, cả tộc bị diệt vong.”
Tôi chỉ nhớ Hách Thất trước lúc tắt thở vẫn siết chặt cây cung, vết đao kiếm chằng chịt trên người, máu tuôn xối xả. Huynh ấy gắng sức đưa tôi và A Độ lên một con ngựa, trăng trối câu cuối cùng:
- A Độ, nhớ chăm sóc Công chúa!
Tôi trông trận mưa tên ào ào bắn tới, chẳng khác nào hằng hà sa số đốm sao băng, giả sử thần thánh có buông tay, hẳn sao trời từ tay người rớt xuống cũng thế này chăng…? A Độ gồng mình quất ngựa đưa tôi chạy trốn, chúng tôi mải miết chạy. Bốn bề biển lửa, bốn bề biển máu, bốn bề là âm thanh giết chóc. Mấy chục vạn quân của Trung Nguyên và Nguyệt Thị như vừa chui lên từ lòng đất, dân tộc Đột Quyết dẫu quật cường phản kháng, song không thể địch nổi sức tiến công của chúng… Biết bao người ngã xuống sau lưng chúng tôi, máu bắn lên khắp mình mẩy. Nếu không có Hách Thất, chúng tôi không thể thoát được vòng vây của mấy chục vạn quân kia, có lẽ sau đó Hách Thất cũng bỏ mạng. Tôi và A Độ rong ruổi trên thảo nguyên tròn sáu ngày sáu đêm rồi bị toán lính bắt kịp.
Chân tôi bị thương, người A Độ cũng nhiều vết xước, thế mà muội ấy vẫn tuốt đao, che chắn cho tôi ở phía sau. Lòng căm thù như ngọn lửa hừng hực cháy, nung nấu người tôi đến khô rát. Tôi không ngừng tự nhủ: chính bọn chúng đã giết ông ngoại, chính bọn chúng đã giết Cố Tiểu Ngũ, bọn chúng đã dồn người dân Đột Quyết vào con đường diệt vong. Tuy không phải người Đột Quyết, nhưng một nửa dòng máu Đột Quyết đang chảy trong huyết quản tôi. Giờ đây chỉ còn lại mình tôi với A Độ, dẫu phải vắt cạn giọt máu cuối cùng, tôi cũng không thể để ông ngoại chết không nhắm được mắt, không thể để người dân Đột Quyết mất thể diện.
Lúc đó, một gã người Trung Nguyên rong ngựa đến. A Độ khua đao xông lên, gã nọ chỉ khẽ vươn tay ra, thanh đao trên tay A Độ đã rơi phịch xuống đất. Tôi điếng người nhìn gã, kẻ này hẳn biết yêu thuật chăng? Không sử dụng tà phép thì sao có thể cướp được thanh đao từ tay A Độ, chẳng những thế mà còn khiến muội ấy chết trân?
A Độ trừng mắt nhìn gã. A Độ rất ít khi nổi giận, nhưng tôi biết lúc này muội ấy đang hận lắm. Tôi nhặt thanh đao lên, vung về phía gã. Tôi hận đến mức dù kẻ đó là ai, tôi cũng phải giết bằng được!
Kẻ nọ cũng khẽ giơ tay, điểm nhẹ lên người tôi một cái, rồi trước mắt tôi tối sầm, chẳng còn hay biết gì nữa.
Khi tôi choàng tỉnh dậy, đã thấy đầu mình cắm xuống, cả người vắt ngang trên yên ngựa như một bao kê, móng ngựa xối bùn lên mặt mũi, nhưng tôi không sao nhúc nhích nổi. Xung quanh tôi toàn là vó ngựa, hàng nghìn chân ngựa nhấp nhô như lau cỏ dậy sóng trước cơn gió, tôi chếnh choáng một hồi, mắt mũi nhắm tịt. Chẳng biết bao lâu sau mới thấy đàn ngựa dừng bước, tôi bị xách khỏi lưng ngựa, nhưng đùi bị điểm huyệt quá lâu, đứng không vững, liền ngã nhào ra đất.
Dưới sàn nhà phủ lớp nỉ dày, đây hẳn là lều trại của tướng lĩnh Trung Nguyên, có thể là của gã quan đô hộ nọ. Tôi ngẩng đầu nhìn lên, lúc ấy đập vào mắt lại là Cố Tiểu Ngũ. Biết bao dũng sĩ Đột Quyết đã tử trận, nhất là ba vạn quân Đột Quyết tiên phong kia, nào có ai sống sót trở về, nhưng Cố Tiểu Ngũ vẫn còn sống.
Chàng vẫn tồn tại trên đời này, nhưng thay vì bộ giáp trụ, chàng khoác lên mình trang phục của người Trung Nguyên, trông chàng nho nhã như thư sinh, nhưng tôi biết, lều trại này chắc chắn không phải chỗ dành cho thư sinh ở. Quanh chàng là những vệ binh, gã tướng quân bắt tôi về vừa tiến vào đã quỳ xuống lạy chàng, mũ giáp trên người hắn sột soạt. Hắn hành lễ theo nghi thức tối cao của người Trung Nguyên, nghe nói chỉ khi bái kiến bậc tôn quý nhất, người Trung Nguyên mới thực hiện nghi thức này. Tôi chợt hiểu, chính là Cố Tiểu Ngũ… thì ra Cố Tiểu Ngũ là nội ứng của Trung Nguyên! Chính chàng… chính chàng dẫn địch tập kích bất ngờ. Chẳng hiểu sức lực ở đâu ra, tôi gồng mình, nói:
- Đồ gian tế!
|
Đám vệ binh vùng lên quát tháo, có kẻ đá vào chân tôi, chân tôi mềm oặt rồi ngã nhào ra đất. Tôi thấy gã quan đô hộ đang khom mình lạy Cố Tiểu Ngũ, bọn chúng nói chuyện bằng tiếng Trung Nguyên, tôi nghe không hiểu lấy một câu. Cố Tiểu Ngũ không hề liếc nhìn tôi, gã quan đô hộ nói rất nhiều, tôi thấy sắc mặt Cố Tiểu Ngũ sa sầm. Khi đám người đó rút khỏi lều, Cố Tiểu Ngũ mới cầm dao, tiến về phía tôi.
Tôi tưởng hắn sẽ giết mình, không ngờ hắn lại cắt đứt dây trói trên tay tôi, rồi nói:
- Oan cho nàng rồi!
Tôi nghiêng đầu nhìn hắn, cố nói bằng giọng bình tĩnh:
- Cố Tiểu Ngũ, rồi sẽ có một ngày ta giết ngươi, báo thù cho ông ngoại! Đồ phản bội! Đồ gian tế!
Tôi không thốt nổi lời lăng mạ nào thậm tệ hơn, mấy câu mắng chửi cứ nói đi nói lại, vậy mà hắn vẫn không hề nổi cáu, trái lại còn cười:
- Nếu thấy giận, nàng cứ chửi vài câu cho bõ tức.
Tôi nhìn hắn như nhìn một người dưng. Kẻ đã dắt theo ba vạn binh sĩ Đột Quyết rời khỏi hôn lễ của chúng tôi đi nghênh chiến. Ngờ đâu, chính kẻ đó thông đồng với Nguyệt Thị, không chỉ ba vạn quân tinh nhuệ của Đột Quyết bị tiêu diệt, mà bọn chúng còn kéo vào lều chúa. Ông ngoại trở tay không kịp, bị chúng giết chết. Đột Quyết diệt vong thật rồi! Tôi và A Độ đã tháo chạy khỏi chốn địa ngục Tu La ấy. Hai mươi vạn dân… Một cuộc tàn sát… Máu của hai mươi vạn dân tưới ngập thảo nguyên, mà kẻ đầu sỏ còn nhởn nhơ đứng đây.
Tôi mắng chửi đến kiệt sức, ngồi co quắp một chỗ, song vẫn tự hỏi rốt cuộc lòng dạ hắn được đúc từ thứ sắt đá gì. Tôi mệt mỏi nhìn hắn, hỏi:
- Bấy lâu nay ngươi vẫn lừa ta, sao bây giờ không giết quách ta đi?
Hắn nhìn tôi, rất lâu sau không hề lên tiếng, rồi hắn bỗng quay ra nhìn vệt nắng xuyên qua bức mành rèm chiếu xuống nền đất. Bụi ám tấm rèm ngả xám, chẳng còn vẹn nguyên màu trắng tinh như thuở ban đầu, nắng chớm thu in trên nền nhà sáng ngời, đổ xuống cái bóng của đôi tôi. Bất thình lình hắn vươn tay chụp lấy cổ tay tôi, tôi yếu ớt buông rơi con dao nhỏ vừa mới rút ra. Con dao ấy vốn thuộc về hắn, chính là con dao kết nghĩa với Hách Thất, là con dao Hách Thất đã dúi vào tay tôi. Tôi và A Độ khốn cùng suốt dọc đường, tôi vẫn thủ con dao này trong người, định bụng đến lúc bức bách nhất sẽ dùng nó để tự sát, tránh bị giặc làm nhục. Nhưng khi bước vào trướng, tôi liền đổi ý, tôi muốn dùng nó đâm chết người đàn ông đang đứng trước mặt mình, nhưng không may bị hắn phát hiện ra. Phải làm sao mới báo thù được cho ông đây? Tôi nằm vật ra đất, thở hổn hển.
Hắn nhìn tôi bằng ánh mắt thâm trầm, rồi nói:
- Nàng đừng làm những chuyện dại đột như thế!
Dại dột ư? Tôi muốn phá lên cười, trên đời còn ai dại dột hơn tôi? Tôi nhẹ dạ cả tin, suýt nữa đã lấy gã gian tế của Trung Nguyên làm chồng, tôi cứ đinh ninh hắn đã bỏ mạng trong cuộc chiến với Nguyệt Thị, tôi còn nuôi hận báo thù cho hắn…
Đúng lúc ấy, bỗng có người bước vào bẩm báo với Cố Tiểu Ngũ mấy câu bằng tiếng Trung Nguyên. Trông mặt hắn sa sầm, hắn nhấc con dao nhỏ lên, quẳng lại cho tôi rồi rảo bước ra ngoài. Tôi rệu rã phủ phục xuống sàn. Cũng chẳng biết bao lâu sau, có người kéo áo, gọi tên tôi:
- Tiểu Phong!
Ngoảnh lại mới nhận ra đó là sư phụ, không kiềm được nỗi mừng vui khôn xiết, tôi túm chặt tay sư phụ, hỏi:
- Sao sư phụ lại ở đây?
Sư phụ nói:
- Nơi này không phải chỗ để nói chuyện, ta đưa muội trốn trước đã.
Sư phụ vung kiếm rạch lên tấm vải bạt, chúng tôi trốn ra từ lối sau lều. Đằng kia đã buộc sẵn vài con ngựa, chúng tôi lên ngựa. Lúc sắp ra khỏi doanh trại, tôi sực nhớ:
- A Độ! Còn A Độ nữa!
- A Độ nào?
Tôi nói:
- A Độ là tiểu muội của Hách Thất, muội ấy luôn bảo vệ ta, ta không thể bỏ mặc muội ấy được.
Sư phụ đành chịu thua, dẫn tôi quay lại tìm A Độ. Chúng tôi tìm A Độ trong trại nhốt tù binh, nhưng lại đánh động đám lính canh. Tuy kiếm pháp của sư phụ rất giỏi, song đã sa chân vào chốn doanh trại này thì chém giết là điều đương nhiên, khó mà thoát thân được. Đồn trú đã đầy tiếng xôn xao, người từ bốn phía đổ đến mỗi lúc một đông. Thấy thế bất lợi, sư phụ bèn vừa đánh vừa lui, rút về phía chuồng ngựa, quệt một mồi lửa quẳng vào đống rơm.
Tàu ngựa của doanh trại chất rất nhiều rơm khô làm thức ăn nuôi ngựa, đám rơm khô này mà bùng lên thì chỉ trong nháy mắt, lửa sẽ lan khắp nơi, khó mà dập ngay được. Cả doanh trại lập tức nhốn nháo, quân binh hấp tấp đi dập lửa, sư phụ chớp thời cơ dẫn tôi và A Độ tháo chạy. Kỷ luật nhà binh của Trung Nguyên rất nghiêm, chỉ trong chốc lát, tiếng huyên náo trong doanh trại đã dần lắng xuống, vẫn có kẻ cấp tốc cứu hoả, một đám khác lại phi ngựa đuổi theo chúng tôi.
Vừa đánh vừa lui, lùi dần đến tận chân núi Thiên Hằng, đám quân truy đuổi mỗi lúc một đông. Tôi nhìn đám người ấy kéo cờ hiệu màu mơ, bên trên có viết chữ Trung Nguyên mà tôi không hiểu, liền hỏi sư phụ:
- Bọn này thuộc phủ đô hộ An Tây à?
Quân đóng ở phủ đô hộ An Tây có lực lượng hùng hậu, nhưng không ngờ bọn chúng giao chiến cũng lợi hại đến vậy.
Trên gò má sư phụ có vết máu, tính sư phụ ưa sạch sẽ, vội giơ tay quệt ngang vệt máu, rồi cười khẩy:
- Phủ đô hộ An Tây làm gì có nhiều kỵ binh đến thế… Bọn này là Vũ lâm quân của Đông cung, người Trung Nguyên quen gọi là Vũ lâm lang, bọn này toàn con nhà quan, đợt này ra biên thuỳ định kiếm chút công danh, bổng lộc. Muội xem, đứa nào đứa nấy hùng hổ xung phong, muốn lập chiến công đây mà.
Tôi hỏi:
- Chiến công gì?
Sư phụ nói:
- Bắt sống muội chính là một chiến công.
Xưa nay tôi chưa từng nghĩ mình lại quan trọng đến thế. Bọn Vũ lâm quân quyết truy đuổi chúng tôi đến cùng, chúng không ngừng buông lời xỉ vả, có tên trọ trẹ nói tiếng Tây Lương, chửi chúng tôi chỉ biết cúp đuôi bỏ chạy. Nếu là bình thường, thế nào tôi cũng sửng cồ, quay ngoắt lại, có điều, sau một loạt những sóng gió, cuối cùng tôi đã nghiệm ra một điều, một kẻ đứng giữa vạn quân chỉ như hạt muối bỏ bể, hoặc như cây cỏ trước cơn bão, không ai có thể ngăn được thế tấn công của thiên binh vạn mã. Ông ngoại không thể, Hách Thất không thể và sư phụ cũng thế mà thôi…
Lúc chúng tôi rút lên núi Thiên Hằng thì trời ập tối, đạo quân kia không tiện lên núi, đành dừng lại dưới chân núi. Từ trên núi đá nhìn xuống, chân núi bập bùng lửa trại, gần đó, những đạo quân tiếp viện từ doanh trại liên tục kéo đến, chúng đốt đuốc nối đuôi nhau tạo thành thân rồng lửa ngoằn ngoèo. Tôi hỏi sư phụ:
- Cố Tiểu Ngũ là ai?
Giọng sư phụ vẫn bình tĩnh như thường ngày:
- Hắn vốn không mang họ Cố. Hắn là Lý Thừa Ngân, con thứ năm của Hoàng đế Trung Nguyên, cũng chính là Đông cung thái tử đương triều.
Tôi từng nghi ngờ Cố Tiểu Ngũ không phải loại tiểu thương buôn chè bình thường. Sau tất cả những gì đã xảy ra, tôi vẫn lờ mờ đoán, có lẽ hắn là tướng quân của triều đình Trung Nguyên. Nhưng vì hắn còn trẻ, mà trong số ít ỏi những tướng quân nổi danh của Trung Nguyên, tôi chưa từng nghe nói có vị tướng quân nào mang họ Cố. Thì ra hắn không mang họ Cố, chẳng những thế, thân phận hắn còn đặc biệt như vậy.
Tôi chẳng biết mình muốn cười hay muốn khóc nữa.
Tôi nhớ đến chuyện Trung Nguyên phái sứ thần tới, lúc đó sứ thần thay mặt Thái tử Trung Nguyên đến cầu thân. Vì đâu đến nông nỗi này? Trước kia, tôi không có mấy thiện cảm với Trung Nguyên, song giờ đây tôi càng căm thù Trung Nguyên đến tận xương tuỷ.
- Sao hắn lại xưng là họ Cố?
Sư phụ im lặng một lát, thật không ngờ người cũng biết im lặng cơ đấy, sau đó, người nói cho tôi nghe sự thật:
- Bởi vì mẹ hắn mang họ Cố.
Tôi nhìn sư phụ, thực ra trong bóng tối, tôi chẳng thấy được gì, chỉ nghe thấy giọng người trầm đều:
- Đúng vậy, như muội đã biết, ta cũng mang họ Cố. Mẫu thân của hắn là Thục phi, cô ruột của ta. Cho nên ta cũng chẳng phải người tốt. Bệ hạ phái hắn đến biên cương Tây Vực, hắn lại sai ta âm thầm trà trộn vào Tây Lương giúp hắn làm nội ứng…
Đầu óc tôi rối bời, ngẫm nghĩ hồi lâu mới nhớ ra cái tên đầy đủ của sư phụ. Tôi bình tĩnh thốt lên cái tên ấy:
- Cố Kiếm!
Tôi hỏi:
- Vậy… bao giờ sư phụ mới giết ta, hoặc bao giờ mới giao ta cho Thái tử Điện hạ?
Cố Kiếm im lặng. Trời tối như bưng nhưng tôi vẫn thoáng thấy khoé môi sư phụ đọng nụ cười buồn rười rượi. Rất lâu sau, sư phụ mới nói:
- Muội biết ta sẽ không làm vậy.
Sự thù hận trong tôi bùng cháy như ngọn lửa, ngọn lửa ấy nuốt chửng trái tim tôi. Tôi siết chặt nắm đá dăm, cạnh sắc nhọn găm vào lòng bàn tay sâu hoắm. Tôi nghe giọng mình ai oán:
- Lũ Trung Nguyên các người có gì mà không dám làm? Các người lừa gạt ta bấy lâu! Cố Tiểu Ngũ lừa ta, ngươi cũng lừa ta hết lần này đến lần khác! Hẳn các ngươi tính kế này từ lâu lắm rồi chứ gì? Lũ các ngươi còn gì không dám làm? Ngươi lừa ta từ đầu đến cuối, uổng công cha ta tin tưởng ngươi! Uổng công ta tôn ngươi làm sư phụ…
|