Đông Cung (Phỉ Ngã Tư Tồn)
|
|
- Công tử ơi, mua cho nương tử nhà ngài một cây trâm cài đầu đi! Phu nhân nhà ngài duyên dáng thế kia, cài thêm chiếc trâm này, chẳng khác nào gấm đơm hoa, đã đẹp lại càng thêm xinh! Mười đồng một đôi, vừa đẹp lại vừa rẻ!
Thấy Cố Kiếm định phẩy tay, tôi đoán hắn phẩy tay xua tay bán hàng rong, không ngờ gã lại chọn hai chiếc trâm cài đầu rồi trả cho tay kia mười đồng.
Gã nói:
- Cúi đầu xuống nào!
Tôi bảo:
- Tôi không thích những thứ này.
Gã cài trâm lên tóc tôi, coi như không nghe thấy gì. Cài xong một chiếc, lại cài tiếp chiếc kia.
Do khoảng cách gần kề nên tôi cảm thất rõ ràng hơi thở khẽ khàng, ấm áp của gã, mà còn hơi ngứa ngứa nữa. Cơ thể gã tỏa ra một làn hương dịu nhẹ, không phải mùi trầm hay long diên hương hằng ngày tôi vẫn quen thuộc mà là một mùi hương nào đó rất khó gọi tên, thơm như mùi dưa lê trồng trên đất Tây Lương, ngọt thanh mà thoảng cảm giác mát dịu. Cài trâm xong, Cố Kiếm kéo tay tôi để ngắm trái ngắm phải, như thể sợ cài lệch dù chỉ một chút. Chưa bao giờ gã nhìn tôi chằm chằm kiểu đó, hai mang tai tôi nóng bừng, mất tự nhiên, bèn giục gã:
- Đi thôi!
Thực ra tôi vẫn chưa biết nơi gã định dẫn tôi tới, mà dường như gã cũng vậy. Chúng tôi vừa đi vừa dừng trên con phố tưng bừng, tấp nập ấy. Dòng người như cơn thủy triều dồn sóng về phía trước, đi nhanh thì khó, mà muốn lách cũng không được.
Cho đến tận chỗ rẽ cuối cùng, con đường Chu Tước thẳng tắp hiện ra ngay trước mắt. Phóng tầm mắt nhìn ra con phố Thiên Nhai dẫn tới Thừa Thiên Môn hằng ngày vốn cấm dân chúng lại gần, thế mà nay người ta đứng chen vai ngóng lên Minh lầu trong ánh đèn lộng lẫy.
Bấy giờ tôi mới biết gã định đưa mình đi đâu, thế rồi, nỗi sợ hãi trong tôi vô tình trỗi dậy.
- Sao, không dám đi à?
Cố Kiếm ngoái đầu nhìn tôi, thản nhiên cười hỏi. Tôi luôn cảm thấy nụ cười ấy có phần mỉa mai, nhớ lần đầu tiên gặp nhau, gã đâu có cười kiểu này. Lúc ấy, gã mặc áo choàng màu xanh, đứng dưới mái hiên ven đường, dõi theo tôi và A Độ đang chạy trên phố.
Sao bây giờ lại thành ra thế này?
Tôi tự huyễn hoặc mình, nói:
- Rốt cuộc huynh muốn gì?
- Ta muốn muội đau đớn, quằn quoại tưởng như trái tim đã ngừng đập. – Giọng gã đều đều, như thể đang kể một câu chuyện phiếm. – Lòng ta như chết, ta muốn muội cũng phải nếm trải cảm giác đó!
Tôi nào có nghe gã đang nói gì, tư tưởng chỉ hướng về cổng lầu xa lắc, chót vót trên cao kia. Nơi ấy chính là Thừa Thiên Môn, lầu cao khoe đèn lồng đỏ thắm, pha trộn đủ sắc màu tươi vui từ những cụm đèn nhỏ, cả tòa lầu được điểm xuyến sắc màu lung linh, đèn đuốc rõ ràng vây quanh chân thành, biến Thừa Thiên Môn thành chốn lầu son gác tía trổ lưng chừng trời. Càng bước lại gần, cảnh sắc càng hiện ra rõ ràng. Trên lầu buông lớp màn đỏ thắm, gió đưa mành lụa phất phơ, thấp thoáng sau màn có đội nghi trượng[3] lẫn trong bóng người. Trên đấy in bóng búi tóc cao ngất của đám cung nữ và dáng người thước tha, yêu kiều đang dạo gót trên lầu, ánh đèn dán những chiếc bóng xinh đẹp của họ lên tấm màn, gợi tôi nhớ đến màn múa rối nước bóng trước đây từng xem trên phố. Cổng Thừa Thiên sừng sững cao ngất trời, mọi thứ diễn ra trên ấy giống như con rối in bóng lên tấm vải trắng, nhất cử nhất động đều mang lại cho tôi cảm giác xa vời.
[3] Nghi trượng: Vật trang hoàng nơi cung thất, dinh thự, hay dùng khi vua quan đi đường như tán, cờ, quạt, binh khí, v.v…
Loáng thoáng có những âm thanh từ trên lầu vọng xuống, ngay cả tiếng đàn ca cũng bị đẩy dạt vào xa xăm. Người dân tụ tập dưới chân thành bỗng nhốn nháo, thì ra tấm màn trên lầu cao vừa hé mở, đám cung nữ vẫy tay vung đồ xuống, dân chúng đứng dưới tranh nhau nhặt. Cung nữ vừa ném xuống những đồng tiền Thái Bình do nội cung đúc riêng, ngự ban cho bách tính kéo về ngắm hoa đăng. Những đồng tiền vàng rơi tới tấp, đáp xuống nền đá xanh trên phố Thiên Nhai, phát ra những tiếng leng keng, như một cơn mưa rào lộng lẫy ánh vàng. Thiên triều giàu sang, thịnh thế bao nhiêu, chỉ cần lắng nghe trận mưa với tiếng leng keng ấy là rõ… Người ta đua nhau thụp xuống nhặt tiền vàng, còn tôi đứng im như trời trồng, mắt vẫn hướng về Thừa Thiên Môn.
Lúc đó Lý Thừa Ngân xuất hiện, tuy xa xôi cách trở, song tôi nhận ra chàng với cái nhìn đầu tiên. Chàng khẽ tựa vào lan can trên Minh lầu, lọng biếc hoa lệ khoe ngọn gió sau lưng, tua cờ buông mình phất phơ, gió gieo cả vào tay áo. Bấy giờ dân chúng đồng loạt quỳ xuống, tung hô: “Vạn tuế! Vạn tuế! Vạn vạn tuế!”, tôi mới nhìn thấy Bệ hạ.
Nhà đế vương phú quý, cảnh thiên hạ thái bình, chưa một lần tôi cảm thấy những thứ ấy xa vời đến thế, lạ lẫm đến thế.
Tôi thấy Triệu Lương đệ mặc trang phục hoàng tộc, từ đằng sau dạo góc tiến lên, đành rằng không lộ diện, nhưng tôi vẫn nhận ra bóng hình đổ trên tấm rèm kia, rồi lại trông cánh tay đưa ra từ sau rèm choàng lên vai Lý Thừa Ngân một tấm áo lông đen tuyền. Trời trở gió, tấm áo chao nghiêng, lớp gấm đỏ tươi bên trong chiếc áo lẫn hoa văn thêu nổi bằng kim tuyến lóng lánh dưới ánh đèn nơi Minh lầu. Mọi thứ thu cả vào mắt tôi, Lý Thừa Ngân ngoảnh mặt sang phía đó, ở khoảng cách xa xôi, tôi không tài nào nhìn rõ vẻ mặt chàng, phải chăng trên bờ môi ấy là nụ cười dành cho người đẹp khuất sau rèm?
Trước kia, tôi chưa từng đặt chân lên Thừa Thiên Môn. Trước kia, tôi chưa từng ăn một cái Tết tử tế với Lý Thừa Ngân. Bao năm nay tôi nào có hay, thì ra mỗi dịp Tết Nguyên tiêu, chàng và Triệu Lương đệ lại vai kề vai, cùng sánh đôi nơi lầu cao, nhìn xuống mười vạn đèn hoa phủ trùm Thượng Kinh.
Đôi lứa sánh vai, đêm nay đây, đêm nay vốn là đêm se duyên lành.
Tôi cứ đinh ninh chúng tôi đã thay đổi. Tôi còn nghĩ, sự cố ngày hôm qua, đáng lẽ đã tạo ra sự khác biệt… Tối qua tôi bị thích khách bắt đi, chàng từng nhìn tôi, chàng từng gọi tên tôi, chàng bẻ mũi tên thề… Tất thảy những thứ ấy đều khiến tôi ngộ nhận, ngộ nhận chúng tôi đã đổi thay, thế nhưng sau vẻn vẹn có một ngày, chàng đã đứng kia sánh vai bên người con gái khác, nhàn nhã ngắm cảnh Nguyên tiêu đô hội, đón nhận câu chúc phúc của muôn dân…
Trong khi… Tôi sống chết thế nào còn chưa hay. Trong khi… tôi còn đang biệt tăm biệt tích. Trong khi… tôi mới là thê tử của chàng.
Thoáng nghe có ai đó gọi tên mình:
- Tiểu Phong!
Tôi quay sang, bần thần nhìn Cố Kiếm.
Gã nhìn tôi chăm chú, tôi cố nặn ra một nụ cười, định nói vài câu.
Nhưng gió lùa vào khuôn miệng vừa hé mở, gió buốt lạnh kéo theo cơn ho không thể dứt, cổ họng trước đó đã đau ghê ghớm, giờ đây từng cơn ho như chực xé toạc yết hầu. Ho cơn nào, đầu nhói theo cơn đó, chẳng khác nào bị một hòn đá sắc nhọn cứa vào huyết mạch, muốn thở cũng thật khó khăn. Tôi còng lưng ho không dứt, những cơn ho dữ dội như muốn nôn ra thứ gì đó trong bụng mới thôi. Đau là lẽ đã đành, mà nơi lồng ngực cũng vô cùng khó chịu. Trách chăng cái lạnh, trách chăng người vốn đang bệnh… có bệnh tật phải khó chịu thế thôi.
Cố Kiếm đỡ tôi, tôi lảo đảo một hồi, cảm thấy như có thứ gì đó vừa nứt đôi. Khi âm thanh khàn đạt thoát ra khỏi cống họng, dường như lồng ngực cũng được vỗ về phần nào.
Gã nâng mặt tôi lên, tôi nghe tiếng mình vang lên:
- Cũng chẳng có gì ghê gớm…
Tôi thấy trong đôi mắt ấy hằn lên ánh nhìn day dứt lạ thường, gã chợt đưa tay quệt khóe miệng tôi.
Dưới ánh đèn, tôi thấy trên ngón tay gã còn đọng vết máu, những ngấn loang lổ, từng đốm bám cả lên ống tay áo, là máu. Chân tay bủn rủn, mặt mày xây xẩm, tôi biết mình đứng không vững, như thể vừa rồi tôi đã gồng mình nôn ra cục máu ấy. Gã ôm tôi, thì thầm bên tai:
- Tiểu Phong, muội cứ khóc đi, muội cứ khóc một trận cho thỏa!
Tôi đẩy gã bằng chút sức lực cuối cùng.
- Sao phải khóc? Huynh cố ý dẫn tôi đến đây cơ mà, sao tôi phải khóc? Huynh đừng vờ vĩnh nữa, việc gì tôi phải khóc? Huynh bảo xem xong, huynh lập tức thả người, đúng không? Bây giờ tôi phải đi đây!
- Tiểu Phong!
Gã đuổi theo định đỡ tôi. Bước chân loạng choạng song tôi vẫn gắng đứng vững, ngoái đầu, tuốt trâm cài tóc quẳng xuống chân gã, nhìn gã bằng ánh mắt lạnh lùng, cất giọng:
- Huynh đừng đụng vào tôi, cũng đừng có theo tôi, bằng không tôi chết cho huynh xem. Đành rằng huynh có võ công tuyệt thế, nhưng ngăn thế nào được một khi tôi đã muốn chết. Huynh cản được một lần, cản sao được cả đời! Huynh cứ thử theo tôi xem, tôi sẽ tự sát bây giờ đấy!
Có lẽ tôi đã nói với giọng cương quyết khiến gã chững lại, không dám tiến tới gần.
Tôi thất thiểu bước đi, chẳng biết đã đi được bao xa, chỉ thấy bốn bề là người, bốn bề là đèn, ánh đèn chói chang đến nhức nhối. Tôi nắm chặt cổ áo khoác, cảm nhận từng cơn run rẩy, lạnh đến nỗi răng và lợi va vào nhau lập cập. Tôi biết mình đang sốt, chân bước ngỡ đạp lên cát, chẳng còn mấy sức lực. Bải hoải đứng dưới giàn đèn, giữa những tiếng cười nói hân hoan, giữa dòng người nhộn nhịp, giữa bầu trời tưng bừng pháo hoa, chắc là tháp Thất Tinh đang thi bắn pháo hoa. Một cái tết Nguyên tiêu rực rỡ sắc màu, một cái tết Nguyên tiêu nơi phồn hoa đô hội, nhưng tôi phải đi đâu, về đâu?
Gầm trời bao la, hỏi có chốn nào cho mình dung thân?
A Độ ơi, muội đang ở đâu? Chúng ta về Tây Lương thôi, ta nhớ Tây Lương lắm rồi!
Trước mắt tôi là một chiếc lồng đèn kéo quân, chao đèn dán giấy thiếp vàng in hình một người con gái, hơi nóng từ ngọn nến uốn lượn tỏa ra, chao đèn quay mòng mòng. Người con gái đó thoắt đứng, thoắt ngồi, thoắt yêu kiều, thoắt giận dữ, lại thoắt hoan hỷ… trước mắt tôi tối dần, người con gái in bóng trên chao đèn sao có nét hao hao Triệu Lương đệ thế nhỉ? Ả ta bưng miệng cười, ngạo mạng hỏi tôi: “ Tỷ tưởng mọi thứ đã đổi khác ư? Tỷ nghĩ mình đã chiếm được chỗ đứng trong lòng chàng rồi ư? Tỷ tưởng mình làm con tin thay Bệ hạ thì chàng sẽ rủ lòng thương ư…”
Tôi phải dựa vào thân cây mới có thể đứng vững, lớp vỏ sần sùi, thô ráp cào vào áo lông đau buốt, nhưng lại khiến tôi thấy dễ chịu hơn… chỉ cần cơn đau nhức ấy làm vơi đi sự âm ỉ trong lồng ngực. A Độ thì chẳng thấy đâu, ở Thượng kinh này, tôi trở thành bơ vơ. Tôi có nơi nào để đi? Một thân một mình về Tây Lương, dẫu phải đi một tháng, một tháng không đến thì ba tháng, ba tháng không đến thì nửa năm, nửa năm không đến thì một năm, thế nào chẳng về được Tây Lương.
Tôi ngước mắt trông trăng, vầng trăng tròn đầy, sáng trong, dịu dàng soi tỏ từng mặt người. Dưới ánh trăng kia, Thượng Kinh yên bình làm sao, phồn thịnh làm sao… Trước đây tôi và A Độ từng dạo khắp phố lớn, ngõ nhỏ của Thượng Kinh, nhưng nơi này mãi mãi không phải nhà tôi, tôi muốn về nhà.
Tôi lê bước về phía tây, muốn về Tây Lương ắt phải đi qua Quang Hoa Môn, rồi cứ thẳng tiến về phía tây qua được Ngọc Môn Quan là đến Tây Lương.
Tôi phải về nhà thôi.
Chưa đến được Quang Hoa Môn, bỗng nghe người xung quanh đó xôn xao, có người gào lên:
- Thừa Thiên Môn bốc cháy rồi!
Tôi cứ ngỡ mình nghe nhầm, lúc đó mọi ánh nhìn đều đổ dồn về phía nam, thoáng thấy ngọn lửa bập bùng trên Thừa Thiên Môn và những cột khói đen dày đặc bốc lên cuồn cuộn từ mái vòm, ai nấy đều kinh hãi, giương mắt nhìn tòa thành dần chìm trong biển lửa. Những chuỗi đèn như châu như ngọc, những mảnh rèm thắm đỏ, những mái hiên sừng sững, đồ sộ… giờ đây đã bị nuốt chửng trong ngọn lửa ngùn ngụt. Đám cháy mỗi lúc một lớn, lửa bùng lên dữ dội, gió được đà bốc ngọn lửa lên cao. Thừa Thiên Môn bừng bừng bốc cháy.
Từ đầu đường đến cuối phố bỗng trở nên hỗn loạn, dân chúng nhốn nháo lo chạy thoát thân, thì còn biết làm gì vào lúc này nữa. Chếnh chếch bên kia đường đã xuất hiện người của Thần vũ quân, tôi nghe họ quát tháo ầm ĩ, hò dân chúng tự giác nhường đường, tiếng vó ngựa ào ào như cơn lốc quét qua, đám người đến cứu hỏa cũng rầm rập xuất hiện ngay sau đó. Họ vác ống gỗ, kéo theo những thùng xe lớn chở đầy nước, lộc cà lộc cộc tiến về phía xảy ra hỏa hoạn. Rằm tháng Giêng năm nào cũng đốt pháo bông và chăng đèn lồng, nếu để xảy ra cháy nổ thì đúng là đại họa, vì lẽ đó mà quan Kinh triệu doãn hằng năm đều chuẩn bị sẵn ống cứu hỏa và xe nước, nhưng trước kia chỉ thấy nhà dân bốc cháy, không ngờ năm nay lại phải dùng vào việc lớn thế này.
Tôi đánh mắt trông về phía Thừa Thiên Môn trong vòng vây kín mít của Thần vũ quân. Lát sau đã thấy một toán cung nữ mang nghi trượng, cờ lọng nối đuôi Thần vũ quân đi về phí Hoàng cung, tôi nghĩ ắt cũng chẳng có gì to tát.
Mà thực ra, tôi còn lo lắng làm gì nữa, người trên Thừa Thiên Môn ai chết ai sống, nói cho cùng, giờ đâu còn liên quan gì đến tôi…
Giờ tôi chỉ lo về Tây Lương, chỉ muốn nói với cha rằng: “Con đã về”, rồi lấy ngựa, chạy băng băng trên thảo nguyên như những ngày tháng vô tư lự thuở trước.
Tôi giữ sức để tiếp tục cuộc hành trình về phía tây thành, ngựa của Thần vũ quân vụt lướt qua, chỉ kịp nghe tiếng voi quất vun vút lẫn trong tiếng hét:
- Hoàng thượng có chỉ! Đóng chín cổng thành!
Tiếng họ ngân vang, đi một đoạn rất xa rồi mà vẫn còn vọng lại:
- Hoàng thượng có chỉ! Đóng chín cổng thành! Hoàng thượng có chỉ! Đóng chín cổng thành!…
|
Tết Nguyên tiêu ngắm hội hoa đăng có lịch sử hàng trăm năm nay, chưa bao giờ để xảy ra chuyện này, song dân chúng cũng không lấy làm lạ, sở dĩ họ vẫn còn chưa hết bàng hoàng vì vụ cháy xảy ra quá đột ngột, đến tận lúc này họ vẫn còn đang bàn tán xôn xao. Không biết bao nhiêu thùng nước đã đổ vào đám cháy, cuối cùng đã khống chế được ngọn lửa, khói dịu bớt, thay vào đó, hơi nước bốc lên nghi ngút, mùi than cốc nồng nặc tỏa vào bầu không khí.
- Cổng thành đóng rồi, về thế nào đây?
- Ôi trời, cháy lớn, sợ loạn nên đóng cổng thành thế thôi, đợi lúc nữa, Thừa Thiên Môn tắt lửa rồi, thế nào cổng thành chẳng mở…
Người trên phố xôn xao bàn tán khiến tôi sốt ruột. Chưa nhúc nhích thêm được bước nào, đến thở tôi cũng thấy nóng như thể cổ họng đang ngậm hòn than, ráo và rát cháy. Tôi thở hổn hển rồi ngồi phịch xuống lề đường, ngả đầu vào thân cây.
Tôi tự nhủ, mình chỉ nghỉ một lúc thôi, không ngờ tựa vào đó rồi mê man lịm dần.
Hình như khi còn bé, có lần theo cha đi săn, tôi ngủ quên trên lưng ngựa, cha cõng tôi về đến tận nhà. Tôi nhoài người trên tấm lưng rộng của cha, đánh một giấc ngon lành, lúc ngủ còn quyệt nước miếng làm lưng áo cha ẩm ẩm. Tôi uể oải nhấc mi mắt, vẫn thấy phố xá ngập trong ánh đèn lung linh, huyền ảo, tựa như sao băng thỉnh thoảng bay qua bầu trời đêm mùa hạ trên thảo nguyên. Nghe nói nếu may mắn được gặp sao băng, trước tiên phải thắt đai áo, vừa thắt vừa ước cái gì đó thì điều ước ắt sẽ linh nghiệm. Nhưng tay chân tôi lóng ngóng, lần nào gặp sao băng cũng vậy, mải cầu nguyện mà quên thắt đai áo, mải thắt đai áo thì quên phải cầu nguyện.
Đêm nay sao lại nhiều sao băng đến vậy? Nếu bây giờ mình ước liệu có điều gì để mình mong muốn nữa nhỉ?
Tôi gắng nhấc tay định thắt đai áo, vậy mà ngón tay mềm vặt, không chút sức lực, tôi buông thõng tay, đành thôi vậy…
Tôi nhắm mắt, chìm sâu vào giấc ngủ.
Giấc ngủ kéo dài bao lâu tôi không rõ, nó đằng đẵng như trọn vẹn một kiếp người, song cũng có thể chỉ là một thoáng ngắn ngủi. Giấc ngủ có vẻ sâu nhưng thật ra rất mơ hồ, lúc nào cũng có cảm giác trước mắt mình có chiếc đèn kéo quân xoay tít, giấy thếp vàng tỏa thứ ánh sáng nhức nhối, bên tai lúc nào cũng có tiếng người rì rầm, không chịu để cho tôi chút yên tĩnh dù chỉ một khắc. Tôi thấy tức tối, bọn họ có để yên cho tôi ngủ không chứ? Tôi biết mình ốm rồi, cơ thể lúc nóng lúc lạnh… lúc lạnh, răng nghiến kèn kẹt, lúc nóng, răng nọ đập răng kia, mũi thở ra bỏng rát…
Trong cơn mê tôi cũng lẩm nhẩm nói mấy câu, nào thì tôi muốn về Tây Lương, tôi muốn gặp cha, tôi muốn gặp A Độ, tôi muốn con ngựa nhỏ của mình…
Tôi muốn có cuộc sống như trước kia, song chỉ mình tôi biết, thứ tôi muốn, thật ra không thể tìm lại được.
Mới trước đó, lúc ho ra máu, tôi đã hiểu ra tất thảy.
Lồng ngực tôi đau đớn, quặn thắt, ý thức mờ dần rồi tôi lả đi.
Trong giấc mơ, tôi thúc ngựa lao vun vút giữa thảo nguyên hoang vu bất tận, ráo riết kiếm tìm khắp bốn phương, quẩn quanh, lạc lõng giữa mọi bề, lúc ấy, có lẽ nước mắt đã rơi, tôi nghe thấy tiếng mình khóc nghẹn.
Khóc cái gì chứ? Con gái Tây Lương đâu có dễ sụt sùi vì mấy chuyện vặt vãnh thế này?
Đến khi tôi lờ mờ tỉnh dậy trong trạng thái toàn thân ê ẩm, mí mắt nặng trĩu, cố mở mắt cũng không được. Tôi hé mắt, đập vào mắt là cái nhìn hoen ướt, đỏ au của A Độ đang bám lấy mình. Bốn bề tối như hũ nút, đỉnh đầu lưa thưa mấy lỗ thủng hứng ánh sáng mờ mờ. Tôi láng máng nhận ra, hình như mình đang ở trong một ngôi miếu hoang. Sao tôi lại ở đây? A Độ đỡ tôi dậy, bón cho tôi ít nước. Lồng ngực bỏng rát cũng phần nào nguôi ngoai, tôi nhắm chặt tay A Độ thì thào:
- A Độ, chúng ta về Tây Lương thôi!
Giọng tôi khàn đặc, tôi nói không ra hơi, chính tôi cũng chẳng nghe rõ, thế mà A Độ vẫn gật đầu, ngón tay mát rượi của muội ấy vuốt trên trán tôi, mang lại một cảm giác khoan khoái lạ thường. May sao, A Độ đã trở về rồi, may mà A Độ đã tìm thấy tôi. Tôi chẳng còn sức để hỏi xem hai ngày nay muội ấy chạy đi đằng nào, tôi bị thích khách bắt cóc, hẳn muội ấy cũng nóng ruột lắm. Có A Độ ở bên, lòng tôi nhẹ nhỏm hẳn. A Độ đã trở lại và chúng tôi sẽ về Tây Lương. Tôi mê man như lại chìm và trong giấc ngủ. Bỗng A Độ đứng phắt dậy, tôi cố gắng mở mắt nhìn muội ấy. A Độ đứng ngay bên cạnh tôi, hình như muội ấy đang cố gắng lắng nghe điều gì đó, chính tôi cũng nghe thấy tiếng sấm rền vang, một đội kỵ binh đang tiến về phía này.
A Độ cúi xuống, dìu tôi dậy, người tôi mềm oặt, chẳng còn chút sức lực.
Nếu những người sắp đến là Thần vũ quân hoặc Vũ lâm lang tôi cũng chẳng thiết gặp, bởi lẽ tôi không muốn gặp lại Lý Thừa Ngân, chỉ e A Độ không thể dẫn tôi trốn khỏi bọn chúng.
Có kẻ đạp tung cửa miếu. Chính lúc nước sôi lửa bỏng ấy, từ trên sàn nhà, một bóng trắng bỗng lao xuống. Lưỡi kiếm soáng loáng đâm thẳng hướng cửa, những tiếng rú thảm thiết vang lên tức thì. Thì ra Cố Kiếm phi thân từ trên nhà xuống, mà những kẻ ngã xuống ngoài cửa đều vận quan phục của Thần vũ quân. Lúc ấy tôi có cảm giác máu nóng trong người đang sôi lên, đã không muốn gặp lại Lý Thừa Ngân, đằng này Cố Kiếm còn đang ra tay giết người.
A Độ cầm đao, cảnh giác đôi mắt nhìn theo Cố Kiếm và Thần vũ quân đang đánh nhau, tôi giành lấy thanh đao trên tay A Độ khiến muội ấy nhìn tôi đầy vẻ nghi ngờ.
Tôi dấn bước tới gần đám người đang ẩu đả ấy, những người của Thần vũ quân tưởng tôi với Cố Kiếm cùng một giuộc, chúng bèn hướng vũ khí lao về phía tôi. Võ công của Cố Kiếm rất cao cường, tuy bị kìm kẹp song mỗi lần có kẻ muốn tấn công tôi, gã đều thừa sức chống đỡ. Gã xuống tay nhanh gọn, không để phí một đường kiếm nào. Mỗi nhát kiếm vung ra, tức thì có kẻ gục ngã trước mặt tôi.
Máu nóng, bắn lên mặt, những kẻ gục xuống xung quanh tôi mỗi lúc một nhiều. Vậy mà đám Thần vũ quân như không biết sợ, người trước ngã xuống, kẻ sau liền tiến lên, song vẫn đổ gục dưới nhát kiếm của Cố Kiếm, rồi bọn họ trút hơi thở cuối cùng trước mặt tôi, gần trong gang tất. Tôi kinh hãi trước cảnh thảm sát không đáng có này, chỉ muốn gào lên: “Dừng lại đi”, nhưng giọng khàn đặc, không cách nào thốt nên lời, Cố Kiếm thì ngoảnh mặt làm ngơ.
Tôi nghiến răng, vung đao về phía gã. Gã đẩy nhẹ thanh đao trên tay tôi, khiến tôi run tay đánh rơi đao. Đúng lúc ấy, tôi nghe thấy có thứ gì đó nặng nề đang xé gió lao tới, dường như có hòn đá to nhằm đúng đầu tôi mà nện. Tôi ngẩng đầu nhìn theo bản năng, thấy A Độ hớt hải lao về phía mình, khói bụi xốc lên, âm thanh chát chúa như rung chuyển đất trời, muốn nghiền nát ngôi miếu nhỏ này.
Có luồng khí vô hình bao lấy tôi, tay A Độ vừa rờ tới gấu váy. Tôi thấy Cố Kiếm toan giữ tôi lại, nhưng đám người hung hãn kia nhanh tay cuốn gã vào cuộc ẩu đả. Mái ngói như chực đổ sụp, đầu vừa đụng vào thứ gì đó, đau buốt khiến tôi mất đi cảm giác trong nháy mắt, rồi cứ thế sa vào màn đêm vô tận.
“Tách!”
Thân thể nặng trĩu lẳng mình xuống nước, nước xanh biếc vây hãm bốn bề, đau như bị ngàn nhát dao sắc lạnh xẻ dọc da thịt. Đành rằng vậy, tôi vẫn yên tâm buông xuôi mọi thứ, thả lỏng cơ thể cho chìm xuống đáy sâu, như đứa con trở về với mẹ, như cánh hoa nhỏ xinh hạ mình về với đất. Đó là một cõi đi về rất đỗi bình yên trong tôi, tôi hiểu hơn ai hết…
- Nước sông Quên, đặng quên tình…
“Có con cáo nhỏ cô đơn,
Ngồi trên cồn cát ngắm trăng một mình,
Cơ mà đâu phải ngắm trăng,
Cáo đang mong đợi cô nàng chăn dê.
Có con cáo nhỏ bơ vơ,
Ngồi trên cồn cát thẩn thơ sưởi mình,
Nào đâu cáo muốn sưởi mình,
Cáo đợi cô mình cưỡi ngựa đi qua.”
- Khó nghe thế! Đổi bài khác đi!
- Nhưng tôi chỉ biết mỗi bài này thôi…
…
- Muôn đời muôn kiếp, mãi mãi về sau ta sẽ quên được chàng!
|
Chương 09
Trong ký ức có đốm sáng lập lòe lúc tỏ lúc mờ, dường như bức màn sương mù vừa được vén lên, khoe cảnh hư ảo, huyền hoặc. Và bỗng nhiên, tôi thấy chính mình.
Tôi thấy mình ngồi trên cồn cát, ngắm mặt trời đang lặng lẽ khuất bóng, thấy trái tim mình từ từ rũ héo, chờ ánh tà dương le lói rồi chợt tắt sau rặng đồi phía xa. Màn đêm đặc quánh buông mình phủ khắp đất trời, tia sáng cuối cùng đã biến mất.
Tôi tuyệt vọng quẳng miếng ngọc bội xuống cát, leo lên ngựa, bỏ đi không ngoảnh lại dù chỉ một lần.
Gã sư phụ tồi! Gã sư phụ đáng ghét! Thế mà cứ huyên thuyên rằng sẽ làm mối cho tôi, sẽ tìm cho tôi người đàn ông đẹp trai nhất trần đời! Gã lừa tôi ra đây, làm tôi mất công đợi ba ngày ba đêm!
Mấy ngày trước, Hoàng đế Trung Nguyên phái sứ thần cầu thân với cha tôi, tỏ ý rằng, Thái tử Trung Nguyên nay đã mười bảy, mong được lấy Công chúa Tây Lương làm chính thất, cốt để thắt chặt mối bang giao tốt đẹp đời đời giữa hai nước. Trung Nguyên từng gả cho Tây Lương một cô công chúa, bây giờ tới lượt chúng tôi phải đưa công chúa sang Trung Nguyên.
Nhị tỷ và tam tỷ xem chừng muốn đi lắm, nghe nói cuộc sống ở Trung Nguyên rất đầy đủ, được ăn ngon, mặc đẹp, nước non dồi dào, không phải di cư dọc theo nơi có đồng cỏ và nguồn nước, tránh được nỗi khổ gió cát sa mạc… Mà theo lời sứ thần nói thì tương lai, thái tử phi sẽ được tấn phong làm hoàng hậu Trung Nguyên, thân phận không thể là con thứ thiếp, cho nên họ muốn chọn một công chúa là con ruột của đại yên thị[1] và cha tôi. Tôi không hiểu đây là quy ước gì nữa, nhưng vì đại yên thị không ai khác chính là mẹ tôi, trong khi bà chỉ có mình tôi là con gái, xem ra số tôi phải đến Trung Nguyên làm dâu rồi. Nhị tỷ và tam tỷ thì ao ước được tới làm dâu đất Trung Nguyên, song tôi chẳng thích thú gì. Trung Nguyên thì có gì hay? Đàn ông Trung Nguyên, tôi nhìn chán rồi, mấy gã thương nhân buôn tơ lụa đến từ Trung Nguyên, gã nào gã nấy đều trói gà không chặt, đừng nói đến bắn cung, ngay cả cưỡi ngựa cũng kém cỏi. Người ta nói Thái tử Trung Nguyên từ nhỏ đã ở lì trong thâm cung, ngoài vẽ tranh, ngâm thơ, hẳn chẳng biết gì khác.
[1] Đại yên thị: Danh xưng dành cho hoàng hậu của vua Hung Nô.
Lấy một gã chồng đến cung cũng không giương nổi, nghĩ thôi tôi đã tức. Tôi mè nheo mất mấy ngày, cha tôi liền dỗ dành:
- Con đã không đồng ý lấy Thái tử Trung Nguyên thì thôi vậy, để ta lựa lời nói với họ. Nếu con có ý trung nhân rồi, vậy để ta tổ chức lễ đính hôn cho các con, sau đó ta sẽ giải thích với người Trung Nguyên, khuyên họ chọn công chúa khác, làm vậy họ có muốn bắt bí chúng ta cũng không được.
Bấy giờ tôi vẫn chưa tròn mười lăm tuổi, đám con trai trong tộc chỉ coi tôi như em gái, đi săn không thèm rủ, hát hò cũng không thèm gọi… Tôi biết đi đâu tìm ý trung nhân chứ?
Buồn chết mất thôi!
Sư phụ biết chuyện liền vỗ ngực khẳng định sẽ tìm cho tôi một gã đẹp trai nhất trần đời. Sư phụ bảo Trung Nguyên gọi đây là “dạm mặt”, đôi bên nam nữ gặp riêng một lần, nếu tâm đầu ý hợp, cha mẹ sẽ đứng ra quyết định rồi nhờ người mai mối. Gặp nhau có một lần thì làm sao biết người ta thế nào, song giờ tình hình cấp bách, chỉ cần không phải lấy Thái tử Trung Nguyên, tôi liền đồng ý đi dạm mặt.
Sư phụ nói địa điểm dạm mặt ở trên đồi cát cao nhất cách thành ba dặm. Sư phụ đưa tôi một mảnh ngọc bội, dặn rằng mảnh còn lại do người kia cầm, rồi còn bảo tôi nhớ để ý cẩn thận, phải nhìn cho kĩ, xem có vừa ý không.
Biết ngay sư phụ lại giỡn tôi mà, ngày nào người cũng lôi tôi ra làm thú tiêu khiển. Lần trước sư phụ bảo, sau núi Yên Chi có con sông Quên, hại tôi chất lương khô, rong ngựa chẵn mười ngày mười đêm. Rốt cuộc xới tung cả núi Yên Chi, chỉ tìm thấy một đồng cỏ mênh mông sau lưng núi, đến đầm nước cũng không có, nói gì tới sông Quên.
Cả đi lẫn về mất hai mươi ngày, tôi đi một vòng dưới chân núi suýt nữa thì lạc, may gặp một người chăn dê, loay hoay mãi mới tìm được đường về thành. Mẹ tưởng tôi đi lạc không trở về nữa nên ngã bệnh. Mẹ ôm tôi khóc rấm rức, cha nổi giận lôi đình, nhốt tôi trong Vương thành suốt mấy ngày trời, cấm được bước chân ra khỏi cửa. Sau đó tôi chất vấn sư phụ hòng xả cơn giận, thế mà người còn bảo:
- Ta mới nói thế mà muội đã tin rồi à? Muội phải biết rằng, trên đời này thế nào cũng có kẻ muốn lừa muội, muội không thể tin những gì họ nói. Ta đang dạy muội, chớ nhẹ dạ cả tin, bằng không sau này sẽ thiệt thân.
Tôi nhìn đôi mắt sáng long lanh của sư phụ, vô cùng tức tối.
Sao tôi chẳng rút ra được bài học nào thế nhỉ? Tôi bị sư phụ lừa không biết bao nhiêu lần nhưng lần nào tôi cũng tin một cách khờ khạo.
Mà có lẽ, cả đời tôi chẳng thể nào thông minh, mưu trí được như sư phụ.
Tôi bực bội rong ngựa về, chú ngựa nhởn nhơ gặm cỏ dọc đường, suốt quãng đường về tôi ngẫm nghĩ, hay cứ nói với cha rằng tôi thích sư phụ, rồi xin phép người cho tôi và sư phụ được đính hôn nhỉ? Đằng nào sư phụ cũng hại tôi nhiều lần lắm rồi, lần này tôi sẽ cho sư phụ biết tay, chắc không có gì quá quắt đâu.
Tôi sung sướng nghĩ ý kiến này quá là tuyệt vời, rồi lòng tôi phấn chấn hẳn lên, vừa thúc ngựa phi về Vương thành vừa ngân nga hát:
“Có con cáo nhỏ cô đơn.
Ngồi trên cồn cát ngắm trăng một mình,
Cơ mà đâu phải ngắm trăng,
Cáo đang mong đợi cô nàng chăn dê.
Có con cáo nhỏ bơ vơ,
Ngồi trên cồn cát thẩn thơ sưởi mình,
Nào đâu cáo muốn sưởi mình,
Cáo đợi cô mình cưỡi ngựa đi qua.”
Tôi đang cao hứng, bỗng phía sau có người gọi:
- Cô bé, đồ của muội rơi này!
Tôi ngoái đầu, thấy một kẻ đang ngồi trên con ngựa trắng.
|
Sư phụ nói, những kẻ cưỡi ngựa trắng chưa chắc đã là hoàng tử, mà có khi là Đường Tăng từ Đông thổ Đại Đường đến Tây Thiên thỉnh kinh. Song gã trai này vận áo dài màu trắng chứ không phải áo cà sa, phải công nhận, xưa nay tôi chưa từng gặp một gã trai nào mặc đồ trắng đẹp như thế này. Những thương nhân người Ba Tư thỉnh thoảng đến đây cũng thường mặc đồ màu trắng, nhưng đám người Ba Tư kia vận màu trắng dưa lê, còn màu trắng trên người gã trai này có vẻ sáng trong như ánh trăng.
Hắn nom cũng thật đẹp trai, mắt mày cong cong tựa nét cười, mặt mũi trắng ngần như ngọc Hòa Điền thượng hạng, tóc tết kiểu Tây Lương, mà tiếng Tây Lương của hắn cũng khá lưu loát. Có điều, thoạt trông tôi đã nhận ra hắn là người Trung Nguyên, đàn ông Tây Lương không ai trắng như hắn. Hắn ngồi trên lưng ngựa, toàn thân toát ra khí thế mà tôi từng thấy ở cha mình, lúc người thúc ngựa, vác đao duyệt binh, trong tiếng hô vang của ba quân, ánh mắt người kiêu hãnh nhìn xuống quân đội, lãnh thổ và những đứa con của mình.
Gã trai này cũng nhìn tôi bằng ánh mắt từa tựa như thế, như thể hắn là vị quân vương duy nhất trên đời này.
Con tim tôi nhảy nhót loạn xạ, ánh mắt hắn tựa như cơn lốc xoáy giữa hoang mạc, lao đến, cuốn phăng mọi thứ. Tôi tự nhủ, quả nhiên hắn có sức hút kỳ lạ, khi hắn nhìn tôi, đầu tôi như trống rỗng. Miếng ngọc bội trắng ngần nằm gọn trên những ngón tay thon dài của hắn, chính là miếng tôi vừa quẳng đi. Hắn nói:
- Không phải đồ của muội đánh rơi à?
Vừa nhìn thấy nó, tôi lại bực bội, bèn đanh mặt, gắt gỏng:
- Không phải.
Hắn nói:
- Nơi mênh mông không người này, không phải là đồ của muội, vậy là đồ của ai?
Tôi dang tay múa may một hồi, nói:
- Ai bảo ở đây không có người? Chỗ này có cát, có trăng, có sao…
Hắn bỗng nhoẻn miệng cười, cất giọng khe khẽ:
- Và có cả muội nữa…
Tôi như bị trúng tà, mặt bỗng nóng bừng. Tuy tuổi còn nhỏ, song tôi vẫn hiểu trong câu nói của hắn có mấy phần cợt nhả. Tôi bắt đầu thấy hối hận khi lẻn ra ngoài một mình, chỗ nay đồng không mông quạnh, hắn mà động thủ, chưa chắc tôi đã đọ nổi hắn.
Tôi xẵng giọng, nói:
- Huynh biết tôi là ai không? Tôi là Cửu Công chúa của Tây Lương, cha tôi là quốc vương Tây Lương, mẹ tôi là đại yên thị, cũng chính là nữ vương của Đột Quyết, ông ngoại tôi là đại thiền vu[2] Thiết Nhĩ Cách Đạt quyền uy nhất Tây Vực, kền kền trên sa mạc nghe danh ông ngoại tôi cũng sợ không dám đậu xuống. Huynh mà dám xấc xược thì cha tôi nhất định sẽ bắt huynh trói sau ngựa, cho ngựa kéo đến chết.
[2] Thiền vu: Tước hiệu của các lãnh đạo tối cao của dân du mục ở Trung Á trong tám thế kỷ, bắt đầu từ thời nhà Chu (1045-254 TCN) và được thay thế bởi tước hiệu khả hãn vào năm 402 CN. Tước hiệu này được thị tộc Luyên Đê của người Hung Nô sử dụng ở thời nhà Tần (221-206 TCN) và nhà Hán (206 TCN-220 CN).
Hắn thản nhiên mỉm cười, nói:
- Cô bé này đáo để thật, chưa gì đã dọa người ta? Muội biết ta là ai không? Ta là Cố Ngũ Lang của Trung Nguyên, cha ta là chủ tiệm chè, ông ngoại ta là nông dân trồng chè, tuy gia đình ta không quyền cao chức trọng gì nhưng nếu muội bắt ta trói sau ngựa, cho ngựa kéo đến chết, chỉ e Tây Lương của muội sẽ không có chè ngon mà uống đâu.
Tôi há miệng, trợn mắt nhìn hắn. Chè mới du nhập vào Tây Lương mấy năm qua, trong mắt người dân Tây Lương, nó quả thật là đồ uống kỳ diệu. Cha tôi rất thích uống chè của Trung Nguyên, mà mọi người ở Tây Lương đều thích uống chè, không ai nỡ bỏ dù chỉ một ngày. Nếu tên này nói thật, vậy phiền phức rồi đây.
Hắn vẫn nhìn tôi chằm chằm, còn cười mỉm nữa chứ.
Đang cơn bực mình, tôi bỗng nghe sau lưng có tiếng ai đó phì cười.
Tôi ngoái đầu nhìn, hóa ra là sư phụ. Không hiểu sư phụ từ đâu ra, còn nhìn tôi rồi cười.
Tôi bực mình, nói:
- Sao cón dám đến gặp ta? Hại ta mất ba ngày ba đêm đợi trên cồn cát! Cái gã đẹp trai nhất trần đời sư phụ bảo tìm giúp ta đâu hả?
Sư phụ chỉ vào gã cưỡi ngựa trắng, nói:
- Chính hắn đấy thôi!
Cố Ngũ Lang cười tinh quái, xòe bàn tay. Bấy giờ tôi mới nhận ra, trên ta hắn không phải có một mảnh ngọc bội, mà là một đôi. Với đôi ngọc bội trên tay, nom hắn hớn hở như vừa được xem kịch hay.
Mặt tôi nghệt ra, lúc lâu sau mới sực tỉnh, tôi không thèm lấy gã người Trung Nguyên này! Đành rằng hắn đẹp trai thật đấy, nhưng mồm miệng cũng đáo để ra trò, chẳng chịu nhường ai đến nửa câu, đã thế còn cả gan chọc người ta nữa chứ, tôi căm ghét nhất kẻ nào dám trêu mình!
Bụng dạ tức tối, tôi thúc ngựa quay về, chẳng thiết nhìn hắn thêm nữa. Sư phụ và gã Cố Ngũ Lang kia cưỡi ngựa thong dong đi đằng sau, thỉnh thoảng trao đổi mấy câu.
Sư phụ nói:
- Ta cứ tưởng đệ không đến cơ đấy!
Gã Cố Ngũ Lang đáp:
- Nhận được bồ câu đưa thư, đệ không đến đâu có được.
Thấy bọn họ trò chuyện thân mật tôi mới hiểu, thì ra sư phụ và hắn quen biết từ trước, hai người dường như nói mãi không hết chuyện. Dọc đường, sư phụ giảng giải về phong tục tập quán và lễ tiết của Tây Lương cho tay Cố Ngũ Lang ấy nghe. Hắn nghe rất chăm chú, thỉnh thoảng có vài câu truyền đến tai tôi. Tôi không muốn nghe cũng khó, bọn họ dần chuyển từ chuyện phong thổ sang chuyện thông thương buôn bán, chưa bao giờ tôi nghe sư phụ nói nhiều đến thế, nghe mãi cũng chán, tôi ngáp ngắn ngáp dài.
Lớp tường bao màu xám chạy quanh Vương thành đã thấp thoáng đằng xa, dải tường thành và cổng lầu rất lớn được chất từ tầng tầng lớp lớp gạch vụn. Thành quách sừng sững tựa những rặng núi nối đuôi nhau trải dài, tường thành cao chót vót che lấp một góc trời, càng đến gần càng thấy thành lũy cao vời vợi. Trên đất Tây Vực hoang liêu, trong phạm vi mười dặm đổ lại không đâu có được tòa thành lớn thế này. Các bộ tộc Tây Lương vốn sống dọc theo nơi có đồng cỏ và nguồn nước, khoảng một trăm năm trước, các bộ lạc Tây Vực đã liên kết với nhau thành một liên minh hùng mạnh dưới quyền một vị thiền vu, sau đó dựng nên Vương thành hùng vĩ này, từ đó lấy tên là Tây Lương Quốc. Trải qua nhiều thế hệ liên hôn giữa các tộc Đột Quyết, Khâu Từ, Nguyệt Thị, lại được Trung Nguyên phong thưởng; chưa kể Vương thành nằm trên con đường thông thương quan trọng nối giữa Trung Nguyên và Đại Thục mà các thương nhân ắt phải đi qua, chính điều đó đã mang lại sự phồn vinh cho Vương thành. Bên cạnh đó, các vị thiền vu tiền triều luôn chú trọng vào lực lượng quân sự, binh sĩ của chúng tôi dũng mãnh, thiện chiến và cho đến ngày nay, Tây Lương đã vươn lên trở thành cường quốc của Tây Vực. Lãnh thổ tuy nhỏ, song kể cả Trung Nguyên cũng không dám xem tường Tây Lương.
Thành lũy đồ sộ nổi bật giữa nền trời tím sậm, càng nhìn càng thấy hùng vĩ, tráng lệ. Trông đèn lồng nhấp nháy treo trên đỉnh lầu lại tưởng một vì sao lớn điểm trên bầu trời đầy sao mênh mông, bất tận. Sao nhỏ li ti như hạt đường trải khắp bầu trời, còn Vương thành nhìn giống chiếc bánh nang[3] bọc đường, mỗi lần thấy nó, tôi lại có cảm giác thỏa mãn, cứ như vừa được đánh chén no nê.
[3] Bánh nang: Món ăn chính của người Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương – Trung Quốc.
|
Tôi thúc ngựa chạy nhanh hơn, chuông loan thắt dưới cổ ngựa ngân vang lảnh lót, hòa với tiếng lục lạc nơi xa, nghe rất êm tai. Cổng thành luôn mở qua đêm, vì thể nào chốc nữa cũng có đoàn buôn tranh thủ lên đường nhân lúc trời về đêm mát mẻ. Tôi phi ngựa vào đầu tiên, người bán nước giếng ngoài cổng thành đã quá quen mặt tôi, liền cất tiếng gọi: “Cửu Công chúa!”, rồi tung cho tôi một chùm nho. Đám thương nhân qua đường thường tặng bọn họ, lần nào họ cũng phần tôi chùm to, ngọt nhất.
Tôi vui vẻ đón chùm nho, ngắt một quả bỏ vào miệng, ngấu nghiến nhai lớp vỏ mỏng, vị ngọt mát tan ra nơi đầu lưỡi. Tôi ngoái đầu hỏi sư phụ:
- Hai người ăn không?
Bấy lâu nay tôi chưa từng gọi người này một tiếng sư phụ, dạo đó tôi nhận sư phụ chẳng qua là do bị lừa. Hồi mới quen, thoạt đầu tôi không biết kiếm thuật của gã xuất chúng hơn người, nghe gã nói thấy nóng gáy nên quyết đấu kiếm một trận. Ai thua phải chấp nhận bái người kia làm sư phụ, có thể đoán tôi đã thua thảm hại cỡ nào, đành xuống nước nhận gã làm sư phụ. Tuy làm sư phụ, song gã thường xuyên giở những trò không xứng mặt sư phụ, bảo sao tôi không thèm gọi một tiếng sư phụ, được cái gã cũng không để bụng, mặc kệ tôi suốt ngày gọi trống không.
Sư phụ lắc đầu bâng quơ, rồi lại mải mê nói chuyện cùng gã mặc áo trắng đi bên cạnh. Thỉnh thoảng sư phụ cũng dạy tôi mấy câu trong sách vở của người Trung Nguyên, cái gì mà: “Khi thiếp đã gặp được chàng. Rằng sao mà chẳng rộn ràng vui tươi?”[4], hay “Quân tử khiêm hòa, dịu dàng như ngọc”… Nói đi cũng phải nói lại, tôi cứ tưởng quân tử thường mặc áo trắng, sư phụ cũng thích mặc màu trắng, song sư phụ thì quân tử cái gì chứ, lưu manh thì có.
[4] Trích trong bài Phong vũ, thuộc phần Quốc phong – Kinh thi. Bản dịch của Tạ Quang Phát.
Thời gian Cố Tiểu Ngũ nán lại thành Tây Lương, hắn ở tạm chỗ sư phụ. Nơi sư phụ ở bày biện như bao nhà của người Trung Nguyên khác, mát mẻ, sạch sẽ và không nuôi lạc đà.
Tôi vẫn ghé nhà sư phụ chơi như thường lệ, dần dần trở nên thân thiết với Cố Tiểu Ngũ. Nghe nói hắn là thiếu gia của một tiệm chè, phần lớn người hay qua lại với hắn là thương nhân buôn chè của Trung Nguyên. Trong buồng hắn ở, lúc nào cũng chuẩn bị sẵn chè ngon và nhiều thứ ngon lành khác, như bánh ngọt kiểu Trung Nguyên hoặc một vài món đồ chơi kì lạ, hay ho, chúng khiến tôi quyến luyến mãi không rời. Nhưng ghét nhất là, lần nào gặp tôi, Cố Tiểu Ngũ cũng hỏi:
- Cửu Công chúa ơi, bao giờ muội mới chịu lấy ta?
Tôi giận quá hóa thẹn, chỉ tại lão sư phụ mà sự tình mới ra nông nỗi này. Tôi thường hét toáng lên:
- Ta thà lấy Thái tử Trung Nguyên, chứ quyết không lấy loại người vô lại như huynh.
Lần nào hắn cũng bật cười giòn tan.
Thực ra trong lòng tôi tự nhủ, tôi chẳng muốn lấy ai hết, đang yên đang lành ở Tây Lương, cớ gì phải làm dâu đất Trung Nguyên xa xôi?
Nói thế thôi, chứ sứ thần Trung Nguyên lại bắt đầu thúc giục cha tôi, thêm vào đó, Nguyệt Thị ở phía bắc núi Yên Chi, nghe nói Trung Nguyên phái sứ thần đến cầu thân với cha tôi nên họ cũng sai sứ thần mang theo rất nhiều lễ vật đến Tây Lương.
Nguyệt Thị vốn là nước lớn nhất, nhì trên khắp Tây Vực, binh sĩ trong tay họ lên đến mười vạn, đều là quân dũng mãnh, thiện chiến, cha tôi không muốn thất lễ, đành tiếp kiến sứ thần Nguyệt Thị trong Vương cung. Tôi sai hầu gái đi nghe trộm họ bàn chuyện, cô hầu gái hổn hển chạy về thì thầm kể tôi nghe, bữa nay sứ thần thay mặt Đại Thiền vu bên Nguyệt Thị đến là để dạm hỏi. Đại Thiền vu của Nguyệt Thị năm nay đã năm mươi, đại yên thị vợ lão là nữ vương của Đột Quyết, vốn là chị ruột của mẹ tôi, song vị Đại Yên thị này năm ngoái không may bệnh nặng qua đời, mà bên cạnh Thiền vu cuả Nguyệt Thị cũng có khá nhiều yên thị, xuất thân từ những bộ lạc khác nhau, họ không ngừng tranh chấp, chức đại yên thị đến nay vẫn phải bỏ ngỏ. Giờ Nguyệt Thị nghe nói Trung Nguyên phái sứ thần đến Tây Lương cầu hôn, họ cũng phái sứ bộ đến hỏi cha tôi, xin được cưới tôi về làm đại yên thị của nước họ.
Mẹ tôi nghe xong giận lắm, tôi cũng bực không kém. Lão Đại Thiền vu kia vốn là bác rể tôi, mà lão cũng đã ở cái tuổi râu bạc phơ rồi, song vẫn còn muốn lấy tôi về làm đại yên thị của Nguyệt Thị, đừng hòng tôi lấy một lão già làm chồng. Cha tôi không nỡ đắc tội Trung Nguyên, cũng không đành lòng thất lễ với Nguyệt Thị, người buộc phải ậm ờ lần lữa chưa vội quyết. Hiềm vì hai bên sứ thần đều nán lại Vương thành, về lâu về dài khó lòng trì hoãn được nữa, tôi hạ quyết tâm, định lén bỏ sang chỗ ông ngoại.
Hằng năm, mỗi độ thu về, tầng lớp quý tộc Đột Quyết thường tập trung săn bắt trên đỉnh núi Thiên Hằng, Trung Nguyên gọi là “Hội săn mùa thu”. Nhân dịp đi săn, ông ngoại thường sai người đến đón tôi về chơi, nhất là hai năm gần đây, sức khỏe ông có vẻ yếu đi nên năm nào tôi cũng sang thăm ông, ông luôn nói:
- Gặp cháu giống như được gặp mẹ cháu, ông rất mừng.
Theo tập tục của người Đột Quyết, con gái đã xuất giá không được phép về nhà ngoại thăm cha mẹ, trừ phi bị nhà chồng đuổi. Vậy nên lần nào tiễn tôi đi thăm ông, mẹ cũng phấn khởi căn dặn tôi nhớ thay mặt mẹ đến vấn an họ hàng đằng ngoại bên Đột Quyết. Tôi lén đem kế hoạch này tiết lộ với mẹ, dẫu sao mẹ cũng không bằng lòng gả tôi đến Trung Nguyên, càng không muốn tôi lấy chồng Nguyệt Thị. Mẹ giấu cha giúp tôi chuẩn bị nước và lương khô, rồi nhân lúc cha không có trong Vương thành, bí mật đưa tôi ra ngoài.
Tôi cưỡi ngựa, phi thẳng về hướng núi Thiên Hằng.
Vương thành ba mặt giáp núi, núi Yên Chi nhấp nhô trùng điệp vắt từ tây sang bắc, những ngọn núi cao ngất nối đuôi nhau tựa thân rồng uốn lượn, đôi khi giống một người khổng lồ vươn những cánh tay dài ôm trọn Vương Thành, ngăn gió chặn cát, ngăn không khí lạnh, biến Vương thành dưới chân núi trở thành một ốc đảo có khí hậu ấm áp, ôn hòa. Hướng đông là núi Thiên Hằng có đỉnh cao chót vót, sừng sững giữa đất trời như muốn chọc thủng mấy tầng mây, chẳng khác nào mấy tấm bình phong mà tiểu thương Trung Nguyên mang đến, chóp núi quanh năm đội nón tuyết trắng tinh, nghe nói chưa ai leo được lên đó. Vượt qua rặng núi, với những đồng cỏ mênh mông, non tơ trải dài đến tận chân trời, chính là quê ngoại của tôi.
Lúc ra khỏi thành, tôi để lại một mảnh giấy cho sư phụ, dạo gần đây sư phụ bận rộn, kể từ lúc gã Cố Tiểu Ngũ xuất hiện, tôi cũng ít khi được gặp người. Tôi nghĩ bụng, mình đi Đột Quyết đợt này, qua mùa đông mới trở về nên viết mảnh giấy bảo thầy chớ quên chăm hộ A Ba, A Hạ sau vườn nhà hộ tôi. A Ba và A Hạ là hai chú chuột tôi tình cờ bắt được. Cha cấm tôi nuôi chuột trong phòng ngủ, tôi đành gửi lại chỗ sư phụ.
Nhân lúc trời mát mẻ, giữa đêm, tôi nối đuôi đội buôn ra khỏi Vương thành, đội lái buôn rẽ hướng tây, tôi vòng hướng đông.
Sa mạc trong đêm tĩnh lặng quá, vòm trời đen mượt tựa nhung tơ như sà xuống trong tầm tay, sao trên trời như ở rất gần, sáng lấp lánh, gợi người ta nghĩ tới giọt sương đọng trên lá nho cũng mang cảm giác mát rượi như thế.
Tôi băng qua cồn cát rộng lớn, trông đám cỏ lưa thưa để chắc chắn mình không bị nhầm đường. Con đường này hầu như năm nào tôi cũng đi qua một lần, có điều lúc ấy luôn đi cùng những kỵ binh ông ngoại phái tới, còn hôm nay có mình tôi dò dẫm. Nhờ có sao Bắc đẩu chỉ đường, ngựa chạy băng băng trên sa mạc. Tôi bắt đầu suy tính, lần này gặp ông, nhất định phải nài nỉ ông sai đầy tớ bắt cho tôi một con chim biết hót mới được.
Trời hửng sáng cũng là lúc tôi buồn ngủ díp mắt. Mặt trời đỏ rực sắp ló dạng, ánh hào quang màu tím nhạt bừng lên khắp vùng trời phía đông. Bầu trời xanh xám để lọt vài tia trắng, làn hơi nước bốc lên lưng chừng trời cao, cuộn mình thành lớp sương sớm mỏng manh. Tôi thầm nghĩ, phải tìm chỗ nào đó nghỉ ngơi, càng về trưa, mặt trời càng chói chang, đó không phải thời gian thích hợp để lên đường.
Lội qua một dòng sông nhỏ trong veo, thấy gò đất râm mát, tôi nhảy phắt xuống ngựa, thả ngựa tự đi gặm cỏ, còn mình gối đầu lên bọc lương khô, đánh một giấc. Ngủ một mạch tới khi nắng xiên từ phía tây, rọi vào mặt khó chịu vô cùng, tôi mới mở mắt.
Tôi lấy lương khô trong bọc ra ăn, uống hết phân nửa túi nước, đong đầy lại rồi mới huýt sáo gọi ngựa.
Thoáng chốc, từ xa vọng lại tiếng vó ngựa quen thuộc, con ngựa nhỏ đang chạy băng băng về phía tôi, thở phì phì ra điều khoan khoái. Chớp mắt nó đã kìm vó, dừng trước mặt tôi, liếm láp tay tôi tỏ vẻ thân quen. Tôi vuốt ve chiếc bờm dài, rồi hỏi nó:
- Ăn no chưa?
Tuy nó không biết nói nhưng nó biết dùng ánh mắt để nói lên cảm xúc, đôi mắt to hiền hòa phản chiếu bóng hình tôi. Tôi vỗ vào bụng nó, nó bỗng hí lên đầy vẻ nóng nảy. Tôi lấy làm lạ, tự nhiên nó hí vang rền rồi nện móng loạn xạ xuống bãi cỏ, tỏ vẻ bất an, lẽ nào gần đây có sói?
Trên thảo nguyên, loài đáng sợ nhất là chó sói, chúng tập hợp thành bầy đàn, dân du mục đi một mình trên thảo nguyên chẳng may gặp phải chúng tất sẽ bỏ mạng. Có điều giờ đang là mùa thu, là lúc cỏ tươi tốt mà nước cũng dồi dào, linh dương và thỏ hoang có ở khắp nơi, thức ăn cho bầy sói khá nhiểu, chúng ẩn mình trên núi Thiên Hằng, chẳng có cớ gì để kéo bầy xuống đây, không thể có chuyện chúng xuất hiện ở thảo nguyên lúc này được.
Song chú ngựa nhỏ tỏ vẻ cáu kỉnh, ắt phải có lý do. Tôi lên ngựa, tiếp tục hành trình, thẳng tiến về phía núi Thiên Hằng, vòng qua chân núi là đã đến ranh giới giữa Đột Quyết và Tây Lương. Mẹ đã sai người gửi thư báo cho ông ngoại, thế nào cũng có người đứng đó chờ tôi. Để an toàn, tốt nhất tôi nên đến những nơi có người sinh sống.
Vừa thúc ngựa chạy chưa được bao xa, bỗng tiếng vó ngựa lọt vào tai tôi. Tôi đứng trên yên ngựa ngó quanh quất, thấy thấp thoáng đằng xa có một đường đen, đoán chừng đám này không ít người. Lẽ nào cha sai người đuổi theo tôi? Do khoảng cách xa quá, quả thực tôi không nhìn không rõ cờ hiệu của đội kỵ binh nọ. Tôi thấy ruột gan cồn cào như lửa đốt, đành thúc ngựa chạy thục mạng tới núi Thiên Hằng. Một khi đã đến ranh giới Đột Quyết, gặp được người của ông ngoại, cha cũng không thể miễn cưỡng bắt tôi về được.
|