Đông Cung (Phỉ Ngã Tư Tồn)
|
|
Hắn nhíu mày nhìn tôi:
- Tự Bảo lâm lại có chuyện gì thế?
Hả? Hắn chưa biết sao? Triệu Lương đệ chưa thủ thỉ gì sao? Tôi liếc mắt, cười nịnh bợ:
- À… không có gì, không có gì! Chàng tìm thiếp có chuyện gì thế?
- Mai là tết Nguyên tiêu rồi!
- Thiếp nhớ chứ!
Nhảm thật, bằng không hôm nay tôi cố ngủ nướng cả ngày để làm gì? Là để dồn sức cho tối mai, để đi ngắm hoa đăng chứ còn gì nữa.
Thấy tôi vẫn tỉnh bơ, hắn mới nói:
- Mai ta phải hầu phụ hoàng lên lầu Chu Tước, cùng dân đón tết Nguyên tiêu.
- À, thiếp biết.
Đương nhiên phải biết chứ! Năm nào cũng vậy, cứ độ tết Nguyên tiêu, Bệ hạ và hắn đều xa giá đến Thừa Thiên Môn, vẫy chào dân chúng trong thành, nghe bách dân trăm họ tung hô “vạn tuế”, gọi một cách hoa mỹ là “cùng dân đón tết Nguyên tiêu”, còn nói thẳng ra là đứng hứng gió mất nửa đêm. May thay phận nữ nhi trong hoàng thất không phải đi theo, không thì kiểu gì tôi cũng đông cứng thành cột băng trên cổng thành, đóng băng chỉ là chuyện nhỏ, bỏ lỡ hội hoa đăng mới là chuyện lớn.
Hắn gườm gườm, tỏ vẻ bực mình, khó chịu:
- Nàng đã hứa với ta gì nào?
Có một câu, phải nói thế nào nhỉ, gần vua như gần hổ, lòng vua khó dò. Câu này quá chí lý, tiếp con trai của hoàng đế khác gì tiếp hổ con, ý tứ khó dò y như nhau, hắn đang nghĩ gì tôi đoán mãi không ra, bèn rụt rè hỏi:
- Thần thiếp đã hứa gì với Điện hạ ư?
Thấy tôi ngơ ngác, hắn liền cao giọng:
- Quả nhiên nàng quên sạch rồi! Nàng hứa sẽ dẫn ta đến kỹ viện chơi.
Ôi trời ơi! Câu này hà tất phải gào lên như thế sao?
Tôi bổ nhào đến chặn đứng miệng hắn lại:
- Bé cái miệng chứ!
Vĩnh Nương biết Lý Thừa Ngân đến, lòng thấp thỏm không yên, chỉ sợ chúng tôi cãi vã, liền bước vào nội điện, khéo thế nào mà bà ấy vừa thò đầu vào, đập vào mắt bà ấy là cảnh tôi như con cua tám càng quắp chặt thân hình Lý Thừa Ngân, xiêm y chẳng những xộc xệch mà tay còn đang bụm chặt miệng hắn. Về phần Lý Thừa Ngân, hắn vừa xốc tôi dậy khỏi giường, hai bàn tay vẫn ghì chặt eo tôi… Quả thật trông tôi y như con khỉ đang vắt vẻo trên cành cây. Nói chung tư thế của hai đứa bảo mập mờ thì rất mập mờ, nói khả nghi, đúng là có thừa khả nghi… Bà ấy chưa kịp nhìn rõ sự tình đã giật mình quay đầu mất hút.
Tôi thấy bực mình, lần trước là A Độ, lần này đến lượt Vĩnh Nương, hà tất họ cứ phải nhằm lúc này để xông vào?
Lý Thừa Ngân có vẻ háo hức ra mặt:
- Dậy nào, ta sai người chuẩn bị quần áo ổn thỏa cả rồi. Sau tết Nguyên tiêu, ta sợ không còn dịp nào nữa.
Tôi cứ tưởng sau khi làm lành với Triệu Lương đệ, hắn đã quên chuyện này rồi chứ, ai mà biết hắn còn nhớ.
Quả nhiên hắn đã chuẩn bị sẵn một túi lớn toàn quần áo mới. Trước kia tôi chưa từng được ngắm một Lý Thừa Ngân trong trang phục thường dân, sao cứ thấy có nét gì đó là lạ, khó nói nên lời. Cũng không thể nói là chướng mắt, có điều không giống với dáng vẻ thường ngày của hắn lắm.
Hắn hí hửng lấy từ trong túi bộ râu giả đưa cho tôi xem:
- Có cần dán râu giả không? Thế này chắc chẳng ai nhận ra chúng ta.
Hắn hớn hở lôi từ trong túi bộ quần áo đưa cho tôi xem:
- Có phải vận quần áo màu đen không? Thế này tha hồ vượt tường, leo nóc nhà.
Rồi hắn lại lục trong túi gói thuốc mê đưa tôi xem:
- Có phải mang thuốc mê theo không? Thế này thì có mười tên cũng không thành vấn đề.
…
Tôi điên mất thôi! Điện hạ ơi là Điện hạ, người đến kỹ viện chứ có phải đi giết người, cướp của, phóng hỏa ở tiệm bạc hay lương khố đâu… Tôi nóng nảy gắt lên:
- Mang tiền là đủ rồi.
Cái này thì khỏi phải nói, Lý Thừa Ngân không những có tiền mà còn rất hào phóng nữa chứ. Tôi vừa dứt câu “mang tiền là đủ rồi”, hắn liền vét đáy túi lấy ra một đống vàng, chậc chậc, cả đống thế này phải bao trọn phường Minh Ngọc luôn ấy chứ!
Tôi thay đồ nam xong, Lý Thừa Ngân cứ tủm tỉm cười. Tôi gườm gườm, dọa sẽ không dẫn hắn theo nữa, cố gắng lắm hắn mới nín được cười.
Tôi khăng khăng đòi dẫn A Độ theo, Lý Thừa Ngân sống chết không chịu, tôi nói:
- Không có A Độ bên cạnh, thiếp không quen.
Hắn nghiêm nghị bảo:
- Có ta bên cạnh nàng là đủ rồi.
- Thế nhưng nhỡ đâu…
- Nàng không tin ta có đủ sức bảo vệ nàng ư?
Tôi thở dài, lần trước kẻ nào bị thích khách đâm cho một nhát sống dở chết dở, suýt thì chết hả… Sực nhớ đến gã thích khách nọ, bỗng dưng tôi thoáng thấy áy náy, tức thì cũng mềm lòng, tôi bèn lén ra hiệu cho A Độ sẽ ngầm bám theo chúng tôi.
Thế là tôi và Lý Thừa Ngân cùng lén ra khỏi Đông cung mà thần không biết, quỷ không hay. Thế nào Vĩnh Nương cũng đinh ninh tôi và Lý Thừa Ngân đang ở trong điện, không một kẻ nào phát hiện ra hành tung của chúng tôi. Bỗng dưng tôi thấy háo hức vô cùng, thì từ xưa tôi đã thích xuất cung, long nhong bên ngoài mà, dù hôm nay phải dẫn theo Lý Thừa Ngân nhưng tôi vẫn rất đỗi vui sướng.
Ra khỏi Đông cung mới nhận ra trời đang mưa. Làn mưa rét buốt táp vào mặt, lạnh thấu xương, bất giác tôi thấy lo lo, nếu mưa to hơn, chỉ e hội hoa đăng ngày mai sẽ kém vui. Năm kia trời cũng mưa to, tuy trên phố vẫn dựng lều trúc, vẫn chăng đèn, nhưng trăng lên tù mù, nào có biển hoa đăng để mà ngắm đâu.
Con đường lát đá ngập nước, tiếng vó ngựa vang lên lộc cộc. Nhành liễu tuốt lá lưa thưa buông thõng như làn tóc rối, tô điểm cho quán xá hai ven đường, trong quán nhen nhóm ánh đèn vàng, đèn lồng nối đuôi nhau chạy dọc con đường dài trước mắt. Mai là ngày rằm tháng Giêng, nơi tửu lâu, quán trà tấp nập người ra người vào, ngựa xe như nêm. Thượng Kinh lúc nào cũng khoác lên mình vẻ phồn hoa, nhất là giáp tết Nguyên tiêu, cả nét yên ả, e ấp nữa, hệt như tân nương sắp về nhà chồng, nàng dày công trang điểm, vận xiêm y rực rỡ, chỉ đợi đến ngày mai.
Dừng trước phường Minh Ngọc, chúng tôi xuống ngựa, tiểu nhị ân cần, niềm nở chạy đến giữ cương, dắt chúng tôi vào tàu ngựa phía sân sau.
Tối nay phường Minh Ngọc nhộn nhịp hơn hắn, lầu trên lầu dưới đâu đâu cũng kín người. Chúng tôi ướt sũng, Vương đại nương nhìn tôi mà như nhìn bảo vật sống, ngoác miệng cười mãi, giọng vẫn sang sảng như mọi khi, may mà tôi kịp cướp lời bà ấy:
- Đại nương tìm phòng để chúng tôi thay quần áo trước đã, vị đại ca này lần đầu tới đây, vẫn còn lạ lẫm.
Vương đại nương nhìn chằm chằm Lý Thừa Ngân, đôi mắt sắc sảo vừa trông thấy viên minh châu trên mũ đội đầu của Lý Thừa Ngân, lập tức cười híp cả mắt:
- Vâng, vâng, vâng, đương nhiên rồi, mời hai vị công tử đi lối này.
Lúc lên lầu, tôi hỏi Vương đại nương:
- Nguyệt Nương đâu?
|
- Mới có khách đến gọi Nguyệt Nương đi hầu đàn rồi.
Tôi thấy là lạ, lần trước Nguyệt Nương mắc bệnh tương tư, nể mối thâm tình lâu nay giữa chúng tôi, Nguyệt Nương đàn có hai bài mà mặt ủ mày chau. Nguyệt Nương không chỉ là hoa khôi của phường Minh Ngọc, mà trong đám ca kỹ hàng đầu ở Thượng Kinh, Nguyệt Nương không xứng danh đệ nhất cũng phải là đệ nhị, tỷ ấy còn chẳng thèm đả động tới đám người quyền cao chức trọng nữa là… Thậm chí lần tôi dẫn Bùi Chiếu đến, tỷ ấy có bận lắm đâu. Tôi hiếu kỳ hỏi:
- Vị khách nào mà ghê gớm vậy?
Vương đại nương cười tươi rói:
- Còn ai vào đây nữa! Thì là vị lần trước khiến Nguyệt Nương nhà ta xuyến xao, bồi hồi mãi đấy thôi, hôm nay lại đến rồi.
Hả?
Bản tính tò mò trong tôi trỗi dậy, tôi liền chèo kéo đòi Vương đại nương dẫn đi xem bằng được. Vương đại nương bối rối bảo:
- Chuyện này… Khách đang uống rượu trong phòng… không thể phá luật được…
Tôi nói mãi, mềm nắn rắn buông đủ cả, vậy mà Vương đại nương nhất quyết không chịu. Bà ấy làm ăn không phải chỉ ngày một ngày hai, chắc không nỡ hủy hoại danh tiếng đã gây dựng bấy lâu. Bà ấy ân cần dẫn chúng tôi lên một gian phòng đẹp đẽ, lộng lẫy, còn gửi hai bộ quần áo, gọi hai đứa a hoàn xinh xắn vào giúp chúng tôi thay đồ, sau đó tự mình đi chuẩn bị tiệc rượu thết chúng tôi.
Đợi bà ấy đi khuất, tôi mới xua hai đứa đầy tớ ra ngoài, tự thay bộ quần áo ướt sượt trên người, âu cũng vì sợ lòi cái đuôi mình là con gái. Lý Thừa Ngân khẽ hỏi:
- Nàng định làm thế nào?
Tôi cười ngô nghê nhìn hắn:
- Làm thế nào cái gì cơ?
- Nàng đừng giả ngốc! Ta biết chắc chắn nàng có cách để đi xem mặt gã khách kia!
- Đương nhiên rồi! Nguyệt Nương là tỷ muội kết nghĩa với thiếp, nếu bị gã đàn ông xấu xa kia lừa thì sao? Thiếp phải đi xem mặt hắn ta mới được!
Lý Thừa Ngân “hừ” một tiếng, bảo:
- Nàng thì hiểu gì về đàn ông mà tốt với chẳng xấu?
Sao lại không hiểu? Tôi thừa hiểu nhé!
Tôi trỏ vào mũi hắn:
- Chàng đừng khinh thường thiếp! Loại người như chàng, đích thị là hư hỏng!
Sắc mặt Lý Thừa Ngân tối sầm:
- Thế ai mới là người đàn ông tốt?
Đàn ông đích thực đương nhiên là cha tôi rồi, nhưng bây giờ, tôi mà lấy cha tôi ra nói, thế nào hắn cũng sẽ cãi cho bằng được. Tôi nhanh trí nói:
- Như Phụ hoàng ấy, người mới là đàn ông chân chính.
Y như rằng, sắc mặt Lý Thừa Ngân càng khó coi hơn, tím tái như bị ngạt thở, nhưng hắn không thể bảo cha mình không phải người đàn ông tuyệt vời được, thế là hắn câm như hến, không dám tranh cãi với tôi nữa.
Tôi dẫn hắn ra ngoài, băng qua dãy hành lang, thấy bốn bề không bóng người tôi mới lôi tuột hắn vào một gian phòng.
Phòng không ánh đèn, tối như bưng, giơ bàn tay còn không nhìn thấy đủ năm ngón. Tôi mau chóng lần mò khóa trái cửa lại, rồi lại sờ soạng đai lưng trên người Lý Thừa Ngân.
Thấy tôi vừa trở gót đã ôm chầm lấy mình, Lý Thừa Ngân bất giác cũng gồng mình, nhưng vẫn không đẩy tôi ra, trái lại, còn để tôi thỏa sức lần mò. Khổ nỗi tôi mò mãi chưa xong, hắn tò mò hỏi:
- Nàng định làm gì thế?
- Suỵt! Chàng mang theo ngòi châm lửa đúng không? Đưa đây xem nào.
Lý Thừa Ngân hậm hực móc ngòi châm lửa, dúi vào tay tôi, xem chừng có vẻ giận dỗi, nhưng ngày nào hắn chẳng chơi bài hờn dỗi với tôi, thôi chẳng thèm bận tâm. Châm nến trên bàn xong, tôi nói:
- Bây giờ thiếp phải cải trang đã, rồi lát nữa đi xem mặt gã khách quý của Nguyệt Nương.
Lý Thừa Ngân nói:
- Ta cũng muốn đi!
Tôi mở hòm xiểng, vừa lấy đồ vừa nói với hắn, không buồn ngẩng lên:
- Chàng không được đi!
- Sao nàng được đi mà ta lại không?
Tôi xếp phấn hồng, bột nước ra bàn, cười tít mắt hỏi:
- Thiếp định trang điểm thành con gái, chàng đi được không?
Quả nhiên Lý Thừa Ngân cứng họng. Lúc tôi hí hửng ngồi xuống, soi gương dặm phấn thì Lý Thừa Ngân chợt buông thõng câu:
- Ta cũng cải trang thành con gái!
Tôi ngã khỏi ghế, mông đánh phịch xuống nền.
Ôi, cái mông của tôi! Đau quá… Đến khi Lý Thừa Ngân kéo tôi dậy, mông vẫn còn ê ẩm.
Lý Thừa Ngân nói:
- Kiểu gì cũng được, ta quyết phải đi cùng nàng.
Tôi bất lực ngước hỏi trời cao:
- Thiếp đi xem mặt gã kia, liên quan gì đến chàng mà chàng đòi theo?
- Nàng chẳng bảo cô Nguyệt Nương kia đẹp đến mức chim sa cá lặn, hoa nhường nguyệt thẹn còn gì…
Tôi tức đến chết mất thôi, vẫn biết Lý Thừa Ngân là gã lưu manh, nhưng không ngờ hắn còn trắng trợn đến nỗi sẵn sàng hạ mình, không ngại hy sinh thể diện, hóa thân thành con gái chỉ để ngắm hoa khôi Nguyệt Nương.
Tôi nguýt hắn:
- Thôi được, chàng qua đây!
- Làm gì?
Tôi soi gương, nở nụ cười nham hiểm:
- Đương nhiên là thiếp… trát phấn tô son cho chàng, chứ còn sao nữa!
Lý Thừa Ngân vẫn sẵn nét khôi ngô, trang điểm lên ắt hẳn sẽ kiều diễm chẳng kém mỹ nhân nào.
Tôi chải đầu, dặm phấn, cài trâm, đeo bông tai, điểm hoa văn lên trán hắn… Chưa hết, còn phải lục đáy hòm, tìm trong tủ một bộ váy cỡ lớn cho hắn mặc, quả là… Phớt tay áo, tha thướt như nàng tiên, rồi nhành hoa gì mà trĩu hạt mưa xuân đầm ấy nhỉ…
Điều khiến tôi thất vọng nhất là, lúc chúng tôi soi gương, nom hắn còn đẹp hơn cả tôi chứ!
Ai bảo da hắn mịn sẵn rồi, lại thêm lớp phấn khiến khí khái anh hùng biến đi đằng nào, chỉ còn thấy một bóng hồng xinh đẹp.
Điểm trở ngại duy nhất chính là vóc người cao lênh khênh của hắn, mặc đồ nữ vào trông hơi thô. Lúc xuống gác, không ít gã vẫy tay đong đưa với chúng tôi vì tưởng chúng tôi là những cô nương ở phường Minh Ngọc. Tôi cười giả lả, lách bên này, tránh bên nọ, chật vật lắm mới tới được cửa sau, bất thình lình bị một gã say chặn đường. Gã cười hềnh hệch, chụp lấy bả vai tôi:
- Tiểu nương tử ơi, qua đây ngồi với ta nào!
Miệng gã phả đầy hơi rượu làm tôi choáng váng. Tôi chưa kịp xoay xở, Lý Thừa Ngân đã vung tay giáng cho gã một cái tát.
“Bốp!”
Gã nọ bị đánh cho đờ người, tôi bèn nặn ra một nụ cười:
- Có… có con muỗi…
Rồi kéo Lý Thừa Ngân chạy biến.
Chạy một mạch ra tới lầu sau mới nghe tiếng gào như lợn bị chọc tiết vẳng lại từ lầu trước.
- Ối! Nó dám đánh người…
Phía lầu trước thoáng xôn xao, gã khách nọ la hét om sòm, nhưng thế nào cũng có người đến giải quyết ngay ấy mà. Bước ra đằng sau yên tĩnh hơn nhiều, tuy có cầu mái hiên nối liền, nhưng gian nhà phía sau chỉ dành để thết đãi thượng khách. Tiếng đàn ca thỉnh thoảng chen lẫn một vài câu nói cười lọt qua ô cửa sổ. Bên ngoài, tơ trời rả rích tuôn rơi, dường như phụ họa theo tiếng đàn thánh thót văng vẳng trong căn phòng. Khoảnh sân tĩnh lặng như tờ, vốn trồng lưa thưa vài loại cây chưa đến mùa nảy lộc, trông chỉ một màu tối đen. Tôi tò mò bèn kéo Lý Thừa Ngân chạy băng qua cầu mái hiên. Tai nghe xiêm y sột soạt, quét lê dưới đất, rồi tiếng bội ngọc va vào nhau thánh thót. Đèn lồng phía xa, từng chiếc nối đuôi nhau tỏa ánh đỏ mông lung, tưởng là xa nhưng hóa ra thật gần. Nhận ra mình đang nắm tay người nào đó, tôi sực nhớ ra, hình như đây là lần đầu tiên chúng tôi tay trong tay, chẳng hiểu vì sao vành tai tôi bỗng nóng bừng. Những ngòn tay tôi nằm gọn trong bàn tay mềm mại, ấm áp của hắn. Tôi không dám ngoái nhìn, cũng không rõ mình sợ hãi điều gì. May sao cây cầu rất ngắn, chẳng mấy chốc tôi đã kéo Lý Thừa Ngân vào một gian phòng.
Căn phòng được bài trí vô cùng tinh tế, lửa nhảy nhót trên bấc nến đỏ, khắp phòng thơm nức mùi trầm, đạp chân lên tấm thảm đỏ trải sàn mềm mại như đạp lên một đám tuyết. Tôi biết Nguyệt Nương thường tiếp thượng khách ở đây, tôi nín thở, rón rén tiến lên phía trước. Ghé mắt nhìn qua lớp bình phong, loáng thoáng thấy bóng dáng một gã đang ngồi giữa, Nguyệt Nương ngồi cạnh, vừa gảy đàn tỳ bà, vừa hátVĩnh ngộ lạc. Đáng ghét nhất là tấm mành rủ hờ sau tấm bình phong, che lấp gần hết thân hình gã khách kia, khiến tôi chẳng nhìn rõ gì cả.
Tiếng bước chân bất thình lình vang lên khiến tôi chết đứng, cứ tưởng gã nát rượu ban nãy đuổi tới nơi, hóa ra là Du Nương với mấy ca nhi. Thấy tôi và Lý Thừa Ngân, Du Nương giật mình hoảng hốt, tôi níu tay áo muội ấy thì thào:
- Du Nương, ta đây mà!
Du Nương bụm miệng giật lùi nửa bước, mãi sau mới cười nói:
- Sao Lương công tử lại ăn vận như thế này, làm em suýt nữa không nhận ra.
Rồi cô ấy đảo mắt sang Lý Thừa Ngân đang đứng sau lưng tôi:
- Đây là vị tiểu thư nào, nhìn lạ quá!
Tôi cười giả lả, nói:
- Nghe nói chỗ Nguyệt Nương có thượng khách đến chơi, ta ghé qua xem cho biết thôi.
Du Nương cười, bảo:
- Ra thế!
Tôi ghé tai Du Nương nói nhỏ với cô ấy mấy câu, sắc mặt Du Nương có phần đăm chiêu, song tôi vẫn cố năm nỉ:
- Tôi chỉ liếc một cái rồi đi luôn, đảm bảo không gây chuyện gì đâu.
Ở phương Minh Ngọc này, ngoài Nguyệt Nương ra thì Du Nương với tôi cũng là chỗ thân tình. Con người Du Nương vốn hiền lành, dễ bị lung lay trước màn chèo kéo của tôi, cuối cùng, cô ấy đành gật đầu đồng ý. Tôi sung sướng, quay sang hỏi Lý Thừa Ngân:
- Chàng biết múa không?
Cứ đinh ninh Lý Thừa Ngân sắp hộc máu, không ngờ hắn hỏi tôi tỉnh bơ:
- Múa điệu gì?
- Đạp ca[2]
[2] Đạp ca là một hình thức nghệ thuật vừa múa vừa hát, mang tính truyền thống của dân tộc Hán.
Chỉ chờ câu “không biết” của hắn là tôi sẽ cắt đuôi ngay lập tức, không ngờ hắn thẳng thừng buông hai từ:
- Ta biết!
Mình ngốc quá! Hắn là thái tử, cứ độ tháng Ba hằng năm, trong cung làm lễ Kỳ yên[3], năm nào cũng do thái tử đạp ca, mình thật ngốc quá đi mất!
[3] Theo tục lệ cũ, mùa xuân, mùa thu hằng năm làm lễ trừ tà ở bến nước. Vào mùa xuân, lễ Kỷ yên thường được tổ chức vào ngày Tị, thượng tuần tháng Ba âm lịch.
|
Tôi cố níu kéo chút hy vọng:
- Nhưng đây là điệu múa của con gái mà.
- Ta xem không biết bao nhiêu lần rồi, giống nhau cả thôi.
Thôi thì… đã đến nước này rồi, đâm lao đành phải theo lao vậy.
Trong phòng, tiếng đàn tỳ bà của Nguyệt Nương đã ngừng, tiếng sáo dìu dặt vang lên, trong đó ắt hẳn còn một đội chuyên đàn sáo nữa. Làn điệu thúc dục đám ca nhi ra sân khấu, nhịp phách lững lờ chậm rãi, uyển chuyển mà tao nhã.
Tôi hít một hơi thật sâu. Nhận quạt lụa từ tay Du Nương, Lý Thừa Ngân và tôi nối đuôi mấy ca nhi tiến vào.
Lúc ấy, Nguyệt Nương đã se sẽ cất giọng ca: “Chàng là trăng trên cao…”
Giọng Nguyệt Nương hay quá, mượt mà như châu như ngọc, mới hát một câu đã khiến người ta mê đắm… Tôi nghe tim mình đập rộn rã, cuối cùng cũng được thấy mặt mũi gã khách nọ ngang dọc ra sao, vừa háo hức, vừa phấn khởi lại vừa tò mò… Đám ca nhi chúm chím mỉm cười, chuyển mình xoay người lại, tôi và Lý Thừa Ngân cũng quay theo. Mọi người đồng loạt hạ tay quạt, chỉ có tôi vừa hạ quạt xuống đã cứng đờ người.
Chết trân tại chỗ…
Mà không chỉ mình tôi…
Lý Thừa Ngân ắt cũng thảng thốt như tôi. Những ca nhi khác đã bắt đầu hòa mình vào điệu múa, chỉ có tôi và hắn chững lại, đờ người.
Thì bởi vì, tôi có quen vị khách kia, không chỉ tôi, ngay cả Lý Thừa Ngân cũng biết.
Mà đâu chỉ quen biết bình thường…
Trời cao ơi…
Xin người cho chúng con một cái lỗ để chui xuống…
Hoàng thượng ơi…
Người có nhớ cánh sen trong cơn mưa mùa hạ bên bờ hồ Đại Minh không?
Bên cạnh tôi, những ống tay áo muôn màu bồng bềnh phiêu diêu theo điệu hát, tà váy tựa như có làn gió chao nghiêng, như băng tuyết tan chảy, lay động và đi vào lòng người. Tôi và Lý Thừa Ngân đứng ngây ra như khúc gỗ. Du Nương liên tục nháy mắt ra hiệu, tôi phải nhéo mình một cái, rồi lại cấu Lý Thừa Ngân… Phải chăng mình đang mơ? Nhất định là mơ rồi?
Bệ hạ… Phụ hoàng… Trời ơi tại sao lại là người? Người… người… người… bảo nhi thần và Thái tử Điện hạ nên trốn vào đâu đây… Nhi thần chỉ muốn đào một cái lỗ…
May thay, Bệ hạ không hổ là Bệ hạ, dù chúng tôi đứng chết trân vì quá đỗi kinh ngạc thì người vẫn rất điềm tĩnh quét mắt nhìn qua chúng tôi rồi thản nhiên nhấc chén trà, nhấp môi.
Lý Thừa Ngân là người lấy lại tinh thần trước, hắn kéo tay áo tôi, lả lướt nhún nhảy từng bước theo đám ca nhi. Vừa múa vừa quay đầu lại, thấy Nguyệt Nương đang trợn mắt nhìn mình, chắc tỷ ấy đã nhận ra tôi rồi. Tôi bèn nháy mắt, đáp lại tôi là cái lườm của Nguyệt Nương. Chắc tỷ ấy sợ tôi quấy quả làm thượng khách mất hứng, nhưng có đánh chết tôi cũng không dám làm trò xằng bậy trước mặt vị khách này.
Chẳng dễ gì qua được khúc đầu tiên, Nguyệt Nương mỉm cười đứng dậy toan lên tiếng thì vị khách liền nói:
- Điệu ca này quả không tệ!
Nguyệt Nương khéo léo nói:
- Vẫn còn chưa hay, may đại nhân không chê. Chi bằng tạm cho họ lui xuống, Nguyệt Nương đàn mấy bài hầu hạ đại nhân nghe.
Thượng khách gật đầu:
- Cũng được.
Nguyệt Nương vừa buông tiếng thở phào nhẹ nhõm, vị khách lại giơ tay chỉ:
- Bảo hai ca nhi này nán lại.
Ngón tay của vị khách trỏ vào Lý Thừa Ngân, kế đó chuyển sang tôi, không sai lệch chút nào. Nguyệt Nương như sắp ngất, nụ cười trên môi cứng đờ:
- Thưa đại nhân… giữ lại… giữ lại bọn họ là sao ạ?
- Kỹ thuật múa của hai ca nhi này rất khá, giữ lại để hầu rượu ta.
Lời thượng khách nói, ai dám khước từ! Thế là Nguyệt Nương ái ngại liếc tôi, tôi ái ngại ngó sang Lý Thừa Ngân, Lý Thừa Ngân ái ngại nhìn Bệ hạ, mà Bệ hạ ái ngại… khụ khụ, người đang nhìn xoáy vào chúng tôi.
Tóm lại, tất cả lui ra ngoài, bao gồm cả những nghệ nhân chơi nhạc, trong phòng chỉ còn bốn người ngơ ngác nhìn nhau, người nào người nấy đều có suy tính riêng.
Sau cùng, vị thượng khách lên tiếng:
- Nguyệt Nương, đi xem có món gì không!
Bấy giờ Nguyệt Nương luýnh quýnh nhìn tôi một lúc, rồi lại đưa mắt nhìn sang vị khách quý nọ. Trông vị đại nhân kia vẫn bình thản như không, dù tôi đã nháy mắt ra hiệu, song quả thực Nguyệt Nương chẳng hiểu ý tôi. Về sau lại sợ vị khách kia sinh nghi, Nguyệt Nương đành vái chào rồi lui ra ngoài.
Đầu gối bủn rủn, tôi quỳ sụp xuống, sợ thì không sợ, mà do là người. Vừa nhảy múa mệt phờ, đám ca nhi dưới trướng Du Nương đều là những ca kỹ có tiếng ở kinh thành, bở hơi tai mới bắt kịp bọn họ.
Lý Thừa Ngân cũng bắt chước tôi quỳ xuống, cảm giác trong phòng có điều gì đó khác thường, bầu không khí cũng thật lạ lùng.
Đừng có phạt tôi chép sách nữa nhé! Tôi rầu rĩ nghĩ, phen này mình gây họa lớn thật rồi, dám dẫn Thái tử Điện hạ đến kỹ viện, lại còn bị Hoàng đế Bệ hạ bắt tại trận nữa chứ! Bây giờ phạt mình chép ba mươi lần Nữ giới, chết chứ làm sao sống nổi!
Nhưng tôi sực nhớ ra một chuyện, Bệ hạ cũng đến thanh lâu kia mà. Chẳng hóa ra, cả nhà rủ nhau đến kỹ viện rồi còn gì, chắc người không nỡ phạt tôi chép sách đâu.
Tôi đang mải suy nghĩ thì bỗng nghe Bệ hạ hỏi:
- Ngân Nhi, sao con lại ở đây?
May mà Lý Thừa Ngân dõng dạc đáp:
- Do con hiếu kỳ, muốn đến xem cho biết ạ!
Bệ hạ chỉ vào tôi, hỏi:
- Thế Thái tử phi thì sao?
Lý Thừa Ngân vẫn hùng hồn đáp:
- Do Thái tử phi cũng thấy hiếu kì nên con mới dẫn theo.
Có tình có nghĩa đấy! Bấy giờ, tôi chỉ muốn vỗ vai Lý Thừa Ngân nói: “Không ngờ chàng lại trượng nghĩa đến thế! Nể tình chàng ra tay nghĩa hiệp, lần sau thiếp nhất định sẽ báo đáp.”
Bệ hạ cất tiếng “ờ” nhàn tản, sau đó nói:
- Không ngờ phu thê hai con lại sắt son như vậy.
Vẻ mặt Lý Thừa Ngân tỉnh bơ:
- Con xin mạo muội hỏi phụ hoàng, sao người cũng có mặt ở đây?
Thật không ngờ Lý Thừa Ngân lại to gan đến thế, thì cả nhà ngao du kỹ viện chứ có gì đâu, hà tất phải nói trắng ra như thế, chỉ làm khó xử hơn. Nhưng Bệ hạ vẫn cười, nói:
- Chấp chính không khó, miễn là không đắc tội với các danh gia thế tộc[4], thân là Thái tử, lẽ nào con không hiểu đạo lý đó?
[4] Trích Mạnh Tử.
- Những gì phụ hoàng chỉ bảo, nhi thần luôn ghi lòng tạc dạ, song phụ hoàng cũng từng nói, tiền triều diệt vong, căn nguyên bởi kết bè kết cánh, đảng phái trong triều mọc lên như nấm, lệnh vua như không, lại thêm dịch châu chấu triền miên, giang sơn xã tắc vì lẽ đó mà tuột khỏi tầm tay, đại nghiệp từ đó mà mất.
Họ nói gì mà tôi chẳng nghe lọt câu nào. Rõ ràng hai người họ đang bàn chuyện triều chính, chứ ngao du kỹ viện gì chứ!
Tôi thấy chán ngán, bỗng Bệ hạ cười phớt, nói:
- Trước mắt con định xử trí ra sao?
- Lật lại bản án ạ!
Bệ hạ lắc đầu:
- Án cũ từ mười năm trước, đâu dễ lật được. Vả chăng nhân chứng, vật chứng giờ đây đã thất lạc hết rồi, phải lật lại từ đâu đây?
Lý Thừa Ngân cũng cười, nói:
- Cần bao nhiêu vật chứng, ắt sẽ có bấy nhiêu. Về phần nhân chứng… Phụ hoàng đã thân chinh vi hành tới đây, tất phải biết nhân chứng đã ở đây rồi.
Bệ hạ bật cười, thở dài, nói bảo:
- Con thật là…
Tôi nhớ mỗi lần nghịch ngợm đòi cưỡi con ngựa bất kham, cha luôn mắng yêu tôi bằng câu nói vẻ bất lực ấy. Nỗi nhớ cha gợi lên trong lòng tôi một cảm giác ấm áp, thân thương, dù tôi không hiểu hai cha con họ đang nói gì. Lát sau, chợt vang lên tiếng bước chân hớt hải, liền đó, một ca nhi vốn quen biết đứng ngoài gõ cửa, cuống quýt gọi tôi:
- Lương công tử! Lương công tử!
Cả Bệ hạ và Lý Thừa Ngân đều đổ dồn ánh nhìn về phía tôi, tôi luýnh quýnh bật dậy:
- Có chuyện gì thế?
- Có kẻ tự nhiên xông vào, bảo Dư Nương nợ tiền hắn rồi trói Dư Nương lại, bây giờ đang đòi bắt Dư Nương đi!
Tôi vừa nghe đã thấy nóng gáy:
- Mau dẫn ta đi xem!
Lý Thừa Ngân kéo tay tôi nói:
- Ta đi cùng nàng!
Tôi ngoái đầu nhìn Bệ hạ, khẽ giọng nói:
- Chàng ở lại với Phụ hoàng đi!
Bệ hạ gật đầu với chúng tôi:
- Các con cứ đi đi, ta có người bảo vệ rồi.
|
Chương 07
Tôi và Lý Thừa Ngân băng qua cầu, rảo bước về phía lầu trước, chưa tới nơi đã nghe văng vẳng lời qua tiếng lại om sòm. Vương đại nương đang quát tháo:
- Muốn bắt người phường này đi á, đừng hòng!
- Có nợ thì phải trả, lẽ đó là bất di bất dịch rồi!
Cầm đầu bọn du côn là một gã phốp pháp, béo trắng, để bộ ria mép cá trê, vẻ gian xảo, trông tướng tá đã biết ngay là loại chẳng ra gì. Nhác thấy hắn, tôi nổi giận, quát:
- Tôn Nhị, sao lại là ngươi?
Nhắc đến gã Tôn Nhị này, tôi và gã nếu không đánh nhau thì không quen biết. Cả chuyện cho vay nặng lãi ở quán rượu và sòng bạc. Có lần tình cờ bắt gặp gã đang đòi nợ một đôi cô nhi, quả phụ, tôi thấy chướng mắt liền nện cho hắn một trận. Từ đó trở đi, Tôn Nhị nể tôi ra mặt, không dám nhâng nháo trước mặt tôi nữa. Tôn Nhị hấp háy mắt nhìn tôi, hồi lâu mới nhận ra:
- Lương công Tử… Cậu đang mặc… Ha ha ha…
Quên mất là mình đang vận đồ nữ, tôi gác một chân lên ghế đẩu chẳng kiêng nể gì, gài mép váy vào thắt lưng, nói:
- Sao nào, thích đánh nhau hả? Tuy đang mặc váy nhưng ta vẫn thừa sức cho ngươi một trận tơi bời!
Tôn Nhị sợ sệt, bèn gượng cười, nói:
- Không dám, không dám ạ! Thực ra tại hạ chỉ đến đòi nợ thôi. Lương công tử à, có nợ tất phải trả đấy là lẽ thường ở đời mà. Con bé Du Nương này không phải cô nhi, cũng không phải quả phụ, lại chẳng bệnh tật gì, công tử nói thử xem, nó nợ tiền tại hạ, lẽ nào định quỵt?
Tôi hỏi Du Nương:
- Nàng nợ tiền hắn à?
Du Nương vốn là người thật thà, bèn thưa:
- Em nợ gì hắn đâu cơ chứ? Chẳng qua, có đôi vợ chồng là chỗ đồng hương với em, họ lên kinh thành làm ăn, không ngờ người vợ ngã bệnh không qua khỏi, nào tiền mời đại phu, tiền thuốc thang, sau cùng thêm tang sự nên mới đến tìm Tôn Nhị vay hắn mấy chục xâu tiền. Tôn Nhị bảo đồng hương của em không có tài sản gì, không muốn cho vay, trừ phi có người bảo lãnh, mà họ vốn không có ai thân thích ở chốn kinh thành, không còn cách nào khác, em đành giúp lão. Bây giờ người chồng làm ăn thua lỗ nên cuốn gói về quê, gã Tôn Nhị này mới tới tìm em đòi tiền.
Tôi nghe mà phát bực:
- Cái loại đồng hương gì thế? Quỵt nợ còn để nàng mang vạ…
Tôn Nhị giơ tay móc biên lai vay nợ ra:
- Đấy nhé Lương công tử, giả sử đây là cô nhi, quả phụ thì tại hạ cũng sẽ làm ơn làm phước một phen. Nợ nhà người ta kiểu gì chẳng phải trả. Giết người, phóng hỏa thì vinh hoa phú quý, xây cầu, sửa đường hóa ra chết không toàn thây…
Hắn vừa ngâm nga, tôi đã choáng váng mặt mày. Lý Thừa Ngân đứng đằng sau phì cười khiến Tôn Nhị nhảy dựng lên:
- Thằng ôn nào hỗn láo đấy?
- Ngươi nói gì hả?
Lý Thừa Ngân sa sầm mặt mày, tôi muốn can cũng khó.
Điện hạ ơi là Điện hạ, chớ có kích động, chớ có kích động!
Tôn Nhị nhìn lướt qua Lý Thừa Ngân rồi chắp tay nói với tôi:
- Bẩm Lương công tử, nếu hôm nay không đòi được tiền, bọn tại hạ đành đắc tội vậy.
- Cô nương này chỉ là người bảo lãnh, ngươi muốn đòi nợ thì đi mà tìm lão đồng hương kia. – Lý Thừa Ngân cười khẩy, rồi nói tiếp. – Trong “Đại luật” có quy định về việc vay nợ, văn tự đã ghi rõ, nếu con nợ qua đời, hoặc bỏ chạy, hoặc không có khả năng chi trả thì bên chủ nợ mới có quyền thu hồi khoản vay từ người bảo lãnh.
Tôn Nhị không ngờ Lý Thừa Ngân lại lôi “Đại luật” ra nói chuyện phải trái với gã, gã chớp mắt, nói:
- Bây giờ lão đồng hương kia trốn rồi, lẽ nào không gọi là bỏ chạy à?
- Bỏ trốn bao giờ? Người ta về quê kia mà. Ngươi thừa biết con nợ đang ở đâu, sao không về đó mà đòi, lại gây khó dễ với người bảo lãnh là sao hả?
- Lão đồng hương kia chạy đằng nào, làm sao ta biết được…
Lý Thừa Ngân đẩy nhẹ Du Nương một cái:
- Đồng hương của cô, nhà ở đâu hả?
Du Nương đờ người, lắp bắp:
- Thôn Tiểu Vương, huyện Thanh, phủ Vĩnh Hà, Định Châu…
Lý Thừa Ngân nói:
- Được rồi, giờ con nợ ở đâu đã rõ, ngươi muốn đòi nợ thì đi mà tìm lão, đừng ở đây phá rối nữa.
Vương đại nương nhân cơ hội nói chen vào:
- Cô nương này nói chí phải, ngươi muốn đòi nợ thì đi mà tìm con nợ ấy, sao lại đến gây chuyện với con gái phường này? Mau biến đi! Mau lên!
Bà ấy vừa nói vừa xô đẩy, chẳng mấy chốc, Tôn Nhị cùng mấy kẻ vô lại đã bị đuổi ra khỏi cửa. Tôn Nhị đứng ngoài giậm chân chửi bới om sòm, Vương đại nương vỗ lưng Lý Thừa Ngân, phấn khởi nói:
- Con gái ngoan giúp mẹ giành lại lẽ phải, con là ca nhi dưới trướng Du Nương hả? Tiền khách tháng này của con, mẹ cho con gấp đôi!
Tôi đứng ở bên mà cười như nắc nẻ. Gã Tôn Nhị kia vẫn lồng lộn văng tục ngoài cửa, song chẳng ăn thua gì. Đột nhiên tôi thấy gã vẫy tay với đám thuộc hạ, mấy kẻ đó tụ lại, thì thầm một hồi rồi chia nhau ra, tản mất hút. Tôi thốt lên:
- Ôi trời ơi, không xong rồi, chỉ e gã Tôn Nhị này sắp giở trò.
Vương đại nương vội sai thằng bé con đi đóng cửa:
- Đóng cửa mau! Đóng cửa mau! Không được để bọn chúng xông vào làm loạn. Còn hai cái đèn lưu ly Ba Tư của ta nữa chứ, mau gỡ xuống rồi đóng cửa, mai là tết Nguyên tiêu rồi, đèn này quý lắm, nhỡ hỏng thì…
Gian bên này còn đang tất tả hạ đèn, đóng cửa. Gian bên kia, Tôn Nhị đã dẫn người phăm phăm quay lại, kẻ nào kẻ nấy tay lăm lăm ống trúc, chẳng rõ bên trong đựng gì. Vương đại nương thoạt đông đã hốt hoảng, liền giục đám tiểu nhị mau đóng cửa. Đám du côn kia nhanh tay vẩy ống trúc trước khi cánh cửa kịp khép kín, từ ống trúc văng ra thứ gì đó đen sì. Chỗ nước ấy hắt lên cửa, đám tiểu nhị phụ trách đóng cửa không kịp né, vài tên dính nước đen ngòm từ đầu tới chân, thậm chí váy của Vương đại nương cũng dính. Bà ấy giận bầm gan tím ruột, chửi toáng lên;
- Chiếc váy hoa bằng lụa này bà mới may, mặc chưa được hai ngày, lũ khốn nạt mạt hạng kia… bà sẽ lột da chúng mày…
Vương đại nương một mực sai đám thuộc hạ mở cửa, nhưng bọn Tôn Nhị đã nhanh chóng bỏ chạy đến tận góc đường, lúc chạy còn quay đầu lè lưỡi trêu ngươi Vương đại nương. Điên tiết sôi gan, Vương đại nương vừa gào thét vừa giậm chân, không ngớt lời chửi rủa chúng.
Du Nương ra nhấc váy của bà ấy lên, cẩn thận xem xét rồi nói:
- Khoan đã mẹ ơi, đây hình như là mực tàu, lấy giấm chà qua, rồi giặt bằng nước lã là sạch. Mẹ thay váy đi, con giặt cho…
Vương đại nương khoác tay Du Nương, miệng vẫn lẩm bẩm chửi bới:
- Cái bọn khốn nạn kia, lần sau gặp phải bà, đừng trách bà băm vằm chúng mày…
Chửi rủa một hồi, Vương đại nương liền sai người đi lau sạch cửa. Chẳng hiểu tại sao, chà mãi cánh cửa gỗ sồi mới toanh tróc cả sơn mà vẫn không tài nào sạch được. Vương đại nương trông bọn người hầu lau mãi không sạch, lại càng bực bội. Tôi thấy vết mực đã thấm vào tận lõi gỗ trong, đột nhiên nảy ra một ý, liền sai đứa hầu gái đang đứng cạnh mình:
- Lấy phấn hồng và than kẻ mày lại đây.
Du Nương ngắm nghĩa khuôn mặt tôi, cười, nói:
- Lương công tử sắm vai nữ nhi, nom thanh tú mười phân vẹn mười, dù không trang điểm nhưng cũng hơn khối đứa trong phường chúng em rồi.
Tôi cười toét miệng, đưa tay kéo Lý Thừa Ngân:
- Tên này còn đẹp hơn ta. Mau đi lấy đi, ta bảo hắn vẽ!
Lý Thừa Ngân tức giận, gạt phăng tay tôi ra. Đứa hầu gái mang phấn hồng và than kẻ mày ra, tôi dúi cả khay vào tay hắn, nói:
- Vẽ đi!
Lý Thừa Ngân trượn mắt với tôi:
- Vẽ cái gì?
Tôi hằm hè nói:
- Lần trước Sắt Sắt của chàng dùng quạt trắng đập chết một con muỗi, chàng chẳng vẽ cánh bướm từ vết máu trên quạt cho ả còn gì? Chàng có đủ tài vẽ lên quạt thì bữa nay chắc chắn có bản lĩnh vẽ lên tấm cửa này.
Lý Thừa Ngân buông một tiếng “hừ”, tôi trông hắn có vẻ không đồng tình, liền nhón chân nắm chặt cổ áo hắn, nói:
- Không vẽ chứ gì, để thiếp réo tên vị khách đang ngồi ở lầu sau nhé!
Lý Thừa Ngân trợn trừng mắt:
- Nàng dám!
Tôi ngoác miệng hô:
- Mọi người mau qua lầu sau xem Hoàng…
Lý Thừa Ngân
Nhanh tay bịt miệng tôi, không để tiếng cuối kịp thốt ra ngoài. Hắn không dùng bút mà vốc một nắm phấn hồng, khoanh một vòng tròn rất lớn trên cánh cửa, rồi trát đầy phấn vào giữa, tiếp đó lại dùng than chì, chấm chấm vẽ vẽ lên vết mực. Hiếm khi tôi lấy Lý Thừa Ngân vẽ tranh, chứ đừng nói tới việc vẽ bằng đầu ngón tay, đám người xung quanh bắt đầu xì xào bàn tán, tôi cũng thấy tò mò. Đầu ngón tay hắn mải miết tô tô vẽ vẽ, không dùng bút, cứ bôi trát cho đến khi vừa ý, dần dà cũng hiện rõ hình dáng tổng thể. Sau cùng, hắn cẩn thận thêm thắt chi tiết, đám người xung quanh không khỏi nín thở, lặng người ngắm nhìn dáng vẻ thong dong vẽ vời của hắn.
Đợi bức tranh hoàn tất, mọi người cùng xem. Ôi! Vết mực bị hắt vào giờ đã biến thành cảnh núi non trùng điệp, thoắt ẩn thoắt hiện giữa khói trời mênh mông, chóp núi mờ xa, dặm biếc trầm mình trong sương mù, mặt trời đỏ ối mới ló rạng… quả là một bức tranh sơn thủy đẹp vô cùng.
Vương đại nương vỗ tay cười, nói:
- Vẽ đẹp quá! Mẹ toan bỏ tiền mời thợ cả An của Tây phường qua Tết này đến vẽ cửa, thoạt đầu định vẽ một bức ca vũ, nhưng công nhận tranh do An sư phụ vẽ thua xa bức này!
Thì lẽ đương nhiên, Thái tử đương triều cơ mà, từ nhỏ đã theo học toàn thầy nổi tiếng, thơ từ ca phú, cầm kỳ thi họa cái gì chẳng biết, cái gì chẳng hay, đương nhiên phải hơn hẳn đám thợ kia rồi.
|
Lý Thừa Ngân cũng lấy làm hài lòng, hắn phủi tay ngắm nghía một hồi, rồi lại nhấc than chì đề ba chữ “Cửa vẩy mực” rất lớn bên cạnh bức họa. Mặc dù tôi không am hiểu thư pháp, song cũng cảm nhận được đôi phần khí thế siêu phàm thoát tục toát ra từ nét bút như rồng bay phượng múa mà Lý Thừa Ngân đề trên cửa. Sự hả hê của hắn nào đã chịu nguôi, hắn lại viết thêm một dòng lạc khoản nho nhỏ bên dưới “Lý Ngũ Lang, Thượng Kinh”, xong xuôi mới hài lòng quẳng miếng than đi, ra lệnh:
- Múc nước rửa tay!
Vương đại nương hăm hở tự mình bưng nước cho hắn rửa tay. Tôi cũng lấy làm tự hào. Tuy năm xưa cha không đành lòng gả tôi đến Trung Nguyên để tôi lấy một gã như hắn làm chồng, nhưng xem ra tài cưỡi ngựa và võ nghệ yếu kém một chút thôi, chứ hắn cũng tài hoa ra trò!
Hắn rửa tay sạch sẽ, Vương đại nương sai người nấu ít đồ ăn thết đãi chúng tôi. Đột nhiên bà ấy trở nên ngờ vực, mắt láo liên săm soi Lý Thừa Ngân. Tôi sợ bà ấy sinh nghi, định mở miệng lấp liếm hộ hắn, bỗng nghe một tiếng “vèo” vọng ra từ hậu viên. Một dải pháo bông bắn vào không trung, nom cụm pháo ấy khác hẳn với những loại pháo hoa thông thường khác, không những vươn cao hơn, mà còn vọt lên thẳng tắp, kéo theo một vệt khói ánh bạc sáng lóa giữa màn trời đen kịt, cộng thêm tiếng huýt sáo chói tai khiến ai ai cũng phải chú ý. Pháo vươn cao tít, rồi nổ “bang” một tiếng đanh gọn, vệt pháo ấy nở rộ thành chùm khói màu vàng, sợi khói vương vãi khắp nơi, như xẻ vụn sắc đêm đen tuyền tựa như nhung tơ, những vết khói đan vào nhau, vẽ lên bầu trời rất bắt mắt. Bụi vàng li ti lất phất sau tiếng nổ ấy bảng lảng trên cao mãi không tan, phía bên kia chân trời lờ mờ phản chiếu ánh xanh.
Lý Thừa Ngân hốt hoảng, quay ngoắt chạy thục mạng về phía lầu sau. Tôi không kịp hỏi han gì, chỉ lo rảo bước đuổi theo hắn. Hắn sải những bước chân rất dài, tôi không tài nào bắt kịp. Đặt chân lên cầu, tôi mới sực nhận ra sự bất thường. Sân vườn im lìm đến đáng sợ. Dưới chân cầu có một bóng đen nằm sõng soài, dưới thân có dòng máu chậm rãi chảy quanh, uốn lượn như một con rắn nhỏ kỳ dị. Sao lại có người chết ở đây? Không kịp nghĩ ngợi, tôi sốt ruột gọi ầm lên:
- A Độ!
Không có tiếng A Độ đáp lại, tôi liến thoắng gọi liền mấy câu, bình thường chỉ cần hô một câu là A Độ sẽ nhảy ra ngay tức khắc, lẽ nào đã xảy ra chuyện gì với A Độ rồi? Tim tôi đập như trống dồn. Lý Thừa Ngân vung chân đạp bung cánh cửa. Chúng tôi rời căn phòng này chỉ khoảng chừng hai tuần trà, lẽ ra trong phòng phải ngát hương trầm thơm, vậy mà giờ đây xộc vào mũi chỉ có mùi máu tanh, xác người mặc đồ đen nằm la liệt dưới sàn nhà. Lý Thừa Ngân vội vã vòng qua tấm bình phong, rèm mành tơi tả, chứng tỏ nơi đây vừa xảy ra một trận giằng co ác liệt. Bàn trên sập bị hất văng xuống đất, vết kiếm vằn vện trên cột trụ, khắp nơi loang lổ máu, xác người như ngả rạ. Có gã vận đồ đen dựa người bên cột trụ thoi thóp thở. Lý Thừa Ngân lao đến đỡ gã dậy, khuôn mặt gã nhuốm máu, mắt trợn trừng, bả vai lộ ra xương quai xanh trắng ởn, thậm chí cánh tay và bả vai cũng bị chặt đứt lìa, còn hấp hối đã là kỳ tích, Lý Thừa Ngân gằn giọng hỏi:
- Bệ hạ đâu?
Gã nọ cụt nguyên bả vai phải, túm thật chặt ngực áo Lý Thừa Ngân bằng bàn tay trái, thở hổn hển, giọng thều thào, khản đặc:
- Bệ hạ… Bệ hạ…
- Là kẻ nào? Bệ hạ đang ở đâu?
- Hắn bịt mặt… Thích khách bịt mặt… Võ công quỷ dị… Thần bất tài…
Dường như gã đã vận đến chút sức lực cuối cùng để trỏ ra phía cửa sổ đang mở toang, ánh mắt dần đục mờ:
- Cứu Bệ hạ… Bệ hạ…
Lý Thừa Ngân định hỏi thêm nhưng ngón tay gã đã dần buông lơi, sau cùng rơi thõng trên vũng máu, bất động.
Lý Thừa Ngân ngước mắt nhìn tôi. Tôi thấy trong đôi mắt ấy vằn lên tia máu, người đã nhuốm đỏ, nơi nào nơi nấy la liệt người chết, tôi cảm thấy sợ. Chúng tôi chỉ bỏ đi một chốc lát mà thích khách đã giết từng này con người. Hơn nữa, những người ngã xuống đều là cao thủ của Cấm vệ quân, Bệ hạ cải trang vi hành tất phải dắt theo những hộ vệ võ công cao cường, thế mà họ vẫn bị giết. Võ nghệ của gã thích khách này thực sự khó lường khiến tôi không dám tưởng tượng nữa. Lý Thừa Ngân nhặt một thanh kiếm rồi đứng bật dậy, lao phắt qua cửa sổ.
Tôi gào lên thất thanh:
- A Độ !
Chẳng rõ A Độ đã chạy đi đằng nào, sực nhớ chuyện lần trước, tôi lo ngay ngáy, không biết A Độ an nguy thế nào. Lại thêm nỗi hoang mang vì Lý Thừa Ngân, với võ công cái thế của gã thích khách kia, muốn giết tôi và Lý Thừa Ngân quả thực dễ như trở bàn tay. Tôi cũng lượm một thanh kiếm giữa vũng máu, lao ra khỏi cửa sổ theo hắn, tự nhủ muốn giết thì cứ giết, cùng lắm là chết.
Phía sau là một khoảng sân nhỏ, chính giữa có đắp núi đá được chuyển về từ phương Nam xa xôi, xếp giữa vườn để đỡ mấy cây hoa, thời tiết vẫn lạnh, cây cối chưa đâm chồi lộc mới. Đi qua núi đá, Lý Thừa Ngân chợt đứng sững lại, vòng tay ra sau đẩy tôi lùi lại, nấp sau người hắn. Sỏi đá dưới chân tôi gồ ghề, tôi ngây người dán mắt lên gáy hắn, bỗng nhớ lại lần gặp thích khách trước đây, hắn cũng đẩy tôi ra như thế này. Cảm xúc chua chát quyện lẫn ngọt bùi không thể gọi tên đang dấy lên trong tôi. Tôi kiếng chân phóng tầm mắt nhìn quanh, qua bờ vai hắn, tôi thấy đằng xa có vài gã mặc đồ đen đang giằng co vây hãm một kẻ bịt mặt. Võ công của người đứng đầu phe vận đồ đen có vẻ cao cường, thế nhưng rõ ràng hắn không phải là đối thủ xứng tầm với thích khách. Phe mặc đồ đen đều là những cao thủ đứng đầu Cấm vệ quân, tuy đang bị trọng thương, song họ vẫn chiến đấu ngoan cường. Gã thích khách kia một tay lăm lăm thanh kiếm, tay kia khống chế một người khác, chính là Bệ hạ. Mặc dù tên thích khách một tay kẹp chặt cổ tay Bệ hạ, tay còn lại cầm kiếm, nhưng kiếm pháp hắn tung ra vẫn nhanh như chớp, mỗi đường kiếm đều vạch lên thân thể những người phe mặc đồ đen một vết thương chí mạng. Nhờ có ánh trăng tôi mới nhận ra trên núi đá loang lổ những vệt máu. Bấy giờ, ở nơi xa văng vẳng vọng lại tiếng rền vang như sấm. Gã thích khách bỗng đưa kiếm kề ngang cổ Bệ hạ, tất thảy những kẻ đứng đó không một ai dám nhúc nhích, đành bất lực mở trừng mắt nhìn hắn.
Lý Thừa Ngân hét:
- Bỏ người đó ra!
Giọng nói ấy vang lên rõ ràng như tiếng sấm.
Tôi không rõ có phải bầu trời đang dậy sấm không. Tiếng động trầm vang phía xa kia vừa rền rĩ vừa vang dội, rất giống tiếng sấm đầu xuân. Chưa bao giờ tôi thấy sợ như hôm nay, không phải nỗi sợ khi chứng kiến căn phòng đầy những xác người, cũng không hề thấy kinh hãi trước một gã thích khách xuất quỷ nhập thần, mà chỉ là canh cánh không yên về một điều gì đó không rõ ràng.
Tiếng sấm mỗi lúc một rõ, một gần. Qua một lúc, tôi mới nhận ra đó không phải tiếng sấm, mà là tiếng vó ngựa. Tiếng vó ngựa văng vẳng từ bốn phương, tám hướng, đang tiến đến phường Minh Ngọc bé nhỏ này. Trước kia, chưa bao giờ tôi được nghe tiếng ngựa nện móng dồn dập đến thế. Cho dù trên thảo nguyên tôi từng chứng kiến cha mình dàn binh tập trận, điều quân xung phong… nhưng âm thanh ấy không vang dội như thế này. Thoạt đầu tôi còn nghe loáng thoáng tiếng người kêu gào hoảng sợ trong phường Minh Ngọc, rồi tiếng ồn ào từ lầu trước, cuối cùng, tôi chỉ còn cảm nhận được rằng, nhà cửa bốn phía cũng như đang lắc lư, bụi trên đầu cũng rơi lả tả. Gian nhà phía trước giờ đây tịnh không một tiếng người, chỉ nghe tiếng vó ngựa cuồn cuộn như cơn thủy triều đáng sợ đang lao đến, giáng xuống như những trận cuồng phong, bão cát kinh hoàng nhất trên sa mạc, cuốn theo cát bụi bay mù mịt. Vạn vật giữa đất trời chìm nghỉm trong âm thanh đáng sợ kia.
Gã thích khách im lặng, tay lăm lăm thanh kiếm khống chế Bệ hạ, lùi từng bước.
Không một ai dám manh động, bỗng Bệ hạ quát:
- Tằng Hiến! Giết thích khách đi!
Thì ra thủ lĩnh phe áo đen tên là Tằng Hiến. Tôi đã từng nghe thấy cái tên này, biết ông ấy là tướng chỉ huy có tiếng trong Thần vũ quân[1], võ công cái thế, nghe đồn một trăm người không địch nổi một mình ông ấy. Bả vai Tằng Hiến đang rỉ máu, ông ấy bước từng bước một. Mũi kiếm của gã thích khách kia sắc lạnh, ngời ánh thép, kề ngay cổ Bệ hạ. Giằng co mãi cũng không phân thắng bại, tôi bức bách đến nỗi mồ hôi nơi sống lưng rịn ra buốt lạnh. Lý Thừa Ngân bỗng phá lên cười, nói với thích khách:
[1] Thần vũ quân: Tên gọi của Cấm vệ quân đời nhà Đường.
- Ngươi biết ta là ai chứ?
Gã thích khách bịt kín mít, chỉ lộ ra đôi mắt, ánh mắt ráo hoảnh, vô tình không có bất cứ biểu cảm nào, ánh nhìn lạnh lẽo quét trên người Lý Thừa Ngân.
- Bây giờ cánh quân tiếp viện của Thần vũ quân hẳn đã bao vây kín chỗ này, ngươi mà phản kháng, ắt sẽ trở thành tấm bia cho ngàn vạn mũi tên. Chỉ cần ngươi buông kiếm hàng, ta đảm bảo sẽ giữ lại mạng sống cho ngươi.
Ánh mắt tên thích khách sáng quắc, thoáng tia do dự. Lý Thừa Ngân tiếp lời.
- Nếu ngươi không yên tâm, ngươi cứ bắt ta làm con tin, đợi ngươi bình an rút lui rồi phóng thích ta sau.
Lòng bàn tay tôi túa mồ hôi, thậm chí chuôi kiếm đang cầm trơn tuột. Lòng hạ quyết tâm, từ phía sau Lý Thừa Ngân tôi nhảy vọt ra:
- Hãy bắt ta làm con tin, dẫu sao ta cũng chỉ là phận nữ nhi yếu đuối, ngươi sẽ không phải lo ta giở trò. Đợi ngươi rút lui an toàn rồi thả ta về sau.
Lý Thừa Ngân quắc mắt nhìn tôi, tôi chẳng buồn quẳng cho hắn một cái lườm. Tôi thừa hiểu ý hắn, mà cũng biết đây không phải là trò đùa, nhưng với tình thế trước mắt, bảo tôi trơ mắt nhìn thích khách bắt hắn làm con tin, tôi không đành lòng.
Tên thích khách vẫn lặng thinh, chỉ có thanh kiếm lạnh lùng chĩa ra. Tằng Hiến đang đợi tiếp viện nên cũng không dám làm căng, đôi bên cố cầm cự.
Lý Thừa Ngân đứng chôn chân. Những tiếng rầm rầm bên ngoài đột nhiên im bặt, một hồi lâu hành lang mới văng vẳng tiếng bước chân, có người đang tiến đến gần. Sống lưng tôi lạnh toát, mồ hôi túa ra đầm đìa, thầm nghĩ hay thích khách có đồng bọn? Tiếng bước chân mỗi lúc một gần, mỗi lúc một sát, Lý Thừa Ngân chợt đưa tay nắm chặt tay tôi, lòng bàn tay ấy nóng ran, nhưng kỳ lạ làm sao tôi lại thấy bình tĩnh hơn hẳn. Chắc bởi tôi biết, hắn đang ở ngay bên cạnh, dù có nguy hiểm thì đã sao? Cùng lắm là chết chứ gì! Hào khí ngay tức khắc sống dậy trong tôi. Thế rồi rất nhiều người xộc vào, dẫn đầu là một người vận giáp bạc, thấy tình hình hai bên đang giằng co quyết liệt, không tránh khỏi thảng thốt, song hắn lập tức lấy lại bình tĩnh, quỳ lạy. Lớp giáp mai cọ vào nhau sột soạt, hắn thưa:
- Thần Doãn Ngụy cứu giá chậm trễ, xin Bệ hạ thứ tội!
- Đứng lên đi!
Tuy lưỡi kiếm của thích khách đang kề sát cổ Bệ hạ, vậy mà giọng người vẫn thản nhiên như không.
- Truyền lệnh giới nghiêm toàn thành, đóng cửa chín cổng thành.
- Tuân lệnh!
- Thần vũ quân và Vũ lâm quân của Đông cung lập tức tiến hành lục soát trong thành, truy tìm đồng đảng của thích khách!
- Rõ!
- Không được để lọt tin tức, kẻo làm rối loạn lòng dân.
- Tuân lệnh!
- Mau đi đi!
- Vâng!
|