Đông Cung (Phỉ Ngã Tư Tồn)
|
|
[4] Trên trang phục và mũ miện của vua quan đều có vẽ hình nhật nguyệt, rồng, núi, chim trĩ… được gọi là chương.
[5] Y phục thời xua chia ra thành hai phần: trên là áo, dưới là xiêm. Xiêm tức là váy.
[6] Tôn di là một loài thú hình dáng nửa khỉ nửa hổ có đuôi dài, thường được thêu trên y phục của thiên tử thời xưa, tượng trưng cho chữ Hiếu.
[7] Phủ: áo lễ có thêu hoa văn nửa đen nửa trắng (thời xưa).
[8] Phất: hoa văn nửa đen nửa xanh (thêu trên lễ phục thời xưa).
[9] Trung đơn là lớp áo mặc trong lớp áo thụng thời xưa.
[10] Cổ phủ là cổ áo có hoa văn màu trắng, đen tương phản.
[11] Soạn là viền dát nạm trên y phục.
Hắn mặc áo cổn, mũ miện của dịp đại lễ, ngọc trắng rủ chín chuỗi, kết thành tua, màu như lụa, bông tơ xanh che tai, trâm cài sừng tê… tôn lên vẻ khôi ngô, tuấn tú, dáng vẻ đường hoàng.
Cân đai mũ mão của Thái tử Trung Nguyên cũng thật phức tạp, tôi nhớ hồi học Điển lễ, phải đọc đi đọc lại mới nhớ được đoạn này, thậm chí có nhiều chữ tôi cũng chẳng biết là gì.
Ngẫm lại hồi đó tôi thích hắn, vậy mà hắn chẳng hề thích tôi. Hắn nhấc khăn đội đầu xong, không thèm uống với tôi một ly rượu hợp cẩn[12]mà cứ thế quay gót bỏ đi.
[12] Rượu hợp cẩn là chén rượu vợ chồng uống chung trong đêm tân hôn.
Thú thực, hắn bỏ đi làm tôi nhẹ cả người, lúc đó tôi thầm nghĩ, không biết mình có quen ngủ cạnh một người đàn ông xa lạ không.
Vĩnh Nương ngồi với tôi suốt cả buổi tối hôm đó, bà ấy sợ tôi nhớ nhà, lại sợ tôi giận, mấy lần phân trần bảo gần đây Thái tử Điện hạ bị cảm, chắc Điện hạ sợ lây bệnh cho Thái tử phi.
Thế mà hắn cảm suốt ba năm.
Ở Đông cung này, mình tôi trơ trọi trong nỗi cô đơn.
Tôi một thân một mình từ nơi xa xôi nghìn trùng đến được đây, tuy có A Độ đi cùng nhưng muội ấy không biết nói, nếu không có những cuộc cãi vã với Lý Thừa Ngân, chắc tôi sẽ càng cô đơn.
Giờ hắn sắp về chầu trời, tôi mới nhớ đến những mặt tốt của hắn. Tôi vắt óc để nhớ rồi kể hết những chuyện trước kia. Tôi chỉ sợ bây giờ hắn chết đi, sau này tôi không còn cơ hội nói với hắn nữa. Có nhiều thứ tôi tưởng mình đã quên nhưng thực ra vẫn còn nhớ. Thậm chí tôi còn nhớ nguyên mấy câu cãi vã mỗi lần tôi và hắn hục hặc, tôi kể hết cho hắn nghe, nói cho hắn biết lúc ấy tôi tức thế nào, tức muốn chết, song tôi toàn cố tình giả lơ, tôi biết cứ giả vờ như không để bụng là sẽ thắng được hắn, lần nào Lý Thừa Ngân cũng tức đến nghẹn họng.
Lại nói chuyện dải lụa uyên ương, vụ đó khiến tôi muối mặt, Hoàng hậu còn giáo huấn tôi một trận.
Tôi cứ huyên thuyên một hồi, chẳng biết vì sao mình phải thế, biết đâu là vì sợ, có lẽ tôi sợ Lý Thừa Ngân không còn trên đời này nữa. Đêm thâu vắng lặng, ánh nến đằng xa hắt lên màn, nội điện quạnh quẽ, có thứ gì đó ngăn cách tất cả, là màn đêm mịt mùng hay tiếng khắc lậu[13] lẻ loi, để tôi ngồi đây lảm nhảm tự nói tự nghe?
[13] Khắc lậu là đồng hồ nước ngày xưa dùng để đo thời gian (chỉ giờ), thân đồng hồ có khắc độ để tính.
Thú thực tôi rất sợ lâm vào cảnh góa bụa. ỞTây Lương, phụ nữ góa chồng buộc phải tái hôn với em chồng, như Công chúa Minh Viễn của Trung Nguyên thoạt đầu được gả cho bá phụ tôi, sau này mới tái giá với cha tôi. Mặc dù Trung Nguyên không có tập tục ấy, nhưng cứ nghĩ đến chuyện Lý Thừa Ngân sắp vĩnh viễn ra đi là tôi lại run lên. Hắn mà ra đi thật, nhất định tôi sẽ buồn hơn rất nhiều. Tôi lập tức ngăn mình thôi không suy nghĩ linh tinh nữa, rồi tranh thủ kể thêm mấy câu chuyện vô thưởng vô phạt.
Tôi cũng chẳng ngờ, hóa ra tôi không ghét Lý Thừa Ngân như tôi vẫn tưởng. Dù hắn hay chọc tôi tức điên thật đấy, nhưng ba năm qua, số lần chúng tôi gặp nhau có thể đếm trên đầu ngón tay, ngoại trừ mấy lần hắn giận cá chém thớt với tôi vì Triệu Lương đệ thì trước đây, chúng tôi cũng không thường xuyên cãi vã. Có khi không hằm hè nhau, tôi lại thấy không quen…
Còn vụ chép sách nữa, tuy tôi ghét chép sách nhất trần đời, nhưng cũng nhờ mấy lần bị phạt chép quá nhiều sách mà vốn từ Trung Nguyên của tôi bây giờ đã khá hơn nhiều. Nhờ bị phạt chép sách cả đấy, nào là Nữ huấn, Nữ giới, chép nhiều quá nên tôi thuộc làu. Còn nữa, chuyện này tôi chưa kể cho ai biết đâu, ấy là trong sách có nhiều chữ tôi không biết, cũng không biết đọc thế nào, nhưng tôi vẽ lại y nguyên từng nét một, thế là chẳng ai biết thực ra tôi không biết chữ ấy.
Nhắc mới nhớ chữ “Ngân” trong “Lý Thừa Ngân”, chữ này cũng kỳ lạ chẳng kém, hồi đầu thấy nó, tôi cứ tưởng đó là chữ “Cần”… Tôi tự hỏi rốt cuộc chữ này là sao nhỉ? Nghe nói người Trung Nguyên rất coi trọng chuyện đặt tên, sao hắn lại có cái tên đó nhỉ?
- Ngân Châu…
Tôi độc thoại từ bấy đến giờ, tự nhiên có người lên tiếng đáp lời, tôi mới buột miệng hỏi:
- Hả? Ngân Châu nào?
- Thái tổ Hoàng đế nguyên gốc Ngân Châu… phía đông Trung Châu, phía nam Lương Châu… địa thế rồng chầu hổ phục… cho nên… ta mới tên là Thừa Ngân…
Tôi há hốc miệng nhìn kẻ đang nằm thoi thóp trên giường, giọng hắn rất nhỏ nhưng câu chữ rành rọt, tinh thần cũng có vẻ tỉnh táo. Tuy mắt hắn khép hờ nhưng vẫn nhìn thẳng vào tôi.
Tôi nghệt mặt một lúc lâu, rồi giật nảy mình, hét toáng lên:
- Á!
Giọng tôi hẳn phải kinh khủng lắm nên ngay sau đó mọi người xồng xộc xông vào. Thái y tưởng tình trạng của Lý Thừa Ngân chuyển biến xấu liền quáng quàng lao tới:
- Điện hạ sao rồi? Điện hạ sao rồi?
Tôi chỉ vào Lý Thừa Ngân, líu lưỡi nói:
- Điện hạ… Điện hạ…
Lý Thừa Ngân nằm trên giường, mặt mày vô cảm nhìn xoáy vào tôi. Thái y cả mừng, sụt sùi nói:
- Điện hạ tỉnh rồi! Điện hạ tỉnh rồi! Mau, mau sai người vào cung bẩm báo Bệ hạ! Thái tử Điện hạ tỉnh lại rồi…
Đông cung nháo nhào cả lên, ai cũng phấn chấn, hồ hởi. Ngự y nói, chỉ cần Lý Thừa Ngân có thể tỉnh lại, vết thương không đáng ngại nữa. Đám người của Thái y viện người ngào người nấy rạng rỡ cười vui, bọn cung nữ mặt tươi như Tết, náo nức loan báo khắp nơi. Ngự y bắt mạch lần nữa, cân nhắc kê đơn thuốc mới. Nửa đêm nửa hôm họ tất bật chạy tới chạy lui, nhao nhao như bầy ong vỡ tổ, còn tôi chỉ muốn lăn ra ngủ.
Tôi không rõ mình thiếp đi từ lúc nào, chỉ nhớ lúc ấy ngự y vẫn rì rầm to nhỏ gì đó bên tai. Lúc tỉnh dậy thấy mình đang nằm sấp gần mép giường, trên người đắp ngay ngắn một tấm chăn bông. Chân tôi tê rần do nằm lâu, không tài nào thu lại được, khẽ cựa mình một cái, xương cốt toàn thân kêu răng rắc… Tôi đánh một giấc ngon lành, thậm chí còn nhỏ nước miếng lên tay áo Lý Thừa Ngân, ấy… tay áo của Lý Thừa Ngân!
Hóa ra tôi đang nằm bò bên mép giường của hắn, gác cằm lên tay hắn, ngủ suốt đêm. Trong nội điện lặng ngắt như tờ, không một bóng người, Lý Thừa Ngân đang nằm bên, cười mà như không nhìn tôi.
Nom mặt hắn là biết hắn đã tai qua nạn khỏi. Đến lượt tôi trầy trật toan gập cái chân tê rần lại, thử rồi mới biết chỉ tốn công, vật lộn mãi mà không đứng lên được, lại còn phần eo… Trời đã sáng rõ, chỗ thắt lưng tôi vừa mỏi vừa đau nhức, giống như bị xe ngựa nghiền xéo cả đêm qua. Sau này tôi sẽ không bao giờ ngủ kiểu này nữa.
Cố mãi không được, cuối cùng tôi đành chống tay xuống giường ngồi dậy, tính duỗi chân thử xem, đang phân vân không biết nên gọi người vào đỡ mình, hay ngồi nghỉ một lúc cho chân bớt tê rồi hãy duỗi thử thì chợt nghe Lý Thừa Ngân hỏi:
- Nàng định đi đâu?
- Về ngủ tiếp…
Đến lưỡi tôi cũng tê, mở miệng nói suýt nữa cắn phải lưỡi, thật nguy hiểm!
- Ai bảo nàng bạ đâu ngủ đấy, nằm sấp mà cũng ngủ được, gọi mãi không dậy.
Tôi kìm nén không ném cho hắn một cái lườm, tên này vừa mới tỉnh lại mà đã có sức gây sự với tôi rồi.
Hắn vỗ vỗ xuống chỗ trống bên cạnh mình.
- Làm cái gì đấy?
- Chẳng phải nàng đang buồn ngủ sao? Dù sao giường cũng đủ rộng.
Đúng là rộng thật. Giường của Lý Thừa Ngân rộng hơn hẳn mấy chiếc giường bình thường, tám, mười người nằm trên đó vẫn đủ chỗ. Hiềm nỗi vấn đề không phải ở đó, mà ở chỗ… Tôi ngờ vực hỏi:
- Điện hạ muốn ngủ chung với thần thiếp à?
Hắn ra vẻ phật ý:
- Có phải chưa từng ngủ chung đâu.
Thì cũng đúng thế thật.
Lúc này, quả thực tôi buồn ngủ díp cả mắt, tôi nhanh chóng bò lên giường. Lý Thừa Ngân định nhường cho tôi nửa cái chăn, nhưng tôi sợ chạm vào vết thương trên người hắn, bèn đưa tay lấy chăn ở cuối giường đắp tạm, rồi cứ thế ngủ ngon lành.
Lúc lâu sau Vĩnh Nương khẽ gọi tôi dậy, tôi rón rén choàng áo lên người. Vĩnh Nương thì thầm với tôi rằng, ý chỉ phế truất Hoàng hậu cuối cùng đã được bố cáo toàn dân, bên cạnh đó còn nghe nói Thái hoàng thái hậu đã ra mặt dẹp yên lòng người, hậu cung hiện nay vẫn rất bình yên.
Kèm theo thánh chỉ phế bỏ ngôi vị hoàng hậu, Hoàng cung còn soạn thánh chỉ riêng, ấy là phục hồi thân phận cho Triệu Sắt Sắt, với lý do ả bị vu oan.
Tôi ngao ngán liếc nhìn Lý Thừa Ngân vẫn đang say giấc trên giường. Do bị thương nặng nên mấy ngày nay sắc mặt hắn nhợt nhạt, cắt không còn giọt máu, người cũng gầy đi thấy rõ, thậm chí quầng mắt còn xuất hiện một vầng xanh xám.
Tôi bảo Vĩnh Nương:
- Phái người đi gọi Triệu Lương đệ về chăm sóc Thái tử Điện hạ.
Nơi này vốn không thuộc về tôi, tôi trơ lì ở đây đã mấy ngày nay rồi.
Không đợi Vĩnh Nương kịp tấu thêm, tôi đã bước ra khỏi điện, sai người chuẩn bị xe.
Tôi về tẩm điện của mình, cảm giác buồn ngủ trốn đi đâu không biết. Bụng bảo dạ chắc đã ngủ chán rồi, tôi nhìn mình trong gương, giá như tôi xinh đẹp hơn một chút, liệu Lý Thừa Ngân có thích tôi không?
Ban đầu tôi cũng chẳng bận tâm Lý Thừa Ngân có thích tôi hay không, song trải qua đại nạn này, tôi mới chợt nhận ra mình rất hay để bụng. Giờ hắn tỉnh rồi, tôi lại mong hắn sẽ mến mình. Bởi khi hắn tưởng như đang hấp hối, tôi mới hiểu thì ra tôi thích hắn nhiều lắm.
Thế mà trong lòng hắn chỉ có Triệu Lương đệ.
Xưa kia, chưa bao giờ tôi bâng khuâng nhường này.
Ăn chẳng buồn ăn, ngủ chẳng buồn ngủ, ngày nào tôi cũng ngồi bần thần một mình.
Triệu Lương đệ đã dọn về nơi ả sống trước kia. Thái hoàng thái hậu bù đắp khá hậu hĩnh cho những gì ả từng chịu đựng, chẳng những ban thưởng nhiều vàng bạc, châu báu, mà cha ả mới đó cũng được thăng quan. Kẻ nịnh bợ ả mỗi lúc một nhiều. Bên ấy ngày nào cũng náo nức như mở hội, thỉnh thoảng tôi đi qua còn thấy văng vẳng tiếng nói cười, tiếng đàn sáo, hát ca sau bức tường…
Vết thương của Lý Thừa Ngân có lẽ đã tạm ổn, tuy bặt tăm hơi kể từ đó, nhưng có lần tôi nghe rõ tiếng hắn cười.
Cười sảng khoái nhường này, chắc đã khỏe rồi đây.
|
Chương 05 Hôm trời đổ tuyết có hai chuyện cùng xảy ra. Một là trong cung truyền chỉ, Hoàng thượng ban hôn Công chúa Lạc Hy cho Bùi Chiếu; hai là Tự Nương được đưa về Đông cung.
Bùi Chiếu có gia thế khá lớn, mẫu thân gã chính là trưởng Công chúa Bình Nam. Vĩnh Nương kể cho tôi nghe:
- Bùi Tướng quân sinh ra là để làm phò mã.
Nghe đâu người Trung Nguyên rất chú trọng chuyện này, vậy ra đã thân nay càng thêm thân.
Tôi chợt nhớ về giấc mơ mình hay mơ thấy trước kia, bỗng có cảm giác thất vọng. Sau này Bùi Tướng quân làm phò mã rồi, có lẽ còn được thăng quan tiến chức, nếu hắn không làm Kim ngô tướng quân ở Đông cung nữa thì về sau khó có dịp gặp.
Thoạt đầu bặt tiếng Lý Thừa Ngân, bây giờ, đến cả Bùi Chiếu cũng ít khi được gặp.
Vĩnh Nương thu xếp cho Tự Nương ở tòa viện phía tây, bà ấy nói nơi đó yên tĩnh, sức khỏe Tự Nương vốn yếu ớt, cần nơi nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng.
Tôi cũng ngẫm ra là vì Lý Thừa Ngân không thích cô ta nên Vĩnh Nương mới chọn nơi cách chính điện rất xa. Vĩnh Nương nói với tôi:
- Triệu Nương đệ là người sắc sảo, Thái tử phi nên đề phòng, tránh va chạm.
Vĩnh Nương nói gì, tôi không hiểu lắm, nhưng cũng biết đại ý bà ấy bảo tôi nên lánh Triệu Nương đệ đi.
Đằng nào thì ở Đông cung này, tôi cũng chẳng thích thú gì cho lắm, may mà sức khỏe A Độ đã có phần hồi phục, chúng tôi tranh thủ lẻn đi chơi.
Hơn hai tháng trời không ra ngoài, dẫu trời vừa đổ tuyết lạnh cóng nhưng vì là giáp Tết nên phố xá vẫn rất tấp nập, nhộn nhịp.
Người xuống phố như nêm, hàng quán mở ra ở khắp nơi, nào thì bán cây tuyết liễu, cờ xuân, nào thì bán đồ ăn vặt lẫn tranh Tết… chưa kể đến ca hát, tạp kỹ, múa rối, đốt pháo, đi dây… Đâu đâu cũng là người với người. Tính tôi vốn ham vui, từ xưa đã thích dắt A Độ hòa mình vào dòng người, ngắm nghía chỗ này một lát, xem xét chỗ kia một tẹo.
Thế mà hôm nay, chẳng hiểu vì sao tôi không thể nào phấn chấn lên được. Lượn lờ một lúc, tôi đã kéo A Độ tới quán Mễ La uống rượu.
Tửu quán vẫn tấp nập như thường ngày, từ đằng xa đã nghe rõ tiếng cười ngân vang như tiếng chuông của Mễ La tỷ.
Bước vào mái lều trúc tôi mới biết, thì ra tỷ ấy đang nói cười với khách, mà vị khách ấy tôi cũng quen, chính là Bùi Chiếu.
Tôi ngẩn người nhìn, không ngờ lại gặp Bùi Chiếu ở đây. Xem vẻ gã ngớ ra, chừng như cũng không ngờ.
Thấy Bùi Chiếu mặc thường phục, bộ dạng thoải mái, tôi liền chắp tay chào hỏi:
- Chào Bùi công tử!
Hắn phản ứng mau lẹ, lập tức đáp lời:
- Lương công tử ghé chơi!
Quán chật ních người, chỉ có bàn Bùi Chiếu đang ngồi là còn chỗ trống. Theo thói phóng khoáng, không quen khách sáo, tôi bảo A Độ ngồi xuống rồi gọi hai hũ rượu.
Có câu gì nhỉ… À… mượn rượu giải sầu…
Dẫu tôi không có muôn nỗi sầu, nhưng trong lòng thấy chán chường quá chừng. Nốc cạn hai bát rượu, mới lấy lại được đôi phần lạc quan.
Tôi cầm đũa gõ bát, ngâm nga một làn điệu dân ca của người Tây Lương chúng tôi:
“Có con cáo nhỏ cô đơn,
Ngồi trên cồn cát ngắm trăng một mình,
Cơ mà đâu phải ngắm trăng,
Cáo đang mong đợi cô nàng chăn dê.
Có con cáo nhỏ bơ vơ,
Ngồi trên cồn cát thẩn thơ sưởi mình,
Nào đâu cáo muốn sưởi mình,
Cáo đợi cô mình cưỡi ngựa đi qua.’’
Mấy người trong quán vỗ tay lộp bộp, vậy mà lòng tôi đột nhiên ngao ngán lạ thường. Tôi không nén được tiếng thở dài, lại uống cạn một bát rượu, rồi đụng đũa nhắm món thịt dê thơm phức. A Độ níu áo tôi, tỏ ý khuyên tôi uống ít thôi, song tôi vẫn tảng lờ. Lúc tôi đang mải mê thưởng thức thịt dê, chợt vang lên âm thanh dìu dặt của kèn tất lật. Tôi ngước lên, thảng thốt nhìn Bùi Chiếu đang ngồi ở đầu bàn phía bên kia.
Chẳng hiểu cớ gì A Độ lại đưa cây kèn cho gã, gã say sưa thổi, giai điệu du dương ấy cứ tuôn không ngừng.
Tôi chống cằm lắng nghe tiếng kèn.
Gã thổi tiếp bài dân ca tôi hát dang dở, hẳn là gã chưa từng nghe bài hát ấy, thế nên tiếng kèn dè dặt, tuy âm luật không sai nhưng ngắc ngứ từng hồi, thổi một lúc mới bắt đầu nhịp nhàng, trôi chảy. Làn điệu dân ca này vốn có tiết tấu vui tươi, rộn ràng, song chẳng hiểu sao, lần nào tôi nghe cũng thấy thắt lòng.
Bùi Chiếu thổi thêm một điệu rồi mới đặt cây kèn xuống. Tôi uống cạn thêm một bát rượu, hỏi gã:
- Ngươi giúp ta một việc được không?
Bùi Chiếu vẫn khách khí với tôi:
- Xin công tử sai bảo!
- Ta chưa từng được lên lầu Chu Tước, ngươi có thể lén dẫn ta đến đó chơi không?
Nom vẻ mặt Bùi Chiếu thoáng lúng túng, tôi lẩm bẩm:
- Thôi, coi như ta chưa nói gì.
Chẳng ngờ Bùi Chiếu lại thưa:
- Lén đi thì không hay lắm, nhưng vẫn có cách, có điều công tử phải giả làm tùy tùng của tại hạ, như thế thì e công tử phải khổ một phen rồi.
Tôi lập tức phấn chấn, vỗ tay cười:
- Cái này thì có hề gì.
Tôi và A Độ đóng giả làm tùy tùng của Bùi Chiếu, nghênh ngang theo gã lên lầu Chu Tước.
Lầu Chu Tước là nơi cao nhất ở Thượng Kinh, cao hơn nhiều so với gác Lung Linh ở hồ Thái Dịch chốn Hoàng cung. Nơi đây chính là cổng chốt phía nam trong chín cổng thành của Thượng Kinh nên canh phòng hết sức nghiêm ngặt, ba bước một chòi canh, năm bước một đồn gác. Song Bùi Chiếu vẫn đưa tôi lên lầu thuận lợi, suôn sẻ.
Đứng trên lầu, gió phần phật táp vào mặt, gió tựa những nhát dao rát buốt cứa lên da thịt, nhưng có thể trông xuống nhà nhà treo đèn, kết hoa trong thành, cảnh tượng hùng vĩ vô cùng. Phố thị liền kề như một bàn cờ bày ngay trước mắt, những quán xá rải rác khắp kinh thành, hệt một bồn thạch anh tích tụ những ánh đèn. Phóng tầm mắt nhìn bao quát, thấy cả mái ngói lưu ly nơi Hoàng cung xa xăm trải dài một màu xanh thâm trầm như đại dương chạm tới đường chân trời. Bùi Chiếu chỉ cho tôi xem:
- Đông cung ở kia.
Có ngắm được Đông cung hay không, tôi nào có bận tâm. Tôi kiễng chân, chỉ muốn nhìn về nơi xa xăm.
Chỗ cao thế này cũng chẳng thể trông thấy Tây Lương.
Tôi tiu nghỉu, nhoài người trên tường trỗ, cất giọng ủ ê hỏi Bùi Chiếu:
- Ngươi có nhớ nhà không?
Phải một lúc Bùi Chiếu mới thưa:
- Mạt tướng sinh ra và lớn lên ở kinh thành, chưa xa rời Thượng Kinh được mấy lần, thế lên chưa từng có cảm giác nhớ nhà.
Tôi ngẫm thấy mình thật chẳng ra sao, đành ngượng ngùng ngoái lại nhìn gã. Cổng thành nổi gió, cuốn tay áo choàng tung bay phất phơ. Bùi Chiếu đứng cách tôi một khoảng xa, đến nỗi nơi thành lầu đèn đuốc ảm đạm, tôi không thể nhìn ra thần sắc trên khuôn mặt gã. Tôi nói:
- Thổi một điệu kèn cho ta nghe đi!
A Độ đưa kèn cho Bùi Chiếu, gã chậm rãi thổi, vẫn là khúc dân ca tôi mới hát.
|
Tôi ngồi bên bờ tường trổ, khẽ ngân nga theo tiếng kèn:
“Có con cáo nhỏ cô đơn,
Ngồi trên cồn cát ngắm trăng một mình,
Cơ mà đâu phải ngắm trăng,
Cáo đang mong đợi cô nàng chăn dê.
Có con cáo nhỏ bơ vơ,
Ngồi trên cồn cát thẩn thơ sưởi mình,
Nào đâu cáo muốn sưởi mình,
Cáo đợi cô mình cưỡi ngựa đi qua.’’
Tôi biết, con cáo ấy chẳng đợi ai cả, mà nó đang rất nhớ nhà.
Bẵng đi một lúc, cũng chẳng rõ là bao lâu, tôi mới thôi lầm thầm, nhưng tiếng kèn vẫn văng vẳng, quấn quýt bên người. Làn điệu thân thương ấy khiến tôi thấy yên lòng, nhẹ nhõm… Dẫu ở chốn cổng thành lạnh lẽo, tận đáy lòng tôi vẫn đọng lại một chút ấm nồng, nơi ấy có tiếng gọi của Tây Lương, hơi thở của Tây Lương vẫn trọn vẹn ngay giữa lòng Thượng Kinh phồn hoa, rộng lớn này, nó là thứ duy nhất tôi thân quen, tôi thấu hiểu.
Mây ửng sắc vàng sà xuống ngay đầu, trăng sao chẳng thấy đâu, chỉ có gió quất trên da thịt, đau và rát. Giấc ngủ đến chập chờn, tôi ngáp một cái rồi dựa vào A Độ.
Tiếng kèn nỉ non cất lên, tựa như làn sương mù mùa đông, dập dềnh trong cả những cơn mơ đưa tôi vào giấc ngủ.
Bỗng trên mặt buốt lạnh, tôi ngước đầu trông lên.
Thì ra trời đổ tuyết, tuyết từ trên trời cao từ từ rơi xuống, không hiểu gió đã ngừng thổi tự lúc nào, chỉ có tuyết đáp xuống trong câm lặng. Những bông hoa tuyết óng ánh nối đuôi nhau bung cánh xõa nở giữa đất trời. Trong thành lác đác ánh đèn của nhà dân, bốn bề như được phủ một tấm mành tuyết trắng xóa.
Cuối cùng, Bùi Chiếu thu cây kèn lại, thì ra gã đã thổi liên tục từ bấy đến giờ. Gã ngưng một lúc, cơn ho húng hẵng ào tới từng cơn, chắc đã hít phải khá nhiều gió lạnh. Gã cũng ngốc thật, tôi không bảo ngừng là cứ thổi suốt, cũng chẳng sợ bị viêm phổi. Bùi Chiếu vẫn đang gồng mình dằn cơn ho, gã nói:
- Tuyết rơi rồi, mạt tướng hộ tống Thái tử phi về cung.
Tôi để ý có một đốm tuyết mềm mại đậu trên lông mi gã, chớp mắt đã tan chảy.
Tôi ngoan cố bảo:
- Ta không muốn về.
- Bẩm Thái tử phi…
- Đừng có gọi ta là Thái tử phi.
Bùi Chiếu chẳng hề nao núng, giọng điệu vẫn cung kính như thường ngày:
- Vâng, thưa nương nương!
Lòng thấy buồn tôi bèn hỏi gã:
- Ngươi thích cô Công chúa Lạc Hy à?
Bùi Chiếu sững sờ, không đáp.
Tôi vỗ vai an ủi gã:
- Xem ra ngươi không thích rồi! Chẳng ngờ ngươi cũng bị ép phải lấy một người mình không yêu. Ôi chao, thương thay cho đàn ông Trung Nguyên! Chẳng qua ta cũng chỉ là chó chê mèo lắm lông. Lý Thừa Ngân thân là Thái tử, song không thể phong người mình yêu làm Thái tử phi, còn ngươi, hóa ra ngươi và hắn đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu…
Vốn thành ngữ kém cỏi của tôi chỉ dùng ở mức tầm tầm, chẳng vậy mà sắc mặt Bùi Chiếu trở lên lúng túng, sau cùng chỉ đáp một câu nhạt nhẽo:
- Vâng ạ!
Tôi khẳng khái khuyên:
- Đừng buồn nữa, ta mời ngươi một chầu hoa tửu[1]!
[1] Hoa tửu: Ý chỉ yếu ẩm cùng kỹ nữ nơi kỹ viện
Hình như gã vừa bị sặc nên húng hắng ho một chập. Tôi giở giọng điệu sành sỏi:
- Ta có cô bạn chí cốt ở phường Minh Ngọc! Xinh đẹp tuyệt trần! Hôm nay ngươi sướng rồi nhé!
- Bẩm Thái tử phi…
- Đừng có gọi ta là Thái tử phi nữa! – Tôi háo hức lôi kéo gã bằng được. – Đi nào, đi nào! Ta dắt ngươi đi uống hoa tửu!
Hiển nhiên là Bùi Chiếu không bao giờ biết tôi là khách quen ở những nơi đầy rẫy thói trăng hoa ấy. Gã sửng sốt khi tận mắt chứng kiến danh tiếng của tôi tại phường Minh Ngọc. Chủ yếu là bởi Vương đại nương vừa nhìn thấy tôi đã đon đả cười đón hệt như nhìn thấy bảo vật sống. Bà ấy níu chặt tay áo tôi:
- Ôi chao! Lương công tử đến đấy à? Mấy chị em lầu trên lầu dưới kia ơi, Lương công tử ghé chơi đây này!
Tuy Vương đại nương đẫy đà, phốp pháp nhưng giọng nói thì lanh lảnh, cao vút, vang vọng. Vừa dứt tiếng hô, cả phường Minh Ngọc bỗng xôn xao. Lầu trên lầu dưới, một đám con gái xúng xính váy áo thướt tha, lũ lượt túa ra.
- Lương công tử đến rồi! Lương công tử ơi, sao bấy lâu nay không thấy chàng ghé thăm? Lương công tử quên chúng em rồi chăng…
Tôi đứng giữa vòng vây của các cô gái, hả hê lắm:
- Đâu mà… làm gì có… Bữa nay ta tiện đường…
- Hừ! Hôm nọ Nguyệt Nương còn bảo, Lương công tử mà không đến mau, chúng em sẽ đào sạch mười lăm vò rượu chàng cất ở đây, uống bằng hết thì thôi.
- À đó, dưới gốc cây mai vẫn chôn một vò tuyết, Nguyệt Nương quả quyết rằng phải để dành pha trà mời chàng thưởng thức!
- Hôm nay khéo sao trời đổ tuyết, hay chúng ta lấy chỗ nước tuyết đó nấu rượu nhé!
- Hay quá, hay quá!
Mấy nàng nhao nhao làm tôi hoa mày chóng mặt, tôi hỏi:
- Nguyệt Nương đâu? Sao không thấy tỷ ấy?
- Nguyệt Nương ấy à, ốm rồi!
Tôi rất đỗi ngạc nhiên:
- Ốm á?
- Vâng! Ngã bệnh tương tư rồi còn đâu!
- Bệnh tương tư á?
- Há lại không? Chuyện là, bữa nọ có vị khách quý đến đây uống chén trà, nghe đoạn hát rồi đi luôn, chẳng ngờ Nguyệt Nương lại vấn vương thương nhớ người ta.
- Kẻ nào lại có thể khiến Nguyệt Nương thầm mong trộm nhớ thế?
- Nom dáng dấp như con nhà quyền quý có ăn có học, tướng mạo tuấn tú, lời lẽ thanh tao, khí phách hiên ngang…
Nghe thôi đã biết chẳng phải chuyện đùa. Bao lần lê la quán trà nghe kể chuyện, chỉ thấy tiểu thư con nhà giàu ngầm trao duyên, ước hẹn chuyện trăm năm với các công tử, chứ nào đã nghe công tử sánh vai cùng gái làng chơi! Huống hồ Nguyệt Nương còn là kỹ nữ tài danh bậc nhất chốn phong lưu này, đám công tử quỵ lụy Nguyệt Nương không một nghìn cũng phải đến tám trăm, lý nào tỷ ấy lại đổ bệnh tương tư?
Tôi và Nguyệt Nương vốn là chỗ tỷ muội kết nghĩa, tôi liền lên lầu, đến phòng tỷ ấy hỏi thăm. Quả nhiên tỷ ấy vẫn thức, người uể oải dựa bên lồng hương, tay chống má, mắt đăm chiêu nhìn cây đèn cầy trên bàn, không hiểu đang thả hồn về đâu.
|
Tôi gọi tên mụ của Nguyệt Nương:
- Thập Ngũ!
Thấy tôi, Nguyệt Nương vẫn thẫn thờ:
- Muội đến đấy à?
Tôi ướm hỏi:
- Tỷ mắc bệnh tương tư thật đấy à?
- Ôi, muội không biết đâu, chàng cứ như người của cõi thần tiên!
- Muội đã nói với tỷ rồi, đàn ông đẹp không mài ra ăn được đâu!
- Người ta không những tuấn tú, khôi ngô, mà còn nho nhã, thanh tao… Đáng quý ở chỗ, chàng không tỏ ý khinh bạc tỷ. – Nguyệt Nương si mê chắp tay trước ngực. – Xin trời cao phù hộ, ngày nào đó cho đôi ta được tương ngộ dẫu chỉ một lần…
Tôi buột miệng ngắt lời:
- Hay cũng là gái giả trai? Ngày trước, khi tỷ biết muội là con gái, tỷ chẳng đã nói, muội không hề có thái độ cợt nhả nên thoạt trông đã biết muội là con gái đấy thôi…
Nguyệt Nương chẳng vì thế mà dao động:
- Làm gì có chuyện chàng là nữ cải trang, trông khí phách chàng đường đường là đấng trượng phu… Chao ôi…
Tôi rỉ tai nói nhỏ với Nguyệt Nương:
- Hôm nay muội dẫn Bùi Chiếu đến đây! Chẳng phải tỷ luôn nóng lòng muốn báo thù hay sao? Hay bày mỹ nhân kế gạt hắn vào tròng, để hắn giúp tỷ báo thù? Cha hắn là đại tướng quân, hắn lại là Kim ngô tướng quân, nghe đâu quyền thế nhà họ Bùi hiển hách lắm!
Nguyệt Nương ngán ngẩm lắc đầu:
- Vô ích thôi. Quyền lực trong tay Cao Vu Minh có sức áp đảo cả trong lẫn ngoài triều, lão đã làm tể tướng hơn hai mươi năm nay, môn sinh của lão rải rác khắp nơi, mà vây cánh cũng nhiều, dù là Bùi gia cũng khó lòng lật đổ được lão. Hơn nữa, tỷ nghe nói, Cao Quý phi chẳng mấy chốc sẽ trở thành Hoàng hậu.
- Cao Quý phi sắp là Hoàng hậu ư?
- Đúng vậy! Trên phố người ta đồn rằng Bệ hạ phế bỏ Trương Hoàng hậu hòng đưa Cao Quý phi lên.
Tôi buộc phải thừa nhận, cái danh xưng thái tử phi của tôi có mà như không, thậm chí tôi chẳng biết ai là người có khả năng được chọn làm hoàng hậu. Hơn nữa, xưa nay tôi chỉ gặp Cao Quý phi có hai lần, đều là lúc vấn an Hoàng hậu thì tình cờ gặp. Tôi vắt óc hồi lâu cũng chỉ nhớ mang máng, chẳng thể nào nhớ nổi hình dáng bà ta thế nào.
Tôi nói:
- Nếu tỷ được gặp Hoàng thượng để bày tỏ nỗi oan khiên của mình thì tốt quá!
Gia đình Nguyệt Nương trước đây cũng làm quan, về sau bị Cao vu Minh hãm hại khiến cả nhà bị tịch biên. Năm đó tỷ ấy chừng sáu, bảy tuổi, tuy may mắn thoát thân song lại bị bán vào chốn thanh lâu làm nghề ca kỹ. Ròng rã mấy năm trời, trong lòng tỷ ấy lúc nào cũng tâm niệm phải báo thù, lần đầu tiên tôi nghe tỷ ấy tâm sự cảnh đời của mình mà rơm rớm nước mắt. Thế rồi chúng tôi có chung nỗi đồng cảm, tiếc thay tôi lại không giúp được gì.
Nguyệt Nương buông tiếng thở dài:
- Dẫu có cơ hội yết kiến Hoàng thượng e cũng chẳng ích gì… Ôi… Mà tỷ cũng chẳng muốn gặp Hoàng thượng… Trong lòng tỷ… bây giờ… chỉ… chỉ không biết bao giờ mới có dịp tái ngộ người ấy.
Nguyệt Nương trông vậy mà đổ bệnh tương tư, đến báo thù nhà cũng quên hết, lại đi nhớ nhung gã công tử nọ.
Tôi xuống nhà, kéo Bùi Chiếu lên lầu, trong phường Minh Ngọc đâu đâu cũng có chậu than, ánh sáng ấm áp lan tỏa tạo nên cảm giác dễ chịu. Nguyệt Nương không hổ là mỹ nữ đẹp nhất của phường Minh Ngọc, vừa vén tấm mành trước phòng tỷ ấy, mùi hương đã tỏa ra ngan ngát. Mấy cô gái túa ra, một mực kéo chúng tôi vào trong. Bùi Chiếu có vẻ bỡ ngỡ, tôi liền xua hết mấy cô nàng xuống lầu, chỉ để Nguyệt Nương tiếp rượu chúng tôi.
Vui vẻ đến tận đêm thâu, bụng dạ đói meo. Đầu bếp của phường Minh Ngọc nấu ngon nổi tiếng, bằng không tôi đã chẳng thường xuyên ghé qua đây. Thoạt đầu vì tâm đầu ý hợp với Nguyệt Nương, sau thì bởi chỗ tỷ ấy có rất nhiều món ngon.
Tôi ăn uống một trận no say, cảm giác khó chịu, chán chường lúc ở trên lầu hứng gió, hứng tuyết đều trôi tuột xuống bụng. Nguyệt Nương ôm đàn tỳ bà, khẽ gảy những nốt nhạc uyển chuyển, rồi hát:
“Cả đời chưa biết tương tư.
Nên vừa tương tư, liền bệnh tương tư.
Thân tựa mây trôi, lòng như bông sợi.
Hơi thở yếu mềm tựa tơ vương…”[2]
[2] Trích bài Chiết quế lệnh- Xuân tình của Tử Tái Tư, đời Nguyên.
Giọng hát yếu ớt quả thật “tựa tơ vương” đúng là giọng ca của người mắc bệnh tương tư đây mà. Tôi liếc sang Bùi Chiếu:
- Sao ngươi không ăn đi?
- Công tử cứ tự nhiên, tại hạ không đói.
Tôi phát hiện ra, ít nhiều Bùi Chiếu đã tiến bộ hơn trước, ít nhất đã thôi mở miệng ra là mạt tướng thế này, mạt tướng thế nọ… Tôi nhấc đũa chỉ cho gã thấy:
- Món cá xắt lát ở đây ngon nhất, nhì Thượng Kinh, tẩm ướp gia vị được mang đến từ Ba Tư, không tanh chút nào, ngươi nếm thử xem!
Tôi nhiệt tình giới thiệu món cá, vậy mà gã chẳng hề động đũa.
Trên đường về cung, Bùi Chiếu đột nhiên hỏi tôi:
- Người con gái ban nãy, liệu có phải thân quyến nhà họ Trần không ạ?
Tôi ngớ người chưa kịp hiểu, gã từ tốn hỏi lại:
- Nguyệt Nương gảy đàn tỳ bà vừa rồi, trước đây mang họ Trần phải không ạ?
Tôi gật đầu, nhân tiện bộc bạch luôn chuyện nhà Nguyệt Nương đáng thương ra sao, tội nghiệp thế nào…
Thấp thoáng đằng xa đã thấy dãy tường cao chót vót của Đông cung, Bùi Chiếu chợt khựng lại, bất ngờ thưa:
- Bẩm Thái tử phi, mạt tướng có chuyện này, không biết có nên nói hay không…
Tôi ghét nhất kiểu người ăn nói vòng vo, bèn nói:
- Có gì ngươi cứ nói đi!
Bùi Chiếu ngập ngừng một lát rồi mới thưa:
- Trời sinh Thái tử phi bản tính hiền lương, Đông Cung lại là nơi đầy rẫy thị phi. Điện hạ thân là đương kim Thái tử, ắt có cái khó của người. Mạt tướng trộm nghĩ, Thái tử phi chớ nên giao thiệp với hạng người như Nguyệt Nương…
Chưa bao giờ tôi thấy Bùi Chiếu đáng khinh như lúc này, tôi cười khẩy, nói:
- Ta biết hoàng thân quốc thích các người luôn xem thường những cô gái như Nguyệt Nương, nhưng cấm ta chơi với bạn mình, chuyện đó e là không thể! Ta không giống kẻ lúc nào cũng xum xoe nịnh bợ như các người, khinh kẻ khác là bần dân nên không thèm kết bạn. Ngươi nói không sai, Nguyệt Nương là gái làng chơi, tối nay quả thật làm vấy bẩn Bùi Tướng quân mất rồi! Nhưng Bùi Tướng quân yên tâm, sau này không bao giờ ta đưa ngươi đến những chỗ như vậy nữa, ngươi cứ an tâm làm phò mã đi!
Có lẽ khi đó tôi đã nói với Bùi Chiếu bằng những lời lẽ gay gắt nhất, nên vừa dứt lời, hồi lâu tôi không thấy gã đáp lại, chỉ nghe tiếng vó ngựa nện xuống con đường phố thị lát những viên đá xanh vuông vức phủ tuyết. Tuyết rơi dày, phủ một lớp mỏng xuống đường khiến ngựa không đi nhanh được, chỉ nhích từng bước.
|
Suốt dọc đường từ đó về đến chân tường phía nam của Đông cung, tôi kiên quyết không đếm xỉa tới Bùi Chiếu.
Nhưng tôi không hề hay biết chuyện về sau còn có nhiều biến hóa khôn lường. Cũng bởi bây giờ đang dịp giáp Tết, trong cung tất bật tổ chức lễ lạt, năm nay không có Hoàng hậu đứng ra thu vén nên bao nhiêu việc ập xuống đầu tôi. Tôi phải bái yết các mệnh phụ phu nhân cả đôi bên nội ngoại, rồi thì thiết yến… Mặc dù bây giờ, chuyện hậu cung tạm thời do Cao Quý phi tiếp quản, song nói gì thì nói, bà ấy cũng chỉ là quý phi. Vĩnh Nương bảo rằng, mọi người ai cũng thấp thỏm chờ mong đại lễ Nguyên thần, ai cũng đoán già đoán non không rõ Hoàng thượng có để Cao Quý phi đứng ra lo liệu hay không.
- Cao Quý phi sẽ lên làm hoàng hậu à?
Tôi biết không bao giờ Vĩnh Nương tùy tiện phát ngôn những chuyện như vậy, bà ấy kính cẩn nói:
- Nô tì không dám nói xằng. Thái tử phi chớ nên thắc mắc việc này, đây không phải là chuyện phận làm dâu có thể can dự.
Tôi thấy dạo gần đây mình cũng gặp rất nhiều chuyện phiền não, so với chuyện ai sẽ làm hoàng hậu còn phức tạp hơn nhiều. Chẳng hạn chuyện mới đây Triệu Lương đệ cắt xén chi tiêu của Tự Bảo lâm. Tự Bảo lâm này hiền lành nhưng đám cung nữ dưới trướng không phải dạng dễ bắt nạt, sảy ra tranh cãi, song vẫn bị đám cung nữ của Triệu Lương đệ đổ vạ, nói họ trộm đồ trong kho, toan tống khứ bọn họ khỏi Đông cung. Sau này Tự Bảo lâm đến than khóc với tôi, tôi cũng chẳng biết phải làm sao. Bảo tôi đi tìm lại sổ sách, tra xét thu chi, quyết tâm làm rõ chuyện này thì thà giết tôi đi còn hơn. Tôi đành dịu giọng vỗ về Tự Bảo lâm, song hai cung nữ kia vẫn bị đuổi khỏi Đông cung, tôi bèn sai Vĩnh Nương chọn hai cung nữ khác đến hầu hạ Tự Bảo lâm.
Ngoài mấy chuyện vặt vãnh trong Đông cung, còn một việc quan trọng hơn cả đó là Thái hoàng thái hậu đột ngột nhiễm thương hàn. Đợt ốm này không nặng nhưng mọi người trong cung được phen hết hồn hết vía, chung quy, Thái hoàng thái hậu cũng lên lão bảy mươi rồi. Ngày trước không cần tôi sớm chiều đến thình an, bây giờ quy định đổi khác, ngày nào cũng phải tới cung Thọ Ninh phụng dưỡng thuốc thang.
Lại thêm chuyện Lý Thừa Ngân bất cẩn bị trẹo cổ chân trong lúc cưỡi ngựa, đánh bóng. Tuy đi lại không bị ảnh hưởng lắm nhưng vết thương kia vừa lành chưa được bao lâu, giờ lại sảy ra cơ sự này khiến Hoàng thượng nổi trận lôi đình, triệu hắn đến, mắng cho một trận té tát. Rốt cuộc khi trở về Đông cung, chẳng hiểu Triệu Lương đệ đụng chạm gì khiến hắn thẳng tay tát cô ả một cú trời giáng. Phen này họa ập xuống tới tấp, Triệu Lương đệ tức tưởi ngồi khóc lóc ầm ĩ. Kẻ hầu người hạ xúm vào khuyên can hết lời, ả mới chịu thôi, nhưng tính khí Lý Thừa Ngân nào dễ cho qua, hắn phủi tay bỏ đi luôn, bẵng mấy ngày ở lì trong chính điện.
Mấy bận Vĩnh Nương khuyên tôi đi thăm Lý Thừa Ngân, tôi hiểu ý song vẫn mặc kệ.
Chẳng ngờ tôi không đi tìm hắn thì hắn lại mò tới chỗ tôi.
Tối hôm đó, những bông hoa tuyết lất phất bay, tiết trời giá lạnh, trong điện ủ lồng hương, thoang thoảng dễ dỗ giấc. Tôi nhanh chóng nằm ấm chỗ, bất thình lình Lý Thừa Ngân mò tới.
Hắn chỉ dẫn theo một viên nội quan, may nhờ A Độ tỉnh táo, không thì hắn leo lên giường lúc nào tôi cũng chẳng hay. A Độ lay tôi dậy cũng là lúc tôi đang ngon giấc, tôi ngáp dài, dụi mắt, mơ màng nhìn Lý Thừa Ngân.
- Chàng đến làm gì thế?
- Đến ngủ!
Hắn trả lời dấp dẳng, rồi ngồi xuống nhấc chân lên. Tên nội quan hầu hắn tháo giày, lại hầu hắn cởi áo, hắn phất tay, gã nọ thõng tay lui mất. A Độ lay tôi dậy xong, cũng biến mất đằng nào chẳng hay.
Tôi ngáp ngắn ngáp dài, lăn ra ngủ say như chết, nếu Lý Thừa Ngân không kéo mất cái chăn thì tôi cũng chẳng tỉnh.
Tôi mơ màng nhường nửa tấm chăn cho hắn. Hắn sáp lại gần, không hiểu ai đã cởi quần áo cho hắn, trên người chỉ mặc một bộ quần áo lụa mỏng. Cơ thể đàn ông nóng rực, ấm như lò than. Hắn duỗi tay, chèn dưới cổ tôi, dễ dàng ôm chặt rồi tiện thể kéo tôi vào lòng. Mặc dù nằm thế rất ấm nhưng tôi có cảm giác khó chịu, thiu thiu ngủ một lúc, cuối cùng không chịu được, bèn bảo:
- Đừng phà hơi sau gáy thiếp…
Hắn không nói gì, tiếp tục hôn lên gáy tôi. Như thể có con cún con đang cắn mình, cứ ngứa ngáy mà tê tê, tôi đẩy phắt hắn ra:
- Đừng cắn nữa, cứ cắn thế, thiếp không ngủ được.
Thay vì trả lời, hắn chuyển sang cắn vành tai tôi. Gì chứ tôi sợ nhất là buồn ở tai, cười ngặt nghẽo một lúc đã nhũn cả người, hắn tranh thủ kéo dây áo, tôi tỉnh ngủ ngay tức thì.
- Chàng làm gì thế?
Lúc Lý Thừa Ngân sấn tới hôn môi, tôi mới vỡ lẽ, bất thình lình tung cho hắn một cú đạp:
- Này!
Suýt thì hắn lộn cổ khỏi giường, mùng màn vắt ngang mặt, hắn vật lộn một hồi mới gỡ được đống nhùng nhằng ấy xuống, rồi bực dọc, trợn mắt với tôi:
- Nàng bị làm sao đấy?
- Chàng muốn… làm… việc kia… thì đi mà tìm Triệu Lương đệ ấy!
Đừng mơ tôi chịu làm thế thân cho Triệu Lương đệ. Tuy tôi thích Lý Thừa Ngân thật đấy nhưng còn lâu tôi mới đồng ý để hắn làm chuyện này với mình.
Lý Thừa Ngân chợt cười rộ lên:
- Thì ra là ghen!
Tôi trừng mắt:
- Ai ghen? Chàng bớt kiểu “tự làm tự chịu” đi!
Lý Thừa Ngân bắt bẻ tôi ngay lập tức:
- Là “tự mình đa tình” chứ!
Tôi lựa thành ngữ lúc nào cũng trật lất. Nhưng nghe hắn nói thế, tôi phấn khích hẳn lên:
- Chàng tự biết thế là tốt! Đi tìm Triệu Lương đệ của chàng đi, hoặc Tự Bảo lâm ấy, chắc hẳn người ta đang ngóng chàng lắm đấy!
- Còn nàng? Nàng không mong ta đến à?
- Thiếp có người mình thích rồi!
Trong lòng tôi chợt dâng nỗi chua xót ngậm ngùi, chẳng qua người tôi thích lại không thích tôi, hơn nữa, bây giờ tôi vẫn đang chống chế trước mặt chàng ta đây.
- Thiếp mong chàng đến làm gì! Thích ai, chàng cứ đi tìm người đó. Cứ cưới thêm tám hay mười Lương đệ, Bảo lâm nữa cũng được, thiếp không bao giờ để bụng.
Sắc mặt Lý Thừa Ngân sa sầm thấy rõ. Trước đây nhiều lần tôi nhắc đến Triệu Lương đệ nhưng mặt hắn cũng không khó đăm đăm thế này. Hồi lâu sau hắn bất ngờ buông tiếng cười khảy:
- Đừng tưởng ta không biết. Chẳng lẽ là Bùi Chiếu?
Tôi cứng họng nhìn hắn chằm chằm.
- Đừng quên mình là ai! Nàng là gái đã có chồng. À, ta biết rồi, đằng nào thì người Tây Lương các nàng cũng quen thói bại hoại rồi, bẽ mặt có là gì? Suốt ngày trốn khỏi cung, nhong nhong ngoài đường với Bùi Chiếu, có chút thể diện cũng không biết giữ!
Tôi không ngờ hắn lại biết chuyện tôi xuất cung, càng khó lường hơn là hắn tường tận cả việc tôi đi uống rượu với Bùi Chiếu. Tôi thẹn quá hóa giận:
- Chàng cưới hết người này đến người nọ thì còn nói ai! Thiếp ra ngoài chơi đấy nhưng chẳng làm chuyện gì xấu cả, vả lại giữa thiếp và Bùi Chiếu hoàn toàn trong sạch…
Hắn cười phá lên:
- Hẳn rồi. Bùi Chiếu có gan to bằng trời cũng chẳng dám nhập nhằng với nàng. Hơn nữa, hắn sắp lấy Lạc Hy rồi. Công chúa thiên triều chúng ta không giống loại con gái Tây Lương các nàng, thật là… sinh ra đã thích thói lông bông!
Nghe được mấy chữ cuối cùng, tôi nổi cơn tam bành, nhảy chồm lên vung tay tát hắn. Hắn nhanh nhẹn né được, cái tát sượt qua cằm. Người tôi run lên vì giận:
- Loại người suốt ngày léng phéng với cả đám con gái như chàng thì sao hả? Đã bao giờ ta thèm nói gì chưa? Ừ thì ta và Bùi Chiếu từng uống rượu với nhau vài lần đấy, chàng là cái thá gì mà dám vênh váo với ta? Con gái Tây Lương thì sao nào…? Hạng người như chàng cũng chỉ cậy đông hiếp yếu… Năm xưa, nếu phụ hoàng không ép cha ta phải cầu thân, liệu cha ta có nỡ để con gái đi lấy chồng ở nơi xa xôi thế này không? Chẳng qua là loại chó cậy gần nhà, bằng không ta thèm lấy chàng à? Đàn ông Tây Lương có ai thua chàng nào? Chàng tưởng ta thích lấy chàng lắm à? Tưởng ta thích làm Thái tử phi lắm à? Người ta thích ấy à, giỏi hơn chàng một nghìn, một vạn lần! Đến cọng tóc của người ta, chàng cũng không bì nổi…
Lý Thừa Ngân tức lắm, hắn chẳng thèm mặc áo đã hầm hầm lao xuống giường, sau đó đi thẳng ra cửa rồi quay ngoắt lại, nói:
- Nàng yên âm! Sau này ta không thèm đến nữa, cứ thoải mái tơ tưởng tới gã tốt hơn ta một nghìn, một vạn lần ấy đi!
Chắc hắn bực lắm, đến giày còn để lại đây, chẳng hiểu đi chân trần về kiểu gì nữa?
Tôi kéo chăn trùm kín đầu, bụng dạ cồn cào mãi không thôi. Tôi đuổi Lý Thừa Ngân đi, bởi tôi biết hắn thích Triệu Lương đệ. Tôi chẳng rộng lượng đến nỗi, biết rõ trái tim kia không có bóng dáng mình, song vẫn để hắn được thể gần gũi. Thà hắn cứ như trước kia, thờ ơ, lãnh đạm với tôi còn hơn. Phận nữ nhi đáng thương thế đấy, chỉ vì hắn đẩy tôi, đỡ hộ tôi một nhát kiếm của gã thích khách nọ mà đã khiến tôi liêu xiêu. Nếu hắn cứ ôn tồn, dịu dàng thế này, không biết chừng cả đời này tôi khó dứt được hắn. Lúc đó tôi sẽ đáng thương biết bao, ngày qua ngày mong chờ mòn mỏi, hy vọng hắn bố thì cho mình một cái nhìn, và rồi sẽ chẳng khác gì đám con gái Vĩnh Nương kể, ngày lại ngày ngong ngóng chờ mong… Ôi mòn mỏi…
Không thể để mình sa chân vào bước đường đáng thương ấy được…
Tôi ngồi thao thức tới khuya, sáng ra ngủ quên, may có Vĩnh Nương gọi dậy. Tôi vội vàng chải đầu, thay quần áo rồi vào cung. Dạo gần đây, tình hình sức khỏe của Thái hoàng thái hậu đã ngày một tốt lên, thấy tôi tới, người phấn khởi ban một bát cháo giống người đang ăn.
Chẳng hiểu bát cháo ấy bỏ gì mà có vị lờ lợ, tôi nuốt mấy thìa mà bụng dạ cồn cào, vô cùng khó chịu.
Thấy mặt mày tôi kém tươi tỉnh, Vĩnh Nương vội vàng dâng trà. Bụng dạ cồn cào rất khó chịu, tôi không thiết uống trà, thì thào với Vĩnh Nương:
- Ta buồn nôn…
Thái hoàng thái hậu đã bước sang tuổi bảy mươi song tai vẫn rất thính, tôi nói nhỏ thế mà người vẫn nghe được:
- Hả? Buồn nôn à?
Không đợi người ra lệnh, đám cung nữ đã xúm lấy, cần ống súc miệng, có ống súc miệng, cần nước có nước, cần khăn bông có khăn bông, người vỗ vai, kẻ dâng lồng hương. Ở cung Thái hoàng thái hậu quen dùng long diên hương, ngửi mùi ấy tôi cứ thấy lợm giọng, nhất là khi lồng hương để sát bên người, khói sộc thẳng vào mũi, tôi không kìm được nhưng chẳng nôn được gì ngoài ít nước. Vĩnh Nương bưng hoa lộ cho tôi súc miệng. Sau phen sốt vó ấy, Thái hoàng thái hậu nôn nóng giục giã:
- Mau tuyên ngự y!
- Ấy, dạ thôi…
Chắc tại đêm qua bị nhiễm lạnh đây mà. Lý Thừa Ngân bỏ đi xong, tôi ngồi bần thần tới khuya, quên không đắp chăn. Sáng dậy thấy bụng đau âm ỉ, bây giờ đã chuyển sang tưng tức. Tôi thưa:
|