Làm Dâu Cõi Chết
|
|
2 Tôi cố sức gạt lời đề nghị của nhà họ Lim ra khỏi đầu. Vì dẫu sao, chẳng ai muốn một lời cầu thân đầu đời như thế cả. Tôi biết rồi một ngày tôi sẽ phải kết hôn, và ngày đó ngày càng gần, nhưng cuộc sống hiện tại vẫn thoải mái lắm. So với Trung Hoa, nếp sống ở Malaya đã bớt gò bó hơn nhiều. Phụ nữ gốc Hoa sinh ra ở đây đều không phải bó chân. Những dân tộc khác thấy tục bó chân kì quặc và xấu xí, nó khiến phụ nữ trở thành tàn tật, thậm chí không còn đủ sức làm việc nhà. Người Hoa xuất hiện ở Malacca này trước cả khi Bồ Đào Nha đặt chân leen đây vào ba trăm năm trước, song những ngời gốc Hoa đầu tiên bôn ba sang đây làm ăn lại không hề mang theo phụ nữ. Vài người trong số họ lấy vợ người Mã Lai, và sự pha trộn giũa hai dòng máu tạo thành tộc người Peranakan. Về sau dân nhập cư đem theo phụ nữ già nua, đã ly hôn hoặc góa bụa từ quê nhà sang, vì ngoài những người này, chẳng ai bằng lòng lênh đênh trên chuyến đi dài lê thê đầy hung hiểm. Thế nên ỏ đây chúng tôi sống khá thoáng, những cô gái chưa chồng con nhà gia giáo vẫn có thể đi lại ngoài phố, tất nhiên là đi với người giám hộ. Dù cha dành niềm đam mê bất tận cho văn hóa Trung Hoa, nhưng thực tế, Đế quốc Anh mới là giai cấp thồng trị ở Malacca. Họ đặt ra luật pháp và thể chế, thiết lập cơ quan công quyền và mở trường học dạy tiếng anh cho người bản địa. Hầu hết nam thanh niên ở đây đều mơ ước được trở thành viên chức nhà nước để phục vụ cho mẫu quốc. Tôi thắc mắc điều gì đã xảy ra với anh chàng Lim tian Ching yểu mệnh, liệu anh ta có từng mơ ước trở thành viên chức hay không, hay công việc ấy chỉ là hạng tép riu đối với một người thừa kế giàu có. Cha anh ta nổi danh là vì sở hữu hàng loạt mỏ thiếc cùng rất nhiều đờn điền cao su, cà phê. Tôi cũng tự hỏi lí do khiến cho gia đình đó tiếp cận cha, tôi thực sự không hề quen biết đứa con xấu số của họ. Suốt vài ngày tiếp theo, tôi tìm mọi cách để cha kể thêm về cuộc trò chuyện với nhà họ Lim, nhưng cha chẳng hé nửa lời, chỉ tự ẩn mình trong thư phòng, mà tôi dám chắc là để hút thuốc phiện. Cha có phần ngượng ngập, như thể hối hận vì đã kể điều đó với tôi. Vú cũng không để cha yên. Không có gan thể hiện ra mặt, vú bèn quanh quẩn với cây phất trần, đập bên nọ phẩy bên kia, lẩm bẩm càu nhàu. Bất lực vì sự dồn ép của vú, cuối cùng cha phải chọn cách phủ một tờ báo lên mặt, giả vờ ngủ. Mọi chuyện tiếp diễn như thế, làm tôi tưởng sự việc kia đã trôi qua. Thế nhưng vài ngày sau, chúng tôi nhận được tin từ nhà họ Lim. Đích thân Lim phu nhân có lời mời tôi đến chơi mạt chược. "Ơ, cháu không biết chơi ạ.'' Tôi buột miệng trước khi kịp ngăn mình lại. Người hầu được cử sang mỉm cười nói rằng tôi vẫn có thể đến, ngồi xem cũng được. Mà quả thật tôi cũng rất muốn xem bên trong dinh thự nhà họ Lim như thế nào. Mặc dù tỏ vẻ nhăn nhó, nhưng vú lại nhặng xị lên chuyện trang phục và đầu tóc của tôi. Vú vốn thích can dự vào chuyện người khác, nên được chính ta bà nuôi nấng, e rằng tôi cũng nhiễm một phần tính cách ấy. "Này! Nếu đằng nào cũng phải đi thì đừng để họ coi thường mình!'' Vú nói và lấy ra chiếc váy đẹp thứ nhì của tôi. Tôi có hai chiếc váy đẹp: một chiếc dệt bằng tơ mỏng màu tử đinh hương thêu hoa bìm bịp trên cổ và tay áo, một chiếc màu lục nhạt với họa tiết bươm bướm. Cả hai chiếc đều do mẹ tôi để lại, đã từ rất lâu rồi tôi không có quần áo mới. bình thường tôi hay mặc những chiếc xường xám thô dài rộng rãi hoặc sam foo (loại trang phục chỉ dành cho các cô gái lao động). Thế nên khi nào hai chiếc áo kia sờn rách tôi sẽ tháo phần cổ và tay thêu họa tiết ra để đính vào những chiếc khác. "Nên chải tóc kiểu gì cho cô bây giờ nhỉ?" Vú băn khoăn, quên ráo rằng vừa nãy còn gay gắt phản đối cuộc viếng thăm. Tóc tôi thường tết thành hai bím gọn gàng, nhưng vào những dịp đặc biệt, vú sẽ bới cao tóc tôi lên và cài châm lên. Những lúc ấy đầu tôi sẽ đau điếng vì vu sẽ siết chặt tay, đảm bảo rằng không một sợi tóc nào được sổ ra ngoài. Bước lùi ra sau, vú ngắm nghía tác phẩm của mình, rồi cài lên tóc tôi vài cây trâm vàng đính bươm bướm bằng ngọc. Sau đó vú đeo vào cổ tôi năm sợi dây chuyền: hai sợi vàng, một sợi mặt đính hồng ngọc lựu, một sợi mặt đính ngọc nước ngọt*, cuối cùng la một sợi xỏ qua miếng ngọc bội lớn. Tất cả đều là trang sức mẹ để lại.( ngọc trai nước ngọt, nuôi ở sông hồ. Kích thước từ rất nhỏ đến trung bình với đường kính khoảng 4-6 mm) Tôi muốn gãy cổ đến nơi vì đeo nhiều vòng như vậy, nhưng thế vẫn chẳng là gì so với vòng vèo những người giàu có hay đeo. Phụ nữ chỉ có mấy món trang sức phòng thân, nên ngay cả những người nghèo nhất ở đây cũng đeo vòng, nhẫn hay khuyên tai vàng như của để dành. Còn những người giàu có... Chà, tôi chờ xem Lim phu nhân ăn vận thế nào. Nhà họ Lim ở vùng ngoại ô, cách biệt hẳn với các khu sầm uất ở phố Jonker và Heeren, nơi các cửa hiệu Hà Lan cũ đã được sang tay cho đám nhà buôn giàu có người Hoa. Tôi nghe nói họ Lim cũng có nhiều sản nghiệp như vậy, nhưng tư gia chính của họ đã chuyển sang khu Klebang, không xa nhà tôi lắm và ở gần các dinh cơ mới đang ngày ngày mọc lên của giới nhà giàu. Khác với các biệt thự hay nhà nhỏ một tầng của người Âu, nghe đồn tư gia này vô cùng rộng lớn với rất nhiều kẻ hầu người hạ, chuồng trại gia súc với những bãi cỏ trải dài xanh rì bát ngát, tóm lại là theo đúng phong cách Trung Hoa: nguy nga, đường bệ. Vú gọi kéo xe, mặc dù tôi nghĩ như thế thật là hoang phí vì chúng tôi hoàn toàn có thể đi bộ. Nhưng vú bảo, đường cũng khá xa, đến đó trong bộ dạng ướt mồ hôi và lấm lem thì thật chẳng ra làm sao. Chúng tôi khởi hành vào lúc ánh dương đang tàn dần. Hơi nóng bốc lên từ mặt đất hòa cùng tầng tầng bụi mù trắng xóa. Phu xe chạy nhịp nhàng, mồ hôi chảy thành dòng trên lưng. Tôi thấy thương cho dân cu li, họ phải vắt kiệt sức mình để kiếm sống, công việc này vất vả quá đỗi, cho dù khá hơn thợ mỏ thiếc, nghe đồn nghề ấy đi hai thì chỉ một người sống sót trở về. Những người phu xe thường gầy trơ xương, ngực lõm xuống, da dẻ dày cứng như da thuộc, bàn chân trần đầy chai sạn chẳng khác nào móng ngựa. Nhưng cách những người xa lạ ấy nhìn tôi chằm chằm làm tôi khó chịu. Tất nhiên, tôi chẳng bao giờ ra ngoài một mình, và hễ ra đường đều phải khuất mặt dưới tán dù bằng giấy dầu. Tôi chẳng có thời gian nghĩ ngợi thêm nữa, vì xe đã dừng trước phủ họ Lim. Vú dặn phu xe đợi ở ngoài, còn tôi nhìn đăm đăm cánh cửa gỗ lim đang từ từ mở ra mà khong gây một tiếng động, bên kia cánh cửa là một người hầu đứng im phăng phắc. Chúng tôi băng qua khu vườn có những chậu sứ to trông hoa giấy bày thành hành lang đẹp mắt. Tính riêng số chậu đã đắt giá lắm rồi, chúng được chuyển từ Trung Hoa sang, được nhét đầy lá trà để tránh sứt mẻ. Men lam trắng ánh lên trong veo giống món đồ sứ nhỏ mà cha tôi vẫn lưu giữ. Đồ sứ quý báu nhường này mà để dầm mưa dãi nắng ngoài trời, tôi thật ấn tượng về sự giàu có của họ. Hoặc đó chính là điều họ muốn. Chúng tôi đứng đợi ở tiền sảnh rộng rãi trong khi người hầu vào bẩm báo. Sàn nhà lát gạch đen trắng như bàn cờ, cầu thang có lan can bao quanh, và cơ man nào là đông hồ. "Nên chải tóc kiểu gì cho cô bây giờ nhỉ?" Vú băn khoăn, quên ráo rằng vừa nãy còn gay gắt phản đối cuộc viếng thăm. Tóc tôi thường tết thành hai bím gọn gàng, nhưng vào những dịp đặc biệt, vú sẽ bới cao tóc tôi lên và cài châm lên. Những lúc ấy đầu tôi sẽ đau điếng vì vu sẽ siết chặt tay, đảm bảo rằng không một sợi tóc nào được sổ ra ngoài. Bước lùi ra sau, vú ngắm nghía tác phẩm của mình, rồi cài lên tóc tôi vài cây trâm vàng đính bươm bướm bằng ngọc. Sau đó vú đeo vào cổ tôi năm sợi dây chuyền: hai sợi vàng, một sợi mặt đính hồng ngọc lựu, một sợi mặt đính ngọc nước ngọt*, cuối cùng la một sợi xỏ qua miếng ngọc bội lớn. Tất cả đều là trang sức mẹ để lại.( ngọc trai nước ngọt, nuôi ở sông hồ. Kích thước từ rất nhỏ đến trung bình với đường kính khoảng 4-6 mm) Tôi muốn gãy cổ đến nơi vì đeo nhiều vòng như vậy, nhưng thế vẫn chẳng là gì so với vòng vèo những người giàu có hay đeo. Phụ nữ chỉ có mấy món trang sức phòng thân, nên ngay cả những người nghèo nhất ở đây cũng đeo vòng, nhẫn hay khuyên tai vàng như của để dành. Còn những người giàu có... Chà, tôi chờ xem Lim phu nhân ăn vận thế nào. Nhà họ Lim ở vùng ngoại ô, cách biệt hẳn với các khu sầm uất ở phố Jonker và Heeren, nơi các cửa hiệu Hà Lan cũ đã được sang tay cho đám nhà buôn giàu có người Hoa. Tôi nghe nói họ Lim cũng có nhiều sản nghiệp như vậy, nhưng tư gia chính của họ đã chuyển sang khu Klebang, không xa nhà tôi lắm và ở gần các dinh cơ mới đang ngày ngày mọc lên của giới nhà giàu. Khác với các biệt thự hay nhà nhỏ một tầng của người Âu, nghe đồn tư gia này vô cùng rộng lớn với rất nhiều kẻ hầu người hạ, chuồng trại gia súc với những bãi cỏ trải dài xanh rì bát ngát, tóm lại là theo đúng phong cách Trung Hoa: nguy nga, đường bệ. Vú gọi kéo xe, mặc dù tôi nghĩ như thế thật là hoang phí vì chúng tôi hoàn toàn có thể đi bộ. Nhưng vú bảo, đường cũng khá xa, đến đó trong bộ dạng ướt mồ hôi và lấm lem thì thật chẳng ra làm sao. Chúng tôi khởi hành vào lúc ánh dương đang tàn dần. Hơi nóng bốc lên từ mặt đất hòa cùng tầng tầng bụi mù trắng xóa. Phu xe chạy nhịp nhàng, mồ hôi chảy thành dòng trên lưng. Tôi thấy thương cho dân cu li, họ phải vắt kiệt sức mình để kiếm sống, công việc này vất vả quá đỗi, cho dù khá hơn thợ mỏ thiếc, nghe đồn nghề ấy đi hai thì chỉ một người sống sót trở về. Những người phu xe thường gầy trơ xương, ngực lõm xuống, da dẻ dày cứng như da thuộc, bàn chân trần đầy chai sạn chẳng khác nào móng ngựa. Nhưng cách những người xa lạ ấy nhìn tôi chằm chằm làm tôi khó chịu. Tất nhiên, tôi chẳng bao giờ ra ngoài một mình, và hễ ra đường đều phải khuất mặt dưới tán dù bằng giấy dầu. Tôi chẳng có thời gian nghĩ ngợi thêm nữa, vì xe đã dừng trước phủ họ Lim. Vú dặn phu xe đợi ở ngoài, còn tôi nhìn đăm đăm cánh cửa gỗ lim đang từ từ mở ra mà khong gây một tiếng động, bên kia cánh cửa là một người hầu đứng im phăng phắc. Chúng tôi băng qua khu vườn có những chậu sứ to trông hoa giấy bày thành hành lang đẹp mắt. Tính riêng số chậu đã đắt giá lắm rồi, chúng được chuyển từ Trung Hoa sang, được nhét đầy lá trà để tránh sứt mẻ. Men lam trắng ánh lên trong veo giống món đồ sứ nhỏ mà cha tôi vẫn lưu giữ. Đồ sứ quý báu nhường này mà để dầm mưa dãi nắng ngoài trời, tôi thật ấn tượng về sự giàu có của họ. Hoặc đó chính là điều họ muốn. Chúng tôi đứng đợi ở tiền sảnh rộng rãi trong khi người hầu vào bẩm báo. Sàn nhà lát gạch đen trắng như bàn cờ, cầu thang có lan can bao quanh, và cơ man nào là đông hồ.
|
Đôi lúc, Lim phu nhân quay sang thầm thì với tôi. Giọng bà nhẹ đến mức thật ra tôi chẳng nghe thấy gì mấy. Tôi khẽ cười và gật đầu, mắt thì nhìn quanh với sự tò mò không giấu giếm. Tôi hiếm khi được ra ngoài thăm thú. Nếu mẹ còn sống, tôi sẽ ngồi cạnh bà như thế này, nhìn trộm qua vai bà những quân mạt chược bằng ngà và nghe lỏm mấy câu chuyện dư trà tửu hậu. Đám phụ nữa thêm gia vị cho cuộc trò chuyện bằng cách kín đáo nhắc đến những nhăn vật, địa điểm quan trọng. họ vô tình nhắc đến một vụ nợ nần cờ bạc nghe chừng khá rùm beng. Lim phu nhân có lẽ đoán được rằng tôi khá ngây ngô, hoặc ít ra cũng không tinh ý lắm. Tôi bắt gặp ánh mắt sắc bén của bà đôi khi liếc nhìn mình. Kì lạ ở cĩ, biểu hiện của tôi có vẻ khiến bà yên tâm. Nhưng mãi về sau tôi mới hiểu vì sao bà vừa lòng với sự vụng dại đó. Xung quanh tôi, các quý bà trò chuyện rôm rả và đặt cửa, lắc vàng lắc ngọc tinh tang mỗi khi họ xuống bài. Bà ba đã chuyển sang chơi bàn khác, thật đáng tiếc vì tôi vẫn đang muốn ngắm nhìn bà thêm chút nữa. Bà rất đẹp, tuy nổi danh khắt khe, theo như vú nghe đám người hầu nói trước đó. Tôi không thấy bóng dáng bà hai đâu. Nghe đồn rằng Lim lão gia, với đặc quyền của một đại gia giàu sang quyền quý, còn nuôi thêm rất nhiều vợ lẽ nàng hầu mà chẳng buồn cưới xin. Ông có bốn người con gái khác mẹ nhưng lại chẳng còn mụn con trai nào. Hai người con trai chết ngay khi mới lọt lòng, còn người cuối cùng, Lim Tian Ching, thì được chôn cất từ chưa đầy một năm trước. Tôi từng hỏi vú tại sao anh ta chết, nhưng vú nhất quyết không trả lời, và bảo rằng chẳng có lí do gì tôi phải biết, vì đằng nào cô cũng không lấy anh ta. Và thế là, người thừa kế duy nhất trong nhà bây giờ là người cháu họ của Lim lão gia. "Thật ra theo lí cậu ấy mới đúng là người thừa kế. " Vú đã nói như vậy trên đường đến đây. "Là sao ạ ?" "Cậu ấy là người con trai cả của Lìm lão già. Lão gia chỉ là con thứ. Ông ấy tiếp quản cơ ngơi khi anh trai mình qua đời, và hứa sẽ nuôi dạy con trai của anh trở thành người thừa kế. Năm tháng qua đi, người ta đồn rằng Lim lão gia không muốn con mình phải chịu thiệt. Nhưng giờ có nói thì cũng để làm gì? Lão gia chẳng còn đứa con trai ruột nào nữa rồi." Chẳng hiểu sao càng nghe những câu chuyện rối ren ấy tôi lại càng thích thú. Đó là thế giới phù hoa đầy lôi cuốn. Giống miêu tả trong những cuốn tiểu thuyết rẻ tiền mà cha tôi thường chê thẳng thừng. Tất nhiên vú cũng một mực phản đối, dù rằng tôi biết bà cũng rất ham mê, vì nó là một thế giới khác hoàn toàn so với gia cảnh nghèo túng của chúng tôi. Cả nhà tằn tiện năm này qua năm khác dùng đi dùng lại đồ cũ và đừng mơ đến những thứ đồ mới mẻ đẹp đẽ. Điều đáng buồn nhất là cha chẳng biết làm gì hết. Ông không còn ra ngoài kiếm mối giao thương hay quản lí việc làm ăn. Ông từ bỏ tất cả, nhốt mình trong phòng, chép đi chép lại những áng thơ yêu thích hoặc sáng tác những bài luận mơ hồ. Cuối cùng, chính chúng tôi cũng bị gian hãm cùng ông. "Trông con hơi buồn." Giọng Lim phu nhân làm tôi bừng tỉnh. Có vẻ không gì qua được mắt bà. Màu mắt bà hơi nhạt so với màu mắt người Hoa, đồng tử nhỏ và tròn xoe như mắt chim. Tôi hơi đỏ mặt. "dinh thự náo nhiệt hơn nhiều so với nhà con ạ." "Thế con có thích ở đây không?" Bà hỏi. Tôi gật đầu. "Nói ta nghe xem, con có người thương chưa?" "Chưa ạ." Tôi cúi gằm mặt nhìn chăm chăm tay mình. "À, một cô gái trẻ đúng là không nên nói nhiều." Bà thoáng cười, "Con à, ta hy vọng con không thấy phiền vì ta hỏi quá nhiều. Con làm ta nhớ đến mẹ con, và cả ta khi còn son rỗi." Tôi cố kìm lại để không hỏi về những cô con gái của bà. Có vài thiếu nữ ngồi ở bàn khác, nhưng tôi được giới thiệu nhanh tới nỗi chẳng nhớ được ai là cháu gái, ai là bạn hay tiểu thư nhà này. Hội mạt chược vẫn tiếp tục, vì không biết chơi, một lúc sau tôi đã thấy hơi chán. Khi tôi xin phép đi rửa tay, Lim phu nhân vẫy tay gọi một người hầu tới hộ tống. Bà đang chơi dở một ván gay cấn, và tôi hy vọng bà cứ tập trung như thế một lúc nữa. Người hầu dẫn tôi đi qua vài khúc quanh, đến một cánh cửa bằng gỗ dầu nặng trịch. Khi đã xong, tôi hơi hé cửa. Người hầu vẫn bình tĩnh đợi bên ngoài. Đúng lúc này có tiếng gọi từ cuối hành lang, người hầu liếc nhìn cánh cửa nơi tôi đang đứng, rồi chạy vội đi trả lời. Hơi hồi hộp tôi lẻn ra ngoài. Ngôi nhà có nhiều phòng, nhìn ra những khoảng sân xinh xinh. Tôi đi qua một phòng khách nhỏ, rồi đi qua một phòng khách khác có bàn đá cẩm thạch, đang bày biện đồ ăn. Nghe thấy tiếng nói, tôi vội rẽ xuống một hành lang dẫn ra khoảnh sân có ao nhỏ, trên mặt là những bông hoa sen trắng sứ nghiêng đầu phủ bóng xuống những phiến lá xanh. Sự tĩnh lặng mơ màng tràn ngập khắp không gian. Tôi biết mình phải trở về trước khi có người đi tìm, nhưng không nỡ cất bước. Đang mải ngắm những đài sen trông như vòi ô doa, tôi chợt nghe thấy tiếng tinh tang của kim loại. Có khi tôi đã quay về chỗ bày đồng hồ lúc nãy. Đi gần tới đó, tôi lén nhìn vào một căn phòng trông như một thư phòng. Cánh cửa mở hướng ra sân, nhưng bên trong vẫn tối tăm lạnh lẽo. Trong khoảnh khắc mắt nhập nhèm vì chưa quen với thay đổi ánh sáng, tôi vấp phải một người đang làm việc bên bàn. Đó là một chàng trai trẻ mặc bộ đồ tuềnh toàng bằng vải thô màu chàm. Những bánh răng và trục quay nhỏ nằm la liệt trên bàn và dưới đất, lăn cả vào góc phòng. "Xin lỗi tiểu thư..." Anh ngẩng đầu lên nhìn tôi với vẻ hối lỗi. "Tôi nghe thấy tiếng chuông ngân." Tôi ngượng ngùng, ra sức giúp anh thu dọn. "Cô cũng thích đồng hồ à?" "Tôi chẳng biết gì nhiều về chúng." "À, nếu không có những bánh răng, và cả những thứ này nữa, đồng hồ sẽ không hoạt động được." Anh thu dọn những linh kiện sáng bóng bên trong một chiếc đồng hồ bỏ túi bằng đồng, dùng nhíp gắp hai bánh răng bé tí xíu rồi đặt chúng cạnh nhau. "anh có sửa được không?" Lẽ ra tôi không nên nói chuyện với một chàng trai trẻ, dù chỉ là một người ở đi nữa, nhưng anh lại bắt đầu chúi đầu vào công việc khiến tôi nhẹ nhõm hẳn. "Tuy không phải chuyên gia nhưng tôi có thể lắp lại. Ông nội tôi đã dậy tôi." "Một kĩ năng hữu ích đấy nhỉ." Tôi đáp. "Anh nên mở một cửa tiệm riêng." Nghe vậy, anh ngước lên nhìn tôi với vẻ giễu cợt, rồi mỉm cười. Khi cười, hai hàng lông mày rậm của anh nhíu lại, khóe mắt anh có vài nếp nhăn. Tôi thấy má mình thoáng nóng rực. "Anh thường vệ sinh toàn bộ số đồng hồ này à?" "Thỉnh thoảng. Còn thì tôi chủ yếu lo liệu sổ sách cùng vài việc lặt vặt." Anh nhìn thẳng vào tôi. "Tôi đã thấy cô đứng cạnh ao sen lúc nãy." "Thế à?" Để giấu nỗi ngượng ngùng, tôi hỏi. "Tại sao ngôi nhà này lại có nhiều đồng hồ đến vậy?" "Có người nói đó là một thú vui, đúng hơn đó là nỗi ám ảnh của lão gia quá cố. Ông là người sưu tập tất cả những chiếc đồng hồ này. Ông không ngừng tìm kiếm cho đến khi tậu được một loại đồng hồ mới." "Sao ông lại hứng thú với đồng hồ đến vậy?" "À, đồng hồ cơ học chính xác hơn hẳn đồng hồ nước vốn chỉ giờ bằng cách nhỏ từng giọt nước, hay chỉ giờ bằng nến vốn dùng sáp để đánh dấu mốc thời gian. Đồng hồ phương tây chính xác đến độ có thể dùng xác định kinh độ khi lái tàu, thay vì chỉ dựa vào vĩ độ. Cô có biết là gì không?" Thực tế tôi có biết. Cha từng giải thích với tôi rằng, vị trí trên hải đồ được xác định bằng cả chiều ngang lẫn chiều dọc. "Vậy trước đây, chúng ta không thể lái tàu theo kinh độ hay sao?" "Không thể, trong quá khứ các tuyến đường biển quan trọng đều được định vị theo vĩ độ. Bởi đó là cách dễ nhất đánh dấu đường đi. Nhưng hãy thử tưởng tượng nếu cô đang lênh đênh trên biển, tất cả những gì cô có là một chiếc kính lục phân và một cái la bàn. Cô cần biết chính xác bây giờ là mấy giờ để xác định vị trí mặt trời. Đó là lí do tại sao đồng hồ lại thực sự diệu kì. Nhờ đồng hồ mà người Bồ Đào Nha đã vượt biển sang tận nửa kia của thế giới." "Tại sao chúng ta không làm làm thế?" Tôi hỏi, "Tại sao chúng ta không xâm lược họ trước khi họ đặt chân đến Malaya?" "À, Malaya chỉ là một vùng đất lạc hậu và bị cô lập. Nhưng Trung Hoa đã làm thế đấy. Hải đội nhà Minh từng đi thuyền sang tận châu Phi, chỉ dựa vào vĩ độ và đám hoa tiêu am tường vùng biển." "Đúng rồi." Tôi hào hứng đáp lại. "Họ thậm chí từng đem một con hươu cao cổ về dâng hoàng đế. Nhưng ngài chẳng có hứng thú gì với vùng đất hoang vu đó." "Và bây giờ Trung Hoa đang suy vi, và Malaya chỉ là một trong các thuộc địa của phương Tây." Lời anh nói thấm chút cay đắng, làm tôi khá tò mò vì tóc anh được cắt ngắn chứ không cạo trọc hay để đuôi sam dài, kiểu tóc mà người Hoa vẫn giữ gìn ngay cả khi xa rời tổ quốc. Mái đầu này cho thấy anh thuộc tầng lớp mạt hạng nhất hoặc đơn giản muốn phá bỏ truyền thống. Nhưng anh chỉ cười, "Còn nhiều điều phải học hỏi người Anh lắm." Tôi muốn hỏi anh thêm nữa, nhưng chợt nhớ ra mình đã đi quá lâu. Dẫu anh hết sức lịch thiệp thì vẫn thật không hay khi nói chuyện với một chàng trai trẻ, dù chàng trai đó là người ở đi nữa. "Tôi phải đi rồi." "Từ từ đã tiểu thư, cô có biết mình đang đi đâu không?"
|
"Lúc nãy tôi ở chỗ chơi mạt chược." "Tôi đưa cô về nhé?" Anh dợm đứng dậy khỏi bàn, và tôi không thể không nhận thấy cử động của anh ta thật thanh thoát. "Không, không cần đâu." Càng nghĩ về hành động của mình, tôi càng thấy xấu hổ và đoán chắc rằng mọi người đang hớt hải tìm mình. Tôi gần như chạy khỏi phòng. Lướt qua vài đoạn hành lang, tôi nhận ra mình đang ở phần khác của ngôi nhà. Nhưng rốt cuộc tôi vẫn còn may chán,. Đang tần ngần đứng đó thì cô người hầu dẫn tôi đi rửa tay lúc nãy lại xuất hiện. "Ôi tiểu thư", cô nói, "Tôi đi một lúc quay lại đã không thấy cô đâu." "Thật xin lỗi." Tôi đáp, vuốt thẳng sống áo. "Tôi đi lạc mất." Chúng tôi đi lại phòng mạt chược, cuộc chơi vẫn đang tiếp diễn. Tôi ngồi vào chỗ, nhưng Lim phu nhân dường như không để ý. Từ số phỉnh chất đống lớn trước mặt bà, có thể đoán được bà đang thắng lớn. Được một lúc, tôi khách sáo xin phép ra về, nhưng bất ngờ thay, Lim phu nhân đứng dậy tiễn tôi. Trên đường ra cổng chính, chúng tôi đi qua một người hầu đang sắp vàng mã để chuẩn bị đốt trong sân. Vàng mã là những hình nộm nhỏ bện bằng dây và giấy màu sặc sỡ gửi xuống âm tào địa phủ cho người chết: nào là ngựa, xe, lầu gác, người hầu, thức ăn, hàng xấp tiền âm phủ thậm chí cả đồ nội thất, tất cả đều làm bằng giấy. Có phần kì quặc khi nhìn thấy đồ vàng mã vòa lúc này, vì chúng thường chỉ được chuẩn bị khi có tang hoặc vào tiết Thanh minh. Thật ra những người sùng tín vẫn đốt vàng mã quanh năm để kính dâng tỏ tiên mà chẳng cần vào dịp nào cả, vì thiếu chúng , người đã khuất chỉ là kẻ ăn xin nơi địa phủ. Ai không có con cháu nhang khói hay không được chôn cất tử tế thì mãi mãi là ma đói lanng thang, không thể đầu thai. Chỉ đến tiết Thanh minh, khi thiên hạ tế lễ cho cô hồn dã quỷ thì những linh hồn tội nghiệp ấy mới nhận được chút ít. Tôi vốn sợ hãi chuyện ma mọi địa phủ nên chỉ liếc thật nhanh đống vàng mã, dù chúng được làm rất công phu với màu sắc bắt mắt và kiểu dáng y như thật. Bước đi bên cạnh Lim phu nhân, tôi lén ngắm nghía bà. Khoảnh sân sáng trưng soi rõ bọng mắt to và cặp má hơi xệ của bà. Trông bà có vẻ mệt mỏi khó tả, mặc dù có vẻ bà đang gồng mình chống lại sự yếu đuối ấy. "Cha con dạo này sao rồi?" Bà hỏi. "Ông ấy khỏe ạ, cảm ơn dì." "Ông ấy có kế hoạch gì cho con chưa?" Tôi nghiêng đầu, "Con chưa thấy cha nói gì ạ." "Nhưng con đã đến tuổi cập kê rồi. Một cô gái như con ắt phải có nhiều người muốn dạm hỏi." "Không đâu dì à. Cha con gần như sống ẩn dật ấy mà." Và chẳng còn giàu có nữa, tôi thầm nhủ. Lim phu nhân thở dài. "Ta nhờ con một việc nhé." Tai tôi vểnh lên, nghe một yêu cầu có vẻ vô hại nhưng hết sức lạ lùng. "Con cho ta một chiếc nơ kẹp trên tóc được không? Ta muốn phối nó với chiếc áo baju mới." "Vâng, tất nhiên được ạ." Tôi tháo chiếc nơ khỏi đầu. Nó chẳng có gì đặc biệt, một màu hoonhf hết sức bình thường nhưng tôi nào dám trái ý bà? Bà nắm lấy nó, bàn tay hơi run. "Dì vẫn ổn chứ ạ?" Tôi lấy can đảm hỏi thăm. "Dạo này ta thấy hơi khó ngủ." Bà đáp bằng chất giọng nhẹ bẫng. "Nhưng ta nghĩ sẽ qua nhanh thôi." Chúng tôi vừa yên vị trên xe kéo, vú đã bắt đầu quở trách, "Sao cô cư xử khó ưa thế? Ăn hết thức này đến món khác rồi ngồi đực mặt ra, chẳng biết mắt với miệng cô cái nào lớn hơn nữa! có khi họ coi cô như con ngỗng cũng nên. Sao cô không lấy lòng phu nhân, kể ra vài chuyện hay ho rồi tang bốc bà ấy? Trời, cô cư xử như một con bé nhà quê chứ không phải tiểu thư nhà họ Pan!" "Vú cũng có bảo con dễ ưa bao giờ đâu!" Tôi đáp, thấy hơi phật ý, mặc dù vẫn còn may là bà xuống bếp đúnglúc tôi đi dạo loanh quanh. "Dễ ưa á? Cô vốn dễ ưa đấy chứ. Cô biết cắt những con bướm giấy và ngâm thơ sớm hơn tất cả những đứa trẻ trong phố. Vú chẳng nói vì không muốn con được chiều quá sinh hư thôi."' Lại là lí thuyết điển hình của vú. Nhưng đầu bà đàn sôi sục những lời bàn tán nghe được ơ dưới bếp nên dễ dàng bị đánh lạc hướng, nhất là khi tôi kể đến việc Lim phu nhân muốn lấy một chiếc nơ trên đầu tôi. "Hỏi cái nơ thì cũng kì quá nhỉ, bà ấy không may quần áo mới suốt mấy tháng trời rồi. Có thể khi hết kì chịu tang, họ sẽ tổ chức hôn lễ cho người cháu trai." "Anh ta chưa kết hôn ạ?" "Còn chưa hứa hôn bao giờ. Họ nói rằng đáng lẽ lão gia phải tìm ý trung nhân cho cậu ấy trước, nhưng ông ta gác lại để tìm đám tốt cho con trai mình đã." "Thật bất công." "Ôi chao, đời là thế mà! Bây giờ con trai đã chết, họ lại thấy tội lỗi vì đã không lo cho cháu sớm. Họ muốn mau chóng có người thừa kế. Người cháu này mà chết thì chẳng có ai thừa kế cả." Tôi khá hứng thú với câu chuyện nhưng vẫn vẩn vơ nghĩ về cuộc gặp gỡ hồi chiều. "Vú à, ai trông coi những chiếc đồng hồ trong nhà đó vậy?" "Đồng hồ á? Một kẻ hầu người hạ, vú đoán vậy. Sao cô lại muốn biết?" "Con chỉ tò mò thôi." "Cô biết không, đám người hầu kẻ hạ thì thào rằng Lim phu nhân rất thích cô." Vú kể. "Bà ấy hỏi thăm nhiều về cô và gia đình chúng ta." "Có phải vì cuộc hôn nhân với người đã mất không ạ?" Hình ảnh đống vàng mã hiện lên khiến tôi rùng mình. "Ai mà biết được cơ chứ!" vú bỗng nổi giận. "Họ nói chuyện riêng với cha cô thôi. Có khi ông chủ hiểu lầm thì sao. Hút từng ấy thuốc phiện cơ mà!" Dù có hút bao nhiêu cũng không thể lú lẫn đến mức hiểu nhầm chuyện ấy được, tôi nghĩ, nhưng chỉ đáp," Lim phu nhân cũng hỏi han con ạ." "Hỏi thế nào?" "Hỏi con đã có ý trung nhân chưa, đã hứa hôn với ai chưa?" Trông vú mãn nguyện như một con mèo vừa bắt được thạch sùng. "Đấy! Nhà họ Lim qua s giàu rồi nên họ sẽ quan tâm nhiều đến nề nếp gia phong hơn là của của tài sản." Tôi cố chỉ ra rằng chẳng có lí gì họ lại bỏ qua một tiểu thư con nhà quyền quý để chọn tôi. Nhưng điều đó cũng không thể lí giải nổi nỗi bất an mơ hồ khi tôi ở cạnh Lim phu nhân. Dẫu vậy, vú vẫn mơ mộng hão huyền. "Chúng ta phải cho cô xuất đầu lộ diện nhiều hơn. Nếu người ta biết cô đang được nhà họ Lim ngấp nghé, có khi còn nhận được nhiều lời cầu thân hơn ấy chứ." Vú rất nhanh trí trong một số chuyện, nếu làm nghề nông, hẳn bà sẽ là người chăn vịt tuyệt vời. "Ngày mai chúng ta phải đi mua vải để may quần áo mới cho cô."
|
3
Đêm đó tôi lên giường sớm, mệt nhoài nhưng có phần hưng phấn. Trời rất nóng nhưng tôi vẫn đóng cửa chớp lại. Vú không thích tôi mở cửa sổ quá rộng vào ban đêm, bất kể sự ngột ngạt vào những đêm lặng gió. Bà nói không khí ban đêm không lành. Khi đèn dầu cạn, ánh trăng dần tràn vào trong phòng, phủ lên mọi vật một màng sáng dịu mắt. Người Hoa coi mặt trăng là âm, đầy nữ tính và những năng lượng âm cực, trái ngược với mặt trời là dương, biểu trưng cho nam tính. Tôi rất thích mặt trăng với vầng sáng bàng bạc của nó. Trăng mơ màng tha thướt, lại xảo quyệt mưu mô, thế nên những thứ trót lăn vào góc ngách trong phòng gần như sẽ mất tăm mất tích, và những cuốn sách đọc dưới trăng bỗng nhiên chứa đựng bao câu chuyện thần kì, tuy nhiên ban mai đến lại bốc hơi không chút vết tích. Vú luôn cấm tôi khâu vá dưới trăng để khỏi mờ mắt, thế thì còn ai muốn cưới tôi nữa. Nếu phải kết hôn, tôi nghĩ lấy một anh chàng tôi đã gặp hôm nay cũng không tệ. Tôi tua đi tua lại trong đầu cảnh chúng tôi gặp nhau, mường tượng lại chất giọng và những lời tự tin ngắn gọn của anh. Tôi thích cách nói năng nghiêm túc ấy, không hề có vẻ bề trên thường thấy của những người bạn của cha. Ý nghĩ có thể chia sẻ ý nghĩ thậm chí cả niềm âu lo với anh làm tôi rung động. Nếu tôi là đàn ông và cảm mến một nàng hầu gái, tôi sẽ chần chừ mà lập tức chuộc thân cho nàng. Đàn ông làm thế như cơm bữa. Nhưng phụ nữ lại khác. Tôi chưa từng chứng kiến nhưng đã nghe kể về những thê thiếp cả gan ngoại tình rồi bị bóp cổ đến chết, hay bị cắt tai, cắt mũi rồi đẩy ra đường lang thang. Tôi không thể gặp chàng trai trẻ ấy thêm lần nào nữa, càng không thể nuôi tình ý gì với anh. Dù cha tôi dễ tính nhường nào, ông cũng chẳng bao giờ cho phép tôi kết hôn với một người hầu. Tôi thở dài. Tôi chẳng biết gì về ảnh, tất cả chỉ là phỏng đoán cùng những hy vọng mơ hồ. Dù tôi có kết hôn, chồng tôi cũng là một người xa lạ. Các tiểu thư cành vàng lá ngọc đều chẳng quan trọng hóa điều này. Nhiều người trong số họ được hứa hôn từ sớm, vài người gặp may mắn vì gặp được ý trung nhân trong những dịp hội hè và kịp yêu đương trước khi thành thân. Riêng với nhà tôi thì không. Lối sống lánh trần của cha làm tan tác hết bạn bè, đừng nói đến việc hứa hôn với con trai nhà ai. Lần đầu tiên trong đời, tôi hiểu được tại sao vú luôn bực tức với cha về điều đó. Nhận ra sự bỏ bê của cha mình, trái tim tôi nhói lên đau đớn. Viễn cảnh hôn nhân của tôi hoàn toàn mờ mịt, có lẽ tôi phải chịu cảnh cô đơn lẻ bóng suốt đời, mãi mãi không thoát khỏi cảnh cơ hàn, và không được tận hưởng niềm hạnh phúc làm mẹ.. Nghĩ tới đây, tôi chỉ biết vùi mình trong chiếc gối vải mỏng, khóc cho đến khi thiếp đi. Đêm đó tôi mơ một giấc mơ kì lạ. Tôi dạo bước trong dinh thự nhà họ Lim, cảnh vật đều yên ắng tĩnh lặng. Trời sáng rõ, nhưng không phải vì nắng, mà là do sương trắng giữa ban ngày. Cũng giống màn sương ấy, khung cảnh mờ dần lúc tôi bước qua, như thể phía sau tôi được phủ một lớp màng phim trắng mỏng. Y như sáng nay, tôi rảo bước qua các sân vườn được cắt tỉa gọn gàng, các hành lang tối mờ, các phòng ốc rộng rãi thênh thang, chỉ là lần này không nghe thấy tiếng nói chuyện rì rầm hay bóng người hầu qua lại. Nhưng ngay lập tức, tôi biết chắc rằng không chỉ mình tôi ở đây. Ai đó theo dõi tôi, lén nhìn tôi qua các khe cửa, hay qua những con tiện lan can trên tầng cao. Tôi bắt đầu rảo chân chạy, hết hành lang này đến hành langn khác, cho đến khi cảnh vật xung quanh giống nhau một cách đáng sợ. Cuối cùng đến một khoảng sân có ao sen, giống hệt khoảng sân tôi bắt gặp sáng nay, chỉ khác là những đóa sen này trông không thật chút nào, chúng cắm lên bùn như những nắm nhang. Tôi đứng sững lại, tự hỏi phải làm gì thì một bóng người vụt qua bên cạnh. Quay phắt lại, tôi bắt gặp một người đàn ông lạ mặt. Y mặc kiểu áo cổ xưa, dài đến gót chân. Đôi bàn chân ngắn to bè quái dị xỏ trong đôi giày mũi nhọn màu đen. Trang phục màu mè sặc sỡ nhưng gương mặt không có gì đặc biệt, tròn vành vạnh với chiếc cằm nhỏ và lỗ chỗ sẹo trứng cá. Y nhìn tôi với nụ cười ngượng nghịu. "Li Lan." y thốt lên, "Mãi ta mới được gặp lại em!" ''Anh là ai ?'' Tôi hỏi. ''Em không nhớ ta đúng không? Đã quá lâu rồi. Nhưng ta thì chẳng thể quên được em. Làm sao có thể?'' Y ba hoa, ''Cặp mày thanh thoát như cánh ngài, đôi môi đỏ mịn như hoa dâm bụt." Nhìn dáng vẻ hớn hở ấy, tôi chợt lợm giọng. ''Tôi muốn về nhà.'' ''Ôi không Li Lan'', y đáp, "Em ngồi xuống đi đã, em có biết ta chờ phút giây này bao lâu rồi không?'' Y phẩy tay, một chiếc bàn ê hề thức ăn hiện ra. Nào gà luộc, hoa quả, mứt dừa và đủ thứ bánh trên đời. cũng giống như quần áo y, chúng đầy màu sắc và trông chẳng hấp dẫn chút nào. Cam vàng chóe như tô phẩm, bánh lá dứa xanh xỉn màu như màu biển trước cơn dông... Tất cả chất thành đống cứng nhắc, trông chẳng khác gì đồ vàng mã. Y ấn vào tay tôi một tách trà. ''Tôi không khát.'' Tôi đáp. ''Ta biết em xấu hổ,'' kẻ điên rồ kia đáp lại, ''Nhưng ta sẽ tự rót cho mình một chén. Thấy không? Ngon mà?" Y thích thù nhấp từng ngụm, ''Li Lan, em à. Em không biết ta là ai sao? Ta chính là Lim Tian Ching! Người thừa kế của nhà họ Lim. Ta đến để rước em đây.'' Càng lúc tôi càng lợm giọng, đầu óc quay cuồng. ''Chẳng phải anh chết rồi sao?'' Tôi vừa dứt lời, khung cảnh co rúm lại như bị vò nhàu. Màu sắc vụt biến mất, các đường nét mờ dần. Rồi sau đó, như tiếng bật của dây đàn gỗ getah perca, mọi thứ khôi phục như cũ. Ánh sáng trắng mông lung và đồ ăn thức uống trên bàn lại sáng rỡ. Lim Tian Ching nhắm chặt mắt lại, bộ dạng vô cùng đau đớn. ''Em à," y nói. ''Ta biết điều này sẽ làm em choáng váng, nhưng chúng ta đừng đề cập đến điều đó nữa nhé.'' Tôi kiên quyết lắc đầu. ''Ta biết em là một cô gái yếu mềm,'' y tiếp tục. ''Ta không muốn làm em phiền muộn. Thôi, để lần sau chúng ta thử lại.'' Y mỉm cười rồi tan biến. Tôi cố sức ép mình tỉnh dậy, chật vật hệt như đang len lỏi qua một rừng đước. Cuối cùng, đống sắc màu nhòe nhoẹt kia cũng mờ dần, tôi hổn hển choàng tỉnh, giật mình nhận ra ánh trăng nhàn nhạt đang phủ lên người, hai tay tê dại vì bưng chặt lấy trán. Đêm đó tôi gần như không thể ngủ thêm nữa. Thân thể đầm đìa mồ hôi, tim đập thình thịch. Tôi chỉ muốn chạy tới cuối hành lang và bò lên giường vú như hồi nhỏ. Dạo ấy tôi thường ngủ với vú, dễ chịu hít ngửi mùi dầu lan trắng sực nức mà vú vẫn thường xoa hai bên thái dương để khỏi nhức đầu. Nhưng giờ mà xuống đó, hẳn vú sẽ lo lắng, còn tôi sẽ phải nghe mắng mỏ, chịu đựng cả đống mẹo dân gian để chữa trị. Chưa kể vú vô cùng mê tín, chỉ cần hé miệng nhắc đến Lim Tian Ching thôi, vú sẽ lo lắng mấy ngày liền. Gần đến sáng tôi mới thiếp đi được một lúc.
|
Tôi vốn định kể cho vú nghe giấc mơ đêm qua, nhưng trời sáng hẳn, nỗi lo sợ cũng tan biến. Đó có thể chỉ là hậu quả của cơn ám ảnh sau cuộc viếng thăm dinh thự nhà họ Lim, tôi tự nhủ, hoặc có thể do ăn quá nhiều đồ bổ béo. Và tôi cũng chẳng dám thú nhận với vú rằng mình đã nghĩ đến chuyện hôn nhân trước khi đi ngủ. Cuộc gặp gỡ với chàng trai trẻ sửa đồng hồ làm tôi thấy hơi tội lỗi. Đêm hôm sau, tôi run rẩy bò lên giường, nhưng may thay chẳng gặp mộng mị gì. Vài đêm vô sự cứ thế trôi qua, tôi bèn gạt chuyện kia ra khỏi đầu, nhưng tâm trí tôi lại vướng bận chuyện khác. Dù đã cố hết sức, tôi vẫn không tài nào quên được chàng trai sửa đồng hồ. tôi nghĩ mãi về những kiến thức của anh, và lấy làm tiếc vì một người như thế lại mang phận tôi đòi. Tôi bâng khuâng tưởng tượng cảm giác khi được chạm vào mái tóc tinh tươm ấy. Hễ rảnh rỗi, tôi lại ngắm những đường nét khuôn mặt mình trong chiếc gương sơn mài nhỏ mẹ tôi để lại. Cha chẳng mấy khi để ý đến vẻ ngoài của tôi. Ông thích nghe tôi nhận xét về những bức họa và thích xem tôi viết thư pháp hơn. Thảng hoặc, ông nói rằng tôi rất giống mẹ, với vẻ mặt đau lòng hơn là hạnh phúc, dứt lời ông cũng giấu mình vào đâu đó luôn. Vú thì hiếm khi khen, chỉ rặt chê bai, nhưng tôi biết nếu cần thiết, bà sẵn sàng lao vào bánh xe bò vì tôi. "Vú à," tôi hỏi. ''Mẹ con có quan hệ họ hàng thế nào với Lim phu nhân?'' Chúng tôi đang trên đường về nhà sau khi mua ít vải vóc. Chẳng biết bằng cách thần kì nào mà vú xoay sở ra tiền. Quá xấu hổ, tôi chẳng dám hỏi xem có phải bà lấy khoản tích cóp riêng để phung phí cho những khoản phù phiếm này không. Các bà vú luôn dành một khoản tiền riêng để dưỡng già. Họ thuộc một giai cấp đặc biệt trong đám kẻ hầu người hạ, được mệnh danh là người mặc đồ đen trắng vì thường vận áo cổ tàu màu trắng phối với quần vải đen. Họ không có chồng, hoặc đã mất chồng, họ không có con cái và cũng chẳng có cách kiếm tiền nào khác. Khi quyết định làm vú nuôi, họ cắt tóc ngắn ngang cằm và gia nhập hội phụ nữ đặc biệt. Họ đóng hội phí, gửi tiền tiết kiệm được vào đây, đổi lại, khi kết thúc cuộc đời phục dịch, họ sẽ được về ngôi nhà chung và được lo cơm áo đến lúc chết. Đây cũng là một số ít lựa chọn cho những người phụ nữ không gia đình, không con cái chăm lo lúc về già. Tôi nghĩ vú đã dùng hết tiền tiết kiệm của mình cho tôi. Nếu thế thì thật hổ thẹn quá. Nhà chủ kiệt quệ, vú có thể xin làm chỗ khác hoặc đơn giản là nghỉ hưu. Bà cũng đến tuổi rồi. Nhìn dáng hình còm cõi của vú, tôi không thể kìm nén xúc động. Dù nhiều khi vú nghiêm khắc thái quá, làm tôi chỉ muốn thoát khỏi sự kìm kẹp của bà, nhưng tôi biết bà nhất mực thương tôi. ''Mẹ cô và Lim phu nhân là chị em họ cách nhau hai ba đời, nếu vú nhớ không nhầm.'' Bà trả lời. ''Nhưng phu nhân nói như thể biết rõ mẹ con lắm.'' ''Cũng có thể. Nhưng vú không nghĩ là họ thân thiết đâu, nếu không vú đã phải nhớ rõ. Lim phu nhân là tiểu thư nhà họ Ong. Họ làm giàu bằng cách xây đường cho người Anh.'' ''Bà ấy nói hồi nhỏ họ hay chơi đùa với nhau.'' ''Thật à? Có thể có vài lần, nhưng bà ấy không chơi cùng trong đám bạn thân của mẹ con, điều này vú có thể chắc chắn.'' ''Sao phu nhân lại nói thế nhỉ?'' ''Ai mà biết được mấy bà lớn nghĩ gì.'' vú đột nhiên mỉm cười, da mặt nhăn nheo như con rùa biển. ''Chắc có lí do riêng. Đầy tớ kể rằng ông bà cũng không tệ. Tất nhiên họ vẫn còn thương tiếc cậu con trai. Cậu ta ra đi năm ngoái, để lại nỗi mất mát khôn cùng.'' ''Bà ấy còn người con nào khác không?'' ''Còn hai người con trai chết lúc mới sinh và mấy cô con gái của bà hai bà ba nữa.'' ''Con mới thấy bà ba thôi ạ, chưa thấy bà hai.'' ''Bà ấy mất bốn năm trước vì sốt rét rồi.'' Sốt rét là căn bệnh kinh hoàng của người dân Malaya, ủ mầm bệnh dai dẳng trong máu người. Người Mã Lai đốt khói để xua đuổi nó, người Hindu thì dâng lên các vị thần của họ vòng hoa bện từ hoa nhài và hoa cúc vàng để cầ xin che chở. Còn người Anh lại bảo đó là căn bệnh truyền nhiễm từ loài muỗi. Nghĩ đến côn trùng, tôi lại không khỏi nghĩ đến bà ba với những chiếc châm cài tóc sáng loáng. ''Bà ba thật nổi bật, vú nhỉ.'' Tôi nói ''Người đàn bà đó à! Trước khi lấy được lão gia, bà ta chỉ là một ả vô danh. Chẳng ai biết bà ta từ đâu tới. Chắc từ một thị trấn phương Nam xa xôi nào nó, có khi là Johore hay tận Singapore cũng nên.'' ''Các bà có hòa thuận với nhau không nhỉ?'' Chỉ những người đàn ông giàu có mới đủ tiền để lấy nhiều vợ, mà tục lệ này cũng đang mai một dần do giới cai trị không tán đồng, đặc biệt là phụ nữ Anh - các bà đầm phản ứng rất gay gắt. Đơn giản là họ sợ các đức lang quân của mình bị đồng hóa, rồi nạp thêm nhiều thê thiếp người bản địa. Tôi không thể lên án họ vì điều đó. Bản thân tôi cũng không sung sướng gì khi phải làm bà hai, bà ba, bà tư,... Tôi thà chạy trốn, tham gia hiệp hội các bà vú cho xong. ''Cũng tương đối hòa thuận. Nhưng họ ganh đua xem ai có thể sinh được con nối dõi.May cho Lim phu nhân, xem ra bà ấy là người duy nhất có thể.'' ''Thế người con trai duy nhất, Lim Tian Ching ấy, anh ta thế nào ạ?" Tôi thấy ớn lạnh khi nghĩ lại giấc mơ, mặc dù cái nắng ban ngày vẫn đang thiêu đốt. Vú thường tránh nhắc đến cái tên ấy, nhưng tôi nghĩ hôm nay có thể moi được chút thông tin từ bà. ''Hư đốn lắm, vú nghe nói.'' ''Con cũng nghĩ thế.'' Tôi buột miệng, may mà bà có vẻ không để ý. ''Họ bảo cậu ta thua xa người anh họ. Ôi chao, nói đến cậu ta làm gì. Tốt nhất không nên bàn tán về người đã khuất.''
|