Lâu Đài Di Động Của Phù Thủy Howl - Howl's Moving Castle
|
|
Dường như là cô đang chặn đường Angorian lại. “Xin làm ơn,” cô Angorian nói, “đừng nói với anh Jenkins tôi đang ở đây. Tôi xin nói thật, tôi chỉ khuyến khích anh ấy để tìm kiếm tin tức về hôn phu của tôi - anh Ben Sullivan. Tôi chắc chắn Ben đã mất tích vào chỗ mà anh Jenkins hay biến mất. Chỉ là Ben đã không trở về.” “Không có ai là Sullivan ở đây,” Sophie đáp. Cô thầm nghĩ, Đó là tên của Pháp sư Suliman! Ta không tin một lời nào đâu! “Ồ, tôi biết thế,” Angorian tiếp. “Nhưng có lẽ chỗ này là đúng nơi rồi. Tôi có thể nhìn quanh một chút để biết anh Ben đã làm gì ở đây không?” Cô vén một lọn tóc đen sau tai và bắt đầu tiến sâu vào phòng. Sophie lập tức chặn lại. Điều này ép Angorian nhón chân bước ngang đến bàn làm việc. “Thật là đơn sơ!” cô nói, nhìn vào đống chai lọ. “Một thị trấn đơn sơ!” cô tiếp, nhìn ra ngoài cửa sổ. “Đó là Market Chipping,” Sophie đáp, và cô cũng chuyển qua ngáng đường và đẩy Angorian lùi lại cửa. “Và trên lầu kia là cái gì?” cô Angorian hỏi, chỉ cánh cửa mở lên trên lầu. “Phòng riêng của Howl,” Sophie nói chắc chắn, tiếp tục đẩy Angorian lùi lại. “Còn cái gì bên cánh cửa kia?” Angorian hỏi. “Một tiệm hoa,” Sophie đáp. Đồ tò mò! cô nghĩ. Lúc này thì Angorian bị ép hoặc là phải đụng vào ghế hay phải lùi ra ngoài cửa. Cô nhìn chăm chăm vào Calcifer nhíu mày như thể cô không chắc là mình đang nhìn thấy gì, và Calcifer đơn giản chỉ ngó mà không nói gì cả. Điều này làm Sophie thấy tốt hơn về việc mình không thân thiện lắm. Chỉ có người thật sự hiểu Calcifer mới được mời vào nhà của Howl. Nhưng bây giờ Angorian đã lượn quanh cái ghế và nhìn thấy cây đàn guitar của Howl đang dựa vào trong góc tường. Cô chộp lấy nó, hơi thở trở nên gấp gáp và quay lại, ôm chặt vào ngực. “Làm sao bà có cây đàn này?” cô hỏi, giọng run run xúc động. “Ben có cây đàn y như thế này! Nó có thể là của Ben!” “Tôi nghe nói Howl đã mua nó vào mùa đông năm ngoái,” Sophie đáp. Và cô lại tiến đến phía trước, cố dồn Angorian ra khỏi góc tường và qua cánh cửa. “Có chuyện gì đã xảy ra với Ben rồi!” Angorian đau khổ. “Anh ấy không bao giờ lìa khỏi cây đàn guitar này! Anh ở đâu? Tôi biết anh ấy không thể chết. Trong thâm tâm tôi sẽ biết nếu anh có chuyện!” Sophie không biết có nên nói với Angorian là mụ phù thuỷ đã bắt Pháp sư Suliman rồi không. Cô nhìn quanh để xem cái sọ người ở đâu. Cô định vẫy nó trước mặt cô Angorian và nói đó là sọ của Pháp sư Suliman. Nhưng cái sọ đang ở trong bồn nước, giấu mình trong đống cây dương xỉ và hoa huệ, và cô biết là nếu mình đi về phía đó, Angorian sẽ lẻn qua vào trong phòng nữa. Ngoài ra, đó cũng thật tàn nhẫn. “Tôi có thể giữ cây đàn này không?” cô Angorian hỏi giọng khàn khàn, tay ghì chặt lấy nó. “Để giữ kỷ niệm về anh Ben.” Giọng nghẹn ngào của cô Angorian làm Sophie bực bội. “Không,” cô nói. “Không việc gì phải căng thẳng đến thế. Cô đâu có chứng cớ gì cây đàn này của anh ta.” Cô lạch bạch đến gần Angorian và chộp lấy cổ cây đàn guitar. Angorian mở to cặp mắt đau khổ lên chăm chăm nhìn cô. Sophie kéo tay. Cô Angorian cố giữ. Cây đàn guitar bật lên một âm thanh chói tai. Sophie giật mạnh nó ra khỏi tay của Angorian. “Đừng có ngốc nghếch,” cô nói. “Cô không có quyền bước vào lâu đài và lấy đi đàn của người ta. Tôi đã nói là ông Sullivan gì đó không có ở đây. Bây giờ thì quay trở lại Wales đi. Đi đi.” Cô dùng cây đàn guitar đẩy cô Angorian lùi lại cánh cửa đang mở toang. Angorian trở lại hư không cho đến khi nửa người đã biến mất. “Bà khó tính quá,” cô quở. “Đúng đó!” Sophie trả lời và sập cửa lại. Cô quay nút màu cam xuống để ngăn cô Angorian quay trở lại và thẩy cây đàn guitar trở lại góc phòng gây nên tiếng kêu vang. “Và đừng có nói cho Howl biết cô ta ở đây đó!” cô hét lớn với Calcifer. “Tôi cá cô ả đến để thăm Howl. Mấy lời kia chỉ là nói dối. Pháp sư Suliman đã sinh sống ở đây, mấy năm trước rồi. Anh ta có lẽ đến đây để tránh cái giọng thổn thức đáng ghét của ả!” Calcifer khúc khích. “Tôi chưa từng thấy ai bị đuổi nhanh như thế!” hỏa yêu nói. Điều này làm Sophie cảm thấy vừa tàn nhẫn vừa hối hận. Nói cho cùng thì cô cũng đã xông vào lâu đài bằng cách như thế, và cô còn nhiều chuyện gấp đôi Angorian. “Gah!” cô nói. Cô bước ào vào trong phòng tắm và ngó chăm chăm khuôn mặt nhăn nheo già nua của mình trong gương. Cô nhặt lên một cái túi đề DA, rồi lại thảy nó xuống. Ngay cả lúc còn trẻ, cô không nghĩ khuôn mặt mình có thể so sánh với mặt của cô Angorian. “Gah!” cô nói. “Doh!” Cô lại ì ạch nhanh chóng trở ra, tay chộp lấy mấy đóa dương xỉ và hoa huệ trong bồn rửa chén. Cô mang chúng, vẫn còn sũng nước, ra ngoài tiệm, và dúi chúng vào cái chậu chứa đầy thần chú nuôi dưỡng. “Biến thành hoa thủy tiên!” giọng cô giận dữ, khàn khàn. “Biến thành hoa thủy tiên vào tháng Sáu, bọn yêu quái!” Người-chó đặt khuôn mặt lông lá lên cửa. Vừa nhìn thấy tâm trạng của Sophie, y lùi trở ra ngay lập tức. Michael vui vẻ bước vào với một cái bánh nướng thật lớn trên tay, Sophie liếc nhìn cậu một cách khủng khiếp đến nỗi cậu tức khắc nhớ đến câu thần chú Howl đã kêu cậu làm và biến thật nhanh vào nhà kho. “Gah!” Sophie gầm gừ đằng sau lưng cậu. Cô lại cúi người xuống chậu. “Hoa thủy tiên! Hoa thủy tiên!” cô hét. Cô không cảm thấy thoải mái hơn chút nào dù biết rằng mình đang cư xử cực kỳ ngốc nghếch.
|
Chương 19: Sophie thể hiện tình cảm bằng thuốc diệt cỏ
Howl mở cánh cửa tiệm hoa khi trời vừa chạng vạng, anh nhẩn nhơ bước vào, miệng huýt sáo líu lo. Dường như anh đã quên chuyện rễ cây ớt mã rồi. Sophie không mấy gì vui vẻ dù biết anh cuối cùng cũng không đến xứ Wales. Cô gởi cho anh anh một cái liếc nhìn dữ dội nhất. “Ối quỷ thần ôi!” Howl nói. “Tôi hóa đá mất thôi! Bộ có chuyện gì hả?” Sophie chỉ gầm gừ, “Cậu đang bận bộ áo nào thế?” Howl nhìn xuống bộ y phục màu đen. “Có gì hay sao?” “Phải!” Sophie gầm lên. “Và đừng có nại lý do đang có tang! Thật ra là bộ nào chứ?” Howl nhún vai và nắm giữ một tay áo như thể anh không chắc nó là bộ nào. Anh nhìn chằm chằm, vẻ bối rối. Màu đen chạy thẳng từ vai anh xuống tay áo. Vai và đầu cổ áo biến thành màu nâu, rồi xám, trong khi tay áo biến thành màu mực, cho đến khi Howl bận y phục màu đen với một tay áo xanh bạc với vạt áo dường như bị nhúng vào lọ mực. “Bộ đó,” anh nói, và để màu đen lan đến vai anh lần nữa. Sophie lại càng bực bội hơn bao giờ hết. Cô hứ lên một tiếng cau có nổi giận. “Sophie!” Howl nói nửa cười đùa, nửa van vỉ. Người-chó đẩy cửa sân và len lén bước vào. Y không bao giờ để Howl trò chuyện lâu với Sophie. Howl ngó nó chằm chằm. “Bây giờ bà lại có một con chó chăn cừu,” anh nói, như thể là vui mừng vì bị gián đoạn. “Nuôi hai con chó phải tốn kém lắm đây.” “Chỉ có một con đó thôi,” Sophie khó chịu trả lời. “Anh ta bị phù phép mà.” “Thật?” Howl đáp, và anh tiến bước đến con chó bằng một tốc độ cho Sophie thấy anh rất vui được cách xa khỏi cô. Điều này dĩ nhiên là điều cuối cùng mà người-chó muốn. Y lùi lại. Howl chồm xuống, và hai tay chụp lấy bộ lông xồm xoàm của con chó trước khi nó ra ngoài cửa. “Đúng vậy rồi!” anh nói, và quỳ xuống nhìn vào phần còn lại của đôi mắt con chó. “Sophie,” anh nói, “sao bà lại không nói với tôi chuyện này? Con chó này là người! Anh ta đang rất khốn khổ!” Howl quay lại trên một chân, tay vẫn giữ chặt con chó. Sophie nhìn vào cặp mắt thủy tinh của Howl và nhận ra anh đang rất tức giận, thật sự tức giận. Tốt. Sophie đang muốn gây lộn. “Cậu có thể tự mình thấy mà,” cô nói, trừng mắt lại, thách thức Howl chảy nhớt xanh ra. “Dù sao đi nữa, con chó cũng không muốn…” Howl giận đến nỗi không muốn nghe nữa. Anh nhảy bật dậy và kéo con chó lê trên sàn. “Và tôi đã có thể thấy, nếu tôi không có cả tá việc khác trong đầu,” anh trả lời. “Đến đây. Tôi muốn cậu đến trước Calcifer.” Con chó cố trì trên bốn chân lông lá. Howl vẫn kéo thật mạnh, mặc cho nó cưỡng lại. “Michael!” anh hét lên. Có một giọng đặc biệt trong tiếng kêu đó làm Michael chạy hộc tốc tới. “Và cậu có biết con chó này là người không?” Howl hỏi khi anh và Michael kéo con chó lên cầu thang. “Không phải vậy chứ?” Michael hỏi, ngạc nhiên đến hết hồn. “Vậy tôi tha cho cậu và chỉ trách Sophie thôi,” Howl nói, đẩy con chó qua nhà kho. “Bất cứ thứ gì thế này đều là do Sophie cả! Nhưng cậu biết, đúng không, Calcifer?” anh phán khi cả hai kéo con chó đến trước bếp lửa. Calcifer lùi lại cho đến khi cậu ta đụng ống khói. “Cậu có bao giờ hỏi đâu,” hỏa yêu đáp. “Bộ tôi phải hỏi hay sao?” Howl nói. “Được rồi! Đáng lẽ tôi phải tự nhận thấy chuyện này! Nhưng cậu làm tôi thất vọng quá, Calcifer! So với cách mà mụ phù thủy đối xử với hỏa yêucủa mụ, cậu có cuộc sống quá dễ dàng, và tôi chỉ yêu cầu cậu có một chuyện là nói cho tôi những chuyện tôi cần biết. Đây là lần thứ hai cậu làm tôi thất vọng! Bây giờ hãy giúp tôi biến con vật này trở lại hình dạng cũ ngay bây giờ!” Khuôn mặt Calcifer biến thành xanh lè xanh lét. “Được rồi,” cậu ta giận dỗi nói. Người-chó cố gắng thoát khỏi, nhưng Howl đẩy vai mình dưới ngực nó và huých mạnh, khiến nó chổng bốn vó lên trời. Đoạn anh và Michael giữ nó như thế. “Sao con vật ngu ngốc này còn chống cự làm gì?” Howl thở hồng hộc nói. “Dường như lại là một tác phẩm của mụ phù thủy Hoang Phế, phải không?” “Đúng. Có tới mấy lớp ma thuật lận,” Calcifer đáp. “Vậy ít nhất cũng lấy lớp chó ra đi,” Howl nói. Calcifer búng mình lên thành một màu xanh thẳm và rống lên dữ dội. Sophie, cẩn thận đứng từ sau cánh cửa nhà kho để theo dõi, nhìn thấy thân hình con chó từ từ biến mất để lộ hình dáng người bên trong. Nó lại biến thành chó lần nữa, rồi trở về thành người, mờ mờ, rồi rắn lại. Cuối cùng, Howl và Michael mỗi người giữ một cánh tay của một người đàn ông tóc hung đỏ trong bộ y phục màu xám nhăn nheo. Sophie không ngạc nhiên khi cô không nhận ra người đó. Ngoài khuôn mặt buồn bực, khuôn mặt anh ta hoàn toàn không có nét cá tính nào hết. “Nào, bạn hiền, anh là ai đây?” Howl hỏi người đó. Anh ta giơ hai tay lên và run rẩy rờ lên mặt mình. “Tôi - tôi không biết.” Calcifer đáp thay, “Tên gần đây nhất mà anh ta trả lời là Percival.” Người đó nhìn Calcifer như thể ước chi Calcifer không biết điều đó. “Vậy ư?” anh ta nói. “Vậy thì giờ chúng ta gọi anh là Percival,” Howl nói. Anh quay người ấy một vòng và đặt ngồi vào trong ghế. “Anh ngồi đó đi, và kể cho chúng tôi những gì anh còn nhớ. Theo kiểu của anh như vậy thì mụ phù thủy chắc cũng phải bắt giữ anh lâu rồi.” “Vâng,” Percival đáp, chà mặt mình lần nữa. “Bà ta cắt đầu tôi ra. Tôi… tôi nhớ đã nằm trên một cái kệ, nhìn xuống thân thể của mình.” Michael kinh ngạc. “Nhưng vậy là anh đã chết rồi!” cậu phản đối. “Không cần thiết,” Howl nói. “Cậu còn chưa học đến loại pháp thuật đó, nhưng tôi có thể lấy ra bất cứ phần thân thể nào tôi muốn mà vẫn giữ phần còn lại sống sót, nếu tôi làm đúng cách.” Anh nhíu mày với người-chó cũ. “Nhưng tôi không chắc mụ phù thủy đặt anh lại tử tế.” Calcifer, rõ ràng đang tìm cách chứng minh là cánh tay đắc lực của Howl, nói, “Anh ta còn chưa có đầy đủ, và còn bị ghép vào mấy phần của người khác nữa.” Percival trông có vẻ xanh xao hơn bao giờ. “Đừng làm anh ấy sợ, Calcifer,” Howl nói, “Anh ta đã cảm thấy tồi tệ quá rồi. Anh có biết tại sao mụ phù thủy lấy đầu anh không, bạn hiền?” anh hỏi Percival. “Không,” Percival đáp. “Tôi không nhớ gì cả.” Sophie biết điều đó không thể là sự thật. Cô khì mũi. Michael đột nhiên có một sáng kiến thú vị. Anh dựa vào Percival và hỏi, “Anh có bao giờ trả lời với cái tên Justin - hay là Hoàng tử không?” Sophie lại khịt mũi nữa. Cô biết điều này là tức cười ngay cả trước khi Percival nói, “Không. Bà ấy gọi tôi là Gaston, nhưng đó cũng không phải là tên của tôi.” “Đừng ép y nữa, Michael,” Howl nói. “Và đừng có làm Sophie khịt mũi. Với tâm trạng như thế, bà ta sẽ làm sập cả lâu đài này mất.” Dù đó có nghĩa là Howl không còn giận nữa, Sophie vẫn thấy muốn nổi điên hơn bao giờ. Cô dậm chân bước vào trong tiệm, khua khoắng mọi thứ, đóng cửa tiệm và cất mọi thứ để chuẩn bị đi ngủ. Cô đến nhìn mấy bông hoa thủy tiên. Có gì đó rất là sai trái đã diễn ra. Chúng trở thành một đống bầy hầy màu nâu trào ra khỏi chậu đang chứa đầy một chất nước hôi mùi độc nhất mà cô từng thấy. “Ồ, quỉ quái gì đâu này!” Sophie hét toáng lên. “Chuyện gì nữa đây?” Howl nói, bước vào trong tiệm. Anh cúi mình xuống cái chậu và hít mũi. “Bà có một chậu thuốc diệt cỏ mạnh lắm đấy. Sao không thử với đám cỏ dại ngoài biệt thự đi? “Được mà,” Sophie nói. “Tôi đang muốn giết cái gì đó đây!” Cô đập cửa rầm rầm cho đến khi tìm được một cái muôi, chân dậm thình thịch bước qua cửa lâu đài với cái xô và muôi, cô đạp tung cánh cửa, vặn nút màu cam xuống, vào con đường nhỏ trước cổng biệt thự. Percival ngước lên sợ hãi. Họ đã đưa cho anh cây guitar, như là đưa cho đứa bé một cây lục lạc, và anh ngồi đó khảy ra những âm thanh kinh khủng. “Đi theo bà ấy đi, Percival,” Howl nói. “Trong tình trạng này bà có thể giết cả hàng cây luôn quá.” Percival đặt cây đàn guitar xuống và cẩn thận lấy cái xô ra khỏi tay Sophie. Sophie giận dỗi dậm chân bước ra ngoài buổi hoàng hôn vàng ở cuối thung lũng. Mọi người đều quá bận rộn để chú ý đến ngôi biệt thự. Nó huy hoàng hơn là Sophie nhớ nhiều lắm. Mái hiên đầy cỏ dại với những bức tượng xung quanh, dàn hai bên lối đi. Khi Sophie quay lại - giả vờ kêu Percival nhanh chân lên – cô nhận ra căn nhà rất lớn, với nhiều tượng nhỏ chạm trổ quanh mái, và nhiều dãy cửa sổ. Nhưng nó cũng rất hoang tàn. Nấm mốc xanh viền trên tường từ mọi cửa sổ. Nhiều cửa kính đã bị bể, và các tấm màn che đáng lẽ phải được gấp lại cạnh bức tường, giờ lại chuyển màu xám, rách nát và treo lơ lửng hai bên. “Huh!” Sophie nói. “Ít nhất Howl có thể biến chỗ này thành nơi trông khang trang một chút. Nhưng không! Anh ta quá bận rộn lang thang đến xứ Wales! Đừng có đứng đó, Percival! Đổ thuốc vào muôi và đi theo sau tôi đi.” Percival ngoan ngoãn làm y như cô nói. Anh ta không vui vẻ gì khi bị đàn áp. Sophie đoán như vậy vì Howl đã bảo y đi với cô. Cô khì mũi và trút giận lên đám cỏ dại. Thứ thuốc đã giết chết hoa thủy tiên, rất là mạnh. Đám cỏ dại bên vệ đường chết ngay khi bị rưới uớt. Và đám cỏ sát hai bên đường cũng cùng chung số phận cho đến khi Sophie hạ hỏa một chút. Ánh hoàng hôn làm dịu cơn giận của cô. Không khí trong lành thổi từ cánh đồi xa xa, và hàng cây hai bên đường lung lay tuyệt đẹp.
|
Sophie diệt cỏ đến gần một phần tư con đường. “Cậu nhớ nhiều hơn là cậu nói ra,” cô trách Percival khi anh ta đổ đầy muôi của cô. “Mụ phù thủy thật sự muốn gì ở cậu? Tại sao bà ta lại đem cậu vào tiệm lần đó chứ?” “Bà ta muốn tìm Howl,” Percival đáp. “Howl?” Sophie nói. “Nhưng cậu đâu có biết anh ta, đúng không?” “Không, nhưng tôi phải biết cái gì đó. Liên quan đến lời nguyền trên mình anh ấy,” Percival giải thích, “nhưng tôi không biết đó là cái gì. Bà ta đã lấy được nó, ngay sau khi chúng tôi rời khỏi tiệm. Tôi thấy rất hối hận về chuyện đó. Tôi cố ngăn không cho bà ta biết, bởi vì lời nguyền là một điều rất xấu xa, và tôi làm chuyện đó cho Lettie. Lettie ở trong tâm trí tôi. Tôi không biết tại sao tôi lại biết cô ấy, bởi vì Lettie nói cô chưa bao giờ nhìn thấy tôi trên Upper Folding. Nhưng tôi biết hết về cô ấy - đủ để khi mụ phù thủy bảo tôi kể về Lettie, tôi nói cô ấy có một cái tiệm nón trong Market Chipping. Vì vậy mụ phù thủy đến đó để dạy cho hai chúng tôi một bài học. Và cô ở đó. Bà ta tưởng cô là Lettie. Tôi rất kinh hãi, vì tôi không biết Lettie còn có một người chị.” Sophie múc lấy một muôi đầy và ra tay tàn sát cỏ, ước chi đám cỏ là mụ phù thủy. “Và bà ấy biến cậu thành chó ngay sau đó?” “Chỉ bên ngoài ngoại ô thôi,” Percival đáp. “Ngay khi tôi cho mụ biết cái cần biết, bà mở cửa cỗ xe ngựa và nói, ‘Chạy đi nào. Tôi sẽ gọi khi nào tôi cần.’ Và tôi chạy, bởi vì tôi có thể cảm thấy có lời nguyền nào đó đang bám theo thôi. Nó bắt được tôi khi tôi đến một trang trại, và những người ở đó thấy tôi biến thành chó, họ tưởng là người sói và muốn giết tôi. Tôi đã phải cắn một người mới chạy thoát. Nhưng tôi không thể thoát khỏi cây gậy, và nó kẹt vào bụi cỏ khi tôi muốn băng qua.” Sophie vừa lắng nghe, vừa diệt được một nửa chặng đường cỏ nữa. “Rồi cậu đến nhà dì Fairfax?” “Đúng. Tôi đi tìm Lettie. Cả hai người bọn họ đều rất tốt với tôi,” Percival nói, “mặc dù họ chưa từng nhìn thấy tôi bao giờ. Và Pháp sư Howl lúc nào cũng đến thăm Lettie. Lettie không thích anh ta, và kêu tôi cắn đuổi y đi, cho đến khi Howl tự nhiên hỏi đến cô và…” Sophie xém một chút xíu là đã tưới thuốc diệt cỏ lên giày mình. Lớp đất cát dưới chân bốc khói lên khi chạm phải thuốc, chuyện này có lẽ cũng phải thế. “Cái gì?” “Anh ta nói, ‘Tôi biết có một người tên Sophie trông giống cô lắm.’ Và Lettie buột miệng, ‘Đó là chị của em,’ mà không nghĩ ngợi,” Percival tiếp. “Rồi em ấy lo lắng dễ sợ, nhất là khi Howl tiếp tục hỏi thăm về cô. Lettie hối hận đến nỗi có thể cắn lưỡi mà chết. Ngày mà cô đến, em ấy chỉ giả bộ xử tốt với Howl để tìm xem y biết gì về cô. Howl nói cô là một bà già. Và dì Fairfax nói đã gặp cô. Lettie khóc sướt mướt. Em nói, ‘Có chuyện kinh khủng đã xảy ra với chị Sophie rồi! Và kinh khủng nhất là chị ấy tưởng mình an toàn với Howl. Sophie quá mềm yếu để nhìn thấy sự vô tâm của Howl!’ Và em đã buồn rầu đến nỗi tôi biến thành người trong một thời gian lâu đủ để nói với em là tôi sẽ đến đây bảo vệ cho cô.” Sophie vẩy thuốc diệt cỏ thành một vòng lớn bốc khói nghi ngút. “Lettie đáng thương! Nó thật tốt bụng, và đó là điều làm tôi càng yêu mến nó. Tôi cũng lo lắng cho nó lắm. Nhưng tôi khôngcần một con chó canh gác!” “Cô cần mà,” Percival đáp. “Hoặc đã cần. Tiếc là tôi đến nơi quá trễ.” Sophie quay bật lại, tay vẫn cầm muôi thuốc diệt cỏ. Perchival phải phải nhảy vào trong bụi và chạy thục mạng nấp sau cái cây gần nhất. Cỏ chết thành một đường xám dài sau lưng cậu ta. “Mọi người đáng ghét!” Sophie hét lên. “Ta chịu đủ tất cả rồi!” Cô thẩy cái muôi bốc khói đó xuống đường và dậm chân qua đám cỏ dại đến cổng đá. “Quá trễ!” cô vừa đi vừa lầm bầm. “Không lý nào! Howl không chỉ vô tâm, y còn quá vô lý! Hơn nữa,” cô thêm vào, “ta là một bà già.” Nhưng cô không thể chối bỏ có việc gì đó không rất sai trái từ khi lâu đài biết đi chuyển nhà, hay ngay cả trước đó. Và dường như nó liên quan đến cách Sophie không thể đối diện với hai cô em gái. “Và tất cả những gì tôi kể với nhà vua đều đúng!” cô tiếp tục. Cô sẽ mang đôi hia bảy dặm lên chân và không trở về nữa. Cho mọi người thấy! Ai cần việc bà Pentstemmon tội nghiệp đã nhờ cậy Sophie ngăn cản Howl khỏi trở thành xấu xa! Sophie là một thất bại mà. Điều này là lẽ tất nhiên với người con cả. Và bà Pentstemmon đã nghĩ Sophie là bà mẹ già của Howl. Phải không? Đúng không? Sophie bứt rứt nghĩ lại, một pháp sư có thể dễ dàng nhìn thấy bộ quần áo bị may phép thuật lẫn vào trong sợi chỉ thì chắc chắn có thể dễ dàng nhận ra pháp thuật mạnh hơn của mụ phù thủy. “Ồ, cái bộ áo xám đỏ đáng ghét!” Sophie nói. “Ta không tin ta là người duy nhất bị nó ám!” Vấn đề là bộ xanh bạc dường như cũng mang ảnh hưởng tương tự. Cô dậm chân thêm vài bước nữa. “Dù sao,” cô thở dài nhẹ nhõm, “Howl cũng đâu có thích ta!” Ý nghĩ này đáng lẽ đủ để cho Sophie phải trằn trọc thức cả đêm, nếu không có một cảm giác lo lắng quen thuộc tràn qua người cô. Đôi tai cô nghe được tiếng tock, tock, tock khe khẽ. Cô lập tức quay đầu dưới ánh mặt trời sắp lặn. Và ở đó, trên con đường bên ngoài cánh cổng đá, là một hình dáng gầy gầy với hai cánh tay giang ra, nhảy từng bước một. Sophie kéo váy lên, quay lại, và chạy trở lại con đường cô đã bước đi. Bụi và cát bay mù mịt dưới chân. Percival đang đứng lạc lõng giữa đường, cạnh cái xô và muôi nước. Sophie kéo tay cậu ta tới núp sau gốc cây gần nhất. “Có chuyện gì sao?” anh nói. “Im đi! Là cái con bù nhìn kia nữa,” Sophie thở hồng hộc. Cô nhắm mắt lại. “Chúng ta không có ở đây,” cô nói. “Ngươi không tìm thấy ta. Đi đi. Đi đi nhanh lên, nhanh, nhanh!” “Nhưng tại sao…?” Percival hỏi. “Im nào! Đừng tới đây, đừng tới đây, đừng tới!” Sophie tuyệt vọng. Cô mở một con mắt. Bù nhìn, gần như đứng chính giữa cổng, đang đứng yên, mình lắc lư không chắc chắn. “Đúng đó,” Sophie tiếp. “Ta không có ở đây. Đi nhanh đi. Nhanh gấp đôi, nhanh gấp ba, nhanh gấp mười lần. Đi đi mà!” Bù nhìn gượng gạo lắc lư vòng vòng trên cái cây và bắt đầu nhảy tưng tưng quay trở lại trên đường. Sau vài cú nhảy, nó bắt đầu từng bước nhảy xa hơn, nhanh hơn và nhanh hơn, như Sophie đã bảo. Sophie thở phì phò, và không thả tay áo của Percival ra cho đến khi bù nhìn khuất hẳn tầm mắt. “Sao thế?” Percival hỏi. “Sao cô không thích nó hả?” Sophie rùng mình. Nếu bù nhìn đang ở trên đường, cô không dám rời nhà nữa. Cô nhặt lấy xô nước và quay trở lại biệt thự. Một sự dao động đập vào mắt cô khi cô đang đi. Cô nhìn lên tòa nhà. Sự dao động từ những tấm màn che đang bay phất phới từ những cánh cửa sổ kiểu Pháp đang mở toang phía sau những bức tượng của mái hiên. Các bức tượng bây giờ thật sạch sẽ trắng toát, và cô có thể thấy các màn che từ hầu hết cửa sổ, và cả cửa kiếng nữa. Tấm sáo giờ gấp lại ngay ngắn bên cạnh chúng, màu sơn trắng mới tinh. Không một chút vết rêu xanh hay vết nứt nào trên phần trước màu kem thạch cao của căn nhà. Cánh cửa nhà là một tác phẩm sơn đen vàng tuyệt đẹp, chính giữa là một con sư tử với vòng tròn trong miệng làm chuông kêu cửa. “Huh!” Sophie nói. Cô chống lại sự cám dỗ đi vào cửa sổ mở và xem xét. Đó chắc chắn là điều Howl muốn cô làm. Cô đi thẳng đến cửa trước, nắm quả đấm cửa và mở ầm cánh cửa ra. Howl và Michael đang ngồi ở góc làm việc, hớt hơ hớt hải thủ tiêu thần chú. Một phần phải là chú để đổi căn biệt thự, nhưng phần còn lại, Sophie biết quá rõ, chắc chắn là loại chú nghe lén nào đó. Khi Sophie xông vào, cả hai đều liếc nhìn cô ngại ngùng. Calcifer lập tức vùi đầu xuống đống củi. “Đứng đằng sau lưng anh, Michael,” Howl nói. “Đồ nghe lén!” Sophie hét lên. “Rình mò!” “Sao thế?” Howl giả vờ. “Bà muốn màn che có màu đen vàng luôn không?” “Đồ trơ tráo..” Sophie cà lăm. “Đó không phải là điều duy nhất ngươi nghe! Ngươi … ngươi… Ngươi biết ta là … là .. bao lâu rồi?” “Bị phù phép?” Howl đáp. “À, nào…” “Em nói đó,” Michael đáp, nhìn Howl ngại ngùng. “Lettie của em..” “Cậu!” Sophie rít lên. “Mà em Lettie kia cũng đã thú nhận rồi,” Howl nhanh chóng nói. “Cô biết mà. Dì Fairfax bữa đó cũng nói nhiều lắm. Có lúc mọi người dường như nói với tôi cả. Ngay cả Calcifer cũng thế - khi tôi hỏi. Nhưng bộ cô thực sự nghĩ tôi là pháp sư tệ đến nỗi không nhìn thấy một phép thuật cao siêu đến vậy ngay trước mặt mình hay sao? Tôi có vài lần thử gỡ bỏ nó ra khi cô không nhìn thấy. Nhưng không thành công. Tôi dắt cô tới bà Pentstemmon, hi vọng bà có thể giúp được cô, nhưng bà không làm gì hết. Tôi phải kết luận là cô thích hóa trang như thế.” “Hóa trang!” Sophie hét. Howl phá ra cười nắc nẻ. “Phải vậy rồi, bởi vì cô tự làm mình như thế mà,” anh nói. “Thật là một gia đình kỳ lạ! Tên thật của cô cũng là Lettie luôn hả?” Lần này Sophie thật sự chịu hết nổi. Percival len lén bước vào khi ấy, tay cầm cái xô còn chứa nửa loại thuốc diệt cỏ. Sophie quăng cái muôi, hai tay chộp lấy cái xô, và tạt nó vào người Howl. Howl thụp xuống. Michael né được cái xô. Thuốc diệt cỏ bay tung lên thành một ngọn khói xanh lè từ sàn lên trần nhà. Cái xô kêu một tiếng vang rền và rơi vào trong bồn nước, những bông hoa trong đó chết ngay lập tức. “Ow!” Calcifer vọng lên từ khúc củi. “Mạnh thiệt đó.” Howl cẩn thận nhón lấy cái đầu lâu khỏi đống bầy hầy xám xịt của đám hoa và lấy tay áo chùi cẩn thận. “Dĩ nhiên phải mạnh rồi,” anh nói. “Sophie có bao giờ làm việc gì nửa vời đâu.” Cái đầu lâu, khi Howl lau chùi, trở nên một màu trắng sáng lóa, và tay áo anh dùng trở thành màu xanh bạc phai màu. Howl đặt đầu lâu trên kệ và nhìn lại tay áo mình rầu rĩ. Sophie gần như muốn chạy ra ngoài lâu đài nữa và xuống đường. Nhưng vẫn còn có con bù nhìn đó. Cô đành phải ngồi phịch xuống ghế, khuôn mặt dàu dàu. Mình sẽ không nói chuyện với bọn họ nữa! cô nghĩ. “Sophie,” Howl nói, “Tôi đã cố hết sức rồi.
|
Cô không thấy là mấy cơn đau nhức gần đây đã đỡ hơn sao? Hay là cô cũng thích chúng?” Sophie không trả lời. Howl thất vọng và quay lại nói với Percival. “Tôi vui mừng thấy anh cũng thông minh đó chứ,” anh nói. “Anh làm tôi lo lắng đấy.” “Tôi không nhớ nhiều đâu,” Percival nói. Nhưng anh ngừng việc cư xử như kẻ ngốc. Anh cầm lấy cây đàn và chỉnh dây. Anh ta làm nó phát ra âm thanh dễ chịu hơn rất nhiều. “Vậy là sự buồn bã của tôi đã được giải thích,” Howl nói thê thảm. “Tôi đã sinh ra làm một người Welsh không biết âm nhạc. Anh đã kể hết cho Sophie nghe chưa? Hay là anh thật sự biết mụ phù thủy muốn tìm hiểu cái gì?” “Bà ta muốn biết về xứ Wales,” Percival nói. “Tôi cũng nghĩ thế,” Howl nói nghiêm chỉnh. “Ah, well.” Anh đi vào trong phòng tắm, và ở trong đó hơn hai tiếng kế tiếp. Trong khoảng thời gian ấy Percival dạo một vài bài trên cây đàn trong giai điệu trầm buồn, chậm chạp, như thể anh đang dạy mình làm thế nào, trong khi Michael lau chùi sàn nhà với cái giẻ rách bốc khói, cố chùi sạch cái chất thuốc diệt cỏ. Sophie ngồi trong ghế và không nói lời nào. Calcifer cứ trồi lên và liếc nhìn cô, rồi lại chui xuống đám củi. Howl trở ra ngoài phòng tắm trong bộ áo đen sáng lóa, tóc màu trắng lấp lắm, và mùi khói thơm hương long dàm. “Tôi sẽ về trễ hôm nay,” anh nói với Michael. “Sau nửa đêm sẽ là ngày Hạ Chí, và mụ phù thủy sẽ thực hiện âm mưu. Vậy nên cậu phải cảnh giác và nhớ lời tôi giùm cái.” “Em nhớ mà,” Michael nói, đặt phần giẻ lau chùi đang bốc khói vào bồn nước. Howl quay qua Percival. “Tôi nghĩ tôi biết việc gì xảy ra cho anh rồi,” anh nói. “Sẽ rất khó khăn để giải quyết, nhưng tôi sẽ làm ngày mai khi tôi trở về.” Howl bước đến cửa, và ngừng lại với tay còn đặt trên vặn cửa, “Sophie, cô vẫn không nói chuyện với tôi sao?” anh hỏi giọng thê thảm. Sophie biết Howl có thể rên rỉ ngay trên thiên đàng nếu anh muốn. Và anh chỉ lợi dụng cô để lấy tin từ Percival, “Không!” cô gừ. Howl thở dài và đi ra. Sophie nhìn lên và thấy nút vặn cửa chĩa màu đen xuống. Thế là quá lắm! cô nghĩ. Không cần biết ngày mai là ngày Hạ Chí! Tôi đi đây.
|
Chương 20: Sophie gặp nhiều trắc trở hơn khi rời tòa lâu đài
Ngày Hạ Chí vừa ló dạng. Vào giây phút mà nó bắt đầu, Howl xông vào phòng gây ra tiếng động ầm ĩ đến độ Sophie phải bật dậy trong cái xó xỉnh của mình, tưởng là mụ phù thủy đã đuổi tới nơi. “Bọn họ nhớ tới tôi đến nỗi lúc nào cũng chơi mà không mời tôi!” Howl rống lên. Sophie nhận ra anh đang cố hát bài ca chảo chiên của Calcifer và lại nằm xuống nữa, vừa lúc ấy thì Howl vấp chân và đá vào ghế dựa đến nỗi nó bay vào phía bên kia căn phòng. Sau đó, anh cố leo lên lầu qua cửa mở đến phòng chứa đồ và cửa ra sân. Việc này làm anh xoay mòng mòng một chút. Nhưng cuối cùng anh cũng khám phá ra cầu thang, trừ bậc thang đầu tiên, và té sấp mặt vào đó. Cả tòa lâu đài rung chuyển. “Có chuyện gì thế?” Sophie hỏi, ló đầu qua khỏi lan can. “Lễ họp mặt của câu lạc bộ chơi rugby,” Howl trả lời đầy tự hào. “Không biết tôi từng là đôi cánh của trường đại học hả, bà Mũi Dài?” “Nếu như cậu muốn bay thì hẳn cậu đã quên cách bay thế nào rồi,” Sophie mỉa mai. “Tôi sinh ra đã có đôi mắt kỳ diệu,” Howl nói, “thấy những điều không thể thấy được, và tôi chỉ định đi ngủ khi bà ngăn tôi. Tôi biết những năm tháng quá khứ ở đâu, và ai cắt chân quỷ.” “Đi ngủ đi, thằng ngốc,” Calcifer nhừa nhựa nói. “Cậu say rồi.” “Ai, tôi hả?” Howl đáp. “Tôi xin thề, bạn hiền, tôi hoàn tàng tỉn téo.” Anh đứng dậy và bò lên lầu, tay bám chặt tường như thể nó sẽ chạy trốn nếu anh không giữ lại. Cánh cửa phòng thoát khỏi tay anh. “Đó là một lời nói dối!” Howl nhận xét khi anh đập mặt vào tường. “Sự không thành thật sáng chói sẽ là cứu tinh của tôi.” Anh bước đụng tường vài lần nữa, ở nhiều chỗ khác nhau, trước khi anh khám phá cửa phòng ngủ và chân quàng chân xiên bước vào đó. Sophie có thể nghe thấy tiếng anh bị té, miệng lầm bầm lớn tiếng là cái giường nó biết chạy. “Thiệt là vô tích sự!” Sophie nói, và cô quyết định sẽ rời khỏi ngay lập tức. Rủi thay, tiếng động do Howl khua khoắng đánh thức cả Michael và Percival, giờ đây vẫn còn nằm ngủ trên sàn trong phòng Michael. Michael xuống cầu thang nói cậu đã tỉnh ngủ hẳn nên bọn họ cũng nên ra ngoài và hái hoa để kết vòng hoa mùa hè trong khi trời vẫn còn mát mẻ. Sophie không tiếc gì khi ra ngoài chỗ hái hoa lần cuối cùng. Làn sương mù ấm áp vẫn còn ngòai đó, bao trùm không khí mùi hương hoa và che nửa màu sắc của hoa. Sophie dò dẫm từng bước một, dùng cây gậy để tìm chỗ đất mềm, và lắng nghe tiếng hót líu lo của cả ngàn con chim, cảm thấy rất là hối tiếc. Cô vuốt cánh hoa huệ mềm như lụa và khều một đóa hoa màu tím với nhị hoa dài thật dài. Cô nhìn trở lại tòa lâu đài cao lớn màu đen trong làn sương sau lưng họ. Cô thở dài. “Anh ta làm nơi đây đẹp hơn,” Percival nhận xét khi anh đặt một chồng hoa dâm bụt vào bồn tắm biết bay của Michael. “Ai?” Michael hỏi. “Howl,” Percival đáp. “Lúc đầu chỗ này chỉ có bụi cây thôi, và chúng khá nhỏ, và khô cằn.” “Anh đã nhớ từng ở đây hả?” Michael hăng hái hỏi. Cậu bé còn chưa từ bỏ ý tưởng là Percival có thể là Hoàng tử Justin. “Tôi nghĩ tôi đã đến đây với mụ phù thủy,” Percival băn khoăn đáp. Bọn họ hái đầy hai bồn tắm hoa. Sophie chú ý khi họ đi vào nhà lần thứ hai, Michael vặn nút trên cửa vài lần. Đó phải là có gì để làm với việc giữ mụ phù thủy ra ngoài. Dĩ nhiên còn có những vòng hoa Hạ chí phải kết. Công việc ấy đòi hỏi nhiều thời gian. Sophie tính để Michael và Percival làm, nhưng Michael còn bận hỏi chuyện Percival và Percival rất chậm chạp. Sophie biết điều gì làm Michael hứng thú đến thế. Xung quanh Percival bao trùm một sự bí ẩn nào đấy, như thể anh đang trông đợi có việc gì đó sẽ xảy ra. Sophie băn khoăn không biết anh vẫn còn bị ảnh hưởng của bà phù thủy bao nhiêu. Cô phải làm gần hết các vòng hoa. Bất cứ suy nghĩ nào về việc cô có thể ở lại và gúp Howl chống mụ phù thủy đã biến mất. Howl, người có thể hòan thành các vòng hoa chỉ bằng một cái phất tay, giờ đang ngáy pho pho thật to đến nỗi cô có thể nghe trong tiệm. Cả ba miệt mài kết vòng hoa trễ đến nỗi tới giờ mở tiệm mà họ vẫn chưa hoàn thành. Michael lấy bánh mì và mật ong, và họ vừa ăn vừa tiếp lượt khách đầu tiên trong ngày. Mặc dù là ngày Hạ Chí, so với các ngày lễ khác, là một ngày xám xịt và lạnh lẽo ở trong Market Chipping, gần nữa thị trấn đến, diện trang phục lễ hội rục rỡ, để mua hoa tươi và vòng hoa cho lễ hội. Ngoài đường vẫn là đám đông chen lấn nhau như thường lệ. Nhiều khách vào cửa tiệm đến nỗi đến giữa trưa Sophie mới rón rén lên được cầu thang và qua phòng chứa đồ. Bọn họ bán được thật nhiều tiền, Sophie nghĩ khi vừa len lén, tém lương khô và quần áo thành một bọc, đến nỗi cái chỗ cất giấu kho tàng của Michael dưới bếp có thể tăng lên gấp mười lần. “Bà tới nói chuyện với tôi hả?” Calcifer hỏi. “Đợi chút đi,” Sophie nói, đi qua phòng với túi hành lý giấu sau lưng. Cô không muốn Calcifer làm dữ về cái hợp đồng. Cô vừa với tay ra để lấy cây gậy đang dựa vào ghế, thì có tiếng gõ cửa. Sophie ngừng lại, cánh tay còn giơ ra, nhìn Calcifer dò hỏi. “Cánh cửa biệt thự,” Calcifer nói. “Có xương thịt và vô hại.” Tiếng cốc cốc vang lên nữa. Lúc nào cũng có chuyện khi ta muốn đi! Sophie nghĩ. Cô vặn nút màu cam xuống và mở cửa. Một cỗ xe tuấn mã đang đậu ngoài cổng giữa hài hàng tượng. Sophie có thể thấy xa xa một xa phu cao lớn đang gõ cửa. “Sacheverell Smith phu nhân đến thăm người hàng xóm mới,” người đó thông báo. Thiệt là rắc rối! Sophie nghĩ. Kết quả của bộ sơn mới và khăn màn mới của Howl đó. “Chúng tôi không có ở nh…” cô bắt đầu. Nhưng bà Sacheverell Smith đã gạt gã phu xe sang một bên và bước vào. “Đợi ngòai xe đi, Theobald,” cô nói với tùy tùng khi lướt qua Sophie, tay cầm cái dù xếp. Đó là Fanny -Fanny trông cực kỳ hoa lệ trong màu áo lụa kem. Cô đang đội cái nón lụa kem viền hoa hồng, mà Sophie nhớ rất rõ. Cô nhớ mình đã nói với cái nón khi viền nó: “Ngươi sẽ lấy một người giàu có.” Và rõ ràng là Fanny đã làm y như thế. “Kỳ thật!” Fanny nói, nhìn xung quanh. “Chắc có nhầm lẫn gì đây. Đây là phòng của gia nhân!” “Well - er - chúng tôi chưa dời nhà xong, phu nhân,” Sophie nói, và băn khoăn không biết Fanny sẽ thấy thế nào nếu dì biết cái tiệm nón cũ kỹ chỉ ở phía sau phòng chứa đồ. Fanny quay lại và há hốc miệng nhìn Sophie. “Sophie!” cô hét lên. “Ồ, quỷ thần ơi, con gái ơi, chuyện gì xảy ra cho con? Con trông như bà già chín mươi! Con bị bệnh nặng hả?” Và, trong sự ngạc nhiên của Sophie, Fanny quẳng nón, dù, cả phong cách lịch lãm, và ôm chặt lấy Sophie và khóc. “Ồ, mẹ không biết cái gì đã xảy đến cho con!” cô nức nở. “Mẹ hỏi Martha, gởi thư cho Lettie, mà không đứa nào biết cả. Chúng đổi chỗ cho nhau, mấy đứa ngốc, con biết không? Nhưng không ai biết gì về con! Mẹ còn treo một phần thưởng tìm người.
|