Lâu Đài Di Động Của Phù Thủy Howl - Howl's Moving Castle
|
|
Sophie ép mình phải càng khâu nhanh hơn bao giờ. Đây là cơ hội để cô gỡ bỏ bộ xám đỏ khỏi người Howl trước khi nó làm hủy hoại trái tim của cô Angorian – trừ khi, dĩ nhiên, là Howl nằm ngủ với nguyên bộ quần áo đó, chuyện mà cô cho là Howl dám làm lắm. Vậy là Howl đã đi tìm Justin từ khi ông ta lên Upper Folding và gặp Lettie. Lettie đáng thương! Sophie nghĩ, tay thoăn thoắt thêu từng đường kim mũi chỉ nhỏ nhắn, dứt khoát quanh cái tam giác xanh thứ năm mươi bảy. Chỉ còn khoảng bốn chục cái nữa là xong. Tiếng Howl la lên yếu ớt, “Giúp tôi với! Tôi đang chết vì bị bỏ rơi ở trên đây đây!” Sophie khì mũi. Michael bỏ cái bùa chú đang làm để chạy lên chạy xuống cầu thang. Mọi việc đều rối ren. Trong thời gian Sophie khâu hơn mười tam giác xanh, Michael chạy lên cầu thang với chanh và mật ong, với một quyển xách, với nước trị ho, với một cái muỗng để khuấy nước trị ho, rồi với nước nhỏ mũi, kẹo the, kem súc miệng, bút, giấy, ba quyển sách, và một chén nước ép vỏ cây liễu. Người ta cứ đến gõ cửa hòai, làm Sophie giật nảy mình và Calcifer nhấp nháy sợ sệt. Khi không ai mở cửa, một vài người tiếp tục đập thình thình khoảng năm phút hơn, nghĩ rất đúng là mình đang bị lờ đi. Đến lúc này thì Sophie lo cho bộ áo xanh bạc. Nó càng lúc càng nhỏ dần. Không thể nào khâu hàng đống mảnh tam giác đó mà không tốn vải. “Michael,” cô nói khi Michael chạy vội xuống cầu thang lần nữa bởi vì Howl muốn ăn trưa bằng bánh mì kẹp thịt xông khói. “Michael, có cách nào làm áo nhỏ to hơn không?” “Dạ, được,” Michael đáp. “Đó là cái thần chú mới của cháu mà – khi cháu có cơ hội nghiên cứu nó. Anh Howl muốn sáu miếng thịt xông khói trong bánh mì. Bà có thể nói với Calcifer được không?” Sophie và Calcifer liếc mắt nhìn nhau. “Tôi không nghĩ Howl đang chết,” Calcifer nói. “Tôi sẽ cho cậu ăn vụn bánh nếu cậu chịu cúi đầu,” Sophie đáp, đặt kim chỉ xuống. Dụ dỗ Calcifer thì dễ hơn là ăn hiếp cậu ta. Bọn họ ăn trưa bằng bánh mì kẹp thịt xông khói, nhưng Michael phải chạy vội lên cầu thang giữa bữa ăn. Howl bảo cậu đi Market Chipping để mua một vài thứ cần thiết cho việc chuyển dời tòa lâu đài. “Nhưng còn bà phù thủy … có an toàn không?” Sophie hỏi. Michael liếm mỡ thịt xông khói trên ngón tay và lao vào trong kho chứa đồ. Cậu bước ra với một cái áo choàng nhung đầy bụi vắt trên vai. Cuối cùng, người đi ra ngoài bận áo choàng là một người đàn ông vạm vỡ râu đỏ. Người đó mút ngón tay và nói bằng giọng của Michael, “Anh Howl nói cháu làm vậy là an toàn rồi. Nó có cả thần chú chỉ đường sai và hóa trang nữa. Không biết Lettie có nhận ra cháu không.” Người đàn ông vạm vỡ mở cửa xanh lục xuống và nhảy ra cánh đồi bên ngòai. Yên tĩnh đã trở lại. Calcifer cũng lắng xuống và kêu tí tách. Howl rõ ràng cũng nhận ra rằng Sophie sẽ không chạy quanh trông chừng anh. Trên lầu hoàn tòan im ắng. Sophie đứng dậy và len lén đi đến kho chứa đồ. Đây là cơ hội để cô đi thăm Lettie. Lettie có lẽ đang rất khốn khổ. Sophie chắc là Howl đã không gặp cô bé từ ngày ấy trong vườn. Nếu Sophie bảo Lettie là tình cảm của cô chỉ vì cái áo bị phù phép thì sẽ an ủi được phần nào. Dù sao, cô cũng nợ Lettie một lời giải thích. Đôi hài bảy dặm không còn nằm trong tủ. Thoạt đầu Sophie không thể tin được. Cô lôi mọi thứ ra. Và không có gì nữa ngoài mấy cái thùng nước, chổi, và một cái áo choàng nhung khác. “Quỷ sứ mắc dịch!” Sophie kêu. Howl rõ ràng không muốn cô theo dõi anh nữa. Cô đặt mọi thứ trở lại vào trong tủ khi có tiếng gõ cửa. Sophie, như thường lệ, giật mình và hi vọng họ sẽ đi đi. Nhưng người này có quyết tâm hơn cả. Tiếng gõ cửa vẫn vang lên – hoặc có lẽ là tiếng giộng mình vào cửa, bởi vì âm thanh phát ra là tiếng whump, whump, whump đều đặn hơn. Sau năm phút mà người đó vẫn tiếp tục đập cửa. Sophie nhìn những tia lửa xanh tí tách, là tất cả Calcifer mà cô có thể nhìn thấy. “Phải bà phù thủy không?” “Không,” Calcifer lúng búng dưới mấy khúc củi. “Cánh cửa tòa lâu đài. Người nào đó hẳn đang chạy cạnh chúng ta. Chúng ta đang đi rất nhanh.” “Có phải là con bù nhìn không?” Sophie hỏi, tim cô đập thình thình trước ý nghĩ đó. “Nó có máu thịt,” Calcifer đáp. Khuông mặt xanh dương trèo lên đỉnh ống khói, băn khoăn. “Tôi không biết là gì nữa, trừ một chuyện là nó muốn vào trong lắm. Tôi không nghĩ nó có thể gây hại.” Bởi vì tiếng whump whump vẫn còn tiếp tục, làm cho Sophie có cảm giác khó chịu như mình bị hối thúc, cô quyết định mở cửa, và ngừng nó lại. Hơn nữa, cô cũng tò mò muốn biết nó là gì. Cô vẫn còn nắm cái áo choàng nhung thứ hai trong tay sau khi lục tung cả cái kho chứa đồ lên. Vì thế, cô ném nó qua vai khi cô đi ra cửa. Calcifer ngó sững. Và, lần đầu tiên từ khi cô biết hỏa yêu, cậu ta tự động cúi đầu xuống. Tiếng cười khùng khục phát ra từ dưới những ngọn lửa xanh dương xoăn tít. Băn khoăn không biết áo choàng đã biến cô thành gì, Sophie mở cửa.
|
Một chú chó săn khổng lồ nhảy chồm lên từ ngòai sườn đồi giữa những khối đen của tòa lâu đài và hạ chân vào trong giữa phòng. Sophie thả áo choàng xuống và chạy vội ra sau. Cô luôn sợ chó, và chó săn lại càng không có vẻ gì làm cô yên lòng cả. Con này đặt mình chặn giữa cô và cánh cửa, rồi ngó cô chằm chằm. Sophie liếc những tảng đá đang chạy và đồng cỏ thiên thanh bên ngoài, tự hỏi không biết có nên gọi Howl không. Con chó cong cái lưng đã cong lại và bằng cách nào đó kéo thân mình nó đứng lên trên hai chân. Nó gần cao bằng Sophie. Hai chân trước giơ ra cứng nhắc và lại rướn thẳng nữa. Vừa lúc Sophie há miệng ra tính kêu Howl, con vật đưa ra một nỗ lực hết sức mạnh mẽ và bật thẳng lên biến thành hình dáng của một người đàn ông bận đồ màu xám nhăn nhúm. Y có mái tóc màu gừng và khuôn mặt xanh xao, buồn bã. “Từ Upper Folding tới!” người-chó nói hổn hển. “Yêu Lettie… Lettie kêu tôi đến… Lettie khóc và rất buồn… kêu tôi đến với cô… bảo tôi ở lại…” Y bắt đầu gập mình và thu nhỏ lại trước khi nói hết. Y tru lên tuyệt vọng và khó chịu. “Đừng nói với Pháp sư!” y rên rỉ và thu mình trong mái tóc đỏ xoăn thành một một con chó trở lại. Một con chó khác. Lần này y là con lông xù màu đỏ. Con chó lông xù đỏ lúc lắc cái đuôi ngắn và hai mắt khốn khổ của nó nhìn Sophie khẩn khoản, van xin. “Ồ, trời phật ơi,” Sophie nói khi đóng cửa lại. “Ông bạn thật đúng là gặp rắc rối. Ông là con chó xám đó phải không? Bây giờ tôi hiểu dì Fairfax đã nói gì. Mụ phù thủy đúng là muốn bị giết mà, đúng thật sự! Nhưng tại sao Lettie lại cho ông đến đây? Nếu ông không muốn tôi nói với pháp sư Howl…” Con chó gầm gừ nho nhỏ khi nghe cái tên đó. Nhưng nó cũng ve vẩy đuôi và nhìn cầu khẩn. “Được rồi. Tôi sẽ không nói với Howl,” Sophie hứa. Con chó có vẻ yên lòng. Y chạy đến cạnh lò sưới, liếc Calcifer thận trọng và nằm xuống cạnh thanh cời lửa, mình cuộn thành một đống lông đỏ nhỏ nhắn. “Calcifer, cậu nghĩ sao?” Sophie cất tiếng. “Con chó này là một người bị nguyền,” Calcifer nói điều tất nhiên. “Tớ biết, nhưng cậu có thể tháo bỏ lời nguyền không?” Sophie hỏi. Cô đoán Lettie đã nghe đồn, như nhiều người khác, là Howl đang có một bà phù thủy làm việc cho anh. Và dường như việc biến con chó thành người đàn ông, để ông ta trở về Upper Folding trước khi Howl thức dậy và nhìn thấy ông ta, trở nên quan trọng. “Không. Tôi cần liên kết với Howl để làm thế,” Calcifer đáp. “Được rồi, để tôi thử một mình,” Sophie nói. Lettie đáng thương! Bị Howl bỏ rơi, và người đàn ông khác lại là một con chó hầu hết thời gian! Sophie đặt bàn tay lên cái đầu tròn trịa, mềm mại của con chó. “Trở lại thành người đàn ông đi,” cô nói. Cô lặp lại nhiều lần, nhưng điều đó chỉ làm con chó ngủ say hơn. Nó ngáy và cuộn quanh chân Sophie. Trong khi đó, trên lầu lại vang lên tiếng nhiều tiếng rên rỉ. Sophie vẫn tiếp tục thì thầm với con chó và lờ đi tiếng rên. Một tràng ho xé ruột thật là to theo sau, lịm vào nhiều tiếng kêu rên. Sophie cũng giả vờ không nghe. Tiếng hỉ mũi ầm ầm theo sau tiếng ho, mỗi cái làm long cả cửa sổ và cửa chính. Sophie thấy khó mà lờ đi được, nhưng cô cũng cố gắng. Pooot-pooooot! tiếng hỉ mũi tiếp tục, như tiếng kèn trong một đường hầm. Và tiếng ho lại cất lên, xen lẫn tiếng rên la. Những cái hắt hơn xen lẫn tiếng rên, và tiếng ho, và âm thanh trở thành một giàn giao hưởng mà Howl tự mình đạo diễn ho, rên, hỉ mũi, hắt hơi, và rên nhẹ nhàng cùng một lúc. Cánh cửa lung lay, xà nhà rung chuyển, và một cây củi của Calcifer lăn xuống sàn. “Được rồi, được rồi, tôi hiểu ý anh rồi!” Sophie kêu, liệng khúc củi trở lại vào trong lò. “Sẽ có nhớt xanh kế tiếp chứ gì. Calcifer, canh chừng con chó đó nha.” Rồi cô ì ạch leo cầu thang, miệng lầm bầm lớn tiếng, “Thiệt tình, mấy gã pháp sư! Làm như là từ trước đến nay chưa có ai bị cảm vậy đó! Well, cái gì thế?” cô hỏi, tập tễnh xuyên qua cánh cửa phòng và bước lên tấm thảm bẩn thỉu. “Tôi đến chết vì buồn chán mất,” Howl rên rỉ đáng thương. “Hay là chỉ đang chết thôi.” Anh đang nằm trong đống gối xám dơ bẩn, trông rất tiều tụy, trên mình phủ một cái có lẽ là tấm khăn trải giường, chỉ có điều là nó cùng một màu với bụi bặm. Bọn nhền nhện mà anh yêu mến thì đang bận rộn giăng tơ ngay trên đầu giường. Sophie rờ trán anh. “Cậu bị sốt một chút,” cô thú nhận. “Tôi mê sảng rồi,” Howl đáp. “Những đốm đen đang bò trước mắt tôi.” “Đó là mấy con nhện,” Sophie nói. “Tại sao cậu không tự chữa mình bằng thần chú đi?” “Bởi vì không có cách nào chữa cảm,” Howl ai oán nói. “Mọi chuyện cứ quay mòng mòng trong đầu tôi - hay có lẽ đầu tôi đang quay mòng mòng quanh mọi chuyện. Tôi cứ nghĩ về những lời trong câu thần chú của bà phù thủy. Không ngờ bà ta có thể bắt được tôi dễ dàng như thế. Bị bắt rất là xấu mặc dù mọi thứ đến giờ đều là tại tôi làm hết. Tôi chỉ chờ cho các thứ còn lại xảy ra thôi.” Sophie nhớ lại những câu đố trong bài thơ. “Thứ gì chứ? ‘Kể tôi nghe những năm tháng qua ở đâu’?” “Oh, tôi biết,” Howl nói. “Của chính tôi, không ai khác. Chúng ở đó, ở nơi mà chúng thường ở. Tôi có thể đi và hóa thành tiên xấu tại lễ rửa tội của tôi nếu muốn. Có lẽ tôi đã làm thế và đó là nguyên nhân của mọi sự rắc rối. Không, có ba thứ tôi đang chờ đợi: mỹ nhân ngư, rễ ớt ma, và cơn gió thúc đẩy tâm trí thật thà. Và xem tôi có tóc trắng hay không, có lẽ, chỉ là tôi không thể xóa bỏ thần chú đó được để xem. Chỉ còn ba tuần nữa là chúng sẽ đến, và bà phù thủy sẽ bắt được tôi. Nhưng mà Cuộc Hội Ngộ của Câu Lạc Bộ Rugby là hôm trước ngày Hạ Chí, nên ít nhất tôi cũng xem được nó. Những cái khác đã xảy ra từ lâu rồi.” “Ý cậu là ngôi sao sa và không thể nào tìm được người phụ nữ xinh đẹp và thật lòng đó hả?” Sophie đáp. “Tôi không ngạc nhiên, với cách cậu xử sự. Bà Pentstemmon nói với tôi là cậu đang đi về hướng xấu. Bà nói đúng, phải không?” “Tôi phải đến dự tang lễ của bà ngay cả khi không còn mạng,” Howl buồn bã. “Bà Pentstemmon lúc nào cũng nghĩ tốt về tôi. Sự quyến rũ đã làm bà mù quáng.” Nước trào ra từ mắt anh. Sophie không biết là anh có thật sự khóc hay chỉ là cơn bệnh. Nhưng cô để ý là anh đang trườn đi lần nữa. “Tôi đang nói tới cái cách cậu cứ bỏ con người ta ngay khi cậu làm người ta thích cậu,” cô phán. “Tại sao lại làm vậy?” Howl giơ ngón tay run run chỉ lên thành giường. “Đó là nguyên nhân tôi thích nhền nhện,” anh nói. “Nếu không thành công thì cố, cố, cố lần nữa.’ Tôi cứ cố gắng hòai,” giọng anh buồn bã. “Nhưng tôi đã tự mình hại mình khi làm cuộc trao đổi đó mấy năm trước, và tôi biết tôi sẽ không còn yêu ai được nữa.” Nước chảy ra khỏi mắt Howl bây giờ chắc chắn là nước mắt. Sophie lo lắng. “Nào, cậu không nên khóc…” Có tiếng kêu lộp độp bên ngoài. Sophie quay lại và nhìn thấy người chó đang thu mình thành một cuộn tròn để cố lách qua cánh cửa. Cô vươn tay, và nắm một nắm lông đỏ, cho rằng y sẽ nhất định cắn Howl. Nhưng con chó chỉ dụi vào chân cô làm cô phải lảo đảo dựa vào tường. “Cái gì vậy?” Howl hỏi. “Con chó mới của tôi,” Sophie nói, tay nắm chặt lông nó. Bây giờ cô đang dựa vào tường, cô có thể nhìn qua cửa sổ phòng ngủ. Đáng lẽ nó phải nhìn ra sân sau, nhưng nó lại hiện một khu vườn hình vuông, đẹp đẽ với cái xích đu ở giữa. Sophie nhìn thấy cháu gái của Howl, cô bé Mari, chạy trên thảm cỏ xanh mướt. Chị Howl, Megan, theo sau Mari. Cô đang la Mari không nên ngồi trên xích đu còn ướt, nhưng không có tiếng gì vang lên. “Không phải là xứ Wales đó sao?” Sophie hỏi. Howl phá ra cười, tay đập đập trên khăn trải giường. Bụi bay mờ mịt như khói. “Con chó mắc dịch!” anh khào khào. “Tôi đã cá với mình là tôi có thể giữ không cho bà ngó ra ngoài cửa sổ lúc bà ở trong phòng này.” “Có thật không?” Sophie đáp, và cô buông con chó ra, hi vọng nó sẽ cắn Howl thật mạnh. Nhưng con chó chỉ tiếp tục dúi vào cô, đẩy cô ra cửa. “Vậy là tất cả bài hát và nhảy múa hồi nãy chỉ là một trò chơi, phải không?” cô nói. “Tôi phải biết chứ!” Howl ngả người ra trên cái gối xám, vẻ tổn thương. “Có khi,” anh khiển trách, “bà nói cứ như là Megan.” “Có khi,” Sophie trả lời, suỵt đuổi con chó ra khỏi phòng, “tôi hiểu tại sao Megan lại trở thành như thế.” Rồi cô sập cửa lên mấy con nhện, bụi bặm, và khu vườn một cái rầm.
|
Chương 15: Howl dự đám tang trong lớp ngụy trang Người-chó cuộn tròn người và đè lên chân Sophie khi cô trở về công việc khâu vá của mình. Có lẽ y hi vọng cô sẽ tháo gỡ lời nguyền nếu cu71 ở gần cô. Một người đàn ông to lớn, râu đỏ tung cửa vào nhà, tay khệ nệ bưng một cái hộp đầy đồ, và tháo cái áo khoác nhung thành Michael, vẫn còn bưng cái hộp ắp, người-chó ngồi dậy và lắc lư cái đuôi. Y để Michael vỗ đầu và vuốt tai. “Hi vọng nó sẽ ở lại,” Michael nói. “Cháu luôn muốn có một con chó.” Howl nghe tiếng Michael. Anh xuống cầu thang quấn trong cái khăn trải giường màu nâu. Sophie ngừng tay khâu và cẩn thận níu chặt con chó. Nhưng nó cũng rất ngoan ngoãn với Howl, không tỏ vẻ phản đối khi Howl đưa tay ra khỏi cái khăn trải giường và vỗ đầu nó. “Sao rồi?” Howl khàn khàn, tỏa ra từng đám bụi mờ khi anh rút khăn tay ra từ không khí. “Em mua được hết,” Michael nói. “Và thật là may mắn đó anh Howl. Có một cái tiệm đang rao bán ở dưới Market Chipping. Một tiệm nón cũ. Anh nghĩ mình nên chuyển tòa lâu đài xuống đó không?” Howl ngồi trầm ngâm trên cái ghế cao trong miếng vải quấn quanh người như một viên nghị sĩ La Mã xưa. “Tùy theo giá của nó nữa,” anh nói. “Tôi cũng muốn chuyển cổng Porthaven tới đó. Nhưng sẽ không dễ đâu, bởi vì chuyện đó có nghĩa là phải chuyển cả Calcifer nữa. Porthaven là nơi ở thực chất của Calcifer. Cậu nghĩ sao hả, Calcifer?” “Tớ mà chuyển đi thì mệt lắm,” Calcifer đáp. Cậu ta đã trở nên xanh xao hơn với ý nghĩ đó. “Cậu để tớ ở chỗ cũ thì hơn.” Vậy là dì Fanny đang bán cửa tiệm, Sophie nghĩ khi ba người còn lại tiếp tục thảo luận về việc dời nhà. Vậy là xong cái lương tâm mà Howl tự khoe là có! Nhưng ý chính trong đầu cô là cách cư xử kỳ lạ của con chó. Mặc dù Sophie nói nhiều lần là cô không thể cởi bỏ lời nguyền được, y hoàn tòan không có vẻ gì muốn bỏ đi. Y không muốn cắn Howl. Y để Michael dắt đi chạy bộ trong Porthaven Marshes tối đó và sáng hôm sau. Mục tiêu của y dường như là trở thành một phần tử của gia đình. “Nếu ta là ngươi, ta sẽ trở về Upper Folding để chăm sóc Lettie không cho nó yêu người khác,” Sophie bảo. Howl cứ liên tục đi nằm rồi lại đi ra khỏi giừơng cả ngày. Khi anh nằm trong giường, Michael phải chạy bở hơi tai lên xuống cầu thang. Khi anh dậy, Michael phải vắt chân lên cổ, đo tòa lâu đài và đặt dấu kim loại vào mỗi góc nhà. Xen kẽ vào những lúc ấy, là Howl cứ hiện ra, mình quấn trong tấm khăn trải giường và đám mây bụi, hỏi han và thông báo, phần lớn là nói với Sophie. “Sophie, bà là người đã tẩy trắng các dấu ấn chúng tôi làm khi tạo nên lâu đài, có lẽ bà có thể cho tôi biết các dấu ấn trong phòng Michael ở đâu.” “Không,” Sophie đáp, tay khâu miếng vải hình tam giác thứ bảy mươi. “Tôi không biết.” Howl hắt hơi buồn bã và đi nằm. Không lâu sau anh hiện ra nữa. “Sophie, nếu ta mua cái tiệm nón đó, thì ta sẽ bán gì?” Sophie nhận ra mình đã chán chê nón đến tận cổ. “Không phải nón,” cô trả lời. “Mua được cửa hàng, nhưng không thể mua được doanh nghiệp, cậu biết đấy.” “Áp dụng tâm trí quỷ quái của bà vào chuyện đó đi,” Howl nói. “Thậm chí là suy nghĩ, nếu bà biết cách.” Và anh lại bước lên trên lầu. Năm phút sau, anh trở lại. “Sophie, bà có ý tưởng nào cho những cái cổng khác không? Bà muốn ta sống ở đâu?” Sophie tức thời nghĩ đến căn nhà của dì Fairfax. “Tôi thích một căn nhà với nhiều hoa,” cô nói. “Hiểu rồi,” Howl cất giọng khàn khàn và quay đi. Lần sau gặp, anh đã đóng bộ đàng hoàn. Đó là lần thứ ba trong ngày, và Sophie không nghĩ gì cho đến khi Howl đặt lên áo khoác nhung Michael đã dùng và biến thành một người đàn ông râu đỏ, xanh xao, ho hen, với một cái khăn tay đỏ gắn trên mũi. Cô nhận ra Howl đang sắp đi ra ngòai. “Cậu sẽ bệnh nặng hơn cho coi,” cô nói. “Tôi sẽ chết và mấy người sẽ hối hận,” người đàn ông râu đỏ nói, và đi ra cửa với nút vặn xuống màu xanh lơ. Trong một giờ sau, Michael phải có thời gian để nghiên cứu tiếp cái thần chú. Sophie tiếp tục khâu đến miếng tam giác thứ tám tư. Rồi người râu đỏ trở lại. Ông bỏ áo khoác nhung và biến thành Howl, càng ho dữ dội hơn trước, và, nếu còn có thể, tự thấy thương cảm cho mình hơn bao giờ. “Anh đã mua cái tiệm,” anh bảo Michael. “Đằng sau nó có cái nhà kho rất tiện lợi và một căn nhà kế bên, anh mua đứt hết. Không biết sẽ trả bằng gì giờ.” “Vậy còn khoản tiền nếu anh tìm được Vương gia Justin thì sao?” Michael hỏi. “Cậu quên,” Howl khò khè, “mục đích của cả cái hành động này là để không phải tìm Justin. Chúng ta sẽ biến mất.” Rồi anh ho sù sụ lên phòng, nơi anh bắt đầu những cái hỉ mũi rung chuyển cả xà nhà để gợi sự chú ý lần nữa. Michael phải bỏ câu thần chú lại và phóng lên cầu thang. Sophie đã định đi, nhưng người-chó cản lại. Đó là một hành vi kì lạ của y nữa. Y không thích Sophie làm gì cho Howl. Sophie cảm thấy đó là một lý do khá hợp lý. Cô bắt đầu làm tiếp miếng tam giác thứ tám mươi lăm. Michael phấn khởi bước xuống nhà và lại nghiên cứu câu thần chú nữa. Cậu bé vui đến nỗi hòa ca với bài hát chảo chiên của Calcifer và trò chuyện với cái sọ người cũng như Sophie. “Chúng ta sẽ cùng sống ở Market Chipping,” cậu nói. “Cháu sẽ thăm em Lettie mỗi ngày.” “Đó là nguyên nhân cậu bảo Howl về cửa tiệm đó à?” Sophie hỏi, tiếp tục khâu vá. Đây là cái hình tam giác thứ tám mươi chín của cô. “Vâng,” Michael vui vẻ nói. “Lettie kể cho cháu nghe khi hai đứa đang không biết làm cách nào gặp lại được. Cháu bảo em…” Lời cậu nói bị Howl, đang thướt tha xuống cầu thang trong bộ khăn trải giường, cắt ngang. “Lần này chắc chắn là lần xuất hiện cuối cùng của tôi,” Howl nói. “Tôi quên nói là đám tang bà Pentstemmon cử hành ngày mai ở biệt thự gần Porthaven, và tôi cần bộ quần áo này giặt sạch sẽ.” Anh thò tay lấy bộ áo xám đỏ từ trong khăn quấn và thả xuống đùi Sophie. “Bà đang khâu sai bộ rồi,” anh bảo Sophie. “Đây mới là bộ áo mà tôi thích, nhưng tôi không đủ năng lượng để giặt nó.” “Anh có cần thiết phải đi dự tang lễ?” Michael băn khoăn hỏi. “Tôi không dám nghĩ đến việc không đi,” Howl đáp. “Bà Penstemmon đã đào tạo tôi thành một pháp sư ngà nay. Tôi phải đi phúng điếu.” “Nhưng bệnh của anh nặng hơn rồi,” Michael nói. “Tự cậu ta làm mình bệnh nặng hơn,” Sophie tiếp, “cứ lên lên xuống xuống chạy vòng vòng.”
|
Howl lập tức khoác bộ mặt trang trọng nhất. “Tôi sẽ không sao,” anh khò khè, “chỉ cần không gặp gió biển thôi. Đó là một nơi khắc nghiệt, biệt thự Pentstemmon. Hàng cây đều cong vẹo và không có chỗ trú chân hàng dặm.” Sophie biết anh chỉ đóng vai đáng thương tội nghiệp. Cô khì mũi. “Còn mụ phù thủy thì sao?” Michael hỏi. Howl lại ho. “Tôi sẽ hóa trang, có thể là vai một xác chết khác,” anh nói, lướt thướt quay lên trên cầu thang. “Vậy thì cậu cần khăn liệm, không phải bộ áo này,” Sophie nói với với theo. Howl không trả lời. Sophie cũng không nói thêm. Bây giờ cô đã có bộ áo bị phù phép trong tay, một cơ hội hiếm có. Cô lấy cái kéo và cắt bộ xám đỏ thành bảy miếng rách nát. Chắc chắn Howl sẽ không thèm đến nó nữa. Rồi cô trở lại công việc khâu vá những miếng tam giác cuối cùng của bộ áo xanh bạc, hầu hết là xung quanh cổ. Bộ áo bây giờ rất là nhỏ, còn không vừa cho những cậu bé tiểu đồng của bà Pentstemmon nữa. “Michael,” cô nói. “Làm nhanh cái thần chú đó lên. Việc gấp lắm.” “Không còn lâu nữa đâu,” Michael đáp. Nửa giờ sau, Michael đánh dấu danh sách của mình và nói là cậu đã sẵn sàng. Cậu bé mang một cái chén nhỏ chứa một tí xíu bột màu xanh đến cho Sophie. “Bà muốn làm to ở đâu?” “Đây,” Sophie nói, tay cắt sợi chỉ cuối cùng. Cô đẩy người-chó qua một bên để trải bộ áo con nít trên sàn nhà. Michael, rất thận trọng, nghiêng cái chén và rải bột lên trên áo. Cả hai chờ đợi, khá sốt ruột. Một giây trôi qua. Michael thở phào nhẹ nhõm. Cái áo nhẹ nhàng giãn ra bự hơn. Hai người trông nó từ từ giãn ra, giãn ra, cho đến khi một bên áo cuộn thành đống cạnh người-cho và Sophie phải kéo nó ra cho rộng. Sau cỡ năm phút, cả hai đều đồng ý là bộ áo trông vừa với Howl rồi. Michael cầm nó lên và cẩn thận rũ bột dư vào trong lò sưởi. Calcifer rực sáng lên càu nhàu, làm người-chó phải nhảy dựng lên trong giấc ngủ. “Cẩn thận ấy!” Calcifer hét. “Bột mạnh.” Sophie lấy bộ áo và nhón chân rón rén lên cầu thang. Howl vẫn ngủ say trên những cái gối xám, nhền nhện bận bịu giăng tơ xung quanh. Anh có vẻ nghiêm trang và đáng thương trong giấc ngủ. Sophie rón rén đặt bộ quần áo xanh bạc trên cái rương cũ kỹ cạnh cửa sổ, trấn an mình là nó không lớn lên thêm kể từ khi cô cầm nó trong tay. “Tuy vậy, nếu nó làm cậu không đi đám tang được thì cũng không có gì đáng tiếc,” cô thì thầm khi nhìn ra ngoài cửa sổ. Mặt trời ngòai sân bắt đầu xuống thấp. Một người đàn ông cao lớn ở đó, ông nhiệt tình quẳng một trái bóng đỏ cho cháu trai của Howl, Neil. Cậu bé đứng với vẻ lặng lẽ chịu đựng, tay nắm cây chày. Sophie có thể nhận ra người đó là cha của Neil. “Lại rình mò,” Howl thình lình nói sau lưng. Sophie quay lại vẻ hối lỗi, và thấy Howl vẫn còn nửa tỉnh nửa mê. Anh có thể nghĩ bây giờ là hôm qua, bởi vì anh nói, “ ‘Dạy tôi tránh khỏi vết chích của ghen tị’ - đó chỉ là một phần của quá khứ. Tôi yêu xứ Wales, nhưng nó không yêu tôi. Megan lúc nào cũng đầy ganh tị bởi vì chị ấy là người có mặt mũi mà tôi thì không.” Rồi anh tỉnh hơn một chút, và hỏi, “Bà làm gì ở đây vậy?” “Chỉ mang cái áo đến thôi,” Sophie đáp và nhanh chóng lạch bạch ra khỏi phòng. Howl chắc đã ngủ lại. Anh không xuất hiện cho đến buổi tối. Sáng hôm sau vẫn không có dấu hiệu anh sẽ tỉnh dậy. Sophie và Michael cẩn thận không đánh thức anh. Không ai cho việc đi dự đám tang bà Pentstemmon là sáng suốt. Michael lén đi ra ngòai đồi để dẫn người-chó chạy bộ. Sophie kiễng chân đi rón rén trong nhà, chuẩn bị bữa sáng, hi vọng Howl sẽ ngủ dậy muộn. Vẫn không có dấu hiệu gì của Howl khi Michael trở về. Người-chó đói rã rượi. Sophie và Michael đang lục lọi trong nhà kho để kiếm thức ăn chó thì nghe tiếng Howl chầm chậm xuống cầu thang. “Sophie,” giọng Howl buộc tội cô. Anh đứng đó giữ cánh cửa trước cầu thang mở toang ra với một cánh tay hoàn toàn giấu trong tay áo màu xanh bạc mênh mông. Chân anh, trên bậc thang dưới, đang đứng trong nửa phần trên cái túi của cái khoác. Cánh tay kia của Howl không đến gần được cái cánh tay áo còn. Sophie có thể nhìn thấy đường viền của tay, đang khua khua dưới cái cổ áo rộng lớn. Phía sau Howl, những bậc thang phủ đầy chùm vải màu xanh bạc kéo đến phòng ngủ của anh. “Oh, chời!” Michael thốt. “Howl, là lỗi của em, em…” “Lỗi em? Hừ!” Howl đáp. “Tôi có thể nhận diện ngay bàn tay của Sophie từ một dặm xa. Và cái bộ áo này có đến vài dặm lận. Sophie thân mến, bộ áo kia của tôi đâu?” Sophie vội vàng đem những mảnh của bộ áo xám đỏ ra khỏi phòng chứa đồ, nơi cô cất giấu. Howl xem xét. “Well, thiệt tình mà.” Anh nói. “Tôi tưởng nó phải quá nhỏ để mà nhìn thấy. Đem nó lại đây, tất cả bảy miếng.” Sophie giơ đống vải xám đỏ cho anh. Howl phải mất một lúc mới tìm thấy bàn tay mình trong đống gấp của cánh tay áo màu xanh bạc và thò tay qua vết khâu khổng lồ giữa hai sợi chỉ. Anh chụp lấy bó vải trong tay cô. “Bây giờ tôi,” anh nói, “sẽ chuẩn bị đi dự tang lễ. Làm ơn đi, cả hai người, ráng đừng làm bất cứ việc gì cả trong khi tôi vắng mặt. Tôi có thể nhìn thấy Sophie đang rất khỏe mạnh trong giờ phút này, và tôi muốn căn phòng này vẫn giữ nguyên kích thước khi tôi trở lại.” Anh ngẩng cao đầu hết sức kiêu hãnh đi vào buồng tắm, chân lội qua đống vải của bộ áo xanh bạc. Phần còn lại của bộ áo theo sau anh, kéo lê từng bậc thang một và kêu xào xạc trên sàn nhà. Lúc anh khuất trong phòng, mép áo choàng nằm trên sàn và cái quần xuất hiện trên cầu thang. Howl khép hờ cửa phòng tắm lại và tay kéo từng chút của bộ áo vào trong. Sophie, Michael và người-chó đứng nhìn từng hàng từng hàng vải xanh xen bạc chạy trên sàn, trang trí bằng một cái nút bạc to cỡ cục đá tảng và những cọng chỉ là những sợi dây thừng khổng lồ. Có lẽ là gầnmột dặm vải như thế. “Cháu không nghĩ là cháu đã làm đúng cái thần chú đó,” Michael nói khi phần vải khổng lồ cuối cùng biến mất sau cánh cửa phòng tắm. “Và anh ta đã cho cậu biết thế!” Calcifer phán. “Làm ơn cho tớ thanh củi.” Michael đưa một khúc gỗ cho Calcifer. Sophie cho người-chó ăn. Không ai dám làm gì cả ngòai việc ăn sáng bằng bánh mì phết mật ong cho đến khi Howl ra khỏi phòng tắm. Hai giờ sau Howl mới bước ra ngoài, hơi nước thoang thoảng mùi hương cỏ thơm. Tòan người anh là màu đen. Quần áo đen, ủng đen, và tóc cũng màu đen, cùng một màu xanh đen như tóc cô Angorian. Trên tai lủng lẳng một hoa tai dài đen nhánh. Sophie không biết có phải mái tóc đen là để tưởng nhớ đến Penstemmon phu nhân hay không. Cô đồng ý với bà Pentstemmon là tóc đen hợp với Howl hơn. Nó làm nổi bật cặp mắt màu xanh thủy tinh của anh. Nhưng cái làm cô bận tâm nhiều hơn là bộ áo màu đen thật sự là bộ nào. Howl tự phù phép một khăn tay đen và hỉ mũi vào đó. Cửa sổ lung lay. Anh nhặt mảnh bánh vụn trên ghế và ra dấu cho người-chó. Người-chó nhìn anh nghi ngờ. “Tao chỉ muốn mày đến đây để tao nhìn kỹ thôi,” Howl khò khè. Bệnh cúm của anh vẫn còn. “Đến đây, cưng.” Khi con chó miễn cưỡng bò đến chính giữa phòng thì Howl thêm, “Bà không tìm thấy bộ áo kia của tôi đâu, bà Rình Mò. Bà sẽ không bao giờ được động vào quần áo tôi nữa.” Sophie ngừng nhón chân vào phòng tắm và nhìn Howl đi vòng quanh người-chó, ăn bánh phết mật ong, lại vừa hỉ mũi xì xì. “Cậu nghĩ hóa trang này như thế nào?” anh nói. Anh quẳng cái khăn giấy đen thui về chỗ Calcifer và bắt đầu cúi mình xuống đất. Gần như khi anh làm vậy, anh biến mất. Khi tay chạm đất thì anh đã biến thành một chú chó lông xù màu đỏ, y như người-chó. Người-chó hoàn tòan ngạc nhiên và bản năng tự vệ nổi lên. Lông nó xù lên, tai quặp xuống, và miệng nó gầm gừ. Howl bắt chước - hoặc anh cũng cảm thấy như vậy. Hai con chó giống hệt nhau đi vòng quanh, trừng mắt, gầm gừ, xù lông, sẵn sàng đánh nhau. Sophie túm cái đuôi của con chó mà cô nghĩ là người-chó. Michael túm con chó mà cậu nghĩ là Howl. Howl nhanh chóng biến thành hành người. Sophie nhìn thấy một người áo đen cao lớn đứng trước mặt mình và buông tay ra khỏi áo Howl. Người-chó ngồi dưới chân Michael, nhìn thất vọng. “Tốt,” Howl nói. “Nếu tôi có thể gạt con chó khác, tôi có thể gạt tất cả những người khác. Không ai tại đám tang sẽ để ý đến một con chó hoang nhấc chân chạm vào mộ bia.” Anh ra cửa và vặn nút xanh dương xuống dưới. “Khoan đã,” Sophie cất tiếng. “Nếu cậu định đi dự đám tang trong lớp một con chó lông đỏ, sao lại còn mắc công bận đồ đen làm gì?” Howl hất mặt lên vẻ trang nghiêm. “Để tôn trọng bà Pentstemmon,” anh trả lời, tay mở cửa. “Bà ấy là người chú ý đến các chi tiết.” Anh bước ra con đường của Porthaven.
|
Chương 16: Có rất nhiều ma thuật
Vài giờ trôi qua. Người-chó lại đói bụng. Michael và Sophie quyết định ăn trưa. Sophie tay cầm chảo chiên tiến đến gần Calcifer. “Sao hai người không thử ăn bánh mì với cheese chứ?” Calcifer cằn nhằn. Tuy thế, hỏa yêu cũng cúi đầu xuống. Sophie vừa mới đặt chảo chiên trên đầu ngọn lửa xanh lục thì có tiếng Howl vang lên khàn khàn từ trên không. “Cẩn thận đó, Calcifer! Mụ đã tìm được ta!” Calcifer bật thẳng dậy. Cái chảo chiên rớt xuống chân Sophie. “Bà phải chờ thôi!” Calcifer hét, người bừng cháy rực rỡ lên thẳng ống khói. Gần như trong tích tắc cậu biến hóa thành cả chục khuôn mặt xanh dương, như là đã bị ai đó lắc mạnh, và cháy với tiếng rền rĩ to lớn. “Vậy là họ đang đánh nhau đó,” Michael thầm thì. Sophie ngậm ngón tay bị bỏng vào miệng và tay kia nhặt mấy mảnh thịt sấy khô rơi trên váy, mắt không rời Calcifer. Y đang nghiêng ngả trong bếp lò. Những khuôn mặt của hỏa yêu chuyển từ màu xanh đậm đến xanh thanh thiên và rồi gần như trắng bạch. Một giây y còn có vô vàn đôi mắt màu cam, phút sau, hàng sao bàng bạc. Cô chưa bao giờ tưởng tượng được lại có những điều như thế. Có gì đó quét trên đầu với tiếng ầm ầm và bùm bùm làm mọi vật trong phòng đều chấn động. Theo sau là một vật gì đó, với tiếng rú rít the thé. Calcifer chuyển màu xanh đen, và làn da Sophie gần như cháy xém từ hậu chấn của ma thuật. Michael lết tới cửa sổ. “Bọn họ kéo tới đây rồi!” Sophie bò tới cửa sổ luôn. Cơn bão ma thuật dường như ảnh hưởng đến của nửa thị trấn. Cái sọ người đánh răng cồm cộp đến nỗi nó phải nhảy lòng vòng. Các bịch giấy nhảy chồm chồm. Bột cháy xém. Một cuốn sách rớt khỏi kệ, nằm trên sàn, các trang giấy lật qua lật lại. Dòng suối nước nóng tràn ra khỏi phòng tắm ngập một góc phòng, ở góc khác, cây đàn guitar của Howl khảy lên vài tiếng lạc điệu. Và Calcifer càng quay mình nhanh hơn bao giờ. Michael đặt cái đầu lâu lên bồn rửa mặt để không cho nó khua lộp cộp trên sàn khi cậu mở cửa sổ và nghểnh cổ ra ngoài. Bất cứ việc gì đang xảy ra cũng xảy ra ở phía xa khuất khỏi tầm nhìn. Những nhà bên cạnh cũng đều mở cửa chính và cửa sổ ra, chỉ trỏ vào cái gì đó ở đường chân trời. Sophie và Michael chạy đến phòng chứa đồ, túm lấy áo choàng nhung và khoác lên mình. Sophie lấy được cái biến người mặc thành người đàn ông râu đỏ. Bây giờ cô biết tại sao Calcifer đã cười khi cô mặc áo kia. Michael hóa thành một con ngựa. Nhưng bây giờ không phải lúc cười. Sophie bước ra đường, theo sau là người chó, y có vẻ rất điềm tĩnh. Michael chạy nước kiệu theo cô, móng ngựa vô hình khua lộp cộp, bỏ Calcifer biến màu xanh đến trắng đằng sau họ. Con đường đầy những người đang ngưỡng cổ lên nhìn trên trời. Không ai chú ý đến mấy con ngựa đang chạy ra khỏi chuồng. Sophie và Michael cũng nhìn lên, họ thấy một vầng mây lớn bốc lên và xoắn tít trên các đỉnh ống khói. Nó có màu đen kịt và quay vòng vòng mãnh liệt. Những làn sáng trắng không giống ánh chớp lóe lên xuyên qua đó. Nhưng gần như cùng lúc với Michael và Sophie đến, cụm mây ma thuật đổi hình dạng hình nhiều con rắn đang đánh nhau. Rồi nó bị xẻ ra làm hai, âm thanh khủng khiếp như tiếng hai con mèo đang đánh lộn. Một nửa hú lên và chạy thật nhanh trên nóc, ra ngòai biển lớn, và nửa thứ nhì cũng hét lên đuổi theo. Một vài người vội chạy vào trong nhà. Sophie và Michael gia nhập đoàn người can đảm hơn đi xuống con đường dốc đến bến cảng. Khi đến đó, mọi người ai cũng nghĩ chỗ đứng xem tốt nhất là cạnh bức tường bao quanh bến. Sophie lạch bạch tìm chỗ đứng gần đó, nhưng không cần thiết phải đi xa hơn cái chòi của người bảo vệ cảng. Hai đám mây đậu giữa lưng chừng trời, một số ở tuốt ngoài biển, bên kia bức tường cảng, chỉ có hai đám mây trên bầu trời xanh thẳm. Rất dễ để nhận biết chúng. Cũng rất dễ để nhìn thấy mảng tối của cơn bão đang vần vũ trên biển giữa đám mây, tạo nên những cơn sóng lớn. Có một con tàu xui xẻo ở giữa cơn bão đó. Những cột buồm bị chao đảo dữ dội. Mọi người có thể nhìn thấy vòi nước dập vào các cạnh thuyền. Thủy thủ liều mạng cố điều khiển cánh buồm, nhưng một lá đã bị xé rách tanh bành. “Họ không tránh con thuyền đó được sao!” một người phẫn nộ cất tiếng. Rồi gió, và sóng của cơn bão đánh vào tường bến cảng. Nước trắng xóa quất vào và những người can đảm bên bức tường chạy vội vào bên trong, nơi nhưng cánh buồm nặng nề đang neo. Giữa đám lộn xộn này là tiếng hét trong giọng cao vút như là tiếng hát. Sophie đưa mặt ra ngoài cơn gió ngoài túp lều, nơi tiếng hét phát ra, cô khám phá ma thuật dữ dội không chỉ quấy rầy sóng biển và những con tàu khốn khổ. Những thiếu nữ ướt át, mình mẩy trơn láng với mái tóc xanh nâu tung bay đang kéo mình lên bức tường bến cảng, các cô đang kêu thét lên, và giơ bàn tay dài, ướt đẫm ra cho nhiều thiếu nữ ướt át khác nữa đang bị sóng dập vùi. Tất cả bọn họ đều có đuôi cá thay vì chân. “Quỷ thần ơi!” Sophie thốt. “Mỹ nhân ngư trong lời nguyền!” Vậy là chỉ còn hai điều bất khả thi sẽ thành sự thật. Cô ngước nhìn lên hai đám mây. Howl đang quỳ gối trên đám mây bên trái, to hơn và gần hơn là cô tưởng. Anh vẫn còn trong bộ cánh đen. Không ngạc nhiên, anh đang ngước qua vai để xem những người cá đang hoảng hốt. Ánh mắt không biểu hiện là anh nhớ họ qua lời nguyền gì cả. “Chú ý vào mụ phù thủy!” con ngựa bên cạnh Sophie hét lên. Mụ phù thủy thình lình hiện ra, đứng trên ngọn mây bên phải, trong bộ trang phục màu lửa đỏ, mái tóc đỏ xõa dài, hai cánh tay giơ lên kêu gọi ma thuật. Khi Howl quay lại nhìn bà ta, cánh tay giáng xuống. Đám mây của Howl bùng cháy thành một dòng suối lửa màu hồng. Hơi nóng từ đó tuôn chảy khắp bến cản, và những tảng đá trên tường bốc hơi. “Không sao!” con ngựa thở hổn hển. Howl đứng trên con thuyền đang gần chìm trong cơn giông bão. Anh giờ là một hình ảnh bé nhỏ màu đen, đứng dựa vào cây cột buồm chính. Anh vẫy tay chọc quê để cho mụ phù thủy biết bà ta đã đánh hụt. Mụ phù thủy nhìn thấy ngay khoảnh khắc mà anh đưa tay lên. Cụm mây, phù thủy, và tất cả ngay lập tức biến thành một con chim đỏ khổng lồ, bay xuống tấn công con thuyền. Con thuyền biến mất. Mỹ nhân ngư hét lên sợ hãi buồn rầu. Không còn gì ngoài những đợt sóng nơi con thuyền đứng. Nhưng con chim đỏ đang bay quá nhanh để mà ngừng lại. Nó bổ nhào xuống biển, tạo nên một cột sóng khổng lồ. Mọi người đứng bờ đều cất tiếng hò reo. “Tớ biết ngay đó không phải là con tàu thật mà!” một người đứng sau lưng Sophie nói. “Đúng đó, ắt hẳn là giả thôi,” con ngựa đáp vẻ thông thái. “Nó nhỏ quá chừng.” Để chứng minh cho việc con thuyền thực ra gần hơn là ta thấy, những ngọn sóng từ chấn động bắn lên tường thành trước khi Michael ngừng nói. Ngọn đồi nước màu xanh cao hơn hai mươi feet nổi lên, đẩy người cá vào trong bến cảng, hất tung những con tàu đang nằm neo hai bên, và dộng ầm ầm từng cuộn vào căn chòi của người trông coi bến cảng. Một cánh tay từ hông con ngựa thò ra và đẩy Sophie trở ngược vào bên trong. Sophie giật mình và trợt chân vào trong vũng nước bùn. Người-chó đứng ngay bên cạnh, cả người ướt đẫm. Họ vừa lùi sát vào tường, và những con thuyền trong bến cảng vừa mới dựng lại thẳng đứng, thì một ngọn nước cao như núi chạy thẳng vào tường cảng. Một con quái vật khổng lồ từ trong làn nước xổ tung ra. Thân mình nó dài, màu đen, nửa mèo, nửa hải sư, xộc thẳng vào trên bến. Một con quái vật khác cũng bung ra từ đợt sóng đang đập vào trong bến cảng, cũng mình dài thườn thượt, nhưng nhiều vảy hơn, và chạy đuổi theo con quái đầu tiên. Mọi người nhận ra trận đấu chưa đến hồi kết và ướt lướt thướt chạy nhanh đến những căn chòi và nhà trong bến. Sophie vướng một sợi dây và vấp vào một bậc thềm. Cánh tay thò ra khỏi con ngựa và kéo cô đứng dậy khi hai con quái vật quần thảo nhau trên biển mặn. Một đợt sóng xoay vòng trên tường biển cả, và hai con quái vật nữa xuất hiện. Bọn chúng tương tự như hai con đầu tiên, trừ việc con nhiều vẩy gần con mèo hơn. Và đợt sóng kế mang thêm hai con nữa gần sát nhau nữa. “Chuyện gì vậy?” Sophie the thé khi cặp quái thú thứ ba chạy ngang qua, bước chân làm rung chuyển những tảng đá. “Ảo tượng,” giọng Michael phát ra từ con ngựa, “Một số. Bọn họ định gạt đối phương rượt theo con ảo.” “Thế ai là ai?” Sophie hỏi. “Ai mà biết,” ngựa đáp. Một số người quan sát thấy mấy con quái thú thật đáng sợ. Nhiều người đã về nhà. Một số khác nhảy xuống các con tàu để đuổi quái vật khỏi bến. Sophie và Michael tham gia đám người xem điên cuồng đang chạy qua những con đường của Porthaven đuổi theo đám quái vật. Trước tiên họ đuổi theo dòng sông nước biển, rồi đến vết chân ướt khổng lồ, rồi cuối cùng là vết trầy xước màu trắng nơi móng vuốt của các con quái để lại trên các tảng đá lót đường. Những dấu hiệu đó dẫn mọi người đến phía sau thị trấn chỗ đầm lầy nơi Sophie và Michael đã đuổi bắt sao rơi. Lúc ấy thì cả sáu quái thú chỉ còn là sáu chấm đen nhỏ nhảy nhót, biến mất vào khoảng không gian rộng lớn. Đám đông đứng rải rát trên bờ, chăm chú nhìn, vừa hi vọng sẽ thấy nữa, vừa sợ điều họ sẽ nhìn thấy. Sau một hồi lâu không ai còn thấy gì ngòai đầm lầy trống rỗng. Không có gì xảy ra hết. Vài người bắt đầu quay lưng bước đi, khi dĩ nhiên mọi ngưới la lên, “Xem kìa!”Một trái cầu lửa bay lên là đà ở đằng xa xa. Nó chắc chắn rất là khổng lồ. Tiếng chấn động của nó chỉ đến với người xem khi quả cầu lửa đã trở thành tòa tháp khói khổng lồ. Hàng người đều giật mình trước tiếng động như sấm sét của nó. Họ đứng theo dõi làn khói lan ra cho đến khi nó trở thành một phần của sương mù trên bãi lầy. Bọn họ tiếp tục đứng xem.
|