Lâu Đài Di Động Của Phù Thủy Howl - Howl's Moving Castle
|
|
Những chỉ có yên lặng. Làn gió thổi cỏ trên đầm, và chim lại bắt đầu cất tiếng hót. “Tớ chắc là họ đã tự huỷ diệt nhau rồi,” người ta nói. Đám đông dần dần tách ra thành những cá nhân riêng rẽ trở lại công việc mà họ đã bỏ dở. Sophie và Michael cứ đứng chờ mãi, cho đến khi rõ ràng là mọi việc thật sự đã hết. Họ chầm chậm cất bước trở về. Không ai muốn nói gì cả. Chỉ có người-chó dường như rất vui sướng. Nó bước đi cạnh họ vui vẻ đến nỗi Sophie chắn chắn là y nghĩ Howl đã tiêu thật rồi. Y vui vẻ yêu đời đến mức khi họ đến con đường về nhà của Howl, có một con mèo hoang đang đi qua đường, người-chó sủa lên một tiếng vui vẻ và chạy nhanh theo sau nó. Y rượt thật là nhanh như chớp đến thềm cửa lâu đài, nơi con mèo quay lại và liếc nhìn. “Lượn đi!” nó meo. “Tôi chỉ cần thế này thôi!” Con chó lùi lại một bước, xấu hổ. Michael nhảy một bước đến cổng. “Howl!” cậu hét. Con mèo thu nhỏ thành chú mèo con và trong rất đau khổ. “Và hai người trông tức cười ghê kìa!” nó nói. “Mở cửa đi. Tôi mệt rồi.” Sophie mở cửa và con mèo lết vào nhà. Mèo lết đến gần lò sưởi, nơi Calcifer chỉ còn là một đốm lửa xanh nhỏ, và cố hết sức, đưa chân trước lên ghế. Nó ưỡn người chầm chậm thành Howl, đang cúi mình. “Anh có giết bà phù thủy chưa?” Michael hăng hái hỏi, tháo áo choàng ra và trở lại thành người. “Chưa,” Howl đáp. Anh uể oải ngả người vào ghế, dáng điệu mệt mỏi. “Mà tôi còn đang bị cảm nữa chứ!” anh rên. “Sophie, làm ơn tội nghiệp tôi, cởi cái chòm râu đỏ kinh khủng đó ra và lấy tôi chai rượu đỏ trong tủ – trừ khi bà đã uống hết rồi và chế vào đó thuốc đỏ.” Sophie cởi áo choàng, đi tìm rượu đỏ và một cái ly. Howl uống ực một cái như thể nước lã. Rồi anh đổ một ly nữa, thay vì uống, anh rẫy nhẹ lên mình Calcifer. Hỏa yêu bừng lên và kêu tí tách, dường như hồi sinh được một chút. Howl rót ly thứ ba và ngả người uống từ tốn. “Đừng có đứng nhìn tôi!” anh nói. “Tôi không biết ai thắng. Mụ phù thủy rất khó đối phó. Bà ta dựa vào sức mạnh của hỏa yêu rất nhiều, và nó ở nơi khác. Nhưng chúng ta cũng đánh cho bà ta tan tác, eh, Calcifer?” “Nó già rồi,” Calcifer thì thầm tí tách dưới đống củi. “Tớ mạnh hơn, nhưng nó biết nhiều việc tớ không nghĩ tới. Bà ta đã có nó hơn trăm năm. Và nó đánh tớ ngất ngư!” Y bùng lên một chút, rồi trèo lên đống củi để than vãn, “Cậu có thể cảnh cáo tui chứ!” “Tớ nói rồi!” Howl đáp mệt mỏi. “Cậu biết mọi thứ tớ biết.” Howl nằm đó hớp từng ngụm rượu đỏ trong khi Michael đi lấy bánh và xúc xích. Thức ăn làm bọn họ hồi sinh, có lẽ trừ người-chó, y dường như hiền hơn khi Howl trở lại. Calcifer bắt đầu cháy mạnh và trở nên màu xanh như thường. “Thế này không được!” Howl nói. Anh đứng bật dậy. “Chuẩn bị đi, Michael. Mụ phù thủy đã biết ta ở Porthaven. Chúng ta sẽ không chỉ phải dời lâu đài và cổng Kingsbury nữa. Ta phải chuyển Calcifer đến căn nhà có tiệm bán nón đó.” “Chuyển tớ?” Calcifer thét lên. Mặt chuyển sang màu đỏ ửng kinh hoàng. “Đúng thế,” Howl nói. “Cậu có lựa chọn giữa Market Chipping hay là mụ phù thủy. Đừng có khó tính.” “Mắc dịch!” Calcifer rên và thụt xuống lò.
|
Chương 17: Tòa lâu đài biết đi chuyển nhà Howl làm việc chăm chỉ cứ như anh vừa được nghỉ ngơi một tuần. Nếu Sophie đã không chính mắt nhìn thấy anh vừa đánh trận pháp thuật long trời lở đất chỉ một giờ trước, cô sẽ chẳng bao giờ tin điều đó. Anh và Michael chạy lăng xa lăng xăng, miệng hét lớn số đo cho người kia, và vẽ nhiều kí hiệu kỳ lạ ở những chỗ họ đã đặt dấu sắt lên. Họ dường như vẽ lên tất cả mọi ngõ ngách, kể cả sân sau. Cái chỗ chật hẹp của Sophie dưới cầu thang và cái phòng tắm hình dáng kì dị là hai nơi gây rắc rối cho họ. Sophie và người-chó bị xô qua đẩy lại, và rồi bị gạt ra ngoài hoàn toàn để cho Michael có thể bò người ra vẽ ngôi sao năm cánh trong vòng tròn trên sàn nhà. Michael vừa mới làm xong và phủi bụi phấn khỏi đầu gối thì Howl chạy xộc vào, bộ áo đen lấm lem phủ một lớp bụi màu trắng. Sophie và người-chó lại bị xua ra chỗ khác để cho Howl lê người ra viết kí hiệu trong và ngoài ngôi sao và vòng tròn. Sophie và người-chó ngồi trên cầu thang. Người-chó đang rùng mình liên tục. Đây không phải là loại pháp thuật y thích. Howl và Michael lại chạy ra ngoài sân. Howl quành ngay trở lại. “Sophie!” anh hét. “Mau! chúng ta sẽ bán gì trong cửa tiệm đó?” “Hoa,” Sophie đáp, nghĩ đến dì Fairfax lần nữa. “Tốt lắm,” Howl nói, và chạy đến bên cửa với thùng sơn và cọ nhỏ. Anh nhúng cọ vào trong thùng sơn và cẩn thận tô nút vặn màu xanh thành màu vàng. Anh nhúng lần nữa. Lần này cây cọ trở thành tím. Anh tô nút màu xanh. Lần nhúng thứ ba là màu cam, và màu cam tô lên nút vặn màu đỏ. Howl không đụng đến cái nút màu đen. Anh quay đi, và đuôi tay áo vướng vào thùng sơn cùng với cây cọ. “Thiệt tình!” Howl nói, lôi nó ra. Phần đuôi áo đã biến thành màu cầu vồng. Howl lắc tay, và nó trở lại thành màu đen. “Bộ áo đó thật ra là bộ nào thế?” Sophie hỏi. “Tôi quên rồi. Đừng lộn xộn. Phần khó sắp đến đây,” Howl nói, vội vã đặt thùng sơn trên bàn làm việc. Anh nhặt một chai bột lên. “Michael! Cây xẻng bạc đâu?” Michael từ sân chạy vào, tay cầm cái xẻng lớn lấp lánh. Tay cán bằng gỗ, nhưng cái xẻng có vẻ bằng bạc thật. “Mọi thứ ngoài kia đã sẵn sàng rồi!” cậu nói. Howl đặt cái xẻng lên đầu gối để vẽ phấn kí hiệu lên cả tay cầm và lưỡi xẻng. Xong rồi anh rẩy một chút bột đỏ trong chai lên. Anh cẩn thận rưới chút xíu bột vào mỗi đỉnh của ngôi sao và đổ phần còn lại vào chính giữa. “Tránh xa ra, Michael,” anh phán. “Mọi người ai cũng tránh ra. Sẵn sàng chưa, Calcifer?” Calcifer trồi lên từ những thanh củi thành một sợi lửa dài. “Sẵn sàng rồi,” hỏa yêu nói. “Cậu biết chuyện này có thể giết tớ chứ?” “Nghĩ đến chuyện vui đi,” Howl đáp. “Nó có thể giết tớ. Vịn chặt nha. Một, hai, ba.” Anh chọc cây xẻng vào trong bếp, rất chắc chắn và chậm chạp, giữ nó thẳng và cân bằng. Trong một giây, anh lắc lắc nó nhè nhẹ luồn phía dưới Calcifer. Rồi, còn nhẹ nhàng và vững chắc hơn, anh nâng nó lên. Michael rõ ràng đang nín thở. “Được rồi!” Howl nói. Củi rơi xuống hai bên. Chúng không còn cháy nữa. Howl đứng dậy và quay lại, mang theo Calcifer trên cái xẻng. Căn phòng đầy khói phủ. Người-chó rên rỉ và rùng mình. Howl ho. Anh khó khăn lắm mới giữ vững cái xẻng. Mắt Sophie đầy nước và cô khó thấy đường, nhưng, qua cặp mắt lờ mờ, Calcifer - như đã nói với cô - không có bàn chân, hay cả chân. Thân hình hỏa yêu là một khuôn mặt dài màu xanh dương trụ trên một cái trũng màu đen tỏa sáng nhè nhẹ. Cái trũng đen có chỗ hổng phía trước, thoạt nhìn cứ tưởng là Calcifer đang quỳ trên hai cái chân nhỏ xíu gập lại. Nhưng Sophie biết là không phải vì khi cái trũng bị lắc lư nhè nhẹ, nó có hình dạng tròn tròn phía dưới. Calcifer chắc chắn thấy rất bất an. Cặp mắt màu cam trợn tròn sợ hãi, và hai cánh tay lửa nhỏ cứ trườn ra hai bên, muốn nắm lấy cạnh của cái xẻng. “Không còn lâu đâu!” Howl sặc, cố an ủi. Nhưng anh phải ngậm miệng chặt lại và đứng yên một chỗ cố gắng không ho. Cái xẻng lắc lư một hồi và Calcifer trông rất kinh sợ. Howl vượt qua được. Anh bước từng bước dài, vững chãi vào trong vòng tròn phấn, và vào trung tâm của ngôi sao năm cánh. Tay giữ cho cái xẻng thăn bằng, anh chầm chậm quay vòng tròn, một vòng, và Calcifer cũng quay theo, mặt xanh lè, hoảng hốt. Dường như là cả căn phòng cũng quay theo họ. Người-chó nép lại gần Sophie. Michael lảo đảo. Sophie thấy như là một mảnh đất của họ đã trở nên lỏng ra, và đang lảo đảo, lắc lư vòng vòng một vòng tròn. Cô không trách Calcifer sợ đến như vậy. Mọi thứ vẫn còn lắc lư khi Howl bước từng bước dài, cẩn trọng ra khỏi ngôi sao và khỏi vòng tròn. Anh quì xuống cạnh lò sười, hết sức trân trọng, đẩy Calcifer vào trong bếp và đặt củi xung quanh. Calcifer bùng cháy ngọn lửa xanh lè. Howl dựa vào cái xẻng và ho. Căn phòng giao động dữ dội rồi đứng yên. Trong vài giây, khi luồng khói vẫn còn lan khắp nơi, Sophie ngạc nhiên thấy đường nét quen thuộc của ngôi nhà nơi cô sinh ra. Cô biết thế, mặc dù sàn nhà trống trơn và không có hình ảnh gì trên tường. Tòa lâu đài dường như đã chen vào trong căn biệt thự, đẩy chỗ này, kéo chỗ kia, mang trần nhà xuống để hợp với trần lâu đài, cho đến khi cả hai hòa vào nhau và trở thành tòa lâu đài lần nữa, ngoại trừ việc nó trở nên cao hơn và vuông hơn. “Được chưa hả, Calcifer?” Howl ho khụ khụ. “Tớ nghĩ được rồi,” Calcifer đáp, trèo lên ống khói. Hỏa yêu không có vẻ gì tệ hơn vì chuyến đi trên cái xẻng cả. “Cậu kiểm tra lại thì biết.” Howl dựa vào cái xẻng và đứng lên mở cánh cửa với nút màu vàng chĩa xuống. Ngoài kia là con đường của Market Chipping mà Sophie đã quen thuộc cả đời. Những khuôn mặt thân thiết đang đi trong buổi chiều vàng, bách bộ trước buổi ăn tối, điều mà mọi người thích làm vào mùa hè. Howl gật đầu với Calcifer, đóng cửa, vặn nút cam xuống, và mở lần nữa. Một con đường nhỏ hẹp từ cánh cửa chạy thoai thoải xuống giữa hàng cây xanh lá, đẹp như một bức tranh đang bừng sáng hai bên đường trong ánh hoàng hôn. Ngoài xa là một cánh cổng bằng đá với những tượng đài xung quanh. “Đây là đâu thế?” Howl hỏi. “Thì một biệt thự hoang cuối thung lũng,” Calcifer nói tự ái. “Đó là căn nhà cậu bảo tớ tìm đó. Nó đẹp lắm mà.” “Tớ chắc thế,” Howl đáp. “Chỉ hi vọng chủ nhân nó không phản đối thôi.” Anh đóng cửa lại và vặn nút tím xuống. “Bây giờ đến phiên lâu đài biết đi,” anh nói khi vừa mở cửa lần nữa. Ngoài trời đã chạng vạng tối. Một cơn gió ấm áp mang nhiều hương vị khác nhau thổi vào. Sophie nhìn thấy đợt sóng lá khô đen tràn qua, cuốn theo những bông hoa màu tím xen lẫn. Nó quay vòng chầm chậm ra xa, thế chỗ đó là những đóa hoa loa kèn màu trắng và một tia sáng mờ ảo soi trên cái hồ nước xa xa. Mùi hương tuyệt trần đến nỗi Sophie bất giác bước ra căn phòng. "Ồ không, cái mũi dài cũa bà tránh bên ngoài cho đến sáng mai,” Howl nói, và đóng sập cửa lại. “Chỗ này chỉ ngay bên giới vùng Hoang Phế. Tốt lắm, Calcifer. Hoàn hảo. Một căn nhà xinh và hàng đống hoa, như bà muốn.”
|
Anh quẳng cây xẻng xuống và đi ngủ. Anh hẳn rất mệt mỏi. Trên lầu tuyệt không có tiếng rên rỉ, la lối và gần như không có tiếng ho. Sophie và Michael cũng mệt đừ người. Michael ngã vào trong ghế và ngồi vuốt người-chó, mắt nhìn đâu đâu. Sophie vắt vẻo trên ghế dài, cảm thấy người chộn rộn kỳ lạ. Bọn họ đã chuyển nhà. Nhưng cô vẫn cảm thấy như cũ, nhưng cũng khác hơn, thật là rắc rối. Vùng Hoang Phế? Có phải là câu thần chú đã kéo Howl đến mụ phù thủy không? Hay là Howl cứ luồn lách nhiều đến nỗi anh đã lộn trở lại ngay sau lưng mình và trở thành cái mà người ta gọi là thành thật? Sophie nhìn Michael để xem cậu ta nghĩ gì. Michael đã ngon giấc, và người-chó cũng thế. Sophie liếc qua Calcifer, hỏa yêu cũng ngái ngủ tí tách giữa đám củi, cặp mắt màu cam lim dim. Cô nghĩ đến việc Calcifer run rẩy trắng bệch, với cặp mắt trợn tròn, và rồi Calcifer nhìn ngại ngần khi lắc lư trên cái xẻng. Hỏa yêu gợi cô nhớ đến điều gì. Hình dạng của y. “Calcifer,” cô nói, “cậu đã từng là một ngôi sao sa hả?” Calcifer mở một con mắt màu cam nhìn cô. “Tất nhiên,” cậu ta nói. “Tôi có thể nói về điều đó nếu bà biết. Hợp đồng cho phép tôi như thế.” “Và Howl đã bắt được câu?” Sophie tiếp. “Năm năm trước,” Calcifer đáp, “ở bãi đầm lầy ngoài Porthaven, chỉ khi vừa trở thành Thuật sĩ Jenkin thôi. Y rượt theo tôi bằng đôi hài bảy dặm. Tôi đã rất sợ hắn. Nhưng mà lúc đó tôi cũng đã hoảng sợ lắm rồi, bởi vì khi tôi rơi tôi biết mình sẽ chết. Tôi đổi tất cả để khỏi phải chết. Khi Howl ra đề nghị giữ mạng sống của tớ như cách con người sống, tớ đã ra một hợp đồng ngay lập tức. Không ai trong chúng tớ biết mình đang bước vào cái gì. Tớ thì thấy may mắn, còn Howl chỉ đề nghị bởi vì thấy tội nghiệp cho tớ.” “Cũng như Michael,” Sophie đáp. “Gì thế?” Michael đáp, thức giấc. “Sophie, cháu ước gì mình không ở ngay biên giới của vùng Hoang Phế. Cháu không biết bọn ta sẽ phải ở đây. Cháu không thấy an toàn.” “Không ai an toàn trong nhà một pháp sư,” Calcifer đáp đồng cảm. Buổi sáng hôm sau, cánh cửa được vặn cho nút màu xanh hạ xuống, Sophie bực bội cả mình, vì nó không có mở đến đâu. Cô muốn nhìn thấy hoa, mặc cho có mụ phù thủy hay không. Nên cô trút giận bằng cách lấy xô nước và chùi phấn khỏi sàn nhà. Howl bước vào khi cô đang làm việc. “Làm, làm, làm,” anh nói, bước qua Sophie khi cô đang chùi sàn. Anh trông có vẻ kì lạ. Bộ quần áo vẫn đen tuyền, nhưng mái tóc đã chuyển màu sáng. Màu tóc trông trắng tinh đối lập hẳn với nền đen. Sophie liếc nhìn anh và nghĩ đến lời nguyền. Howl có lẽ cũng đang nghĩ đến nó. Anh cầm cái đầu lâu lên khỏi bồn nước và giữ trong tay, ve đau thương. “Alas, Yorick đáng thương!” anh nói. “Cô ta nghe nói đến mỹ nhân ngư, nên suy đoán là phải có chuyện gì xấu xa ở xứ sở Đan Mạch. Tôi vừa bị cơn bệnh cảm dài muôn kiếp, nhưng may mắn thay tôi rất không thành thật. Tôi sẽ bám vào đó.” Anh ho khọt khẹt ra vẻ thương tâm. Nhưng cơn bệnh của anh đã khá hơn nhiều tiếng ho và không giống cái gì hết. Sophie liếc nhìn người-chó, đang ngồi đó nhìn cô, trông có vẻ ngoan ngoãn như Howl. “Ngươi nên trở về với Lettie,” cô thì thầm. “Chuyện gì thế?” cô nói với Howl. “Tiểu thơ Angorian không ổn sao?” “Khủng khiếp lắm,” Howl đáp. “Lily Angorian có trái tim bằng đá.” Anh đặt cái đầu lâu trở lại bồn nước và kêu Michael. “Thức ăn! Làm việc!” Anh la. Sau bữa sáng họ lôi các thứ trong phòng kho ra. Rồi Michael và Howl đục một lỗ lớn trên tường. Bụi phun mù mịt ra khỏi nhà kho và nhiều tiếng động thùm thụp vang lên. Cuối cùng cả hai la lên kêu Sophie. Sophie tới liền, hai tay xách cái chổi chà. Cô nhìn thấy có cánh cổng vòm tròn chỗ bức tường, dẫn tới cầu thang nối liền cửa tiệm và nhà. Howl mới cô đến và nhìn cửa hàng. Nơi đó trống rỗng và hoang tàn. Sàn nhà giờ lót gạch trắng đen vuông, như hành lang của nhà Pentstemmon phu nhân, và những kệ xưa kia trưng bày nón giờ có một bình hoa hồng nhựa xen lẫn với bó hoa anh thảo. Sophie nhận ra cô phải tỏ vẻ ngưỡng mộ, nên cô không thèm nói gì cả. “Tôi đã tìm thấy hoa trong cái nhà kho đằng sau,” Howl nói. “Ra ngoài đây xem đi.” Anh mở cánh cửa ra đường, và cái chuông cửa rung lên tiếng kêu thân thuộc Sophie đã từng nghe suốt cả cuộc đời. Sophie đi lạch bạch ra con đường vắng vẻ buổi sáng. Cánh cửa tiệm đằng trước đã có màu sơn mới màu xanh lục và vàng. Dòng chữ cong cong trên cửa sổ viết: H. JENKINS HOA TƯƠI HÀNG NGÀY. “Đổi ý về tên thường rồi há?” Sophie nói. “Để hóa trang thôi,” Howl đáp. “Tôi thích tên Pendragon hơn.” “Còn hoa tươi từ đâu đến?” Sophie hỏi. “Anh không thể nói thế và rồi lấy hoa giả cắm nón ra bán.” “Cứ chờ xem,” Howl nói, chân dẫn đường vào trong cửa tiệm. Họ buớc vào trong khu vườn sau mà Sophie đã quen thuộc biết bao. Nó chỉ còn khoảng một nửa, bởi vì sân của Howl từ tòa lâu đài biết đi đã chiếm một phần của nó. Sophie nhìn tòa nhà cũ của mình nằm phía sau bức tường gạch của sân Howl. Nó trong lạ lùng bởi vì cửa sổ mới thuộc về phòng ngủ của Howl, và Sophie cảm thấy kì cục hơn bởi vì cô nhận ra cửa sổ phòng Howl không nhìn thấy những cảnh tượng cô đang thấy bây giờ. Cô có thể thấy cánh cửa sổ căn phòng cũ của mình, chỉ phía trên cửa tiệm. Điều này càng làm cô thấy kì quặc, bởi vì không có cách nào để leo lên trên ấy nữa. Khi Sophie lạch bach sau Howl vào trong nhà lần nữa và leo cầu thang trở lại nhà kho, cô nhận ra mình đang rất thô lỗ. Gặp lại căn nhà cũ thế này làm cô có nhiều cảm xúc lẫn lộn. “Tôi nghĩ nó rất được,” cô nói. “Vậy sao?” Howl lạnh lùng. Anh đã bị tổn thương. Người gì mà thích được ngợi khen quá, Sophie thở dài, Howl bước vào lâu đài và vặn nút màu tím xuống. Mặt khác, cô không nghĩ là mình đã từng khen Howl, cũng như là Calcifer, và cô tự hỏi sao mình phải bắt đầu làm thế chứ. Cánh cửa mở toang ra. Những bụi hoa khổng lồ lướt qua chầm chạm và ngừng lại để Sophie có thể leo xuống đứng giữa chúng. Giữa những bụi cây, con đường đất phủ cỏ xanh biếc dẫn đi khắp nơi. Howl và Sophie đi đến đường gần nhất, và tòa lâu đài đi theo họ, đẩy những cánh hoa tung tóe trên từng bước. Tòa lâu đài, cao và đen, và xấu xí như thế, thổi từng cụm khói nhỏ từ ống khói này đến ống khói khác, không hề lạc lõng nơi đây. Ma thuật ngự trị ở nơi này. Sophie biết rõ. Và tòa lâu đài có vẻ hợp cảnh thế nào. Không khí nóng bức, ẩm thấp, và nồng nàn mùi hoa, hàng ngàn loại mùi. Sophie gần buột miệng nói là hương hoa làm cô nhớ mùi phòng tắm sau khi Howl ở trong ra, nhưng cô cắn môi ngăn mình lại. Chỗ này thật huyền diệu. Giữa các bụi cây và đóa hoa tím, đỏ, trắng của chúng, bãi cỏ ướt sương cũng đầy hoa nhỏ: màu hồng với chỉ ba cánh hoa, những cánh hoa bướm khổng lồ, hoa giáp trúc đào dại, cỏ vũ biển đủ màu, bách hợp màu cam, bách hợp cao màu trắng, diên vĩ, và vô số loại hoa khác. Có những loại dây leo trổ hoa to có thể cài nón, ngô đồng, anh túc, và nhưng cây có hình dáng kỳ lạ và màu lá còn kỳ lạ hơn. Mặc dù nó không giống giấc mơ có một khu vườn như vườn dì Fairfax, Sophie quên bẵng đi sự cau có của mình và trở nên vui vẻ. “Thấy chưa,” Howl nói. Anh giơ một cánh tay ra và ống tay áo đen khuấy động hàng trăm con bướm xanh đang đậu trên bụi cây hoa hồng vàng. “Chúng ta có thể cắt hàng đống hoa mỗi buổi sáng và bán trong Market Chipping với sương mai còn đọng trên chúng.”Cuối con đường, thảm cỏ trở nên lầy lội. Hoa lan dại mọc um tùm trên bụi cây. Howl và Sophie ngẫu nhiên đến một hồ nước nóng mọc đầy hoa súng. Tòa lâu đài quẹo đi tránh hồ nước và đi hướng đối lập đến những cánh hoa khác. “Nếu bà đến đây một mình, hãy đem cây gậy để dò đường,” Howl nói. “Nơi này có nhiều hồ nước nóng và đầm lầy. Và đừng có đi xa hơn hướng đó.” Anh chỉ đông nam, nơi mặt trời là một cái dĩa màu trắng trong không gian đầy sương. “Đó là vùng Hoang Phế - rất nóng bức, hoang tàn, và đầy phù thủy ở trỏng.” “Ai trồng những cây hoa này, ngay biên giới của vùng Hoang Phế?” Sophie nói. “Pháp sư Suliman bắt đầu khoảng năm trước,” Howl đáp, quay bước trở lại lâu đài. “Tôi nghĩ anh ta định làm vùng Hoang Phế trổ đầy hoa và đuổi mụ phù thủy bằng cách đó. Anh ấy mang hồ nước nóng đến và trồng mọi thứ. Kế hoạch làm rất tốt cho đến khi mụ phù thủy bắt được.” “Bà Pentstemmon nhắc đến một tên khác,” Sophie nói. “Cậu ta đến cùng chỗ với cậu, phải không?” “Dường như thế,” Howl đáp. “Tôi chưa bao giờ gặp anh ta cả. Tôi đến nơi này và cố làm tiếp vài tháng sau. Đó là một ý tưởng tốt. Khi ấy tôi gặp mụ phù thủy. Bà ta phản đối ý này.” “Tại sao?” Sophie hỏi. Lâu đài dừng lại đợi họ. “Bà ta tự cho mình là một đóa hoa,” Howl nói, tay mở cửa. “Một đóa lan cô độc, nở trong vùng Hoang Phế. Sến đặc, thiệt đó.” Sophie lưu luyến nhìn đồng cỏ lần cuối trước khi bước theo Howl vào trong. Có hoa hồng, hàng ngàn đóa. “Mụ phù thủy không biết là đang anh ở đây sao?” “Tôi cố làm thứ gì bả không ngờ tới,” Howl đáp. “Vậy thì cậu có thử tìm Hoàng tử Justin không?” Sophie hỏi. Nhưng Howl tránh việc trả lời bằng cách chạy xộc vào phòng chứa đồ, miệng hét lớn gọi tên Michael.
|
Chương 18: Con bù nhìn và tiểu thư Angorian tái xuất hiện
Họ khai trương tiệm hoa vào ngày hôm sau. Như Howl đã nói, mọi việc không thể nào đơn giản hơn. Buổi sáng sớm, họ chỉ cần mở cánh cửa với nút vặn màu tím chĩa xuống, và ra ngoài đồng cỏ xanh để hái hoa. Dần dần việc ấy trở thành lệ. Sophie lấy cây gậy, kéo, chân vừa bước nhảy loi choi, miệng vừa nói chuyện với cây gậy, và dùng nó để dò tìm các vũng đất lầy và kéo những đóa hồng trên cao xuống. Michael đem theo một sáng chế mà cậu rất tự hào. Một cái thùng thiếc đựng nước, bay lơ lửng trong không khí theo chân Michael bất cứ khi nào cậu đi giữa bụi hoa. Người-chó cũng theo nữa. Y rất vui vẻ chạy giữa những con đường đất sũng ướt, đuổi bắt bướm, và gắng bắt cho được những con chim nhỏ xíu, cánh sặc sỡ đang đậu trên hoa. Trong khi y chạy nhảy khắp nơi, Sophie cắt đầy một vòng tay những cánh hoa diên vĩ dài, loa kèn, hoặc là những cây hoa màu cam có cánh chĩa ra tua tủa, hay cánh hoa dâm bụt xanh dương, và cái thùng thiếc của Michael chất đầy hoa lan, hồng, sao nhái, những bông có màu đỏ rực, hay bất cứ loại nào mà cậu thích. Tất cả đều thích khoảng thời gian này. Rồi, trước khi ánh nắng trở nên gay gắt, họ mang hoa về tiệm và trưng bày trong mấy chai lọ, xô, bình sặc sỡ màu sắc mà Howl đã đào lên trong sân. Hai cái bình thật ra là đôi hia bảy dặm. Không gì, Sophie nghĩ khi cô đặt một bó hoa bách hợp vào, có thể cho thấy rõ hơn là Howl đã quên hẳn Lettie rồi. Anh không quan tâm nếu Sophie có dùng chúng hay không. Howl gần như lúc nào cũng vắng mặt khi họ hái hoa. Và nút vặn cửa lúc nào cũng có màu đen chĩa xuống. Anh thường trở về muộn vào buổi sáng, vẻ mơ màng, trong bộ áo màu đen. Anh không bao giờ nói cho Sophie nghe bộ màu đen là bộ nào. “Tôi vẫn còn để tang bà Pentstemmon,” là tất cả mà anh tiết lộ. Và nếu Sophie hay Michael hỏi tại sao Howl lúc nào cũng biến mất vào khoảng đó, Howl lại nói vẻ bi thương, “Nếu muốn trò chuyện với một cô giáo, thì phải tóm được cô trước khi giờ học bắt đầu.” Rồi anh chui vào phòng tắm và ở lì bên trong đến hai giờ tiếp sau đó. Trong khi Sophie và Michael mặc đồ thật đẹp và ra mở cửa tiệm. Howl nhất quyết bắt họ phải mặc trang phục thật đẹp. Anh nói như thế sẽ thu hút nhiều khách hơn. Sophie bảo rằng chỉ cần bận tạp dề. Và chỉ sau vài ngày đầu, khi mọi người ở Market Chipping chỉ nhìn vào cửa kính mà ngập ngừng không vào tiệm, cửa tiệm đã trở nên rất nổi tiếng. Tiếng đồn lan xa là tiệm Jenkin có hoa đẹp chưa từng thấy ở đâu hết. Những người Sophie đã biết cả đời đến và mua hàng đống hoa. Không ai nhận ra cô, và điều đó làm cô thấy rất kỳ lạ. Họ đều nghĩ cô là mẹ của Howl. Nhưng Sophie đã chán chê việc làm mẹ Howl rồi. “Tôi là cô của cậu ta,” cô nói với bà Cesari. Cô được biết đến dưới tên Bà Cô Jenkins. Bằng vào thời gian Howl đến tiệm, trong cái tạp dề đen cho hợp với bộ quần áo, anh thường thấy nó đã bận rộn. Anh vẫn làm nó bận rộn hơn. Đây là lúc Sophie bắt đầu chắc chắn rằng bộ áo đen thật ra là bộ xám đỏ bị phù phép. Bất cứ người phụ nữ nào Howl phục vụ đều chắc chắn phải đi ra với ít nhất hai lần lượng hoa mà cô muốn mua. Hầu hết thời gian Howl quyến dụ họ mua gấp mười lần. Không lâu sau, Sophie để ý thấy các cô gái chỉ nhìn vô và quyết định không vào cửa tiệm khi thấy Howl có mặt ở đó. Cô không trách họ. Nếu bạn chỉ cần một hoa hồng cài áo, không ai muốn bị ép phải mua ba chục đóa hoa lan nữa cả. Vì thế, cô không phản đối khi Howl ở lì trong nhà kho ngoài sân nhiều giờ. “Trước khi bà hỏi, tôi đang lập lớp phòng thủ chống lại bà phù thủy,” anh nói. “Sau khi xong rồi, bà ta sẽ chẳng có cách nào vào đây được.” Thỉnh thoảng có những bông hoa còn sót lại không ai mua. Sophie không thích nhìn thấy chúng héo tàn qua đêm. Cô phát hiện mình có thể giữ chúng tươi lâu hơn nếu nói chuyện với chúng. Sau đó, cô nói chuyện với hoa rất nhiều. Cô bảo Michael làm cho cô một cái thần chú nuôi dưỡng hoa, và cô làm thí nghiệm với mấy cái chậu trong bồn nước, và trong thùng thiếc ở cái xó xỉnh nơi cô thường cắt nón. Cô nhận ra mình có thể kéo dài tuổi thọ của hoa qua nhiều ngày. Dĩ nhiên cô càng thí nghiệm nhiều thêm nữa. Cô lấy một đống bồ hóng ra ngoài sân và trồng cây cỏ vào đó, miệng chóp chép bận rộn. Cô trồng được một hoa hồng màu xanh nước biển, và điều đó làm cô vui sướng. Nụ hoa đen như than, và đóa hoa nở ra xanh biêng biếc và ngày càng xanh hơn cho đến khi gần bằng màu xanh của Calcifer. Sophie vui đến nỗi cô lấy các rễ cây từ trong tất cả cái bao treo trên xà nhà và thí nghiệm chúng. Cô tự bảo mình chưa bao giờ hạnh phúc thế này trong đời. Điều này không đúng. Có cái gì đó không ổn, và Sophie không thể hiểu được là gì. Đôi khi cô nghĩ đó là cách mà không ai ở Market Chipping nhận ra cô. Cô không dám đi thăm Martha, e rằng Martha sẽ không nhận ra mình. Cô không dám đổ hoa ra khỏi đôi hia bảy dặm và đi thăm Lettie với cùng lý do đó. Cô chỉ không thể chịu nổi ý nghĩ hai người em sẽ nhìn thấy cô trong bộ dạng một bà già. Michael lúc nào cũng cầm một bó hoa tươi đi thăm Martha. Đôi khi Sophie nghĩ đó là lý do mà cô buồn bực. Michael lúc nào cũng vui vẻ hạnh phúc, và cô thường bị bỏ rơi một mình trong tiệm. Nhưng dường như cũng không phải thế. Sophie thích được bán hoa một mình. Đôi khi vấn đề dường như nằm ở Calcifer. Calcifer đang rất buồn chán. Cậu ta không có việc gì làm trừ việc giữ tòa lâu đài lướt đi trên bãi cỏ, tránh bước vào những cái hồ, suối, và bảo đảm họ đến một nơi mới, có nhiều hoa mới, mỗi buổi sáng. Khuôn mặt xanh của cậu ta lúc nào cũng hăng hái tựa ra ngoài lò sưởi mỗi khi Sophie và Michael bước vào với nhiều hoa. “Tôi muốn nhìn thấy cảnh bên ngoài,” cậu ta nói. Sophie mang những cánh lá khô thơm tho đến cho cậu đốt, làm tòa lâu đài thơm như là phòng tắm, nhưng Calcifer nói cái cậu thật sự cần là người trò chuyện. Bọn họ lúc nào cũng trông tiệm và để cậu một mình. Vì thế Sophie bắt Michael trông tiệm một mình ít nhất một giờ buổi sáng để cô ngồi tiếp chuyện với Calcifer. Cô sáng chế ra các trò chơi đánh đố để giữ Calcifer bận rộn khi cô có việc. Nhưng Calcifer vẫn chưa hài lòng. “Chừng nào bà mới hủy hợp đồng của tôi với Howl?” hỏa yêu càng ngày càng hỏi câu này nhiều hơn. Và Sophie cắt ngang lời Calcifer, “Tôi đang làm mà,” cô nói. “Không còn lâu nữa đâu.” Điều này không đúng lắm. Sophie đã lâu không nghĩ đến việc này trừ khi bị bắt buộc. Cô ráp lại mọi việc mà bà Pentstemmon đã bảo với mọi chuyện mà Howl và Calcifer kể, và phát hiện ra cô có những ý tưởng khủng khiếp và ghê gớm về hợp đồng. Cô chắc chắn hủy bỏ nó sẽ là kết thúc của cả Howl và Calcifer. Howl có thể xứng đáng thế, nhưng Calcifer thì không. Và vì Howl dường như đang cố gắng hết sức để luồn lách khỏi lời nguyền của bà phù thủy, Sophie không muốn làm gì hết trừ khi có thể giúp được. Thỉnh thoảng Sophie nghĩ đơn giản là người-chó đã làm cô khó chịu. Y là một con vật hiền lành ngoan ngoãn.
|
Những lần duy nhất y có vẻ thích thú chơi đùa là khi y chạy giữa con đường xanh giữa bụi cây mỗi buổi sáng. Rồi cả ngày cậu ta chỉ ủ rủ lết sau Sophie và thở dài. Vì Sophie không thể làm gì cho y hết, cô thấy vui hơn khi thời tiết gần ngày Hạ Chí càng trở nên nóng hơn và người-chó thích ra ngoài sân nằm dưới bóng cây mát, lưỡi le ra thở hồng hộc. Trong khi đó những cái gốc rễ khô Sophie đã trồng giờ trở nên thú vị. Củ hành trở thành một cây cọ và đang đâm ra những củ nhỏ có mùi giống mùi hành. Một rễ cây khác đang hóa thành một cây hoa hướng dương màu hồng. Chỉ có một cái rất chậm lớn. Cuối cùng nó cũng trổ ra hai cánh lá xanh tròn, Sophie càng nóng lòng muốn xem nó trở thành cây gì. Ngày kế tiếp trông nó có thể là cây hoa lan. Lá nhọn điểm màu hoa cà và một nhánh dài trổ ra ở chính giữa với cái nụ thật là lớn ở trên. Ngày hôm sau, Sophie bỏ các cành hoa tươi trong thùng thiếc và chạy thật nhanh đến hốc tường để xem cây hoa thế nào. Nụ hoa đã nở thành cánh hoa màu hồng, nó trông như đóa hoa lan vừa bị xé tơi tả. Cánh dẹp, và túm vào cành bên dưới chỉ dưới cuống tròn. Có bốn cánh hoa bung ra từ phần giữa màu hồng, hai cánh chĩa xuống dưới và hai cánh chĩa lên trên.Trong khi Sophie ngó chằm chằm, mùi hoa xuân mạnh mẽ đến gần báo cho cô biết là Howl đã về và đang đứng cạnh cô. “Đây là cái gì?” anh nói. “Nếu bà muốn một màu tím thật tím hay là màu cực đỏ, bà đã làm sai rồi, Bà Khoa Học Điên ạ.” “Em thấy nó giống hoa bí hơn,” Michael nói, đến gần xem. Đúng như thế. Howl ngó Michael cảnh giác và cầm lấy hoa trong chậu lên. Anh đổ hoa ra khỏi chậu trong lòng bàn tay, và cẩn thận tách ra nhánh cây trắng dài, đất, bồ hóng, và phần còn lại của thần chú phân bón, cho đến khi anh khám phá ra cái rễ màu xám, chĩa đôi mà Sophie đã trồng. “Tôi đoán trúng mà,” anh phán. “Rễ ớt mã. Sophie lại ra tay nữa. Bà đúng là mát tay, phải không, Sophie?” Anh đặt cây trở lại, đưa cho Sophie và đi khỏi, mặt hơi tái. Vậy là gần hết lời chú đã thành sự thật rồi, Sophie nghĩ khi vừa đặt hoa tươi ở cánh cửa kiếng của tiệm. Rễ cây ớt mã đã sinh hoa kết trái. Vậy là chỉ còn một điều cuối cùng: ngọn gió mang một trái tim thành thật. Nếu đó có nghĩa là Howl phải thành thật, Sophie nghĩ, vậy là có cơ hội lời nguyền sẽ chẳng bao giờ thành sự thật. Cô tự bảo mình Howl đáng đời lắm, vì dám đi theo đuổi cô Angorian mỗi buổi sáng trong bộ quần áo bị phù phép, nhưng cô vẫn thấy hối hận. Cô đặt một đống hoa huệ vào trong đôi hài bảy dặm. Cô phải trèo lên cửa sổ để trưng bày nó, và cô nghe tiếng clump, clump, clump quen thuộc ngoài đường. Đó không phải là tiếng của con ngựa. Mà là tiếng của cây đập lên đá lót đường. Tim Sophie cảm giác thình thịch kỳ lạ ngay trước khi cô dám nhìn ra ngoài cửa sổ. Ở đó, cô biết ngay, là một con bù nhìn, nhảy chầm chậm và chắc chắn xuống giữa đường. Những mảnh giẻ rách bay phất phới trên cánh tay giang ra càng ít hơn và đen hơn, và khuôn mặt củ cải quắt lại kiên định, như là nó đã nhảy từ khi Howl đuổi nó đi, cho đến khi cuối cùng nó đã tìm được đường về. Sophie không phải là người duy nhất sợ hãi. Vài người dậy sớm đang chạy thật nhanh khỏi con bù nhìn. Nhưng bù nhìn chẳng chú ý gì đến họ và tiếp tục nhảy. Sophie giấu mặt đi. “Chúng ta không có ở đây!” cô nói thầm thì dứt khoát. “Ngươi không biết ta ở đây! Ngươi không tìm thấy chúng ta. Nhảy đi chỗ khác nhanh!” Tiếng clump, clump của thanh gỗ chậm dần khi con bù nhìn tới gần tiệm. Sophie muốn hét lên kêu Howl, nhưng tất cả những gì cô có thể làm là lập đi lập lại, “Chúng ta không có ở đây. Đi mau đi!” Và tiếng nhảy cồm cộp nhanh lên, như cô đã nói với nó, và con bù nhìn nhảy qua cửa tiệm và tiếp tục lên đường qua Market Chipping. Sophie nghĩ là mình sẽ ngất đi mất. Nhưng cô dường như chỉ nín thở. Cô hít một hơi thật sâu và thấy mình còn run rẩy. Nếu con bù nhìn trở lại, cô có thể đuổi nó lần nữa. Howl đã đi ra ngoài khi Sophie quay trở vào phòng lâu đài. “Anh ấy có vẻ buồn bã dữ lắm,” Michael nói. Sophie nhìn ra cánh cửa. Nút vặn màu đen chĩa xuống. Không có buồn đến nỗi! cô nghĩ. Michael cũng ra ngoài, đến Cesari’s, buổi sáng đó, và Sophie ở một mình trong tiệm. Thời tiết rất là nóng. Những đóa hoa héo tàn tuy có các lời nguyền, và chỉ vài người muốn mua hoa. Những chuyện như thế, và cái rễ ớt mã, con bù nhìn, tất cả xúc cảm của Sophie dồn lại thành một đống. Cô hoàn tòan khốn khổ. “Có lẽ là cái lời nguyền đó cứ lơ lửng muốn bắt được Howl,” cô nói với những đóa hoa, “nhưng tôi nghĩ đó là tại vì là con cả. Nhìn tôi nè! Tôi đi ra ngoài kiếm vận may và cuối cùng cũng trở về nơi mình bắt đầu, và vẫn già cỗi như thế!” Đến đây thì người-chó đặt cái mũi tròn đỏ của mình lên cánh cửa thông đến sân và rên lên một tiếng. Sophie thở dài. Không có một giờ trôi qua mà con thú đó không kiểm tra cô. “Vâng, tôi vẫn còn ở đây,” cô nói. “Ngươi tưởng ta ở đâu chứ?” Con chó bước vào trong tiệm. Y ngồi dậy và vươn món ra thẳng cứng trước mặt. Sophie nhận ra y đang cố biến thành hình người. Con vật tội nghiệp. Cô đã cố đối xử tốt với y bởi vì y, nói cho cùng, còn tệ hại hơn là cô nữa. “Cố hơn nữa đi,” cô nói. “Cố ưỡn cái lưng ra. Cậu có thể làm người nếu cậu muốn.” Con chó vươn mình, và ưỡn lưng ra, kéo và kéo. Và cũng như Sophie chắc là y sẽ thất bại hay là bị té ra sau, y đã đặt được chân sau lên và nâng lên thành một người đàn ông tóc đỏ hoe, khuôn mặt phiền muộn. “Tôi ghen tỵ - Howl” y thở hồng hộc. “Làm chuyện đó - thật dễ dàng. Tôi là - con chó trong bụi cây - bà giúp tôi. Nói với Lettie - tôi biết bà - tôi đã quan sát. Tôi đã - ở đây trước kia khi…” Anh ta bắt đầu uốn người lại thành chó và tru lên bất mãn. “Với bà phù thủy trong tiệm!” tiếng nói trở thành tiếng hú, và ngã người xuống hai tay, thân trổ ra thật nhiều lông xám và trắng. Sophie nhìn con chó to lớn râu ria đứng trước mặt. “Ngươi đã ở đó với bà phù thủy!” cô nói. Cô nhớ lại rồi. Người đàn ông tóc hung đỏ đã nhìn cô kinh hoảng. “Vậy ngươi biết ta là ai và biết ta đã bị phù phép. Vậy là Lettie biết luôn phải không?” Con chó to lớn đầy lông gật đầu. “Bà ta gọi ngươi là Gaston,” Sophie nhớ lại. “Ồ, bạn ơi, bà ta thật đã làm khó ngươi! Cái đám lông lá đó trong thời tiết này! Tốt nhất là nên đi chỗ nào mát đi.” Con chó gật đầu lần nữa và cúp đuôi đau khổ chạy vào trong vườn. “Nhưng tại sao Lettie lại bảo ngươi tới?” Sophie thắc mắc. Cô cảm thấy rất khó chịu và bực bội về sự khám phá này. Cô lên lầu và qua nhà kho để nói chuyện với Calcifer. Calcifer cũng chẳng giúp được gì. “Bao nhiêu người biết cô bị phù phép thì có khác gì đâu,” cậu ta nói. “Cứ coi con chó đó là biết, đúng không?” “Đúng, nhưng mà…” Sophie bắt đầu, nhưng, khi ấy, cửa lâu đài kẹt và mở ra. Sophie và Calcifer cùng ngoái nhìn. Họ thấy nút vặn cửa vẫn có màu đen xuống, và họ đoán là Howl sẽ bước qua cửa ấy. Thật khó mà nói ai trong họ kinh ngạc hơn khi người bước qua cửa một cách cẩn thận là cô Angorian. Angorian cũng kinh ngạc không kém. “Ồ, tôi thành thật xin lỗi!” cô nói. “Tôi tưởng anh Jenkins sẽ ở đây.” “Anh ta đi rồi,” Sophie lạnh lùng đáp, và thắc mắc không biết Howl đi đâu, nếu không phải là đi thăm cô Angorian. Angorian buông tay khỏi cửa, mà cô đã níu chặt lấy trong cơn kinh ngạc. Cô để nó mở nó toang ra và bước từng bước khẩn cầu đến phía Sophie. Sophie thấy mình đã đứng dậy và bước ngang qua phòng.
|