Lâu Đài Di Động Của Phù Thủy Howl - Howl's Moving Castle
|
|
Chương 11: Howl đến một đất nước kỳ lạ để tìm thần chú
Hư không hóa ra cũng chỉ dày một inch thôi. Phía sau nó, trong buổi chiều u ám, mưa rơi lắc rắc, là con đường xi-măng dẫn tới một cánh cổng vườn. Howl và Michael đang đứng đợi ở cổng. Phía xa hơn là một con đường bằng phẳng, cứng cáp với dãy nhà đứng hai bên. Sophie nhìn trở lại nơi cô vừa bước ra, hơi run trong cơn mưa, và nhìn thấy tòa lâu đài biến thành một ngôi nhà gạch màu vàng với nhiều cửa sổ lớn. Như những ngôi nhà khác, nó có hình hộp mới toanh, cửa chính làm bằng kính dợn sóng dầy cộm. Không có ai bên ngoài các ngôi nhà. Có thể là vì họ đã đi tránh mưa, nhưng Sophie có một cảm giác, mặc dù có rất nhiều nhà cửa, nơi này thực chất là ngoại ô của một thành phố. “Chừng nào bà xong việc chĩa mũi dài,” Howl gọi. Bộ áo xám đỏ bị mưa làm thấm ướt. Trên tay anh cầm lủng lẳng một chùm chìa khóa kì lạ, hầu hết đều phẳng lì, vàng vàng, và trùng màu với mấy ngôi nhà. Khi Sophie xuống đường, anh nói, “Ta cần phải đổi trang phục để hợp với chỗ này.” Quần áo anh mờ đi, như thể cơn mưa phùn xung anh trở thành sương mù. Khi mọi thứ trở lại rõ ràng, nó vẫn là bộ áo xám đỏ, nhưng mang hình dạng khác. Hai tay áo dài đã biến mất và bộ quần áo có vẻ rộng lùng thùng. Nó trông có vẻ cũ kỹ và xoàng xĩnh. Áo jacket của Michael ngắn lên đến eo. Cậu giơ chân lên, một đôi giày bằng vải bạt ở chân, và ngó vào hai ống quần xanh dương bao quanh chân cậu. “Khó cử động chân quá đi,” cậu nói. “Cậu sẽ quen thôi,” Howl nói. “Đi nào Sophie.” Sophie ngạc nhiên khi Howl dẫn đường trở lại con đường qua vườn trở lại ngôi nhà màu vàng. Trên lưng áo jacket lụng thụng của anh, cô thấy, có dòng chữ bí ẩn trên đó: WELSH RUGBY. Michel theo sau Howl, tướng đi khá cứng ngắc vì những vật trên chân. Sophie nhìn xuống mình và thấy phần chân gầy được lộ ra gấp hai lần bình thường trên đầu gối. Nhưng những cái khác về cô thì không thay đổi. Howl dùng chìa khóa mở một cánh cửa kính. Nó có miếng gỗ lúc lắc bên cạnh trên chùm chìa khóa. RIVENDELL, Sophie thoáng thấy, khi Howl đẩy cô vào bên trong một hành lang nhỏ, sạch sẽ. Dường như đang có người ở trong nhà. Âm thanh ầm ĩ phát ra từ sau cánh cửa gần nhất. Khi Howl mở cánh cửa, Sophie nhận ra những tiếng nói đó phát ra từ những hình ảnh màu có phép thuật đang chuyển động trong một cái hộp to lớn. “Howell!” người phụ nữ đang ngồi đan áo thốt lên. Cô đặt áo xuống, trông có vẻ hơi bực mình, nhưng trước khi cô đứng dậy, một đứa bé gái, đang nghiêm túc ngồi xem hình ảnh ma thuật với hai tay đặt trên má, ngồi bật dậy và nhào đến Howl. “Cậu Howell!” cô bé hét lên, và nhảy chồm lên Howl, hai chân choàng qua người anh. “Mari!” Howl oang oang trả lời. “Cháu khỏe không, bé yêu? Vẫn ngoan chứ?” Anh và đứa bé gái cùng lúc nói một ngôn ngữ khác, rất nhanh và ồn ào. Sophie có thể thấy hai người rất đặc biệt với đối phương. Cô không biết ngôn ngữ đó. Nó giống như bài hát ngốc nghếch về cái chảo chiên của Calcifer, nhưng thật khó mà khẳng định được. Giữa những tiếng ríu rít của thứ ngôn ngữ mới, Howl cũng xen lẫn vào lời giới thiệu như người đang nói tiếng bụng, “Đây là cháu gái của tôi, Mari, và chị tôi, Megan Parry. Megan, đây là Michael Fisher và Sophie…er…” “Hatter,” Sophie thêm. Megan miễn cưỡng bắt tay hai người, tỏ vẻ không ưa gì. Cô ta lớn tuổi hơn Howl, nhưng khá giống anh, khuôn mặt dài, xương xương, nhưng mắt cô màu xanh biếc và lộ nét băn khoăn, tóc cô màu đen sẫm. “Yên lặng nào, Mari!” cô gắt lên chặn ríu rít xa lạ. “Howell, cậu có ở lại lâu không?” “Chỉ về thăm nhà một chút thôi,” Howl nói, thả Mari xuống đất. “Gareth còn chưa về,” Megan gằn giọng. “Đáng tiếc thật! Chúng ta không thể ở lại,” Howl trả lời, miệng nở nụ cười ấm áp giả tạo. “Em chỉ nghĩ sẽ giới thiệu chị với mấy người bạn. Và hỏi chị điều hơi ngốc nghếch này. Neil có làm mất bài tập tiếng Anh nào gần đây không?” “Thật kỳ lạ là cậu nói thế!” Megan kêu lên. “Thằng bé lùng tìm tờ giấy khắp mọi nơi vào thứ Năm tuần trước! Nó có cô giáo dạy văn mới, và cô đó rất khó khăn, không chỉ về việc đánh vần. Cô ta đe tụi nhỏ phải nộp bài đúng ngày. Cái thằng bé lười biếng đó! Vậy là hôm thứ Năm, tìm bớ cả người lên, nhưng chỉ thấy một tờ giấy cũ kỹ với bài thơ kỳ lạ…” “Ah,” Howl nói. “Thằng bé làm gì với tờ giấy đó rồi?” “Chị bảo nó đem nộp cho cô Angorian,” Megain nói. “Để cho cô giáo thấy nó cũng đã cố gắng.” “Nó có làm vậy không?” Howl hỏi. “Chị không biết. Hỏi Neil đi. Nó trong phòng với cái máy đó,” Megan nói. “Nhưng em không hỏi được nó nói gì đâu.” “Đi nào,” Howl nói với Michael và Sophie, cả hai đang trố mắt nhìn căn phòng sáng màu nâu cam. Anh nắm tay Mari, dẫn họ ra khỏi căn phòng và đi thẳng lên lầu. Ngay cả bậc thang cũng trải thảm, màu hồng xanh. Đoàn người do Howl cầm đầu không gây ra tiếng động gì khi đi trên thảm hồng xanh lên cầu thang và vào trong căn phòng trải thảm xanh vàng. Nhưng Sophie không chắc hai cậu bé đang cúi mình ngồi xem mấy cái hộp ma thuật trên bàn lớn cạnh cửa sổ sẽ liếc nhìn ngay cả nếu có một đội quân với đầy đủ kèn trống đi vào. Cái hộp ma thuật chính có kính phía trước như cái ở nhà dưới, nhưng dường như có chữ và sơ đồ nhiều hơn là hình ảnh. Tất cả những cái hộp làm thành một đường dài rải rác cho đến tận chân tường. “Neil!” Howl kêu. “Đừng có kêu,” một trong hai đứa trẻ nói. “Nó sẽ mất mạng.” Nghe tới việc nguy hiểm đến tính mạng, Sophie và Michael lùi dần ra cửa. Nhưng Howl, không có vẻ gì ngại việc giết cháu mình cả, bước đến tường và kéo cái hộp khỏi gốc rễ. Hình ảnh từ màn hình biến mất. Cả hai cậu bé thốt những từ mà Sophie không nghĩ là ngay cả Martha cũng biết. Cậu trai thứ hai quay mặt lại và hét lên, “Mari! Coi chừng anh đó nhé!” “Lần này đâu phải em. Xí!” Mari hét trả. Neil quay mình nhiều hơn và liếc nhìn Howl căm ghét. “Khỏe không, Neil?” Howl vui vẻ nói. “Ai vậy?” cậu trai kia hỏi. “Ông cậu của tao,” Neil trả lời. Cậu gầm gừ với Howl. Cậu bé có làn da đen thui, lông mày rậm, và vẻ gầm gừ rất có ấn tượng. “Cậu muốn cái gì đây? Gắn dây lại cho cháu.” “Thật là vui được tiếp đón nồng hậu ở đây!” Howl nói. “Cậu sẽ gắn trả lại khi cháu trả lời cho cậu cái này.” Neil thở hắt. “Cậu Howell, cháu đang chơi game ngon mà.” “Trò mới hả?” Howl hỏi. Cả hai đứa con trai trông vẻ bất mãn. “Không, cái này từ hồi Giáng Sinh,” Neil nói. “Cậu cũng biết bố mẹ lải nhải thế nào về vụ tốn tiền và thời gian với mấy cái vô dụng này. Họ không cho cháu mua cái mới chừng nào đến ngày sinh nhật.” “Vậy thì dễ thôi,” Howl đáp. “Cháu đã chơi trước rồi thì còn sợ gì nữa, và cậu sẽ hối lộ cháu trò chơi mới …” “Thật sao?” cả hai hăng hái thốt, và Neil thêm, “Cậu có thể làm một cái nữa mà không có ai có được không?” “Được. Nhưng cháu phải xem cái này trước và nói với cậu đó là gì,” Howl đưa tờ giấy láng bóng ra trước mặt Neil. Cả hai cậu trai nhìn vào. Neil phán, “Đó là một bài thơ,” theo cách mà mọi người thường nói, “Đó là con chuột chết.” “Đó là bài thơ cô Angorian cho bài về nhà làm tuần trước,” cậu bạn kia nói. “Cháu nhớ từ ‘gió’ và ‘vảy cá.’ Nó nói về tàu ngầm.” Sophie và Michael chớp chớp mắt về cái thuyết mới, thắc mắc tại sao họ lại không đoán ra được.
|
Neil thốt lên, “Hey! Đó là bài tập bị mất tích của cháu. Cậu thấy nó ở đâu? Vậy là cái bài thơ mắc dịch kia là của cậu sao? Cô Angorian nói nó rất thú vị - may cho cháu - và cổ lấy về nhà rồi.” “Cám ơn,” Howl nói. “Cô giáo sống ở đâu?” “Cái nhà cạnh tiệm trà của bà Phillips đó. Đường Cardiff,” Neil trả lời. “Chừng nào cậu cho cháu băng mới?” “Khi nào cháu nhớ phần còn lại của bài thơ,” Howl đáp. “Không công bằng!” Neil nói. “Cháu không thể nhớ cả phần nằm ở trên đây. Cậu đùa giỡn trên tình cảm của cháu…!” Cậu trai ngừng bặt khi Howl phá lên cười, mò trong túi quần rộng lùng thùng và đưa cho cậu cái túi dẹp. “Cám ơn!” Neil nhiệt thành nói, và không còn gì thêm nữa cậu bé quay trở lại với mấy hộp ma thuật. Howl gắn chùm rễ vào trong tường, cười nhăn răng ra dấu cho Michael và Sophie ra khỏi phòng. Cả hai cậu bé nhanh chóng hòa vào những hành động bí ẩn, trong khi Mari chen vào giữa, và nhìn với ngón tay trong miệng. Howl nhanh chóng chạy xuống cầu thang hồng xanh, trong khi Michael và Sophie đều lảng vảng trước cửa phòng, thắc mắc về chuyện gì đã xảy ra. Bên trong, Neil đọc lớn. “Bạn đang một lâu đài ma thuật có bốn cánh cửa. Mỗi cánh mở ra một thế giới khác nhau. Trong Thế Giới Thứ Nhất, lâu đài liên tục di chuyển và có thể bị lạc vào nguy hiểm bất cứ lúc nào…” Sophie nghĩ câu chuyện có vẻ quen quen khi lạch bạch bước xuống cầu thang. Cô thấy Michael đang đứng giữa lưng chừng, vẻ mặt ngượng ngùng. Howl đang đứng dưới chân cầu thang tranh cãi với chị mình. “Chị nói vậy là nghĩa gì, bán hết sách của em?” cô nghe Howl nói. “Em rất cần một cuốn trong đó. Có phải của chị đâu mà chị bán.” “Đừng có cắt ngang!” Megan trả lời giọng thấp, dữ dằn. “Nghe kỹ đây! Chị đã nhắc nhiều lần là nơi này không phải kho chứa đồ. Cậu là sự hổ thẹn của chị và Gareth, cứ lang thang trong mấy bộ quần áo lèng phèng, thay vì mua đồ đàng hoàng mà bận như người bình thường, quan biết với mấy người vô công rỗi nghề, đem họ tới nhà này! Bộ cậu muốn kéo chị xuống với cậu hay sao? Đi học cho lắm vào, mà vẫn không kiếm được việc nghiêm túc, chỉ đi lang thang, lãng phí quãng thời gian đi học, lãng phí những sự hi sinh của người khác, lãng phí tiền bạc …” Megan có thể là đối thủ của dì Fairfax. Giọng cô cứ dông dài bất tận. Sophie bắt đầu hiểu Howl có thói quen trườn đi là do đâu. Megan là loại người làm người ta muốn chuồn nhẹ nhàng ra cửa sau. Không may là lưng Howl bị dồn về phía cầu thang, Sophie và Michael đứng dồn sau lưng. “… chưa từng làm việc đàng hoàng, chưa từng có công việc làm chị hài lòng, chỉ đem rắc rối cho chị và Gareth, đến đây và chiều con bé Mari đến hư,” Megan lải nhải tiếp tục không ngừng nghỉ. Sophie đẩy Michael qua một bên và bước thình thịch xuống bậc thềm, trông có vẻ trịnh trọng hết sức. “Đi nào Howl,” cô phán. “Chúng ta phải đi ngay lập tức. Trong khi đứng đây nói chuyện, tiền bạc trôi qua từng phút và các người hầu có lẽ đã đem bán dĩa vàng của ngài.Thật vui được gặp cô,” cô nói với Megan khi bước xuống chân cầu thang, “nhưng chúng tôi phải nhanh chân. Howl là một người rất bận rộn.” Megan ngậm ngay miệng và ngó Sophie trân trân. Sophie gật đầu chào trịnh trọng và đẩy Howl về phía cánh cửa kính dợn sóng. Mặt Michael đỏ ửng. Sophie nhìn thấy vì Howl quay lưng lại hỏi Megan, “Còn cái xe của em vẫn còn hay là chị đem bán luôn rồi?” “Cậu là người duy nhất có chìa khóa,” Megan giận dỗi trả lời. Đó dường như là câu chào tạm biệt. Cánh cửa trước đóng sầm lại và Howl dẫn họ đến nhà kho gần cuối con đường. Howl không nhắc gì đến Megan. Anh nói, khi mở cánh cửa của nhà kho trắng, “Tôi cá là bà cô Văn khó tính có cuốn sách đó.” Sophie ước gì có thể quên đi phần tiếp theo. Họ bước vào cỗ xe không có ngựa và chạy với tốc độ chóng mặt, tỏa mùi khó chịu, gầm gừ và run bần bật khi nó xông thẳng xuống những con đường dốc nhất mà Sophie từng thấy – dốc sâu đến nỗi cô không biết làm sao mà những ngôi nhà hai bên không trượt tuốt xuống dưới. Cô nhắm mắt lại và nắm chặt tay vào mảnh vải ghế bị bung ra và nguyện cầu cho chuyến đi mau qua. May mắn thay, chuyến đi kết thúc nhanh chóng. Họ ngừng trên một con đường thẳng hơn, với nhà chen chúc hai bên, cạnh một cánh cửa lớn có màn trắng và tờ giấy viết, ĐÓNG CỬA. Nhưng, mặc kệ tờ giấy thông báo đó, khi Howl bấm một cái nút bên cánh cửa, cô Angorian trả lời. Họ đều nhìn trân trân vào cô. Cho một cô giáo khó tính, cô Angorian trông rất trẻ, mảnh mai và xinh đẹp. Mái tóc đen dài xõa quanh khuôn mặt hình trái tim, và đôi mắt to láy. Điều duy nhất nhắc nhở tính khó khăn của cô là cách đôi mắt to nhìn thẳng thông minh và dường như đang phán đoán họ. “Tôi đoán anh là Howell Jenkins,” cô Angorian nói với Howl. Giọng cô trầm như âm nhạc có vẻ thách thức và tự tin. Howl bị giật mình trong giây lát. Rồi nụ cười mở ra. Và đó, Sophie tự nghĩ, là lời vĩnh biệt những giấc mơ đẹp của Lettie và dì Fairfax.
|
Vì cô Angorian chính là loại con gái mà người như Howl có thể yêu ngay lập tức. Và không chỉ Howl, Michael cũng đang nhìn cô ngưỡng mộ. Và dù tất cả những ngôi nhà xung quanh đều có vẻ hoang vắng, Sophie biết rõ chúng đầy những người biết cả Howl và cô Angorian và đang nhìn vẻ tò mò thích thú coi việc gì sẽ xảy ra. Cô có thể thấy những đôi mắt vô hình của họ. Market Chipping cũng giống như vậy thôi. “Và cô hẳn là cô Angorian,” Howl đáp. “Xin lỗi vì đã làm phiền cô, nhưng tuần trước tôi đã gây ra một lỗi lầm ngu ngốc và đem bài tập của cháu tôi đi thay vì tờ giấy quan trọng của tôi. Tôi đồ rằng Neil nộp cho cô tờ đó để chứng tỏ cháu không lười nhất.” “Đúng vậy,” cô Angorian nói. “Anh có thể vào và lấy lại nó.” Sophie chắc chắn mấy cặp mắt vô hình đang căng ra và mấy cái cổ vô hình chĩa dài khi Howl, Michael và cô đi theo sau cánh cửa của cô Angorian, lên một cầu thang lớn vào căn phòng nhỏ, khiêm nhường của cô Angorian. Cô Angorian tế nhị nói với Sophie, “Mời bà ngồi.” Sophie vẫn còn run sau vụ cỗ xe không ngựa đó. Cô vui sướng ngồi bệch xuống một trong hai cái ghế. Nó không được thỏai mái lắm. Phòng của cô Angorian không được thiết kế làm chỗ nghỉ ngơi mà thành nơi nghiên cứu. Dù nhiều đồ vật trong phòng rất kỳ lạ, Sophie hiểu được những cuốn sách đầy trên tường, và hàng đống giấy trên bàn, và hộp hồ sơ xếp trên sàn. Cô ngồi nhìn Michael đang bẽn lẽn ngó mọi thứ và Howl bắt đầu mở màn. “Làm sao mà cô biết tôi là ai?” Howl duyên dáng hỏi. “Anh đã gây ra rất nhiều lời đồn trong thành phố này,” cô Angorian đáp, bận rộn tìm kiếm sấp giấy trên bàn. “Và những người nhiều chuyện đó nói gì với cô?” Howl hỏi. Anh uể oải dựa trên góc bàn và cố thu hút ánh mắt cô Angorian. “Một, là anh đến và đi rất bất ngờ,” cô Angorian đáp. “Còn gì nữa?” Howl dõi theo từng cử động của cô Angorian với một cái nhìn mà Sophie biết cơ hội duy nhất còn lại cho Lettie là cô giáo cũng yêu Howl ngay tắp lự. Nhưng Angorian không phải là loại con gái đó. Cô nói, “Còn nhiều điều nữa, không có câu nào khen anh hết,” và liếc nhìn Michael làm cậu đỏ mặt, và rồi nhìn Sophie như thể nói những điều đó không thích hợp cho họ nghe. Cô giáo cầm tờ giấy ố vàng đưa cho Howl. “Là tờ này,” cô nói nghiêm khắc. “Anh biết đó là gì không?”“Dĩ nhiên,” Howl đáp. “Vậy làm ơn nói tôi biết,” cô Angorian nói. Howl cầm tờ giấy. Có một chút giành giựt khi anh tiện thể cố nắm tay cô Angorian. Cô Angorian thắng cuộc và giấu tay mình sau lưng. Howl nở nụ cười làm tan chảy cả đá và truyền tờ giấy cho Michael. “Cậu nói đi,” anh nói. Khuông mặt đỏ ửng của Michael bừng sáng khi vừa nhìn thấy nó. “Đó là câu thần chú! Oh, em có thể làm được cái này… để phóng lớn có phải không?” “Tôi cũng nghĩ vậy,” cô Angorian nói vẻ buộc tội. “Tôi muốn biết anh làm gì với cái đó.” “Cô Angorian,” Howl đáp, “nếu cô đã nghe những lời đồn đãi về tôi, cô hẳn biết là tôi viết luận án tiến sĩ của tôi về bùa mê và thần chú. Cô nhìn như thể là nghi tôi làm ma thuật vậy! Tôi xin khẳng định là tôi chưa từng làm thần chú như thế.” Sophie không thể không khì mũi một cái trước lời nói dối rành rành đó. “Tôi xin thề trên tim tôi,” Howl thêm, không quên liếc Sophie một cái sắc như dao, “câu thần chú này để nghiên cứu mà thôi. Rất cổ và hiếm có. Đó là tại sao tôi muốn lấy nó lại.” “Well, anh đã lấy lại rồi đó,” Angorian nhanh chóng nói. “Trước khi về, anh có thể trả lại bài tập kia được không? Photocopies rất tốn tiền.” Howl sẵn sàng đưa ra tờ giấy nâu láng và cố tình giữ nó khỏi tầm với. “Bài thơ này,” anh nói. “Nó làm tôi thắc mắc. Ngốc thật đó!...nhưng tôi không thể nhớ hết phần còn lại của nó. Của Walter Raleigh, phải không?” Cô Angorian liếc anh coi thường. “Dĩ nhiên không. Bài đó của John Donne và rất nổi tiếng. Tôi có một cuốn sách ở đây, nếu anh muốn tra lại.” “Làm ơn,” Howl nói, và từ cách mà mắt anh dõi theo cô Angorian khi cô bước đến bức tường đầy sách, Sophie nhận ra đây là lý do thật sự mà Howl đến vùng đất lạ này. Nhưng Howl cũng không ngại một đá ném hai chim. “Cô Angorian,” anh van vỉ, mắt dán chặt vào thân hình cô khi cô với tay lấy cuốn sách, “cô có thể cho tôi cơ hội được mời cô đi ăn tối nay không?” Cô Angorian lập tức quay lại với cuốn sách lớn trong tay, và có vẻ nghiêm khắc hơn bao giờ. “Tôi sẽ không,” cô nói. “Anh Jenkins, tôi không biết anh đã nghe những gì về tôi, nhưng anh hẳn nghe là tôi vẫn còn đính hôn với Ben Sullivan…” “Chưa từng nghe tên đó,” Howl đáp. “Hôn phu của tôi,” cô Angorian trả lời. “Anh ấy mất tích vài năm trước. Anh có muốn tôi đọc bài thơ cho anh không?” “Xin làm ơn,” Howl nói, không có vẻ gì hối lỗi. “Cô có giọng rất hay.” “Vậy thì tôi đọc đoạn thứ hai,” cô Angorian nói, “vì anh đã có đoạn thứ nhất trong tay rồi.” Cô đọc rất hay, không chỉ biểu cảm, nhưng còn làm cho đoạn hai vần với đoạn một, mà theo ý của Sophie thì không hiểu gì cả: “Nếu mắt anh bẩm sinh kỳ lạ, Thấy những điều vô hình vô tướng, Trải qua mười ngàn ngày đêm Đến kgi tuổi già điểm trắng tóc. Khi trở về, xin nói với tôi Những điều kỳ diệu đã qua, Và thề Không đâu Có cô gái xinh đẹp một lòng. Nếu anh…” Gương mặt Howl trở nên trắng bệch. Sophie có thể nhìn thấy mồ hôi rơi lộp độp trên trán anh. “Cám ơn,” anh nói. “Xin ngừng. Tôi sẽ không làm phiền cô đọc nữa. Ngay cả cô gái tốt cũng không thật lòng trong vế cuối, đúng không? Tôi nhớ lại rồi. Ngốc thật. Tất nhiên là John Donne.” Cô Angorian hạ quyển sách xuống và ngó anh. Anh miễn cưỡng nở nụ cười. “Chúng tôi phải đi thôi. Cô có chắc không đổi ý kiến về bữa tối chứ?” “Không,” cô Angorian đáp. “Anh có khỏe không, anh Jenkins?” “Rất khỏe,” Howl vừa nói vừa xua Michael và Sophie xuống cầu thang và vào trong cái xe không ngựa kinh khủng đó. Những kẻ quan sát vô hình trong các căn nhà lân cận chắc phải nghĩ cô Angorian đã cầm dao đuổi ba người, dựa vào tướng đi hấp tấp của Howl khi lùa mọi người vào xe và chạy vù đi. “Chuyện gì xảy ra vậy?” Michael hỏi khi chiếc xe chạy lồng lộn lên đồi trở lại và Sophie bấu chặt lấy ghế kinh hoàng. Howl giả tảng không nghe. Nên Michael chờ cho đến khi Howl khóa xe vào trong nhà kho và hỏi lần nữa. “Oh, không,” Howl thoải mái trả lời, vừa dẫn đường trở lại căn nhà màu vàng tên là RIVENDELL. “Bà Phù Thủy vùng Hoang Phế đã bắt được tôi với thần chú của bả, vậy thôi. Chuyện phải xảy ra sớm hay muộn.” Anh dường như đang tính toán hay cộng trừ trong đầu khi anh mở cổng vườn. “Mười ngàn,” Sophie nghe anh lẩm bẩm. “Vậy là đến ngày Hạ Chí.” “Cái gì xảy ra vào ngày Hạ Chí?” Sophie hỏi. “Đó là khi tôi đúng mười ngàn ngày tuổi,” Howl đáp, mở cánh cổng vào vườn RIVENDELL, “là ngày tôi phải trở về với bà Phù Thủy vùng Hoang Phế.” Sophie và Michael đứng chựng lại trên con đường mòn, ngó sững vào lưng áo Howl, nơi thêu những chữ WELSH RUGBY bí ẩn. “Nếu tôi tránh xa khỏi ngư nhân,” họ nghe anh lẩm bẩm, “và không đụng rễ ớt mã…” Michael gọi với, “Chúng ta có cần trở vào ngôi nhà đó không?” và Sophie kêu, “Bà Phù Thủy sẽ làm gì?” “Tôi không dám nghĩ tới,” Howl nói. “Cậu không cần phải vào trở lại, Michael.” Anh mở cánh cửa kính dợn sóng. Bên trong là căn phòng quen thuộc của lâu đài. Ngọn lửa ngái ngủ của Calcifer đang sơn tường màu xanh nhạt trong ánh nắng ban chiều. Howl quấn tay áo dài lại và đưa cho Calcifer một khúc củi. “Bà ta đã đuổi kịp, mặt xanh,” anh nói. “Tớ biết,” Calcifer đáp. “Tớ đã cảm giác được.”
|
Chương 12: Sophie trở thành bà mẹ già của Howl Sophie không còn thấy việc làm ô danh Howl với nhà vua có tác dụng gì nữa, vì bây giờ bà phù thủy đã bắt kịp được anh. Nhưng Howl nói việc này còn quan trọng hơn lúc nào hết. “Tôi sẽ cần hết sức lực để chạy trốn bà phù thủy,” anh nói, “không thể để cho nhà vua rượt theo tôi nữa.” Vì vậy, vào buổi trưa ngày hôm sau, Sophie mặc bộ quần áo mới và ngồi với vẻ xinh tươi, hơi cứng nhắc một chút, đợi Michael chuẩn bị và Howl ra khỏi phòng tắm. Trong khi chờ đợi, cô kể cho Calcifer nghe về cái đất nước kì lạ nơi gia đình Howl sống. Kể chuyện làm cô không còn nghĩ đến Đức Vua. Calcifer rất hứng thú. “Tôi đã biết anh ta từ nơi xa lạ đến,” cậu nói. “Nhưng chỗ này dường như là một thế giới khác. Bà ta thật khôn ngoan, gởi thần chú từ nơi đó đến đây. Rất là khôn ngoan. Tôi thật ngưỡng mộ phép thuật đó, sử dụng một vật có sẵn và biến nó thành lời nguyền. Tôi đã nghi ngờ khi bà và Michael đọc nó hôm nọ rồi. Thằng ngốc Howl đã tiết lộ cho bả quá nhiều về bản thân.” Sophie nhìn chằm chằm vào khuôn mặt xanh biếc của Calcifer. Cô không ngạc nhiên thấy Calcifer ngưỡng mộ câu thần chú, hay nghe cậu ta gọi Howl là thằng ngốc. Cậu hỏa yêu luôn xúc phạm Howl. Nhưng cô không hiểu được là Calcifer có thật sự ghét Howl hay không. Calcifer lúc nào cũng trông hung ác nên khó mà nói được. Đôi mắt cam của Calcifer nhìn Sophie. “Tôi cũng sợ nữa,” cậu ta nói. “Tôi sẽ phải chịu chung số phận với Howl nếu bà Phù Thủy bắt được. Bà mà không hủy được hợp đồng trước khi đó, tôi sẽ không thể giúp bà được gì hết.” Trước khi Sophie hỏi thêm nữa, Howl bước khỏi phòng tắm trông hết sức chỉn chu, mùi hương hoa hồng bay khắp phòng và hét lên kêu Michael. Michael chạy vội vàng xuống cầu thang với bộ cánh nhung mới. Sophie đứng dậy và cầm lấy cây gậy của cô. Đã đến giờ khởi hành. “Bà thật là đẹp và quý phái!” Michael khen. “Cũng không làm cho tôi mất mặt,” Howl nói, “trừ cái cây gậy cũ kỹ xấu xí đó.” “Có nhiều người,” Sophie đáp, “chỉ biết nghĩ đến mình. Cây gậy này đi với tôi. Tôi cần nó để ủng hộ tinh thần.” Howl nhìn lên trần nhà, nhưng không nói gì thêm. Ba người trong bộ dáng sang trọng bước vào những con đường của Kingsbury. Sophie dĩ nhiên quay lại để xem tòa lâu đài trông thế nào ở đây. Cô nhìn thấy một cánh cổng cao lớn, cong vút bao quanh cánh cửa đen nhỏ. Phần còn lại của lâu đài như là một bức tường dài nối liền giữa hai biệt thự đá. “Trước khi bà hỏi,” Howl đáp, “nó thực tế chỉ là cái chuồng ngựa bị bỏ hoang. Lối này.” Họ đi qua nhiều con đường, cũng đẹp y như những người đang đi bộ vậy. Không có nhiều nguời ở bên ngoài. Kingsbury ở tuốt dưới miền nam và hôm ấy là một ngày nắng nóng hầm hầm. Lề đường như bốc khói. Sophie khám phá ra một điều bất lợi về tuổi già: ta cảm thấy kỳ lạ trong mùa nóng. Những tòa biệt thự mờ mờ ảo ảo dưới mắt cô. Cô rất khó chịu, bởi vì cô muốn ngắm cảnh, nhưng chỉ tòan thấy dáng mờ mờ của mái vòm vàng và nhà cao tầng. “À quên nữa,” Howl nói, “bà Pentstemmon sẽ kêu bà là bà Pendragon. Pendragon là tên mà tôi dùng ở đây.” “Để làm quái gì?” Sophie hỏi. “Để ngụy trang,” Howl đáp. “Pendragon là một cái tên đẹp, đẹp hơn là Jenkins.” “Tôi thích tên thường hơn,” Sophie nói khi họ quẹo vào trong một con đường hẻm mát mẻ. “Không phải ai cũng làm Mad Hatters được,” Howl nói. Dinh thự của bà Pentstemmon rất tráng lệ và nguy nga, nằm gần cuối con hẻm. Hai bên nhà trồng hai chậu cây cam trước cánh cổng xa hoa. Cánh cổng này được mở bởi một lão quản gia già bận áo nhung đen, ông dẫn mọi người vào trong đại sảnh mát lạnh được lát đá hoa cương màu trắng đen xen kẽ như bàn cờ. Michael kín đáo lau mồ hôi trên mặt. Howl, người lúc nào cũng ra vẻ phách lối, đối xử với ông quản gia như là một người bạn già và cười đùa trêu chọc ổng. Người quản gia đưa bọn họ cho một cậu tiểu đồng bận áo nhung đỏ. Khi cậu bé dẫn họ một cách đầy trịnh trong lễ nghi lên cầu thang sang trọng, Sophie bắt đầu thấy tại sao nơi đây là chỗ luyện tập tốt trước khi gặp Đức Vua. Cậu dẫn họ vào trong một phòng khách, cô chắc chắn là ngay cả cung điện cũng không được huy hoàng như thế này. Mọi thứ trong phòng đều xanh biếc, vàng óng, và trắng tinh, vừa nhỏ, vừa xinh. Trong đó bà Penstemmon là đẹp nhất. Dáng bà cao gầy, và bà ngồi thẳng lưng trong cái ghế thêu vàng xanh, tay đeo găng vàng, chống vào một cây gậy mạ vàng ở đầu. Trang phục của bà bằng lụa vàng, may theo kiểu cứng ngắc thời xưa, kết thúc là cái mũ trùm đầu trông không khác gì vương miện, cột bằng một cái nơ vàng óng dưới khuông mặt diều hâu hốc hác. Đó là một quý bà đẹp nhất và đáng sợ nhất mà Sophie từng thấy. “Ah, Howell thân mến,” bà nói, găng tay vàng giơ ra. Howl cúi xuống và hôn găng tay, một việc làm hiển nhiên được trông đợi. Anh làm việc đó rất trang nhã, nhưng cử chỉ đó bị hỏng nếu nhìn từ phía sau vì bàn tay kia của Howl vẫy vẫy như đuổi ruồi để ra dấu vói Michael, hơi chậm hiểu một chút, nhận ra rằng mình phải đứng gần cửa cạnh cậu tiểu đồng. Cậu bé nhanh chóng lùi lại, vui mừng vì đã chạy xa khỏi bà Pentstemmon. “Pentstemmon phu nhân, xin phép được giới thiệu mẹ con,” Howl nói, giơ tay vẫy Sophie. Vì Sophie có cảm giác y chang như Michael, Howl phải vẫy vẫy tay về phía cô luôn. “Hân hạnh. Vui mừng,” phu nhân Pentstemmon nói, và giơ găng tay vàng ra cho Sophie. Sophie không chắc nếu bà Pentstemmon muốn cô hôn găng tay hay sao, nhưng cô không thể bắt mình làm vậy được. Thay vì thế, cô đặt tay mình vào trong chiếc găng đó. Bàn tay ở dưới rất lạnh lẽo và già nua. Sau khi cảm thấy thế, Sophie ngạc nhiên khi thấy bà Pentstemmon vẫn còn sống. “Thứ lỗi tôi không thể đứng dậy, thưa bà Pendragon,” Pentstemmon nói. “Sức khỏe của tôi thật không tốt. Buộc tôi phải ngưng dạy học từ ba năm trước. Xin mời ngồi, cả hai người.” Cố gắng giữ mình không bị run lên vì sợ, Sophie trịnh trọng ngồi trong cái ghế thêu đối diện bà Pentstemmon, tay chống vào cây gậy trong tư thế mà cô cũng hi vọng là cũng tao nhã như thế. Howl xoạc cẳng quí phái ngồi trên ghế kế bên. Anh có vẻ tự nhiên như ở nhà, và Sophie thấy ghen tị. “Tôi tám mươi sáu,” bà Pentstemmon tuyên bố. “Còn bà bao nhiêu tuổi, phu nhân Pendragon?” “Chín chục,” Sophie đáp, con số cao nhất hiện trong đầu cô. “Vậy sao?” bà Pentstemmon nói với một chút xíu ghen tị. “Bà thật may mắn vẫn còn rất nhanh nhẹn.” “Oh, đúng đó, mẹ thật là nhanh nhẹn tuyệt vời,” Howl đồng ý, “nhiều khi còn không có cách nào ngăn lại được.” Bà Pentstemmon nhìn anh theo một cách cho Sophie biết rằng bà cũng là một giáo sư nghiêm khắc như cô Angorian. “Tôi đang nói chuyện với mẹ cậu,” bà nói. “Tôi dám nói là bà cũng tự hào về cậu như là tôi. Chúng tôi là hai bà già đã có công tạo dựng nên cậu. Cậu, có thể nói, là tác phẩm hợp tác của hai chúng tôi.” “Thầy không nghĩ là con có dự phần tạo nên con hay sao?” Howl hỏi. “Bỏ vô một vài thứ của riêng con?” “Một vài, và toàn những thứ tôi không thích chút nào,” bà Pentstemmon phu nhân trả lời. “Nhưng cậu sẽ không thích ngồi ở đây và nghe hai bà già nói chuyện về cậu. Cậu sẽ đi ngồi bên ngoài sân thượng, đem theo cả tiểu đồng của cậu và Hunch sẽ mang nước lạnh cho hai người. Đi đi nào.”
|
Nếu Sophie không phải là quá kinh hãi, cô có thể đã phá ra cười trước biểu tình trên mặt của Howl. Anh tất nhiên đã không dự tính việc này sẽ xảy ra. Nhưng anh đứng dậy, chỉ nhún vai nhẹ, làm bộ mặt cảnh cáo với Sophie, và xua Michael ra khỏi căn phòng đằng trước. Bà Pentstemmon quay lưng thẳng tắp nhìn hai người họ. Rồi bà gật đầu với cậu tiểu đồng, ra hiệu cho cậu cũng rời đi luôn. Sau đó, bà Pentstemmon quay mặt lại đối diện Sophie, và Sophie càng thấy run hơn bao giờ. “Tôi thích cậu ta với tóc đen,” bà Pentstemmon tuyên bố. “Cậu trai đó đang đi về hướng xấu.” “Ai? Michael?” Sophie hỏi, hoang mang. “Không phải cậu gia nhân,” Pentstemmon nói. “Tôi không nghĩ cậu ta đủ khôn ngoan để làm tôi phải lo lắng. Tôi đang nói về Howell, bà Pendragon.” “Oh,” Sophie đáp, tự hỏi tại sao bà Pentstemmon chỉ nói “đang.” Howl chắc chắn đã đến nơi xấu xa từ lâu. “Lấy thí dụ tòan bộ vẻ ngoài của cậu ta,” bà Pentstemmon nhận xét chung chung. “Nhìn bộ quần áo.” “Howl lúc nào cũng lo lắng về bề ngòai của mình,” Sophie đồng ý, và tự hỏi tại sao cô lại nói giảm nhẹ điều đó. “Và khi xưa cũng vậy. Tôi cũng quan tâm đến bề ngoài của mình, và tôi không thấy có gì sai về chuyện đó,” bà Pentstemmon nói. “Nhưng tại làm sao cậu tại lại đi ra ngoài với bộ quần áo có ma thuật? Đó là một thần chú tạo sự lôi cuốn mê hoặc, hướng đến các cô gái - làm rất là tốt, tôi thú nhận, và rất khó nhận ra ngay cả dưới con mắt đầy kinh nghiệm của tôi, vì nó được quyện vào trong chỉ - cái thần chú này sẽ biến cậu ta thành gần như hấp dẫn không cưỡng lại được cho các cô gái. Điều này thể hiện một bước tiến vào trong ma thuật, hẳn nó làm bà rất lo lắng, bà Pendragon.” Sophie khó nhọc nghĩ về bộ quần áo xám đỏ. Cô đã dùng chỉ khâu nó mà không để ý thấy có gì lạ. Nhưng bà Pentstemmon là một chuyên gia về ma thuật, và Sophie chỉ là một chuyên gia về quần áo. Bà Pentstemmon đặt cả hai găng tay vàng lên đầu gậy và nghiêng thân mình thẳng tắp của bà, để cả hai con mắt chuyên gia và sắc nhọn nhìn thằng vào mắt Sophie. Sophie càng thấy hoảng sợ và bất ổn. “Cả cuộc đời tôi gần sắp hết rồi,” bà Pentstemmon nói. “Tôi cảm thấy chết đang từng bước đến gần.” “Oh, tôi chắc là không phải vậy,” Sophie nói, cố gắng nói giọng xoa dịu. Thật là khó để nói bất cứ giọng gì với bà Pentstemmon đang ngó chăm chăm như thế. “Tôi xin quả quyết là nó chính xác như vậy,” bà Pentstemmon nói. “Đó là tại sao tôi rất khao khát được gặp bà, Pendragon phu nhân. Howell, bà biết đó, là học trò cuối cùng và giỏi nhất của tôi. Tôi đã chuẩn bị về hưu khi cậu ta đến với tôi từ một vùng đất xa xôi. Tôi nghĩ tôi đã hoàn tất công việc khi đào tạo Benjamin Sullivan - người bà có lẽ biết dưới tên Pháp sư Suliman, cầu cho cậu được an nghỉ! - và giới thiệu cho cậu ta chức vụ Pháp Sư Hoàng Gia. Thật kỳ lạ, Benjamin cũng đến từ vùng đất của Howell. Rồi Howell đến, và chỉ một cái liếc mắt tôi đã thấy cậu có sức tưởng tượng và tài năng gấp đôi. Dù tôi phải thú nhận là cậu ta có nhiều cá tính không được tốt, tôi biết cậu ta là lực lượng của cái thiện. Thiện, Pendragon phu nhân. Nhưng giờ cậu ta là gì? “Gì thiệt?” Sphie nói. “Có chuyện gì đó đã xảy ra cho cậu ta,” bà Pentstemmon nói, vẫn nhìn chăm chú vào Sophie. “Và tôi nhất định tìm ra nguyên nhân trước khi tôi chết.” “Theo bà nghĩ thì chuyện gì đã xảy ra?” Sophie hỏi vẻ không thoải mái. “Tôi tin là bà sẽ kể cho tôi nghe,” Mrs. Pentstemmon nói. “Theo tôi thì cậu đã theo con đường của bà Phù Thủy vùng Hoang Phế. Họ đều nói có một thời bà ta không phải ác độc - dù tôi chỉ nghe nói vậy thôi, bởi vì bà ta già hơn cả hai chúng ta và đã dùng ma thuật để giữ lại tuổi trẻ. Howell cũng có tài năng thiên phú như thế. Dường như những người có tài không thể chống lại một chút nguy hiểm của sự khôn ngoan, kết quả là phải sa vào một sai lầm chết người và bắt đầu từ từ đi vào ma đạo. Bà, có thể nào, biết được đó là gì không?” Tiếng của Calicfer vang trong tai Sophie, nói, “Cái hợp đồng không tốt cho cả hai chúng tớ về lâu dài.” Cô cảm thấy lạnh giá, mặc cho không khí nóng bức ban ngày thổi qua những cửa sổ mở toang của căn phòng đẹp đẽ này. “Vâng,” cô nói. “Howl đã dính vào hợp đồng với một con hỏa yêu.” Bàn tay của bà Pentstemmon run một chút trên cây gậy. “Đúng là điều đó rồi. Bà phải hủy cái hợp đồng đó, bà Pendragon.” “Tôi sẽ làm liền nếu như tôi biết cách,” Sophie nói. “Chắc chắn dự cảm của người mẹ và tài năng phép thuật mạnh mẽ của bà sẽ cho bà biết,” Pentstemmon phu nhân nói. “Tôi đã nhìn kỹ bà, Mrs. Pendragon, mặc dù bà có thể không để ý…” “Ồ, tôi để ý chứ, thưa bà Pentstemmon,” Sophie nói. “… và tôi thích tài năng thiên bẩm của bà,” bà Pentstemmon nói. “Đem lại sự sống cho đồ vật, như là cây gậy trong tay bà vậy, rõ ràng là bà đã nói chuyện với nó, đến nỗi nó trở thành vật mà người ta thường gọi là cây gậy thần. Tôi nghĩ bà sẽ không gặp khó khăn khi hủy hợp đồng đâu.”
|