Sát Phá Lang
|
|
Chương 35: Tâm sự
Cố Quân cố gắng để nhịp thở thật ổn định, nhưng đến cuối cùng thân thể luôn không tự chủ được run rẩy, ban nãy y đứng như cột buồm nên không ai nhận ra, lúc này Trường Canh ôm y, cảm giác được loại đau đớn dữ dội nào đó sắp bùng khỏi cơ thể.
Cố Quân khẽ thở hổn hển một lát, ấn đường nhíu lại không dễ phát hiện, nở nụ cười tùy tiện với Trường Canh, nói dối không chớp mắt mà phỉ báng: “Được rồi, một người Đông Doanh mà thôi, để ta vuốt lông cho ngươi, không phải sợ – đừng ôm ta chặt thế.”
Trường Canh: “…”
Thật sự vừa đau lòng vừa muốn đánh chết y.
Cố Quân chống mũi trường đao Đông Doanh, một lần nữa đứng dậy, mạch máu màu xanh lộ rõ từng đường trên mu bàn tay nhợt nhạt, cơ hồ muốn nứt da. Trong bát rượu Trần Khinh Nhứ bưng cho y có bỏ loại thuốc y thường uống, Cố Quân vừa ngửi đã nhận ra, y băn khoăn một chút giữa “điếc mù” và “đầu muốn vỡ ra, nhưng có thể nhìn thấy”, nhanh chóng chọn cái thứ hai.
Kỳ thực không uống cũng chẳng có vấn đề gì lớn, dù sao thì Cố Quân trước đó cũng không biết “nhạc sư” của Lâm Uyên các vừa khéo là cháu gái Trần thần y, nhưng khi bát thuốc kia bưng đến trước mặt, y rốt cuộc không thể vượt qua ham muốn khống chế trong xương cốt.
Cố Quân thừa nhận Thẩm Dịch đúng, cũng biết một ngày kia y sẽ phải chung sống hòa bình với thân thể tàn khuyết này, nhưng biết là một chuyện, nhất thời vẫn chưa làm được.
Cho dù y biết mình không dựa vào thị lực và thính lực cũng có thể sống ổn chẳng có trở ngại gì. Cho dù trong lòng y hiểu, bất cứ một loại ốm đau nào, một khi đã quen, sẽ không tính là ốm đau nữa.
Nhưng lão Hầu gia vì việc này mà tước đoạt thời thơ ấu và thiếu niên vô ưu vô lự của y, có lẽ tuy thời gian qua đi cảnh vật đổi thay, rốt cuộc vẫn khó nhịn được.
Việc này tạm thời không có biện pháp, khó nhịn cũng chỉ đành chậm rãi nhịn, chờ thời gian giải đáp hết thảy – kỳ thực mấy năm nay mấp mô sống cùng Trường Canh, oán khí trong lòng Cố Quân với đời trước đã phai nhạt không ít, tuy y nhất định sẽ không nghiêm khắc với Trường Canh như lão Hầu gia, nhưng cũng dần dần có thể hiểu được tấm lòng người làm cha của lão Hầu gia.
Sự tiêu trừ của tất cả thù oán trên thế gian này, đại để vừa dựa vào quên lãng, vừa dựa vào lấy tâm so tâm.
Trường Canh nghiến răng nghiến lợi nói: “Không.”
Y chẳng những không buông tay, đôi tay ôm Cố Quân còn siết thật chặt, dù chết dù sống cũng phải dính lấy Cố Quân, gần như cưỡng ép, dính Cố Quân mà vào khoang thuyền.
Cố Quân ngạc nhiên nói: “Sao ngươi lại phát minh ra một cách làm nũng mới rồi?”
Trường Canh gằn từng chữ giễu ngược: “Bị người Đông Doanh hù chết đấy.”
Cố Quân: “…”
Trường Canh nhủ thầm với lòng: “Bình tĩnh, bình tĩnh nào.”
Y vừa im lặng cố gắng bình tĩnh lại, vừa đỡ Cố Quân ngồi xuống ghế của tay phỉ thủ ban nãy, điều chỉnh một tư thế tương đối thoải mái cho Cố Quân dựa.
Trường Canh cau mày ngắm nghía sắc mặt Cố Quân một chút, hạ giọng hỏi thầm bên tai: “Nghĩa phụ, người khó chịu ở chỗ nào?”
Cố Quân biết không thể giấu được, nghĩ một chút, quyết đoán lựa chọn cách chơi xấu, ngoắc tay gọi Trường Canh.
Trường Canh thần sắc ngưng trọng tiến lại gần.
Cố Quân thì thào: “Kinh nguyệt không đều, bị đau bụng.”
Trường Canh mới đầu chưa kịp phản ứng: “Cái gì?”
Hỏi xong y mới ngộ ra, mặt thiếu niên thoắt cái đỏ bừng lên, không biết là xấu hổ hay tức giận.
Cố Quân đau đầu như búa bổ, chỉ hận không thể đâm vào tường, lại thấy Trường Canh mặt mỏng đến đáng yêu, vừa chịu đựng vừa cười, tiêu khiển lẫn giảm đau đều không để lỡ.
Trong mắt Trường Canh cơ hồ phun ra lửa, phẫn nộ trừng y.
Cố Quân rất giỏi tiết tấu “đùa giỡn một chút phải sờ đầu”, lập tức lại ho một tiếng, nghiêm mặt nói: “Buổi tối chưa kịp ăn gì, lại uống một bát rượu lạnh của Trần cô nương, nên dạ dày hơi đau, không sao đâu.”
Câu này thoạt nghe khá có lý, nhưng thường niên trong quân ngũ, ai mà không bữa đói bữa no?
Loại đặc biệt da dày thịt chắc như Cố đại soái, sao lại không biết xấu hổ làm bộ yếu ớt?
Sự cố gắng để bình tâm tĩnh khí của Trường Canh vừa rồi hoàn toàn hóa thành bọt nước, y tức muốn bốc khói, buột miệng nói: “Cố Thập Lục, ngươi…”
“Ngươi” cả buổi mà không nghĩ ra nên mắng thế nào.
Cố Quân chợt nở nụ cười, giơ tay vỗ vỗ đầu Trường Canh: “Sao, lớn rồi, biết thương nghĩa phụ rồi? Không thương uổng đâu.”
Bàn tay y như màn trời, lửa giận ngùn ngụt trong lòng Trường Canh cứ thế bị dập tắt ngấm, chớp mắt chỉ còn lại một chút khói nhẹ chẳng đáng kể, tắt vừa vô lực vừa bất đắc dĩ.
Trường Canh nghĩ thầm: “Trời mới thương ngươi, miệng không được một câu nói thật, ta cần gì phải nhọc lòng không đâu? Dù sao thì cũng chẳng chết nổi.”
Thế nhưng sắc mặt khó coi của Cố Quân đâm thẳng vào làm mắt y đau nhói, Trường Canh quản được mình nói gì nghĩ gì, lại quản không được sự nôn nóng trong lòng.
Y giận dỗi một hồi, rồi thầm thở dài, quay người vòng qua cái ghế lớn đầy khí thế kia, hai tay ấn huyệt thái dương cho Cố Quân, bắt đầu xoa rất chuyên nghiệp, vẻ mặt trầm như nước do mới cãi nhau. Trường Canh thấy bả vai Cố Quân thả lỏng, thường không phải là ngực bụng bị đau, tứ chi cũng hoạt động như thường, chắc hẳn một chút vết thương ngoài da trên cánh tay và chân cũng chưa tới mức làm y đau đến thế, nghĩ tới nghĩ lui, đại khái vẫn là đau đầu – Trường Canh nhớ rõ trên đường từ Nhạn Hồi trấn về kinh thành cũng từng bị một lần rồi.
Vừa ấn, y vừa không nhịn được châm chọc một câu: “Nghĩa phụ lần trước còn nói với con là người bị đau nửa đầu, hôm nay quên rồi à?”
Cố Quân: “…”
Y quả thật quên mất, đời này nói dối nhiều vô kể, nếu mỗi điều đều nhớ rõ, chắc trong đầu cũng chẳng còn chỗ chứa cái khác.
Trường Canh: “Hửm?”
Cố Quân: “Đau đầu thì cũng có, không phải là cúc cung tận tụy vì Đại Lương đến đa sầu đa bệnh sao, ôi!”
Y nói mà không đỏ mặt chút nào, Trường Canh bái phục, hoàn toàn hết nói nổi.
Cố Quân nói xong liền dùng đến tuyệt chiêu “nằm xuống là ngủ”, nhắm mắt hưởng thụ sự hầu hạ của Trường Canh, chỉ tiếc việc bên ngoài vẫn chưa xong, y phải thời khắc giữ lại một tai, không dám thật sự ngủ say.
Trường Canh mới đầu chuyên tâm ấn huyệt vị, ấn một hồi, ánh mắt liền không tự chủ được chuyển sang mặt Cố Quân.
Đối với người đã nhìn quen mà nói, kỳ thực đẹp hay xấu đều chẳng khác mấy, ngay cả tiểu bạch kiểm yêu dị của hòa thượng, lượn lờ trước mắt thời gian dài, y cũng cảm thấy không khác gì Vương bá hầu phủ – A, Vương bá còn ưa sạch sẽ hơn tay hòa thượng kia.
Chỉ có Cố Quân là ngoại lệ.
Mái tóc Cố Quân bị người Đông Doanh làm tung chưa kịp buộc lại, như hoa rơi nước chảy xõa ra đầy vai. Trường Canh ngắm y rất lâu, các loại mộng cảnh kìm nén thật sâu trong ký ức không tự chủ được trỗi lên trong lòng, nếu y không khắc chế, những ký ức đó sẽ còn được một tấc muốn tiến một thước, kích khởi một chút ảo tưởng kéo dài. Mỗi khi đến lúc này, y đều như đối kháng Ô Nhĩ Cốt, cưỡng ép cắt ngang mạch suy nghĩ, lôi mớ kinh văn vô nghĩa Liễu Nhiên dạy ra lặp đi lặp lại dưới đáy lòng, như dùng một hòn đá mài đao mà mài qua mài lại tim mình vậy.
Nhưng không biết vì sao mà chiêu này đột nhiên hết tác dụng. Có thể là toàn bộ tự chủ của Trường Canh đều dùng trên việc kiềm chế lửa giận vừa rồi, thế là mạch suy nghĩ lập tức như ngựa thả cương.
Ô Nhĩ Cốt rục rịch trong thân thể bện cho y một ảo tưởng không cách nào tả nổi.
Y phảng phất nhìn thấy mình khom lưng, hôn trán, ấn đường, mũi Cố Quân… chần chừ dời đến môi, đôi môi ấy nhất định sẽ không mềm lắm, cũng không ngọt lắm, chắc còn là đắng, như mùi thuốc vĩnh viễn không xua đi trên người Cố Quân, hoặc thoang thoảng mùi rượu. Trường Canh còn rất muốn cắn một phát, ý nghĩ này vừa sinh ra, thì môi răng y lập tức như có vị máu tươi hơi ngòn ngọt, làm toàn thân run rẩy. Trường Canh run lên, rồi y chợt định thần lại, phát hiện mình đang si dại đứng ở sau ghế của Cố Quân, đầu lưỡi đã bị mình cắn rách.
Ngay sau đó, Trường Canh ý thức được ngón tay mình còn ở cạnh tai Cố Quân, tức khắc rụt phắt lại như bị phỏng.
Y đứng đờ ra giây lát, hơi thở bất ổn mà gọi khẽ: “Nghĩa phụ?”
Cố Quân đang ngủ say, không mở mắt, cũng không nhìn thấy huyết quang trong mắt Trường Canh chưa rút đi.
Trường Canh nhìn y một cái thâm sâu, cầm bội kiếm lên, rảo bước chạy ra khoang thuyền.
Ngoài khoang thuyền gió biển phần phật, huyền ưng quanh quẩn ở gần chủ hạm để hộ vệ, thủy quân Giang Nam chính quy bên dưới trong sự chỉ huy của Diêu Trấn dọn dẹp gọn gàng chiến cục. Người Đông Doanh như cây đổ bầy khỉ tan nhảy luôn xuống biển, chuẩn bị ngồi thuyền nhỏ hoặc bơi đi, tứ phía hải giao đã giăng sẵn lưới dưới nước, không bao lâu đã bắt cả đống cá tự chui đầu vào.
Hoàng Kiều bị dẫn đến trước mặt Diêu Trấn, Diêu Trấn vẻ mặt suy tư, đang ở cách không xa khom lưng nói gì đó với hắn.
Những việc hối hả này lọt hết vào mắt Trường Canh, tất cả không đi vào lòng, hơi nóng trên người trên mặt chậm rãi tiêu tan trong gió biển.
Sự lạnh lẽo âm u trên biển như ung nhọt ăn vào tủy lén lút chui vào xương y, lạnh đến buốt da buốt thịt, Trường Canh mặt hướng về biển rộng, thầm mắng mình: “Ngươi là đồ súc sinh.”
Y nghĩ, mình không thể ở lại hầu phủ hay bên cạnh Cố Quân nữa.
Hai ngày sau, tại phủ Diêu đại nhân.
Hoa đào trong viện đã nở, hơi nước thoảng theo mùi thơm hất vào mặt, Cố Quân ngồi trước cửa sổ, cắn hạt dưa chờ Diêu Trấn viết tấu chương – sợ kinh thành sinh biến, tấu chương khẩn cấp sớm đã đưa về kinh thành.
Kinh thành phong tỏa tin tức, nhưng các phương đều có tai mắt riêng, đã truyền ra đôi câu vài lời, nói Hoàng thượng tức giận, lệnh cho Ngự lâm quân vây bắt Ngụy vương, Ngụy vương tính nhân đêm trốn khỏi kinh thành, đi đến Đức Thắng môn thì bị đuổi kịp, cụ thể xử trí thế nào thì chẳng ai hay biết.
Trước mắt Giang Nam hết thảy đã kết thúc, phải trình thêm một bản tấu, để tấu rõ tiền căn hậu quả cho Hoàng thượng.
Diêu Trấn vẻ mặt thiếu ngủ gác bút: “Hầu gia, ngài xem việc này phải tính thế nào?”
Cố Quân thờ ơ trả lời: “Cứ nói Án sát đại nhân phát hiện trên biển có bất thường, ngầm phái người điều tra cẩn thận, nhân khi phản quân chưa thành hình, nhất cử tỏa bại âm mưu của chúng.”
Diêu Trấn: “Không không, ta là một thư sinh, lên giao say giao, lên diên say diên, nôn mửa suốt dọc đường, nào có tài đức gì? Đương nhiên là Hầu gia một mình xông vào trận địa địch, ngăn cơn sóng dữ.”
Cố Quân cười nói: “Hầu gia? An Định hầu ở tận Tây Bắc, chẳng lẽ y biết thuật phi thiên độn địa? Ta trái lại nghe nói Diêu đại nhân lâm trận cơ trí, lệnh cho binh tướng thủ hạ mặc hắc giáp, chấn nhiếp phản quân, khiến chúng tự loạn, thủ đoạn như vậy thật khiến người ta bội phục.”
Diêu Trấn nói luôn không nghĩ ngợi gì: “Ta không làm, ngài đừng hại ta.”
Diêu đại nhân năm nay ba mươi sáu, chính là tuổi trẻ trung khỏe mạnh nhất của một nam nhân, nuôi hai chòm râu dê đầy sức sống, trời sinh khuôn mặt khôn ngoan tháo vát; người này nửa đời sĩ đồ nhấp nhô, bám riết vùng đất gạo cá ê hề không đi, không hề có công tích chi, có tuyệt kỹ ngủ suốt một ngày một đêm không dậy.
Mọi người đại khái đều đã quên, năm Nguyên Hòa thứ mười hai, Lâm Mạch Sâm lão sư của Cố Quân còn tại thế, chính là quan chủ khảo lần thi hội ấy, gặp văn chương của Diêu Trấn, không khỏi đập bàn khen ngợi, trình lên Hoàng đế Nguyên Hòa, ngự bút thân phong Trạng nguyên lang.
Cố Quân ý tứ sâu xa nói: “Bình phản loạn Đông Hải, tiêu trừ một trận đại chiến có thể nguy hiểm cho kinh kỳ trọng địa, công lao lớn nhường ấy ngươi không cần sao? Tương lai xuất tướng nhập tướng ở ngay trong tầm tay rồi Diêu đại nhân à.”
Diêu Trấn cười khổ nói: “Có năng lực cỡ nào thì ăn bát cơm cỡ ấy, hạ quan vô tài vô đức, nằm trong một góc thoải mái dưỡng lão là được, nào có bản lĩnh thừa phong hóa vân? Hầu gia tha cho hạ quan đi.”
Cố Quân: “Ta còn muốn báo lên Hoàng thượng, phái ngươi tới Tây Bắc làm giám quân đây.”
Diêu Trấn ôm đầu chắp tay: “Hạ quan trên có mẹ già tám mươi, dưới có ấu tử gào khóc đòi ăn, cầu xin anh hùng tha cho cái mạng chó này, xem nhà ta có thứ gì tốt, ngài cứ việc lấy hết đi.”
Cố Quân: “…”
“Hay là thế này đi Hầu gia, việc này xảy ra ở chỗ chúng ta, Chu đại nhân Tổng đốc Lưỡng Giang nhất định không né được, để ta đi thương lượng với lão nhân gia.” Diêu Trấn cười xòa nói, thấy sắc mặt Cố Quân tựa hồ không tốt lắm, lại vội bổ sung một câu, “Đúng rồi, còn có tiểu điện hạ, tiểu điện hạ du lịch Giang Nam, tình cờ nhìn thấy phản quân bắt trường tý sư dân gian, gặp chuyện bất bình, một mình lẻn vào, nội ứng ngoại hợp với quân ta, tự tay bắt được phỉ thủ, ngài thấy như thế có được không?”
Lời này vừa ra khỏi miệng, Cố Quân liền không lên tiếng nữa.
Đối với xuất thân của Trường Canh, đương kim Hoàng thượng tuy không tiện nói rõ, nhưng nhất định có khúc mắc trong lòng. Hiện tại chuyện này không khéo dính dáng đến Ngụy vương, Hoàng thượng tất nhiên lạnh lòng, nhìn lại thấy ấu đệ vẫn không chào đón này cờ xí rõ ràng đứng bên hắn, chưa biết chừng chịu bỏ qua ân oán đời trước.
Trường Canh đã sắp đến tuổi phong vương, nếu có thể được Hoàng thượng ưu ái, con đường tương lai có lẽ sẽ dễ đi hơn.
Cố Quân cân nhắc giây lát, tức giận trừng Diêu Trấn một cái – người này quả thật cực kỳ có tài, nếu không cũng khó mà duy trì tình hữu nghị lâu bền với An Định hầu chỉ có duyên gặp mặt một lần, nhưng không cầu tiến cũng là thật, toàn bộ truy cầu chính là ăn no ngủ khì, dồn hết thông minh tài trí vào đút lót nịnh nọt.
Diêu Trấn cười hì hì hỏi lại: “Hầu gia, ngài thấy như thế có được không?”
Cố Quân chẳng thèm để ý đến hắn, trợn mắt phất áo bỏ đi.
Y chuẩn bị lặng lẽ rời khỏi Giang Nam, trong chuyện này, Lâm Uyên các và Huyền Thiết doanh đều tham dự, nhưng đều không tiện lộ diện, làm sao vo cho tròn, phải nhờ hết vào bút của Diêu Trấn.
Lúc Cố Quân đẩy cửa ra, thấy Trường Canh đang vót sáo trúc trong viện, Cát Bàn Tiểu Tào Nương Tử và hai tiểu nữ nhi của Diêu đại nhân đều vây quanh y. Trường Canh khéo tay lại ôn hòa kiên nhẫn, vót cho mỗi người một cây, trông rất khá, hai tiểu nha đầu đều chưa đầy mười tuổi, chạy quanh y nhảy nhót reo hò.
Cố Quân nhìn thấy Trường Canh liền cảm thấy tâm tình rất tốt, tuy chưa bao giờ nói ra, y vẫn hi vọng Trường Canh có thể thành một người nhạy bén nhưng thông minh không quá lộ ra, nhân nghĩa lại không thiếu quyết đoán, không yếu đuối như phụ thân, cũng không cực đoan như mẫu thân.
Sự trưởng thành của Trường Canh hoàn toàn không mưu mà hợp với suy nghĩ của y.
Ngay cả ngoại hình cũng chọn ưu điểm của cha mẹ để kế thừa.
Y đi tới, rút một cây sáo mới thành hình trong tay Trường Canh, cười nói: “Có phần của ta không?”
Nụ cười thả lỏng trên mặt khựng lại, Trường Canh lấy lại cây sáo, đưa cho tiểu nữ hài đang đứng hóng bên cạnh, miệng nói: “Đồ chơi để dỗ trẻ con, xấu xí lắm, nghĩa phụ đừng giễu cợt.”
Cố Quân: “…”
Y im lặng nhìn chằm chằm cây sáo trong tay cô bé, nghĩ thầm: “Ta cũng muốn.”
Đứa trẻ chưa cao bằng chân Cố Quân giấu tay ra sau lưng, hung hãn ngửa đầu nhìn Cố đại soái, không sợ gì hết.
Trường Canh bỏ đồ trong tay xuống, ra hiệu cho bọn Cát Bàn Tiểu dẫn hai tiểu nha đầu đi chơi, mình thì đi theo Cố Quân, lòng chùng xuống, hỏi: “Nghĩa phụ phải về Tây Vực rồi ạ?”
Cố Quân: “Ừ, ngươi thay ta hồi kinh gặp thánh, nên nói thế nào thì Trọng Trạch sẽ dạy, không cần lo lắng.”
Trường Canh im lặng gật đầu.
“Lần này ngươi đã lập công, Hoàng thượng có khả năng sẽ phong thưởng,” Cố Quân nói, “Có thể sẽ để ngươi vào triều nghe chính sự sớm, nếu ngươi đề cập, chưa biết chừng y còn cho ngươi đến Tây Bắc tìm ta.”
Năm nay gặp lại, Trường Canh đã là một người lớn lâm nguy không loạn, vẻ trẻ con năm ngoái không còn sót lại chút nào, Cố Quân cũng buông lỏng suy nghĩ kiên quyết không dẫn y đi Tây Bắc, trước mắt nhân Tây Bắc còn miễn cưỡng xem như thái bình, Cố Quân thầm nghĩ, cũng có thể dẫn Trường Canh đi mở mang kiến thức, dù sao thì cũng chẳng cần y làm gì, tương lai về triều còn có thể tính là vốn của y.
Lúc Cố Quân đi vắng, Trường Canh từng một lòng một dạ muốn theo đến Tây Bắc, Cố Quân vốn cho rằng rốt cuộc được như mong muốn, ít nhất y sẽ mừng khôn xiết một lần.
Ngờ đâu Trường Canh đứng khựng lại, im lặng chốc lát, đoạn nói: “Nghĩa phụ, con không muốn đến Tây Vực nữa.”
|
Chương 36: Đôi ngả
Việc này hoàn toàn không giống với kỳ vọng, Cố Quân sửng sốt, buột miệng hỏi luôn: “Vì sao?”
Trường Canh đáp rất có lý: “Tây Vực có Huyền Thiết doanh của nghĩa phụ tọa trấn, con đến cũng chỉ thêm rối, còn phải phiền người phí tâm tư cho con một chút quân công giả dối, không có ý nghĩa gì.”
Tuy trên đại thể Cố Quân nghĩ như vậy, nhưng Trường Canh vạch thẳng ra trước mặt, y vẫn có cảm giác như bị hắt nước lạnh, miễn cưỡng giữ nguyên sắc mặt không thay đổi, nói: “Thế… cũng tốt thôi, về kinh vào triều nghe chính sự cũng được, lão sư của ta có một số môn sinh, ngươi đi làm quen trước một chút cũng…”
Trường Canh: “Thế không phải cũng giống nhau sao?”
Trong khi nói chuyện, y ngẩng đầu thoáng nhìn đoạn cuối của một hành lang nhỏ, Giang Nam diễm dương chiếu nghiêng xuống, hoa xuân rực rỡ khắp vườn. Nhưng nghe hạ nhân Diêu phủ nói, tuy rằng nhìn xán lạn, thực ra kỳ hoa nở cũng chỉ mươi bữa nửa tháng, chẳng bao lâu là tàn, đây còn là nở trong vườn, chứ nếu nở ở rừng núi hoang vắng hiếm ai tới, lặng lẽ nở rộ, lại lặng lẽ điêu linh, sinh tử như một chớp mắt, bên cạnh chẳng qua mấy con dã cầm si thú, lại có ai biết được?
Hoa là như thế, rất nhiều yêu ghét vô vị trong lòng người đại để cũng là như thế.
Trường Canh: “Nghĩa phụ, bên cạnh Liễu Nhiên đại sư có rất nhiều kỳ nhân, con muốn cùng họ vân du tứ phương, nhất định sẽ không trễ nải việc đọc sách và luyện công…”
Không phải là nói nhảm à?
Còn chưa nói hết thì Cố Quân đã sầm mặt ngắt lời: “Không được.”
Trường Canh nghiêng người, im lặng nhìn y.
Trong ánh mắt thiếu niên ngược sáng ẩn chứa thứ gì đó khó nói rõ, trước kia Cố Quân chưa bao giờ lưu ý, lúc này chợt thấy, lại hơi kinh hồn táng đảm. Y lập tức ý thức được ngữ khí của mình hơi cứng nhắc, thần sắc thoáng dịu đi, nói: “Ngươi đi chơi thì không có vấn đề gì, chờ trở về kinh rồi, kêu Vương bá điều mấy thị vệ hầu phủ cùng ngươi đi quanh một chút, nhưng có một điểm, là không được phép đến nơi không có trạm dịch của triều đình, mỗi khi đến một trạm dịch đều phải gửi phong thư báo bình an cho ta.”
Trường Canh nhàn nhạt nói: “Dọc đường cẩm y ngọc thực cho mất mặt à? Thế còn không bằng rỗi rãi đến Hộ Quốc tự thắp nhang với các phu nhân tiểu thư, còn bớt bạc người ăn ngựa mỏi.”
Cố Quân: “…”
Tiểu tử này vậy mà biết tranh luận rồi!
Còn nhất phái ưu nhã thong dong ngầm châm chọc!
Tâm tình tốt đẹp của Cố Quân do xuân sắc Giang Nam đột nhiên không còn sót lại chút nào, y nghĩ bụng: “Sao còn nói không thông, chiều quá muốn leo lên đầu luôn hả?”
Ngữ khí y bắt đầu có chút mất kiên nhẫn: “Giang hồ đường xa, lòng người hiểm ác, có gì vui đâu? Hòa thượng kia vai không thể gánh tay chẳng thể vác, trừ bỏ chạy thì chỉ biết ăn xin, ngươi đi theo hắn vạn nhất trên đường có chuyện gì, ta làm sao ăn nói với tiên đế?”
“A,” Trường Canh hờ hững nghĩ, “Quả nhiên là vì ăn nói với tiên đế, tiên đế dưới cửu tuyền nếu nghe nói ta là tiểu tạp chủng không biết Tú Nương kiếm đâu ra để xáo trộn huyết thống hoàng gia, khéo tức đến mức phải hoàn dương bóp chết ta.”
Cứ nhìn Cố Quân thêm một cái, là y cảm thấy tim như bị dao cắt một lần, tội nghiệt nặng nề một lần, hận không thể lập tức bỏ trốn. Nhưng người kia lại giữ chặt không cho y đi.
Trường Canh không biết phải làm gì với Cố Quân, có lần trong lòng còn vô duyên vô cớ sinh ra một phen oán độc dai dẳng, nhưng nhanh chóng định thần lại.
Trường Canh thu tầm mắt khỏi người Cố Quân, bình tĩnh nói: “Mấy hôm trước nghĩa phụ còn nói với con, chỉ cần là đường con tự mình nghĩ kỹ muốn chọn thì đều được, mà giờ đã nuốt lời nhanh đến thế?”
Cố Quân rất giận: “Ta bảo ngươi tự mình nghĩ kỹ, ngươi như vầy là nghĩ kỹ rồi hả?”
Trường Canh nghiêm túc: “Con quả thật nghĩ như vậy.”
“Không được, nghĩ lại lần nữa! Nghĩ kỹ rồi thì tìm ta nói.” Cố Quân không muốn mắng y ở bên ngoài, liền tức giận phất tay áo, quay người bỏ đi.
Trường Canh nhìn theo bóng lưng Cố Quân, phủi cánh hoa dính trên người, nghe thấy phía sau có tiếng bước chân, chẳng cần quay đầu đã nhận ra là ai đến, nói: “Để Liễu Nhiên đại sư chê cười rồi.”
Liễu Nhiên hòa thượng mới đầu không dám ra đây, thập thò cả buổi, thấy Cố Quân đi rồi, mới yên tâm lộ diện, dùng thủ ngữ nói: “Hầu gia có ý tốt.”
Trường Canh cúi đầu nhìn đôi tay mình, tay đã hơi chai, chỉ là còn chưa trải qua thử thách của vết thương.
Y hờ hững nói: “Ta không muốn ỷ lại lòng tốt của y để làm một phế vật mọi việc đều dựa dẫm vào y.”
“Hòa thượng cảm thấy điện hạ hơi cực đoan,” Liễu Nhiên ra dấu, “Cho dù là thánh nhân, lúc còn nhỏ, hầu hết cũng trưởng thành dưới sự chở che của phụ mẫu bề trên, với tiêu chuẩn của điện hạ, chẳng phải thiên hạ toàn phế vật sao? Đại tài trưởng thành muộn, cần phải bớt kiêu ngạo xốc nổi.”
Trường Canh không đáp, hiển nhiên là không nghe.
Liễu Nhiên hòa thượng lại nói: “Ta thấy điện hạ thần sắc phiền muộn, là độc đã ăn vào tận xương.”
Trường Canh giật nảy mình, cho rằng hắn đã biết chuyện Ô Nhĩ Cốt.
Lại thấy Liễu Nhiên hòa thượng tiếp tục: “Trong lòng người đều có độc, có nặng có nhẹ, điện hạ tuổi này, vốn không nên phát tác triệt để như vậy, ngài suy nghĩ quá nhiều rồi.”
Trường Canh cười khổ nói: “Ngươi biết cái gì?”
Y luôn cảm thấy hết thảy xung quanh mình – vương tước, hư danh, đều là Tú Nương trộm cho, rồi có một ngày sẽ có người nhận ra y không xứng với mấy thứ này, khiến y lộ ra chân tướng, khiến y mất đi tất cả.
Nơm nớp lo sợ như vậy quen rồi, Trường Canh thủy chung cảm thấy mình ở kinh thành là một người ngoài cuộc.
Cố Quân đứng trên góc độ của tứ điện hạ trù tính tiền đồ cho y, mà trong lòng y một chút cảm giác chân thật cũng không có.
Mỗi ngày soi gương đều biết mình là con “địa long” dưới bùn, người ta lại cứ muốn trồng sừng cắm vảy cho y, hao hết tâm cơ trang trí y thành chân long, không ngờ trang trí nhiều hơn cũng chẳng ra cái gì, y thủy chung là con giun đất không ngoi lên được.
Đã thế, chi bằng cứ tránh xa một chút, để tương lai khỏi khó xử.
Chỉ có một Cố Quân, hỉ nộ ai lạc mang đến cho y đều khắc cốt minh tâm, không mảy may giả dối, y không cách nào lừa mình dối người nhẹ nhàng buông xuống, chỉ là thường xuyên cảm thấy mình không xứng.
Trường Canh không tự oán tự trách quá lâu, nhanh chóng định thần lại, hỏi: “Đúng rồi, đại sư, ta vẫn luôn muốn hỏi ngài, tiểu nghĩa phụ của ta rốt cuộc có chứng bệnh gì? Lần đó đến Đông Hải y rất bất thường, nhưng lại không chịu cho ta biết.”
Hòa thượng lật đật lắc đầu: “A di đà Phật, hòa thượng không dám nói đâu.”
Trường Canh nhíu mày: “Chính y sính cường thì thôi, ngươi còn giúp y?”
“Hầu gia há là người sính cường vô vị?” Liễu Nhiên cười nói, “Việc này nếu bản thân y không muốn đề cập, không phải là sợ người khác biết nhược điểm của y, đại khái bởi vì đây là vảy ngược trên người và độc trong lòng y – ai dám chạm vào vảy ngược của An Định hầu? Điện hạ tha cho cái mạng nhỏ của ta đi.”
Trường Canh suy tư nhíu mày.
Cố Quân chẳng dễ gì trốn khỏi đại mạc cát vàng mấy hôm, vốn định thưởng thức phong cảnh Giang Nam, ra ngoài cưỡi ngựa, du hồ, ngắm vài mỹ nhân, trước khi đi phải chơi cho đủ, kết quả là bị hai câu của Trường Canh làm mất cả hứng, ru rú trong phòng không chịu ra ngoài, bởi vì y nhìn Trường Canh cũng giận, nhìn Diêu Trấn cũng giận, nhìn Liễu Nhiên càng tức muốn bốc khói.
Hai đứa con nít quỷ của Diêu gia còn không chịu yên, đua nhau thổi sáo trúc, mười dặm tám thôn đều nghe thấy, y như một đôi sáo om sòm vậy.
Cố Quân vừa nghe âm thanh chẳng thành điệu ấy, liền nhớ đến cảnh Trường Canh rút sáo khỏi tay mình, càng tức giận hơn – ngày xưa không phải có thứ gì cũng cho nghĩa phụ trước à? Sao nói thay đổi là thay đổi luôn vậy?
Thương thay duyên phận của phụ mẫu thiên hạ với con cái thoạt nhìn huyết mạch tương liên, nhưng thì ra đều không thể dài lâu.
Huống chi không phải ruột thịt, ngay cả huyết mạch tương liên cũng chẳng có.
Chập tối, một huyền ưng đáp xuống sân: “Đại soái, Thẩm tướng quân gửi thư.”
Cố Quân nén cơn giận, nhận thư xem, chỉ thấy Thẩm Dịch ngắn gọn hẳn so với cách viết thư dài dòng mọi khi, chỉ ba chữ – gấp, về ngay.
Thẩm Dịch từ Linh Xu viện ra đây xuất sinh nhập tử với y, có trận thế nào chưa từng gặp? Không có việc tuyệt đối sẽ không viết thư khẩn giục cho người ta ghét.
Huyền ưng: “Đại soái, ngài xem…”
Cố Quân: “Biết rồi, không cần hồi âm, ngày mai chúng ta sẽ khởi hành.”
Bên phía Trường Canh căn bản còn chưa xong, Cố Quân vốn định lơ y vài hôm rồi nói tiếp, nhưng Thẩm Dịch thúc giục, không có cách nào khác, đành phải đi hai vòng trong phòng rồi đứng dậy sang tìm.
Trường Canh đang luyện kiếm trong viện, Cố Quân đứng xem một lát, đột nhiên với tay rút bội kiếm của huyền ưng, huyền ưng chưa tháo giáp, trọng kiếm bản to như bàn tay người trưởng thành, bị y cầm nhẹ không như chổi lông gà: “Cẩn thận này.”
Lời còn chưa dứt, một kiếm đã lia ngang tới, Trường Canh vững vàng đỡ được, lại không lui một bước.
“Có tiến bộ,” Cố Quân thầm nghĩ, “Tay cũng có chút sức lực rồi.”
Y hất lên, nhờ lực của kiếm trong tay tung người lên, đại khai đại hợp một kiếm như trăng tròn.
Trường Canh không dám đón chiêu, chân dịch liền mấy bước, lại không trừ được lực của nhát kiếm này, trọng kiếm cồng kềnh trong tay Cố Quân như linh xà thè lưỡi, chớp mắt đã đâm ra ba nhát, Trường Canh hoành kiếm chắn, người đã lui tới góc, nghiêng người nhảy lên xà nhà, xoay tròn trên không, giẫm một chân lên trọng kiếm của Cố Quân.
Cố Quân khen hay một tiếng, chợt buông chuôi kiếm, Trường Canh hụt chân, hơi lảo đảo, Cố Quân giơ tay bắt lại chuôi kiếm, nhẹ nhàng đè xuống ngay vai thiếu niên vẫn chưa đứng vững, huyền thiết kiếm quang làm y nổi da gà.
Cố Quân bật cười, dùng trọng kiếm vỗ vai Trường Canh, đoạn ném kiếm cho huyền ưng phía sau: “Không tệ, công phu chưa từng lười biếng.”
Trường Canh hoạt động cổ tay ẩn ẩn tê rần: “So với nghĩa phụ còn kém xa lắm.”
Cố Quân nói không biết ngượng: “Ừ, đúng là còn kém xa lắm.”
Trường Canh: “…”
Trong tình huống bình thường không phải nên khiêm tốn trước rồi chân thành dạy vài câu à? Sao y còn thuận thế khoe khoang! Có nghĩa phụ nào thiếu khiêm tốn như vậy không?
Cố Quân: “Nếu ngươi đến đại doanh Tây Bắc, ta có thể đích thân dạy ngươi.”
Quả nhiên vẫn là vì việc này, Trường Canh không nhịn được bật cười.
Kể cũng lạ kỳ, đôi khi, một người thật sự muốn có được thứ gì đó, nóng vội khát cầu dốc hết mưu kế cũng chẳng được, bỗng nhiên cảm thấy không muốn nữa, thì thứ kia ngược lại dây dưa tìm tới cửa.
Trường Canh khéo léo từ chối: “Lúc ở hầu phủ, con từng hỏi sư phụ, nghĩa phụ hồi nhỏ luyện kiếm tập võ cũng là ở hầu phủ, vì sao có thể lợi hại như vậy, sư phụ bảo rằng, công phu vững chắc, chủ yếu xem mình chịu bỏ bao nhiêu công sức, công phu lợi hại, chủ yếu là tình huống sinh tử trên chiến trường nhiều rồi, chứ ai dạy cũng thế thôi.”
Nụ cười của Cố Quân biến mất.
Trường Canh: “Nghĩa phụ, con đã nghĩ kỹ rồi, vẫn muốn ra ngoài xem thiên địa.”
Cố Quân nhíu mày nói: “Thiên địa ở kinh thành và biên cương không phải thiên địa à? Ngươi còn muốn thấy cái gì, Đại Lương chứa không nổi ngươi nữa? Ngươi còn muốn tới Tây Dương hay sao?”
Thấy lại sắp cãi nhau, huyền ưng ở phía sau không dám hó hé tiếng nào, sát thủ không trung cao lớn ôm trọng kiếm, vờ như mình là một đống than quên dọn.
Trường Canh không lên tiếng, chỉ nhìn thật sâu vào mắt Cố Quân, trong tích tắc, y rất muốn đem chuyện kìm nén trong lòng dốc ra như nôn mửa, sau đó nhịn xuống – y thử tưởng tượng phản ứng mà Cố Quân có thể có, cảm thấy mình chắc là không chịu nổi.
Cố Quân: “Ngươi không cần phải nói nữa, ta không muốn biết mấy ý nghĩ vớ vẩn đó của ngươi là từ đâu ra, ngày mai cứ đuổi tên hòa thượng kia cút đi, ngươi ngoan ngoãn quay về kinh thành, đã không muốn đi Tây Bắc, vậy thì ở nhà, khỏi đi đâu hết!”
Trường Canh rất muốn hét lớn một tiếng với Cố Quân: “Hầu phủ không phải nhà của ta.”
Nhưng lời này ra đến môi, lại bị y cắn làm đôi nuốt xuống, theo bản năng sợ nói ra làm Cố Quân thương tâm – dù rằng không biết Cố Quân có tâm hay không để mà bị tổn thương.
“Nghĩa phụ,” Trường Canh lặng lẽ nói, “Lần này phiền người từ Tây Bắc cất công đến, lòng con rất buồn, nhưng nếu người bất chấp lý lẽ, con cũng chỉ có thể tùy hứng đáp lại. Con có thể chạy một lần, thì có thể chạy hai lần, người không thể vĩnh viễn canh chừng con, gia tướng hầu phủ không nhốt được con.”
Cố Quân tức phát điên, hầu phủ vẫn là nơi lòng y hướng về, vô luận không muốn về kinh cỡ nào, vừa nghĩ đến có thể về nhà, thì y chung quy vẫn chờ mong, lúc này y mới biết, hóa ra trong mắt Trường Canh, nơi đó hệt như nhà giam vậy.
Cố Quân: “Ngươi cứ thử xem.”
Hai người một lần nữa chia tay trong không vui.
Huyền ưng vội vàng đuổi theo, Cố Quân còn chưa đi xa, căn bản không kiêng dè Trường Canh nghe thấy hay không, lạnh lùng phân phó: “Ngày mai ngươi không cần đi theo ta nữa, theo tứ điện hạ lên kinh thành, không thể để y rời khỏi kinh thành một bước!”
Huyền ưng: “… Vâng.”
Cổng thành cháy hại đến cá chậu thì thôi, ngay cả hắc ưng bay ngoài cổng cũng bị đốt thành con gà trụi lông, thật là tai bay vạ gió mà.
Sáng sớm hôm sau, Cố Quân hằm hằm giận dữ mà đi.
Y không tạm biệt Trường Canh, trước khi đi, An Định hầu thất đức thần không biết quỷ không hay lẻn vào viện của đứa trẻ năm tuổi nhà Diêu đại nhân, trộm cây sáo trúc người ta để trên bàn đu dây, đứa bé ấy lúc dậy phát hiện sáo tự dưng biến mất, đau lòng gào khóc nguyên một ngày.
Cố Quân chạy về còn nhanh hơn lúc đến, chân vừa chạm đất câu đầu tiên đã nói với Thẩm Dịch: “Chuẩn bị thuốc cho ta.”
Thẩm Dịch thần sắc nghiêm trọng: “Ngươi bây giờ còn có thể nghe thấy không?”
“Còn,” Cố Quân nói, “Nhưng sắp hết rồi, có chuyện gì mau nói đi.”
Thẩm Dịch lấy mấy tờ giấy từ trong lòng ra: “Đây là khẩu cung của Sa Hạt Tử, chưa cho người khác xem, ta đích thân thẩm tra, chờ Đại soái trở về định đoạt.”
Cố Quân vừa đi vừa lật xem nhanh như gió, đột nhiên, y dừng chân, gấp số giấy trong tay lại.
Trong chớp mắt, vẻ mặt y hơi đáng sợ.
Sa Hạt Tử xâm chiếm con đường tơ lụa chỉ là thuận tiện, mục tiêu của hắn lại là Lâu Lan, trên tay hắn có một tờ tàng bảo đồ của Lâu Lan, cái gọi là “bảo”, lại là quặng tử lưu kim ngàn khoảnh. (Một khoảnh cỡ 100 mẫu)
Thẩm Dịch hạ giọng hỏi: “Đại soái, việc này lớn, có báo lên triều đình không?”
Cố Quân nói ngay không suy nghĩ: “Không.”
Y nhanh chóng thay đổi ý nghĩ: “Bản đồ ở đâu?”
Thẩm Dịch thì thầm chỉ đủ để hai người nghe thấy: “Sa Hạt Tử xăm trên bụng mình.”
Cố Quân: “Không nói từ đâu mà có?”
“Cướp được,” Thẩm Dịch nói, “Đám sa phỉ này hoành hành không cố kỵ, người Trung Nguyên, người chư quốc Tây Vực, người Tây Dương, gặp ai cũng cướp, chính mình cũng không biết là cướp từ ai.”
Cố Quân “À” một tiếng, nheo đôi mắt bắt đầu hơi mờ, dõi trông Lâu Lan phồn hoa vạn gia đăng hỏa ở đằng xa, một tiểu tử Lâu Lan xa xa nhìn thấy y, như phát điên ngồi trên tường thành khảy độc huyền cầm, nhìn Cố Quân mà cười không ngừng.
Cố Quân không rảnh đùa với đám người Lâu Lan ăn no chỉ biết uống rượu này, đưa lại mấy tờ giấy kia cho Thẩm Dịch: “Diệt khẩu.”
Đồng tử Thẩm Dịch hơi co lại.
“Diệt khẩu, hủy thi diệt tích,” Môi Cố Quân hầu như không nhúc nhích, lời nói đều nằm trong miệng, “Cả đám sa phỉ kia luôn, cứ nói hãn phỉ muốn vượt ngục, tướng sĩ bên ta bất đắc dĩ đành phải chém hết – việc này giữa ngươi và ta, tiết lộ ra ngoài chỉ hỏi ngươi, lập tức truy tra sự tồn tại của tàng bảo đồ kia.”
“Vâng.”
Giây lát sau y lại hỏi: “Đại soái, ta nghe nói, phía kinh thành truyền đến lời đồn, rằng Ngụy vương đã bị giam lỏng?”
Cố Quân nhìn y một cái: “Ngươi cũng nói là lời đồn, thánh chỉ chưa hạ, không được phỏng đoán lung tung, làm việc của mình đi.”
Thẩm Dịch đáp một tiếng, Cố Quân vẻ mặt mệt mỏi chưa tiêu, đứng tại chỗ ấn nhẹ khóe mắt, hi vọng mình đã phản ứng quá mức với tàng bảo đồ lai lịch không rõ này.
Đông Hải giao họa chưa bình, Tây Bắc lại có biến cố, y cứ cảm thấy những việc này không phải trùng hợp.
Nửa tháng sau, hai phong tấu biểu Giang Nam trải ra trước mặt Hoàng đế Long An Lý Phong.
Lý Phong gõ bàn, một nam tử ngoài bốn mươi để râu dài bên cạnh lập tức tiến lên, vặn đèn măng-sông sáng lên giúp hắn, người này chính là cậu ruột Hoàng thượng, tên Vương Quả, là đệ nhất sủng thần hiện nay.
Lý Phong mở bản tấu bên trên, chính là cách nói ngày đó Diêu Trấn và Cố Quân thương lượng, ẩn đi Huyền Thiết doanh và Lâm Uyên các, nịnh bợ hết các quan viên Giang Nam lớn nhỏ, cuối cùng ca công tụng đức một phen, Hoàng đế xem xong không nói gì, cầm phong thứ hai.
Phong thứ hai lại là một phong mật tấu, cách nói hoàn toàn bất đồng với bản trước, viết rằng: “Ngày tiễu phỉ trên biển, An Định hầu và huyền ưng, huyền giáp mấy chục người hiện thân ở Đông Hải, bắt tặc thủ, theo tặc thủ khai, trên hải giao phản quân có một nữ tử, hành tung quỷ bí, hình như là người của Lâm Uyên các, như là người quen cũ của Cố Quân.”
Lý Phong xem xong không nói gì, thuận tay đưa hai bản tấu chương cho Vương Quả.
Vương quốc cữu nhanh chóng xem xong, cẩn thận đánh giá thần sắc không rõ hỉ nộ của Lý Phong, phỏng đoán ý hắn mà mở miệng: “Việc này… Hoàng thượng, An Định hầu liên lụy trong đó, tuy có công không tội, nhưng tự tiện bỏ nhiệm vụ, cũng…”
Lý Phong: “Y có huyền ưng ngày đi ngàn dặm, tung hoành Trung Nguyên chẳng qua là chuyện vài ngày, mặc dù tùy tiện bỏ việc, nhưng cũng chưa đặc biệt mất chừng mực, chỉ là trẫm không rõ, vì sao khéo như vậy, An Định hầu đóng vai gì trong đây?”
Vương Quả nheo mắt, ý thức được điều gì đó.
Lý Phong gõ những ngón tay thon dài trên bàn: “Còn có Lâm Uyên các – Lâm Uyên các ẩn nấp trên giang hồ nhiều năm, vì sao đột nhiên hiện thân? Cố Quân có liên hệ với những người này từ khi nào?”
Lâm Uyên các, thịnh thế không ra, ra tất gặp loạn.
Vương Quả hít sâu một hơi: “Hoàng thượng muốn nói là Cố Quân có mưu đồ bất chính-“
Lý Phong liếc lão một cái, mỉm cười: “Quốc cữu nghĩ đi đâu vậy, Thập Lục hoàng thúc từ nhỏ lớn lên bên trẫm, đàn áp phản nghịch lập công lớn, ngươi nghĩ như thế, chẳng phải là làm trung thần lạnh lòng?”
Vương Quả không rõ hắn có ý gì, nhất thời chỉ dám phụ họa, không dám tiếp lời.
Lý Phong: “Chỉ là Đại Lương ta vạn dặm non sông, nam bắc tứ phương toàn nhờ vào một mình y, chẳng lẽ không phải làm tiểu hoàng thúc của trẫm mệt chết? Trẫm nghĩ, cũng nên tìm người phân ưu giúp y rồi.”
|
Chương 37: Kích trống
Hoàng đồ bá nghiệp mấy phiên, sử xanh lưu danh một trang.
Từ xưa đến nay, Hoàng đế các triều các đại vô cùng tương đồng, có người trị quốc an bang, có người hại nước hại dân, có người buông tay tu tiên, có người gây sóng gây gió.
Hoàng đế Nguyên Hòa tiên đế chắc chắn thuộc phái tu tiên, khoan thứ nhân hậu, mê muội vô năng, con trai ông tuy chính kiến tương tự, song tác phong chắc chắn thuộc phái sóng gió.
Hoàng đế Long An Lý Phong chưa từng tôn thờ “trị đại quốc nhược phanh tiểu tiên(1)” gì đó, hắn cần cù chính sự, là người cứng rắn, từ khi đăng cơ đã sửa lại tác phong mềm mỏng lười biếng chính vụ của tiên đế, hấp tấp bắt đầu kiếp sống chấp chính phiên vân phúc vũ-
Năm đầu, phái An Định hầu Cố Quân hộ tống Thiên Lang thế tử Gia Lai Huỳnh Hoặc quay về Bắc cương, đồng thời cùng nhiều phương ký kết hiệp ước con đường tơ lụa, mở ra con đường buôn bán tuyến Tây Vực.
Vô luận là thân thiện hữu hảo với Bắc man, hay cắm An Định hầu ở tuyến Tây Vực, lệnh cho y đốc thúc việc mở rộng con đường tơ lụa, đều tỏ rõ cho thiên hạ thấy sự thống hận của Hoàng thượng với quốc khố thiếu thốn, rất có vẻ như muốn nói “Cố Quân ngươi không kiếm được tiền về, thì tự đi bán mình đi”.
Năm Long An thứ hai, Ngụy vương cấu kết với Đông Doanh, mưu toan dựng vương đô trên biển, gây ra giao họa. Nào ngờ giữa chừng âm mưu bại lộ, thủy quân Giang Nam chớp nhoáng bắt tặc thủ trên hải giao, Ngụy vương bị hạ ngục, sau uống thuốc độc “tự sát”.
Hoàng đế Long An coi đây là cơ hội, mạnh tay chỉnh đốn quan trường Giang Nam, quan viên lớn nhỏ tám mươi sáu người bị liên lụy, trong đó hơn bốn mươi người vấn trảm, sau mùa thu một lần chém chưa hết, chém tới ba đợt, những người khác cung hình hầu hạ, sung quân lưu đày, vĩnh viễn không dùng lại.
Cùng năm, từ Giang Nam bắt đầu toàn diện thi hành tân pháp, nghiêm tra vùng sở hữu của hương thân địa chủ các nơi, nhưng tra xong cũng không chia cho bách tính điền hộ, mà thu hết về triều đình, quyền lực địa phương sau khi thu lại trả về trung ương, cho đến năm Long An thứ ba, ngay cả mỗi một mảnh đất trồng gì, xây gì, đều phải trải qua tầng tầng phê duyệt, mức độ trung ương tập quyền Vũ đế năm đó cũng không bằng, việc hạn chế tử lưu kim đạt tới mức chưa từng có bao giờ.
Không ai dám dị nghị – có dị nghị đều là bè đảng Ngụy vương, không phải trên một đao thì là dưới một đao.
Lại hai năm nữa, năm Long An thứ tư, Lý Phong bắt đầu thi hành “chưởng lệnh pháp”, bắt trường tý sư dân gian phải đăng ký vào nơi tương ứng, nhận được “chưởng lệnh” mới có thể tiếp tục công việc.
Triều đình dựa theo tư lịch và năng lực, chia trường tý sư làm ngũ đẳng, dưới mỗi một chưởng lệnh có ấn, trên mỗi ấn đều có đánh số, người cầm lệnh này, sửa gì làm gì đều phải ghi chép lại.
Cấp bậc nào có thể làm gì đều có quy định nghiêm khắc, nghiêm cấm trường tý sư không đăng ký tự tiện nhận việc.
Hết thảy giáp trụ và hỏa cơ liên quan đến quân nhu, trường tý sư không trong quân tịch không thể mó vào, kẻ trái lệnh sẽ bị chặt ngón tay lưu đày.
Pháp lệnh này vừa ban ra, trong triều liền nhao nhao tranh luận, nhưng vô luận quần thần lấy lý lẽ tranh đấu thế nào, Hoàng thượng và nội các quan hệ mật thiết với Hoàng thượng sau khi qua chỉnh túc đều là một câu – mạch trường tý sư nếu không bóp chết, thì làm sao bóp chặt van tử lưu kim rò rỉ?
Chưởng lệnh pháp chưa tranh luận xong, thì Lý Phong đã ném ra quả bom tiếp theo: “Pháp lệnh kích trống”, chỉ thẳng vào quân đội.
Đại Lương triều vốn theo chức năng bất đồng mà chia làm bảy đại quân chủng, lại theo địa vực, ở Giang Nam, Trung Nguyên, Tái Bắc, Tây Vực và Nam Cương năm vùng mà bố trí một Thống soái. Việc bổ miễn võ quan, quân hưởng, quân lương, giáp trụ hỏa cơ điều phối đều do Binh bộ thống nhất, sự vụ khác thì do Thống soái các đại quân khu tự quản các vùng.
Mà trong tay An Định hầu có một tấm Huyền Thiết hổ phù, trong tình huống quân tình khẩn cấp có thể điều phối binh lực toàn cảnh.
Lý Phong giữ lại cách sắp xếp năm đại khu, cũng không động tới hổ phù trong tay An Định hầu, hắn chỉ bố trí thêm vài giám quân ngoài Thống soái ở các khu. Giám quân trực thuộc Binh bộ, ba năm đổi một lần, chỉ quản một việc là xin “lệnh kích trống” từ Binh bộ.
Lệnh kích trống chưa đến, Thống soái nào cả gan điều binh một bước, nhất loạt xử theo tội mưu phản.
Ngoại trừ Huyền Thiết doanh, trú quân năm khu các nơi đều cần tuân theo lệnh này.
Lệnh kích trống vừa ban ra, cả nước lập tức náo động, còn ai để ý mấy việc lắt nhắt như trường tý sư dân gian?
Hoàng thượng và văn võ bá quan tranh luận om sòm cả năm trời, năm đại Thống soái cùng ngày có ba muốn cáo lão, náo loạn đến sôi sùng sục, kinh động An Định hầu ở tận Tây Bắc.
An Định hầu còn chưa kịp biểu đạt ý kiến với pháp lệnh tự tìm đường chết của Hoàng thượng, đã phải bất chấp khó khăn đi khắp các nơi ổn định quân tâm, kiên nhẫn nghe các lão tướng quân đấm ngực khóc tang, ấn được hồ lô xuống thì gáo lại nổi, bôn ba khắp nơi.
Nguyên tịch năm này, Cố Quân vừa vặn về kinh báo cáo, bị đại cô nương tiểu tức phụ kín đường ập mặt ném hơn năm mươi chiếc khăn tay, còn chưa kịp đắc ý, được vài hôm đã phải tặng hết cho người ta lau nước mắt – tã cũng còn tiết kiệm hơn. (Nguyên tịch tức Tết Nguyên tiêu)
Ngay cả dân gian cũng lộn xộn theo, đám thư sinh của thư viện các nơi cả ngày ngậm trong miệng cơ hồ không có việc gì khác, như bánh xe lọc cọc lặp đi lặp lại lệnh này lệnh kia, tranh luận không ngừng.
Triều đình dưới thời Nguyên Hòa bao trùm bầu không khí nặng nề cuối cùng đã cho họ tìm được chút việc để khoác lác.
Vụ loạn này kéo dài đến tận năm Long An thứ sáu, pháp lệnh kích trống vẫn chưa tranh cãi xong, Hoàng thượng không chịu bãi bỏ pháp lệnh, nhưng tạm thời cũng chưa phái giám quân, pháp lệnh hữu danh vô thực treo lơ lửng, như một thanh kiếm, bất cứ lúc nào cũng chuẩn bị đập toác đầu một trong hai phương đang giằng co.
Lại là một năm trời thu mát mẻ, cách giao họa Giang Nam đã bốn năm, Ngụy vương thi cốt đã lạnh, việc này thành một đề tài lỗi thời, không ai nhắc tới nữa.
Cạnh quan đạo Thục Trung có một tửu quán nhỏ tên Hạnh Hoa thôn – nghe nói rải rác khắp Đại Lương tên thôn nhiều nhất chính là “Hạnh Hoa thôn”, phàm là dựng quán bán rượu, mười chỗ hết tám đều gọi là “Hạnh Hoa thôn”.
Một người trẻ tuổi nhẹ nhàng vén rèm cửa đi vào.
Y trạc tuổi nhược quán, vận trường bào cũ, ăn mặc kiểu thư sinh, nhưng ngoại hình thật là tuấn tú, tuấn tú đến gần như sắc sảo – sống mũi cao, tóc mai như đao cắt, hai mắt hơi sâu, mắt tựa hàn tinh, thế nhưng không khiến người ta cảm thấy hùng hổ đáng sợ, tự có khí chất ôn nhuận như ngọc, vừa gặp là trước mắt sáng bừng lên, nhìn lâu cũng không chán, ngược lại có thể thấy một chút xa cách không màng danh lợi khó nói rõ.
Tửu quán rất nhỏ, chó lớn vào cửa cũng phải khom lưng, bên trong chỉ có hai cái bàn, hôm nay đã ngồi chật chỗ.
Chưởng quầy kiêm luôn hai chức *** tiểu nhị và trướng phòng tiên sinh, đang rỗi việc gảy bàn tính, mắt không tự chủ được bị người trẻ tuổi này thu hút, thầm khen một tiếng tuấn tú thật, chắp tay nói: “Vị khách quan này, thật xin lỗi, ngài tới không khéo, không còn chỗ ngồi nữa, đi thêm năm dặm chắc còn chỗ dừng chân, hay ngài đến đó xem?”
Thư sinh tốt tính nói: “Ta dọc đường hơi khát nước, làm phiền chưởng quầy rót cho một bầu rượu ngon, không cần ngồi đâu.”
Chưởng quầy nhận bầu rượu, vừa mở liền có mùi rượu xộc ra: “Trúc diệp thanh, được!”
Khách bàn bên chủ động mời: “Vị công tử kia, mời đến đây nghỉ chân, ta dành một chỗ cho.”
Thư sinh cũng không chối từ, chắp tay cảm ơn.
Y còn chưa kịp ngồi xuống, đã nghe bàn bên có người nói: “Cãi nhau làm gì? Ta thấy kim thượng rất tốt mà, làm Hoàng đế, nắm đại quyền thì có gì không đúng? Mạn phép nói một câu không cung kính, chẳng lẽ cái vị từ sáng đến tối chuyện gì cũng không quản, không phải ăn chay niệm phật thì là quấn lấy cung nhân, chính là Hoàng đế tốt sao?”
Thư sinh không liệu được trong tửu quán cũng có kẻ ngồi bàn đại sự thiên hạ, ngẩng lên, chỉ thấy đó là một hán tử lớn tuổi xắn quần, tay thô to, kẽ tay còn dính dầu từ hỏa cơ, có khả năng là một trường tý sư cấp thấp.
Bên cạnh lập tức có người trông như lão nông phụ họa: “Không phải sao, ngươi xem giá gạo hiện giờ, bắt đầu từ triều ta, đã thấy giá nào rẻ hơn chưa?”
Trường tý sư kia thấy mình được ủng hộ, càng thêm đắc ý, phát ngôn bừa bãi: “Hôm trước ta vào thành, nghe một đám học trò trong thư viện luận đạo, nói đến lệnh kích trống, có hậu sinh chưa mọc râu nói xằng nói bậy, dám bảo Hoàng thượng muốn làm yếu chiến lực biên phòng Đại Lương, thật đúng là luận binh trên giấy, buồn cười hết sức! Chuyện Ngụy vương tạo phản không thấy sao? Đám Thống soái này trời cao Hoàng đế xa, nếu sinh dị tâm, giang sơn của Hoàng thượng có ổn hay không chưa bàn, xui xẻo chẳng phải là lão bách tính chúng ta? Ta nghe người ta nói, Binh bộ quản thúc như vậy, đến lúc đó quân phí không biết phải bớt được bao nhiêu, dân gian cũng không cần gánh khoản thuế nặng kia, chẳng lẽ không phải việc tốt?”
Lời này vừa nói ra, mọi người đang tán gẫu trong tửu quán nhao nhao gật đầu, lão giả mời thư sinh ngồi xuống cũng mở miệng: “An Định hầu vẫn chưa nhảy ra phản đối đâu, mà người khác đã um sùm thay.”
Thư sinh vốn không để ý lắm, nghe ba chữ “An Định hầu” thì vô thức ngẩng đầu lên, buột miệng hỏi: “Liên quan gì đến An Định hầu?”
Lão giả kia cười nói: “Công tử không rõ rồi, lần này Hoàng thượng nhìn như chưa động tới Huyền Thiết doanh, thực tế lại phân binh quyền trên tay An Định hầu – ngươi nghĩ xem, nếu sau này tướng sĩ tứ phương chỉ có lệnh kích trống điều động được, vậy Huyền Thiết hổ phù trong tay An Định hầu phải nói sao? Kẻ không có lệnh kích trống mà dụng binh luận như mưu phản, như vậy nếu Binh bộ không cho lệnh kích trống, năm đại Thống soái nghe Binh bộ, hay là nghe Hầu gia?”
Thư sinh cười nói: “Thì ra là thế, học trò thụ giáo.”
Dứt lời, thấy chưởng quầy đã rót xong rượu, y liền không nghe những thôn dân hương dã này nói hươu nói vượn nữa, khách khí cảm ơn lão giả đã nhường chỗ ngồi, bỏ tiền rượu xuống rồi đi.
Y vừa ra khỏi tửu quán, liền thấy nơi ban nãy không một bóng người đã có người chờ sẵn, cũng không nói gì, thấy thư sinh nghèo kia tựa hồ hơi xấu hổ, nhanh nhẹn hành lễ, rồi đứng ở một bên làm bích họa.
Thư sinh bất đắc dĩ đỡ trán nghĩ thầm: “Đuổi theo ngày càng nhanh.”
“Thư sinh” này chính là Trường Canh, bốn năm trước cãi nhau một trận với Cố Quân, bị huyền ưng “hộ tống” về kinh thành.
Từ chối rất nhiều ngợi khen của Hoàng đế, Trường Canh thử suốt nửa năm, mỗi ngày đều so chiêu với gia tướng hầu phủ, sau cùng rốt cuộc thành công trốn khỏi phủ An Định hầu.
Cố Quân phái người đuổi theo y vài lần, song phương mệt mỏi giằng co suốt một năm, sau đó Cố Quân thấy đứa trẻ kia thật sự như một con ưng non nhốt không được, đành phải thỏa hiệp, mặc cho y đi.
Chỉ là Trường Canh đi đến đâu cũng gặp phải mấy thị vệ Huyền Thiết doanh xuất quỷ nhập thần thường phục bám theo.
Sau đó, Trường Canh dưới sự dẫn tiến của Liễu Nhiên hòa thượng, bái nhập môn hạ một vị cao thủ dân gian không vang danh, theo sư phụ sống những ngày xuất quỷ nhập thần, đi khắp non sông các nơi và những chỗ chưa ai đến, một dạo thoát khỏi Huyền Thiết doanh.
Nhưng mỗi lần xuất hiện gần trạm dịch, lại sẽ bị bám theo, y vừa mới đến Thục Trung, vị tiểu tướng sĩ này đã chờ y.
Chỉ là Trường Canh hiện giờ đã không còn là thiếu niên không biết phải làm thế nào, một bầu quật cường năm đó. Y dẫn ngựa đi thẳng đến trước mặt người nọ, ôn hòa nói: “Vất vả vị huynh đệ này rồi, nghĩa phụ ta có khỏe không?”
Tiểu tướng sĩ không giỏi nói năng, không liệu được Trường Canh sẽ tới bắt chuyện, luống cuống trả lời: “Điện… thiếu gia, chủ nhân hết thảy đều tốt, nói nếu cuối năm biên cảnh bình ổn, sẽ về nhà đón Tết.”
“Được, thế hai hôm nữa ta sẽ khởi hành về kinh.” Trường Canh nghe thế gật đầu, không nhìn ra có bao nhiêu vui sướng, cũng không nhìn ra có bao nhiêu miễn cưỡng, vừa nói vừa đưa bầu rượu mới rót đầy ra mời, “Dọc đường vất vả, huynh đệ uống ngụm rượu cho ấm.”
Tiểu tướng sĩ dù không hiểu chuyện hơn cũng biết mình đột nhiên xuất hiện rất chướng mắt, nào ngờ Trường Canh chẳng những không nổi nóng, còn ôn hòa mời gã uống rượu, nhất thời quả thực có chút thụ sủng nhược kinh.
Gã không dám dùng miệng mình chạm miệng bầu, nơm nớp lo sợ cách ra uống một ngụm, một giọt cũng không dám làm đổ, hai tay trả lại, dắt ngựa cho Trường Canh.
Trường Canh: “Lúc mùa xuân kỳ thực ta từng đi Tây Bắc một chuyến, chỉ là nghĩa phụ quân vụ bận rộn, nên không lộ diện làm phiền, con đường tơ lụa thật là phồn hoa, sa mạc cát vàng vậy mà cũng có thể trở nên chen chúc, đi khắp toàn cảnh Đại Lương, không được mấy nơi phồn hoa hơn ở đó.”
Tiểu tướng sĩ thấy xa gần không có ai, thấp giọng nói: “Có Đại soái tọa trấn, mấy năm nay sa phỉ dần dần mai danh ẩn tích, rất nhiều người định cư buôn bán ngay cửa khẩu con đường tơ lụa, mấy món lặt vặt các nơi đều có, Đại soái nói nếu điện hạ có thích thứ gì, đến Tết về kinh sẽ mang về cho ngài.”
Trường Canh dừng một chút, nhàn nhạt nói: “Người trở về là được.”
Tiểu tướng sĩ không nghe ra ý tứ sâu xa trong lời này, cho rằng y chỉ thuận miệng khách sáo. Người ở lâu trong quân, cũng không hay nịnh bợ, liền thành thật im lặng.
Trường Canh thần sắc như thường đi trên quan đạo Thục Trung, ngực lại hơi nóng lên. Y vốn tưởng rằng ly biệt như nước, một vốc hắt lên, thì chu sa đằng hoàng, thông lục giả thạch (2) gì cũng gột sạch, không ngờ Cố Quân kia lại là khắc lên, chùi rửa nửa ngày mà chỉ ra dấu vết càng đậm hơn.
Nghe nói Cố Quân cuối năm về kinh, trời vừa vào thu, mà Trường Canh lại cảm thấy mình đã cận hương tình khiếp, mới vừa như nhớ nhà buột miệng một câu “chuẩn bị về kinh”, lúc này lại hối hận vô cùng, chỉ hận không thể nuốt lời, chạy thật xa đến chân trời góc biển.
Y đang nghĩ ngợi lung tung, trước mặt có một phụ nhân nhỏ gầy cõng người đi tới. Phụ nhân kia đi rất mất sức, cứ vài bước sẽ dừng lại nghỉ ngơi, thở hổn hển như trâu, vấp một hòn đá ven đường, la hoảng một tiếng ngã nhào xuống đất.
Trường Canh lập tức định thần lại, tiến lên đỡ hai người dậy: “Đại thẩm không sao chứ?”
Phụ nhân kia không biết đã đi bao xa, mệt đến không nói ra lời, mở miệng chưa kịp nói thì nước mắt đã rơi xuống trước.
Trường Canh sửng sốt một chút, không truy hỏi vì sao khóc, chỉ đỡ lão nhân hôn mê bất tỉnh mà nàng cõng, đưa tay bắt mạch, giây lát sau nhẹ giọng nói: “Vị lão trượng này chỉ là thường niên đi lại không được, tâm hỏa quá mức mà thôi, thi châm một chút là ổn, không ngại đến tính mạng, nếu tin được ta, thì mời đi theo ta trước.”
Tiểu tướng sĩ Huyền Thiết doanh không ngờ vị điện hạ này còn thông y lý, bước lên giúp cõng lão nhân ốm đau bệnh tật kia.
Trường Canh để phụ nhân lên ngựa của mình, dắt ngựa đi trước dẫn đường, không bao lâu liền tới một thôn, cổng thôn có một căn nhà rất nhã trí, cửa treo một xâu thịt khô.
Trường Canh quen đường buộc ngựa, trực tiếp đẩy cửa vào, dẫn người bệnh vào buồng trong, thả xuống cái sập nhỏ, lấy dưới gối ra một hộp ngân châm, xắn tay áo tự mình thi châm.
Tiểu tướng sĩ dè dặt hỏi: “Ngài… ở ngay nơi này ạ?”
Trường Canh nhanh chóng ngẩng đầu cười nói: “Không, đây chỉ là nhà một bằng hữu…”
Y còn chưa dứt lời, đã nghe gian ngoài có người nói: “Sao chưa mời đã tự vào.”
Trong khi nói chuyện, một nữ tử bạch y cao ráo vén rèm cửa bước vào, tiểu tướng sĩ vô thức hơi căng thẳng – người tới cửa mà gã lại không hề phát hiện, công phu của đối phương nhất định trên gã.
Trường Canh không dừng tay, cũng không xấu hổ, chỉ nói: “Trần cô nương, ta cho là cô vắng nhà.”
Đó chính là Trần Khinh Nhứ của Lâm Uyên các trên tặc thuyền Đông Hải năm ấy.
—
Trị nước lớn như nấu cá nhỏ, nấu cá nhỏ mà lật lên lật xuống, động tới nó nhiều quá, nó sẽ nát; trị nước lớn mà chính lệnh phiền hà, pháp lệnh thay đổi nhiều quá, can thiệp vào việc dân nhiều quá, dân sẽ trá ngụy, chống đối. Câu này xuất xứ từ Đạo đức kinh của Lão Tử, bản dịch của Giang Tử Nguyễn Duy Cần.
Chu sa và giả thạch là khoáng vật dùng làm thuốc, đằng hoàng là một vị thuốc lấy từ nhựa cây. Tuy nhiên theo ngữ cảnh thì câu này có lẽ muốn nói là dù dính mấy thứ màu vàng màu xanh hay màu cam thì tạt một vốc nước là sạch hết.
|
Chương 38: Gặp lại
Trần Khinh Nhứ trách một câu, nhưng trên mặt không có vẻ gì là giận, trái lại như là bị những vị khách không mời này xông vào quen rồi. Nàng vào nhà bỏ thảo dược trong tay xuống, chào mấy người lạ trước: “Tiểu nữ họ Trần, là một lang trung giang hồ.”
Nàng tự xưng là lang trung giang hồ, nhưng giơ tay nhấc chân rất có khí chất tiểu thư khuê các, lại không cười, vẻ mặt lạnh băng, phụ nhân kia thấy thế hơi câu nệ, lúng ta lúng túng hồi lâu, chẳng giỏi nói năng, chỉ biết ra sức cúi chào. Trần Khinh Nhứ nhìn thoáng qua Trường Canh đang thi châm, nói: “Y cũng xem như nửa đồ đệ của ta, khởi tử hồi sinh là không thể, nhưng chứng bệnh tầm thường cũng ứng phó được, đại tỷ cứ yên tâm.”
Ngoại hình nàng khó nhận ra tuổi tác, ăn mặc lại như cô nương, tiểu tướng sĩ bên cạnh thấy thế tim đập như nổi trống.
Một cô nương chưa lập gia đình, cho dù là đại phu, điện hạ nhà mình không nói tiếng nào tùy tiện vào nhà người ta… có thích hợp không? Xem dáng vẻ như xe nhẹ đường quen ấy, không chừng đã tới bao nhiêu lần rồi.
Nếu là ở kinh thành, trong một số nhà chú trọng lễ phép, giữa phu thê gặp nhau cũng phải phái hạ nhân đi nói một tiếng trước.
Tuy là nhi nữ giang hồ không câu nệ tiểu tiết…
Tiểu tướng sĩ lần đầu một mình đi theo Trường Canh, không ngừng phỏng đoán quan hệ của nữ tử xa lạ này với tứ điện hạ, lại không biết việc này nếu để Cố Quân hay sẽ giận dữ cỡ nào, trong lòng lo sốt vó, không nghĩ ra phải bẩm báo làm sao với Đại soái, thiếu điều phát khóc.
Đang nói chuyện thì lão nhân trên sập rên một tiếng, nặng nề ho vài cái, từ từ tỉnh lại.
Trường Canh cũng không ngại bẩn, lấy cái ống nhổ để bên cạnh giúp ông lão nhổ đàm.
Phụ nhân thấy thế mừng vô cùng, ngàn ân vạn tạ, Trần Khinh Nhứ đưa cho Trường Canh một chiếc khăn, sai: “Ngươi đi kê thuốc đi, ta kiểm tra cho.”
Nàng nói chuyện ngữ khí nhẹ nhàng chậm rãi, nhưng nội dung lại khá có ý ra lệnh, Trường Canh không ý kiến gì, trải giấy bút ra, hơi trầm ngâm, đoạn viết phương thuốc.
Tiểu tướng sĩ Huyền Thiết doanh suýt nữa trợn lồi mắt ra, lúc đi theo Cố Quân, gã từng nghe Cố đại soái nhắc tới không chỉ một lần, nói tứ điện hạ lớn rồi, không quản nổi nữa – nhưng đây rõ ràng là chỉ đông không đi tây, so với học trò nhỏ trong học đường còn ngoan ngoãn hơn, nào có một chút bất tuân từ nhỏ đã cãi nhau với An Định hầu?
Gã đang hoang mang thì Trần Khinh Nhứ đã bắt chuyện với phụ nhân kia.
Thấy người bệnh ổn hơn, phụ nhân thả lỏng không ít, vừa trò chuyện mới biết, nguyên là sau khi khôi lỗi trồng trọt phổ biến khắp bản địa, mọi người đều không có đất cấy cày, tuy triều đình có quy định hương thân địa chủ không được bạc đãi điền hộ, nhưng sau thời gian dài, mấy ai muốn nuôi kẻ ăn không ngồi rồi? Khất nợ thiếu cân đều thường có, trong bụng những kẻ có khôi lỗi làm việc dần dần cũng khó chịu. Sau đó, nông dân một phái, trường tý sư một phái, những người buôn bán nhỏ, coi đất lại là một phái, đều cảm thấy mình bị thiệt, không vừa mắt lẫn nhau.
Trượng phu của phụ nhân kia không muốn ở nhà ăn không ngồi rồi để bị trút giận, cùng đồng hương về phương Nam tìm việc làm, nào ngờ vừa đi liền bặt vô âm tín, cha chồng lại bệnh, con thì còn nhỏ, không thể nhờ cậy, thầy lang trong thôn chê cả ngày không có việc làm, sớm bỏ xứ đi mất rồi, bấy giờ nàng mới đành phải cố gắng tự mình cõng cha chồng, lặn lội đường xa đi tìm thầy.
Trần Khinh Nhứ nghe vậy chau mày: “Phương Nam? Phương Nam năm nay vừa có lũ lụt, chẩn tai còn không kịp, việc đâu ra mà tìm?”
Phụ nhân kia vẻ mặt hoang mang, hiển nhiên là quanh năm ru rú ở sơn thôn, trừ mảnh đất một mẫu ba trước cửa ra, cũng không biết thiên hạ có nơi khác, hoàn toàn không có khái niệm gì.
Trường Canh đang viết phương thuốc hỏi: “Thế lương thực phân phối năm nay đại thẩm được nhận chưa?”
Phụ nhân nghe vậy nhìn lão nhân thoi thóp trên sập một cái, vẻ mặt sầu khổ: “Không giấu gì công tử, vẫn chưa hề, tôi… tôi ngần này tuổi rồi, cũng không tiện tới nhà người ta gây chuyện, may mà năm nay giá lương thực thấp, trong nhà còn ít tiền để dành, ra ngoài mua một ít cũng được.”
Nàng nói như vậy, nhưng Trường Canh hiểu, những người này nhiều thế hệ cấy cày, tiết kiệm quen rồi, sẽ không dễ dàng tiêu tiền, tiêu một lần tim như dao cắt, nếu không thì sao nàng lại thà cuốc bộ thật xa, cõng cha chồng đi từng bước một, cũng không chịu thuê xe?
Trần Khinh Nhứ: “Không phải có đất công của triều đình à? Ta nghe nói đất công của triều đình mỗi năm nộp đủ quốc khố, phân cho quan viên, còn lại phàm là người nhập tịch ở bản địa đều có thể lĩnh một ít.”
Phụ nhân cười khổ nói: “Đất công của chúng tôi không trồng gì, bỏ hoang hai năm rồi.”
Trường Canh: “Vì sao? Là do đất không tốt à?”
Phụ nhân: “Nghe nói là vì rất gần quê của một quan lão gia nào đó, Huyện thái gia muốn chiếm hai mẫu đất ấy xây từ đường, bên trên chẳng biết vì cớ gì không đồng ý, cứ thế giằng co, rồi chẳng ai nói rõ mảnh đất này phải dùng làm gì, vậy là bỏ hoang luôn.”
Lời này vừa nói ra, ba người trong nhà đều im lặng.
“Tam sơn lục thủy, tổng cộng được mỗi một mảnh đất, mà còn phải bỏ hoang,” Trần Khinh Nhứ thở dài nói, “Những người này thật là…”
Trường Canh không lên tiếng, không biết đang nghĩ gì, y mau chóng viết xong phương thuốc, đưa Trần Khinh Nhứ kiểm tra, Trần Khinh Nhứ nói: “Ừm, cũng được – đại tỷ đi theo ta, ở chỗ ta còn cất ít thuốc thường gặp, không cần mua nữa.”
Nói xong, nàng dẫn phụ nhân ngàn ân vạn tạ đến hậu viện.
Vừa thấy nàng đi, tiểu tướng sĩ Huyền Thiết doanh bấy giờ mới thở phào nhẹ nhõm, lê bước đến trước mặt Trường Canh, cũng không lên tiếng, chỉ theo trước theo sau, thấy Trường Canh muốn làm gì, liền chẳng rằng chẳng nói xắn tay áo làm trước, chỉ chốc lát gã đã nhanh nhẹn rửa xong ống nhổ, dọn dẹp giấy bút, lúc này rốt cuộc mới chuẩn bị xong câu đầu tiên, lắp bắp nói: “Thiếu gia rất quen thuộc nơi này.”
Trường Canh đáp một tiếng: “Ừm, khi đến Thục Trung thường xuyên nghỉ chân ở đây.”
Cái gì? Cô nam quả nữ!
Tiểu tướng sĩ nhịn đến đỏ bừng mặt, sâu sắc cảm thấy nhiệm vụ trọng đại, nếu không làm rõ việc này, không khéo trở về mình sẽ bị Hầu gia gọt thành một cái ống nhổ luôn.
Trường Canh thấy biểu cảm như bị sét đánh của gã, mới hiểu gã đang nghĩ gì, vội cười nói: “Nghĩ đi đâu vậy? Đây tuy là nhà Trần cô nương, nhưng nàng thường xuyên đi vắng, nhà toàn bỏ không, các bằng hữu giang hồ ai vừa vặn đến đây thì ở vài ngày. Nếu tình cờ gặp nàng ở nhà, nữ thì ở lại, nam thì tự đi tìm chỗ khác – lần này vốn định dẫn ngươi đến ở nhờ vài hôm, nhưng nàng đã về, thì hai ta nên đi tìm khách *** thôi.”
Tim tiểu tướng sĩ trước tiên thả xuống phân nửa, nghĩ: “À.”
Song phân nửa này còn chưa thả xong, lại nhanh chóng treo lên, tiểu tướng sĩ xót xa nghĩ thầm: “Đường đường tứ điện hạ, mà một chút tiền ở trọ cũng phải tiết kiệm.”
Lại nhìn áo bào rách rưới của Trường Canh, tiểu tướng sĩ buột miệng nói: “Đại… chủ nhân nếu biết thiếu gia ở bên ngoài sống như thế, trong lòng chắc sẽ khó chịu lắm.”
Gã không giỏi ăn nói, có phần giỏi hành động kém miệng lưỡi, bởi vậy thỉnh thoảng nói một câu như thế, tạo cảm giác đặc biệt chân thành.
Trường Canh sững lại, nhất thời không thể tiếp lời.
Chính lúc này, Trần Khinh Nhứ lấy thuốc xong, dẫn phụ nhân kia ra, liếc sắc mặt Trường Canh một cái, nhíu mày nói: “Bình tâm tĩnh khí, ta đã nói gì với ngươi?”
Trường Canh định thần lại, hơi cười khổ.
Trần Khinh Nhứ là nửa lão sư của y, lời này không sai.
Hai năm trước Ô Nhĩ Cốt phát tác, bị sư phụ bắt gặp, bí mật nặng nề chỉ có trời đất và bản thân y biết rốt cuộc có một lối ra khác, sư phụ nói mình không rành về y lý, dẫn y lặn lội khắp nơi, cuối cùng tìm được Trần Khinh Nhứ ở Đông Đô. Chỉ tiếc Ô Nhĩ Cốt là bí mật bất truyền của vu nữ Bắc man, Trần thần y kiến thức rộng rãi nhất thời cũng không có manh mối, đành phải vừa kê cho y ít thuốc bình tâm tĩnh khí, vừa chậm rãi nghiên cứu.
Trong lúc này, Trường Canh từng tìm nàng thăm dò chuyện Cố Quân, vòng vo hỏi: “Trần cô nương, trên thế giới liệu có một loại người, tai và mắt khi linh khi không?”
Trần Khinh Nhứ dĩ nhiên biết ý của y, nhưng không tiện lắm miệng, vì thế chỉ đơn giản trả lời: “Có.”
Trường Canh lại hỏi: “Thế tai mắt mất linh kiểu nào thì có thể dùng thuốc giảm bớt?”
Trần Khinh Nhứ đáp: “Trời sinh thì không được, tầm nhìn ảnh hưởng do lớn lên bị thương tạo thành thì tùy tình huống mà định, trúng độc có lẽ có thể.”
Nàng cho rằng Trường Canh vòng vo như vậy, kế tiếp sẽ hỏi thẳng chuyện Cố Quân, nhưng y không hề, nàng phát hiện hình như mình đã xem nhẹ sự thông minh nhạy bén của thiếu niên này.
Trường Canh nghe thế chỉ im lặng hồi lâu, sau cùng khẩn cầu nàng nhận mình làm đồ đệ.
Trần gia nhiều đời xuất thần y, vừa chú trọng vừa không chú trọng, gia huấn chỉ có bốn chữ “hành y tế thế”, ai mà như những “thần y” tính tình cổ quái trong thoại bản, chỉ nhận nghi nan tạp chứng, “khán bệnh hạ điệp(1)”, tất bị trục xuất khỏi gia môn, trọng thương trọng bệnh, kì độc tuyệt chứng nàng chữa, trẻ con phong hàn, phụ nhân khó sinh tìm đến, nàng cũng vui vẻ tiếp nhận, với sở học bình sinh đương nhiên cũng không chổi cùn tự quý, không có quy củ “gia học không thể truyền cho người ngoài”, có người cầu nàng sẽ dạy, chỉ là Trần cô nương nói mình cũng chưa tính là xuất sư, không dám danh chính ngôn thuận nhận đồ đệ, cho nên chỉ có thể tính là nửa sư phụ thôi.
Trần gia ở phủ Thái Nguyên, đến mùa thu đông Trần Khinh Nhứ thường không ở phương Nam, Trường Canh đoán nàng lúc này còn ở Thục Trung, nhất định là có việc, liền lấy túi tiền cất trong ngực đưa cho tiểu tướng sĩ Huyền Thiết doanh kia, phái gã thuê xe đưa lão nhân và phụ nhân về.
Tiểu tướng sĩ đâu chịu nhận tiền của tứ điện hạ nghèo rớt mồng tơi, vội vàng từ chối, hấp tấp chạy đi.
Chờ những người không liên quan này đi hết rồi, Trần Khinh Nhứ mới lấy một cái túi ra: “Gặp ngươi khéo quá, đây là an thần tán ta mới điều chế, ngươi mang về dùng thử xem.”
Trường Canh cảm ơn, nhận thuốc cất đi, lấy một ít nhét vào hà bao của mình.
Trần Khinh Nhứ vô tình liếc thấy hà bao kia, mắt sáng rỡ, chỉ thấy bên trên không thêu mấy cái như “uyên ương nghịch nước”, “hồ điệp song phi” rối mắt, trong bằng lụa sạch sẽ, ngoài bao một lớp da mềm được mài cực mỏng, trên da dùng dao khắc một vòng hoa văn nhỏ, như là thiết oản khấu, cơ quan nối kết, mũi còn lộ ra một bên lưỡi đao, cơ hồ muốn bay ra, cực kỳ tinh xảo.
Trần Khinh Nhứ thuận miệng khen một câu: “Hà bao ở đâu ra vậy? Trông thật độc đáo.”
Trường Canh: “Tự làm đấy, cô có muốn không?”
Trần Khinh Nhứ: “…”
Dù là Trần thần y trong thiên quân vạn mã bình tĩnh như thường, lúc này cũng không khỏi lộ ra một chút kinh hãi.
“Rất chắc đấy,” Trường Canh giới thiệu, “Đúng rồi, vẫn chưa hỏi cô, Trung thu qua rồi, mà sao cô còn ở Thục Trung?”
“An Định hầu về Nam đi ngang qua Thục Trung, hẹn ta ở đây,” Trần Khinh Nhứ hỏi ngược lại, “Sao thế, ngươi không biết à?”
Trường Canh: “…”
Phong thủy luân lưu chuyển, lần này người kinh hãi đã thay đổi.
Một lúc lâu, Trường Canh mới nhờ dư hương an thần tán, khó khăn tìm lại giọng nói: “Không, không biết, nghĩa phụ ta… y về Nam làm gì?”
Trần Khinh Nhứ lấy làm lạ nói: “An Định hầu rời khỏi Tây Bắc đương nhiên là có quân vụ, ta chẳng qua nhờ bóng tổ tiên mà nói chuyện với y vài câu thôi, y muốn làm gì cũng không nói với ta đâu.”
Trường Canh: “Nhưng vừa rồi vị tiểu huynh đệ Huyền Thiết doanh kia bảo là, cuối năm y sẽ về kinh…”
Trần Khinh Nhứ nghe thế càng không hiểu: “Giờ còn chưa tới Trùng dương, Hầu gia cuối năm có về kinh hay không, có liên quan đến y hiện tại ở nơi nào à?”
Trường Canh: “…”
Y im lặng giây lát, rốt cuộc không nhịn được bật cười, đại khái chỉ có y mong cực kỳ cũng sợ cực kỳ như vậy, mới không coi ba bốn tháng là gì.
“Ta còn cho là ngươi biết việc này nên mới đến, hóa ra chỉ là đúng dịp đi qua,” Trần Khinh Nhứ nói, “Trên thư y nói ước chừng chính là mấy hôm nay, nếu ngươi không vội đi, chi bằng ở lại chờ y luôn.”
Trường Canh lơ đãng đáp một tiếng, mạch suy nghĩ sớm đã bay đi ngàn dặm.
“Trường Canh, Trường Canh!” Trần Khinh Nhứ quát khẽ một tiếng vào tai y, Trường Canh chợt định thần lại.
Trần Khinh Nhứ nghiêm mặt nói: “Ta từng nói với ngươi, nếu không phải giải dược, phương thuốc an thần hơn chung quy cũng chỉ là phụ trợ, Ô Nhĩ Cốt tối kị tâm thần không yên, mỗi một đoạn suy nghĩ lan man trong lòng ngươi đều là chất dinh dưỡng cho mầm độc, hôm nay chỉ một lúc, mà ngươi đã thất thần hai lần, rốt cuộc là có chuyện gì?”
Trường Canh nói “Hổ thẹn”, thần sắc thản nhiên hạ mắt xuống, không muốn nhiều lời, một cách tự nhiên mà dời đề tài lên phương thuốc mình vừa kê.
Thiết nghĩ nàng hành y thiên hạ, đao đâm kiếm chém trên nhục thể, bệnh nặng lâu ngày đã chữa nhiều vô kể, nhưng cũng không biết nên trị liệu lòng một người như thế nào đâu nhỉ?
Không bao lâu, tiểu tướng sĩ Huyền Thiết doanh đưa người về nhà vội vã chạy về, thấy Trường Canh không bỏ mình lại mất tích lần nữa, lập tức thở phào nhẹ nhõm.
Trường Canh mượn mấy quyển “Dược kinh”, cáo từ Trần Khinh Nhứ, dẫn tiểu tướng sĩ vào một khách *** trong trấn lân cận nghỉ trọ.
Đất Thục côn trùng mùa thu càn rỡ, đêm khuya vắng vẻ càng ồn ào hơn, Trường Canh để an thần tán mới phối chế bên gối, cảm thấy thuốc mới của Trần cô nương thật sự chẳng ra làm sao, chẳng những không an thần, ngược lại rất tỉnh thần, khiến y nửa đêm không ngủ được, đành phải bò dậy chong đèn đọc sách, thắp hết một bát dầu, ba quyển “Dược kinh” đọc hết hai rưỡi, mới đến hừng đông, vẫn chưa buồn ngủ chút nào.
Trong ngực y giống như tự dưng có thêm một cái hộp vàng, bốc khói trắng mà đốt tử lưu kim vĩnh viễn không thấy đáy.
Vô luận Trường Canh nhủ thầm mấy vạn lần “bình tâm tĩnh khí”, lấy tâm thái bình thường đối đãi Cố Quân chẳng mấy chốc sẽ đến, thậm chí cố hết sức không suy nghĩ chuyện này như thế nào – sự sốt ruột và nôn nóng vẫn thành đôi cuốn lấy xương cốt y, mỗi thời mỗi khắc đều cầm dây mây đầy gai nhọn quất vào tim y, lúc đau lúc tê, lừa mình dối người cũng không hữu dụng.
Sáng sớm hôm sau, Trường Canh liền gọi vị tiểu tướng sĩ Huyền Thiết doanh kia lại: “Tiểu huynh đệ, các ngươi nếu muốn qua Thục Trung về Nam đến Nam Cương, thường đi như thế nào?”
Tiểu tướng sĩ trả lời: “Công vụ đương nhiên đi quan đạo, việc khác có thể phải tùy nghi hành sự, không nói chắc được, từ khe suối bò vào cũng có khả năng.”
Trường Canh im lặng gật đầu.
Không bao lâu, tiểu tướng sĩ kinh ngạc phát hiện, Trường Canh lại cởi tấm áo bào rách rưới mặc khi hành tẩu giang hồ, thay quần áo mới, dù không hoa quý lắm, nhưng rất cầu kỳ, cũng mơ hồ có thể nhìn ra không phú thì quý.
Trường Canh lắc mình biến hóa, từ thư sinh nghèo biến thành giai công tử chính cống, đến cả chưởng quầy khách *** nói chuyện với y cũng không tự chủ được khá cung kính.
Y cứ thế ăn mặc kiểu thiếu gia, mỗi ngày dắt ngựa đi rong trên quan đạo, chẳng biết là chờ người hay triển lãm.
Quần áo thiếu gia không khỏi bẩn, sau một ngày đường phố náo động, buổi tối trở về phải dính một lớp bụi, Trường Canh không chịu làm phiền người khác, đều tự mình giặt giũ sạch sẽ – y không thể không giặt, bởi vì “đồ thiếu gia” mang theo chỉ có hai bộ, không chịu khó thì không kịp để tắm rửa.
Mỗi ngày chớp mắt khi lên ngựa, Trường Canh đều nghĩ: “Hay là mình đi thôi.”
Hơn bốn năm không gặp Cố Quân, tư niệm ngày qua ngày chất thành núi, y nhìn ngọn núi ấy không khỏi lo lắng hãi hùng, sợ gió nhẹ thổi qua là nó sẽ đổ rầm xuống.
Y vừa muốn chạy vừa không nỡ chạy, dọc đường ở trong lòng đánh nhau với chính mình, còn chưa đánh xong thì đã đến quan đạo. Trường Canh đành phải “kí lai chi tắc an chi”(2), cả ngày đi loanh quanh hít gió cát, thông thường ngay cả con thỏ cũng chẳng đợi được, buổi tối lúc về, y liền nghĩ: “Sáng mai mình tính tiền rồi chạy lấy người thôi.”
Song sáng hôm sau lại nuốt lời, vẫn đi đến ven quan đạo.
Điên rồ như vậy bốn năm ngày, chạng vạng Trường Canh quay đầu ngựa về khách ***, thấy phương Tây tà dương rực như máu, trông rất đẹp mắt, không khỏi chậm lại, để ngựa vừa đi vừa ăn cỏ, thong thả hồi tưởng những việc đã làm mấy ngày qua, dở khóc dở cười nghĩ bụng: “Việc này nếu như bị Liễu Nhiên biết, chắc khiến hắn cười thành cao tăng không răng luôn quá.”
Đúng lúc này, Trường Canh bỗng nghe thấy phía sau vọng đến tiếng vó ngựa, tựa hồ có đội xe ngựa đi qua, y quay đầu ngựa lui sang bên nhường đường, vô thức ngoảnh lại, thấy mấy thớt ngựa tốt cao to chớp mắt liền lao tới, phía sau còn kéo một cỗ xe ngựa.
Nhìn từ xa, những kỵ sĩ đó đều vận thường phục, không hề khác biệt với các lữ nhân đi vội khác, nhưng tim Trường Canh chẳng biết vì cớ gì mà bắt đầu đập như điên.
—
Bắt nguồn từ câu khán nhân hạ thái điệp, xem người mà bưng thức ăn, phân biệt đối xử.
Xuất xứ từ Luận ngữ – Quý thị, nghĩa là đã đến rồi thì cứ để nó yên.
|
Chương 39: Phỉ họa
Dù gió mạnh thổi qua tai, vó ngựa nóng vội gõ xuống đất, Thẩm Dịch vẫn tai thính mắt tinh nghe thấy âm thanh trong xe không bình thường, y giục ngựa đuổi theo Cố Quân, bớt ra một tay ôm ngực, làm động tác nôn mửa, liếc mắt ra hiệu – vị kia ói thì làm thế nào?
Cố Quân nở nụ cười không rõ lắm, rành rành tỏ vẻ – đáng kiếp, tự dọn đi.
Cố Quân về Nam là vì chuyện Thống soái quân Nam Cương Phó Chí Thành có đại tang, lão mẫu Phó tướng quân mới mất, hắn liền dâng tấu lên triều đình, muốn trả ấn về nhà chịu tang mẹ.
“Có đại tang” kỳ thực là một lý do không mặn không nhạt, đi cũng được, không đi cũng được, dù sao thì nói kiểu nào cũng xong, nhưng các vị đại quan biên giới xưa nay không làm như vậy.
Nếu Thống soái về nhà mấy năm, vạn nhất có chiến sự thì ai phụ trách?
Huống chi cả Đại Lương đều biết, Phó tướng quân kia xuất thân đầu lĩnh thổ phỉ, năm đó bị lão Hầu gia đánh phục chiêu hàng mới nhập sĩ, đến nay gặp Hoàng thượng cũng có khi không kiềm chế được, thi thoảng lại buột ra vài câu chửi tục, căn bản không mấy lịch sự.
Phó tướng quân rõ ràng là bất mãn với lệnh kích trống, lại gặp năm nay phương Nam lũ lụt, tuyến Nam Cương loạn muốn chết, bèn nhân lúc sống còn này ném quang gánh luôn.
Đi theo ngồi trong xe chính là Binh bộ Thị lang Tôn Tiêu Tôn đại nhân, là người ủng hộ trung thành của lệnh kích trống, vốn Hoàng thượng phái hắn làm khâm sai, đến Nam Cương “an ủi” công thần, ngờ đâu Tôn đại nhân lâm trận co vòi, rơi lệ dâng tấu, nói rằng mình đã chuẩn bị sẵn sàng một đi không về, vì nước quên thân.
Hoàng thượng hết cách, đành phải gửi một đạo kim bài lệnh tiễn đến Tây Bắc, ném cả thùng cơm gánh nặng lẫn cục diện rối rắm cho Cố Quân.
Cố Quân quanh năm mệt mỏi chùi đít cho Hoàng thượng, bực bội vô cùng, không thể nói lý với Hoàng thượng, đành phải ra sức giày vò Tôn đại nhân không biết xấu hổ.
Chuyến này vừa vặn đi ngang qua Thục Trung, Cố Quân liền nhờ người viết thư cho Trần Khinh Nhứ, thuận tiện hẹn gặp nàng ở đây – mấy năm nay y càng cảm thấy dược hiệu của loại thuốc năm đó Trần lão tiên sinh cho y đang giảm đi, trước đây bốn năm ngày một liều còn chịu được, hiện tại đã đến nông nỗi cách một ngày phải uống một lần.
Lúc phóng ngựa qua quan đạo, từ rất xa Cố Quân đã trông thấy ven đường có một công tử trẻ tuổi thả ngựa đi rong, ban đầu vẫn chưa lưu ý, cho đến khi đi lướt qua nhau, y vô tình nhìn người nọ một cái, vừa vặn gặp ánh mắt đối phương.
Chỉ thoáng nhìn nhau, thần tuấn ngàn dặm của Cố Quân lao đi hơn mười trượng, y còn chưa kịp phản ứng, thì đã vô thức kéo cương.
Ngựa hí dài một tiếng, móng trước chồm lên cao rồi gõ xuống đất, quay nửa vòng tại chỗ, Cố Quân dừng lại, nhìn chằm chằm công tử trẻ tuổi hơi quen mắt, rồi lại nhất thời không dám nhận.
“Không khéo đến thế chứ,” Cố Quân do dự nghĩ, “Mình nhớ quá nên nhận nhầm người rồi phải không?”
Thẩm Dịch đuổi tới: “Sao… Ôi chao!”
Tiểu tướng sĩ Huyền Thiết doanh đi theo Trường Canh rốt cuộc định thần lại, vội xuống ngựa, kích động nói: “Đại soái!”
Ngựa của Cố Quân như hơi giật mình, giơ móng trước, thở phì phì cào mặt đất.
Lúc này, cho dù ném Trường Canh vào đống an thần tán, chỉ sợ cũng không ngăn được tim y run rẩy trong ***g ngực, y gần như chết lặng ngồi trên ngựa giây lát, đầu óc trống rỗng, cái miệng bình thường thiệt xán sinh hoa nở ra một đóa hoa bá vương, chặn kín hết làm ngôn từ không lọt nổi.
Y chỉ có thể theo bản năng, ra vẻ điềm nhiên mà nở nụ cười hơi gượng gạo.
Cố Quân gọi khẽ một tiếng: “Trường Canh?”
Hai chữ như chuông lớn gõ cái keng bên tai Trường Canh, y vừa ép mình trấn định, vừa vì trấn định không nổi mà hơi xấu hổ quẹt mũi: “Con vừa vặn đi qua Thục Trung, tình cờ nghe Trần cô nương nói nghĩa phụ mấy hôm nay sẽ đến, liền muốn nán lại vài ngày, không ngờ khéo như vậy, dắt ngựa đi chơi cũng có thể đón được người.”
Tiểu tướng sĩ đứng bên trợn mắt há mồm nghĩ: “Dắt ngựa đi chơi cũng phải tắm rửa thay quần áo, định giờ định địa điểm à?”
Gã kính sợ nhìn con ngựa lông tạp nom rất tầm thường của Trường Canh, hoài nghi đây là một thớt thần mã ẩn dưới lớp lông tạp.
Cửa xe mở ra “Rầm” một tiếng, Tôn đại nhân bất chấp cảnh phụ tử cửu biệt trùng phùng cảm động, thất tha thất thểu lao xuống mà nôn thốc nôn tháo.
Gián đoạn như vậy, hơi thở lơ lửng không xuôi của Trường Canh tạm thời trở về trong ngực, y nghiêng đầu liếc Binh bộ Thị lang như con gà chết một cái, ôn tồn lễ độ mà ra vẻ ngạc nhiên: “Sao vậy, ta đã nói gì gây buồn nôn à?”
Cố Quân phá lên cười.
Mấy năm nay, tuy y gián đoạn nắm được hành tung của Trường Canh, nhưng không ngờ người sẽ biến thành thế này, quả thực như thoát thai hoán cốt vậy. Cố Quân nhất thời quên cuộc chia tay không mấy vui vẻ khi gặp lại lần trước, cũng quên sự giận dỗi lâu dài, chiến tranh lạnh và sự đáng ghét khi y bám riết không tha tìm người theo dõi hành tung của Trường Canh.
Y cảm thấy kinh ngạc vì mình có thể dừng lại nhận ra Trường Canh, bởi vì thật sự trông chẳng giống tí nào – giơ tay nhấc chân, nhăn mày hay cười, tất cả đều khác hẳn.
Thời gian một lần nữa rút ngắn lại trước mặt y, Cố Quân bấm tay tính, không phải sao, đã hơn bốn năm rồi.
Thẩm Dịch tiến lại cười nói: “Trời ơi, tiểu điện hạ chớp mắt đã… còn nhớ ta chứ?”
Trường Canh: “Chào Thẩm tướng quân.”
Thẩm Dịch cảm khái: “Nếu là ta thì không nhận ra đâu, cũng chỉ có nghĩa phụ ngài, mỗi ngày nhớ mong ngài thành tâm bệnh, nhác thấy người hơi giống là không nhịn được nhìn một chút…”
Cố Quân hết nhịn nổi cắt ngang: “Ngươi ở đâu ra lắm lời thừa thãi vậy?”
Thẩm Dịch nhìn đây lại ngó kia, cười “khà khà”, phóng ngựa tiến lên, khom lưng xách Tôn đại nhân lên xe ngựa, đưa tay quơ quơ trước mặt hắn: “Tôn đại nhân, còn ổn không? Cố gắng thêm lúc nữa, sắp đến khách *** rồi.”
Tôn Tiêu thoi thóp dựa xe thở hồng hộc, sắp sửa thẳng cẳng.
Rất nhanh, Tôn đại nhân phát hiện Trường Canh quả thực là cứu tinh, từ khi giữa đường gặp Trường Canh, đám trâu bò Huyền Thiết doanh đó liền từ chạy một mạch như điên biến thành tản bộ, nhàn nhã như đi cho tiêu cơm vậy, đến tiếng vó ngựa cũng êm ái theo.
Đoàn người dưới sự dẫn dắt của Trường Canh đến khách *** của tiểu trấn. Khách *** không có nhiều phòng, bao hết thì ít nhất cũng phải hai người một gian, Cố Quân bỏ lại một câu: “Ta đến chỗ con ta, gian đơn còn lại nhường cho Tôn thị lang đi.”
Tôn Tiêu theo bản năng khách khí nói: “Không không, sao dám để Đại soái hạ mình…”
Thẩm Dịch từ phía sau vỗ vai Tôn Tiêu, hạ giọng nói: “Đại nhân, thấy tốt thì nhận đi, y gặp tứ điện hạ, tâm tình đang tốt, hay ngươi muốn nhìn khuôn mặt ‘ít ngày nữa sẽ lấy cái mạng chó của ngươi’ hơn?”
Tôn Tiêu: “…”
Mồ hôi trong lòng bàn tay Trường Canh dọc đường chưa từng rơi, mấy lần dây cương suýt nữa tuột mất, trạng thái này hơi giống say rượu, y biết mình nên giữ sự tỉnh táo, lại không tự chủ được sa vào đó, trước khi gặp Cố Quân thì do dự giữa “đi” và “chạy”, vừa gặp Cố Quân thì chẳng còn ý nghĩ gì nữa.
Cố Quân lúc này rốt cuộc nhớ đến việc tính sổ, vào khách ***, vừa đóng cửa thì sắc mặt liền sầm xuống, nói với Trường Canh: “Ngươi càng ngày càng không ra gì, lão quản gia nói ngươi đã bốn năm chưa về hầu phủ, lần trước vào cung báo cáo công tác, ngay cả Hoàng thượng cũng hỏi ta, ngươi bảo ta phải nói thế nào đây?”
Trước kia sắc mặt Cố Quân vừa khác thường là Trường Canh sẽ căng thẳng, không phải căng thẳng đến độ muốn nhận lỗi thì là căng thẳng đến độ muốn tranh luận, nhiều năm không gặp, y lại phát hiện sự câu nệ và kích động trong lòng mình đều đã không thấy nữa, Cố Quân cười hay giận đều thế, y đều hận không thể khắc trọn vẹn vào mắt mình.
Bốn năm trước, y cố nén một bầu đau khổ, ra vẻ trấn định nói với Cố Quân: “Hầu phủ không nhốt được con.”
Bốn năm sau, y nhìn Cố Quân, cẩn thận lộ ra một chút tình cảm vừa đúng: “Nghĩa phụ đi vắng, con một mình quay về có ý nghĩa gì?”
Cố Quân: “…”
Y vốn hung dữ chẳng được ba câu, nghe câu này của Trường Canh thì ngay cả mặt lạnh cũng không giữ nổi nữa, trái tim sắt đá cũng mềm nhũn như bông.
Cố Quân chuyển hướng sang gian phòng trọ nho nhỏ, thấy trên bàn vứt mấy quyển Dược kinh, liền tùy ý mở ra xem thử, hỏi: “Sao lại muốn xem mấy cái này?”
Trường Canh: “Theo Trần cô nương học chút kì hoàng chi thuật.”
Cố Quân giật mình, nghĩ bụng: “Không phải đám người Lâm Uyên các đã nói gì với y chứ?”
Cố Quân lập tức lại âm thầm mỉm cười, thứ nhất cảm thấy mình nghĩ như vậy ít nhiều có phần tự đa tình, thứ hai đám người Lâm Uyên các đều không phải hạng lắm miệng…
Trường Canh: “Vốn định học y thuật cho giỏi, tương lai cũng tiện chăm sóc nghĩa phụ, đáng tiếc thiên tư có hạn, chỉ biết chút chút thôi.”
Cố Quân: “…”
“Miệng tiểu tử này sao lại ngọt đến thế,” Y bất đắc dĩ nghĩ, “Thật chết người.”
Nhiều năm trông coi con đường tơ lụa, nhuệ khí phong mang tất lộ trên người Cố Quân dần tiêu tan, phảng phất như thần binh vào vỏ, hai người không hẹn mà cùng không nhắc tới chuyện chia tay trong không vui lần trước, tâm bình khí hòa nói đến những điều mắt thấy tai nghe mấy năm qua.
Trường Canh đang nói thì phát hiện bên cạnh không còn tiếng động, liền bạo gan nghiêng đầu nhìn – giường khách *** quá chật, non nửa cơ thể Cố Quân nằm ngoài giường, chăn chỉ đắp một góc, chân cơ hồ đụng thành giường, y một tay gối đầu, bằng tư thế nhắm mắt dưỡng thần nghỉ ngơi giây lát này, vậy mà lại ngủ thiếp đi.
Trường Canh phút chốc dừng lại, trong bóng tối nhìn chằm chằm khuôn mặt nghiêng của Cố Quân rất lâu, y giơ tay, lại rụt về, lặp lại vài lần, ngón tay luống cuống giơ lên đó chẳng biết bao lâu, mới ngừng hơi thở có chút run rẩy, nhẹ nhàng ôm thắt lưng Cố Quân, vỗ vỗ như phủi bụi, thấp giọng nói: “Nghĩa phụ, dịch vào trong một chút, sắp ngã rồi.”
Cố Quân bị y đánh thức, nhưng nhanh chóng nhận ra mình đang ở đâu, “Ưm” một tiếng, không mở mắt, theo tay y nghiêng người ậm ừ nói nhỏ, “Đang nói thì ngủ mất, đây là chưa già đã yếu mà.”
Trường Canh giúp y kéo chăn, tháo mũ: “Là do con bỏ an thần tán bên gối, người lại đi đường quá gấp, hãy ngủ đi.”
Lần này Cố Quân không lên tiếng, đã ngủ thật rồi, giường này không gian rất hẹp, khi thấp giọng nói chuyện chợt gây ảo giác kề tai chạm má, Trường Canh suýt nữa cúi đầu hôn thái dương y một cái – giống như làm vậy mới là tự nhiên.
Nhưng Trường Canh lập tức giật mình phát hiện sự đại nghịch bất đạo của mình, vội vàng nằm xuống đàng hoàng.
An thần tán xem ra hữu dụng, Cố Quân dưới sự thả lỏng ngủ rất say, có điều tác dụng cũng kén người, với Trường Canh mà nói thì chẳng hữu dụng tẹo nào, bên cạnh nằm một Cố Quân, vừa nhắm mắt lại cảm thấy mình đang mơ, thế là lại không nhịn được mở mắt chứng thực, sau năm lần bảy lượt, một chút buồn ngủ cũng tan thành mây khói, Trường Canh liền dứt khoát không ngủ, nằm bên lẳng lặng ngắm nhìn Cố Quân.
Nhìn suốt một đêm.
Sáng sớm hôm sau, Trần Khinh Nhứ chạy tới, trước tiên dùng Tôn đại nhân thoi thóp để làm ví dụ dạy học, sau đó ném Tôn đại nhân cho Trường Canh chơi… không, chăm sóc – rồi tự mình đi gặp Cố Quân.
Trường Canh chỉ ngẩng đầu nhìn bóng lưng nàng lên lầu một cái, không hề biểu hiện ra mảy may khác thường, giống như không mấy tò mò.
Thẩm Dịch ở trong phòng Cố Quân lật xem mấy quyển y thư của Trường Canh, Trần Khinh Nhứ không hỏi bệnh trạng, trước tiên tự mình kiểm tra, giây lát sau nói: “Thị lực của Hầu gia hiện tại có phải đã suy giảm hay không?”
Cố Quân: “Đêm qua vốn nên dùng thuốc, nhưng muốn mời Trần cô nương xem nên không uống.”
Trần Khinh Nhứ trầm ngâm chốc lát: “Ông nội ta năm đó khi kê thuốc cho Hầu gia, chắc hẳn đã dặn ngài, đây không phải giải dược, chỉ sợ không thể lâu dài.”
Trên mặt Cố Quân không thấy vẻ gì là kinh ngạc, chỉ hỏi: “Ta còn bao nhiêu thời gian nữa?”
Trần Khinh Nhứ thần sắc ngưng trọng: “Nếu Hầu gia từ nay về sau tiết chế dùng thuốc, có lẽ còn có thể kéo dài vài năm.”
“Tiết chế e là không được,” Cố Quân nói, “Cô thấy thêm lượng thuốc hoặc đổi phương thuốc mới thì thế nào?”
Trần Khinh Nhứ còn chưa kịp trả lời, Thẩm Dịch đã trầm giọng nói: “Dược có dư độc, ngươi dùng đã đủ siêng rồi, đổi thuốc mới cũng chỉ có thể đổi loại hổ lang hơn, thế chẳng phải là uống rượu độc giải khát à?”
“Đúng là đạo lý này.” Trần Khinh Nhứ nói, “Trần gia uổng xưng thần y Trần thị, mấy năm nay với tai và mắt Đại soái vẫn thúc thủ vô sách, thật hổ thẹn.”
Cố Quân cười nói: “Sao Trần cô nương lại nói thế, là ta đã làm phiền các cô rất nhiều.”
Trần Khinh Nhứ lắc đầu: “Chúng ta luôn cảm thấy xung quanh man di ngu muội chưa khai hóa, nhốt mình ở Trung Nguyên quá lâu rồi, Hầu gia cho ta mấy năm, vài hôm nữa ta định khởi hành xuất quan, biết đâu có thể đánh bậy đánh bạ nghĩ ra chút biện pháp.”
Cố Quân nghe lời này lấy làm kinh hãi, y hẹn gặp Trần Khinh Nhứ ở Thục Trung, trừ muốn cho người của Trần gia xác nhận tình hình mình một chút, chủ yếu cũng muốn mượn cớ dừng lại vài hôm, tránh để có mấy người không biết y đã đến, không trông mong một tiểu cô nương trẻ tuổi như Trần Khinh Nhứ có thể giải quyết chuyện ông nội mình cũng bó tay, vội nói: “Trần cô nương nhất thiết đừng như thế, ta có nghe thấy hay không cũng vậy thôi, người Bắc man nhiều thế hệ thù địch với chúng ta, nếu cô vì việc vặt của ta mà mạo hiểm, tương lai bảo ta còn mặt mũi nào đi gặp người của Trần gia!”
Trần Khinh Nhứ không trả lời, chỉ cầm cái bọc nhỏ tùy thân tới, lấy ra một quyển sách nhỏ viết tay: “Đây là một bộ châm pháp ta tự mình gọt giũa, không có tác dụng gì, chẳng qua có lẽ có thể giảm bớt chứng đau đầu do thuốc gây ra, điện hạ từng theo ta học châm cứu một thời gian, y hiểu đấy.”
Thấy Cố Quân cau mày, Trần Khinh Nhứ lại bổ sung: “Không phải ta nói đâu, là điện hạ tự mình đoán ra.”
Thần sắc Cố Quân thay đổi mấy lần, cuối cùng thở dài, cảm giác đầu đã râm ran đau.
Trần Khinh Nhứ dăm ba câu đã dặn dò xong, lại lâm thời tìm giấy bút, viết hai phương điều dưỡng: “Ít còn hơn không, thôi ta cáo lui đây, Hầu gia bảo trọng.”
“Khoan đã,” Cố Quân gọi nàng lại, “Chuyện xuất quan xin Trần cô nương nghĩ kỹ hơn.”
Trần Khinh Nhứ quay đầu lại nhìn y, trên khuôn mặt lạnh như băng lộ ra một chút tươi cười nhạt nhẽo như đá trổ hoa.
“Cũng không phải toàn vì chứng bệnh của Hầu gia đâu – chỉ là có vài việc luôn cần có người đi làm, nói một câu không ngượng, ta đây tuy vị ti lực bạc, nhưng cũng có suy nghĩ như trong lòng Hầu gia, sinh ở Trần thị, nhập đạo Lâm Uyên, há dám nhờ bóng tiền bối để tạm bợ đời sau.” Nàng nói, “Hầu gia, sau này còn gặp lại.”
Nói xong, không đợi Cố Quân giữ lại, đã đi thẳng xuống lầu.
Trường Canh lưu lạc giang hồ lâu, làm việc chu đáo, vội bước tới nói: “Trần cô nương, ta tiễn cô một đoạn.”
Trần Khinh Nhứ khoát tay, ngắm sắc mặt y một chút, dù y trẻ trung khỏe mạnh, một đêm không ngủ cũng chẳng có vấn đề gì, nhưng trên mặt vẫn có thể nhận thấy dấu vết.
Trần Khinh Nhứ: “Sao, an thần tán không hiệu nghiệm à?”
Trường Canh cười khổ: “Là vấn đề của chính ta.”
Trần Khinh Nhứ nghĩ ngợi một chút: “Ta luôn bảo ngươi bình tâm tĩnh khí, nhưng kỳ thực cũng không biết trong lòng ngươi rốt cuộc có cái gì không bình, có khả năng quả thật là đứng nói chuyện không đau lưng – con người không thể không có thất tình lục dục, nếu ngươi thật sự không cách nào khắc chế, chi bằng thuận theo tự nhiên.”
Trường Canh sửng sốt, không tự chủ được mím môi, thầm nghĩ: “Việc này làm sao thuận theo tự nhiên được?”
Trần Khinh Nhứ quản giết không quản chôn, ném lại một câu “thuận theo tự nhiên” xong rồi đi luôn, lại khiến Trường Canh cả ngày thất hồn lạc phách.
Cố Quân ở lại tiểu khách *** suốt hai ngày, Tôn Tiêu muốn đi mau, nhưng nhớ tới dọc đường chạy như bay xóc lòi cả ruột, lại không dám thúc giục. Ai ngờ sau khi khởi hành, Cố Quân lại thôi không liều mạng chạy như đi đầu thai nữa, thêm một tứ điện hạ cả ngày dính lấy y, hệt như đạp thanh du xuân, chốc chốc lại xen lẫn với thương đội đến phương Bắc buôn bán, kiếm ăn trở về.
Vùng Nam Cương dân phong dũng mãnh, hãn phỉ hoành hành, Tôn thị lang động viên đại quan biên giới là giả, vốn định mượn uy phong An Định hầu, nắm chứng cứ Phó Chí Thành thân là mệnh quan triều đình mà cấu kết sơn phỉ, biến quân Nam Cương thành đường đột phá cho việc thi hành lệnh kích trống, nhưng từ khi vào đất Thục, Cố Quân bắt đầu làm chậm hành trình – Thục Trung về Nam đều là địa bàn của Phó Chí Thành, địa đầu xà kia không khéo đã sớm biết hành tung của họ, còn bắt hắn trở tay không kịp cái nỗi gì?
Tôn đại nhân không ói nữa, trái lại nôn nóng đến độ rộp hết khóe miệng.
Thẩm Dịch lặng lẽ rỉ tai Cố Quân: “Đắc tội quân tử không đắc tội tiểu nhân, ngươi làm vậy là đủ rồi, cẩn thận tôn tử kia quay về kinh vu cho ngươi mấy chuyện xấu.”
Cố Quân cười.
Thẩm Dịch vừa thấy nụ cười thờ ơ ấy liền không nhịn được muốn dùng võ mồm, phát biểu trường thiên đại luận, ai ngờ Cố Quân lại thì thào: “Quân tử tiểu nhân đều không là vấn đề.”
Thẩm Dịch tức giận nói: “Rước họa chính là vấn đề rồi.”
Cố Quân không chấp nhặt, hạ giọng thấp hơn vài phần: “Vị kia mới là vấn đề… Ta và Binh bộ thế như nước lửa là tốt nhất, ngươi không hiểu à?”
Thẩm Dịch ngây ra rất lâu, thở dài, không nói gì.
Từ khi nào… Cố đại soái ngông cuồng tự cao cũng bắt đầu lưu ý chơi trò tâm nhãn rồi?
Cố Quân: “Không nghe lão mụ tử ngươi lải nhải nữa, ta đi tìm con ta đây.”
Nói xong liền phóng ngựa đi, chẳng thèm để ý tới Thẩm Dịch.
Thẩm Dịch: “…”
Y cảm thấy hai vị này quả thực buồn nôn hết sức.
Miền Nam hai bờ non xanh, thu đông cũng chẳng thấy điêu linh, vẫn xanh um tươi tốt, chính giữa là một con đường nhỏ ngoằn ngoèo, dựa núi uốn lượn mà lên, xa gần không trông thấy điểm cuối.
Cố Quân cầm roi ngựa, như chỉ điểm giang sơn, thản nhiên giới thiệu cho Trường Canh: “Người trong quân ngũ chúng ta, gặp địa hình kiểu này, trong lòng luôn lo ngay ngáy, nếu người ta mai phục, chúng ta cắm đầu vào, thì cứ chờ bị đánh một trận – cho dù ở cảnh nội Đại Lương, nơi thế này cũng dễ xuất hiện bọn cướp đường chiếm núi làm vua…”
Chữ “vua” y còn chưa dứt lời thì đã nghe giữa non xanh vang lên tiếng kèn hiệu chói tai.
Thẩm Dịch chán nản nói: “Đại soái, ngài là do quạ đen biến thành hả?”
|