Sát Phá Lang
|
|
Chương 45: Kíp nổ
Đối với Tĩnh Hư, Cố Quân chỉ nhìn hắn một cái, phát hiện chẳng có điểm nào để khen, thế là nhanh chóng coi đại sơn phỉ đầu lĩnh này và những người khác như nhau mà ném qua một bên – lúc này, y càng quan tâm Trường Canh đi khi nào hơn.
Vừa vặn, Trường Canh hết sức đúng lúc bày tỏ mình phải đi hội hợp với đồng bạn điều tra mật đạo sơn phỉ ở đây, Cố Quân thầm thở phào, ngoài mặt vẫn nghiêm túc căng thẳng cấp cho y một toán tướng sĩ Huyền Thiết doanh, dặn dò cẩn thận sơn phỉ lọt lưới.
Thấy y đi khỏi, Cố Quân mới nói với huyền kỵ bên cạnh: “Tìm hai người đi xem chừng, nếu tứ điện hạ về quá nhanh, thì kiếm cho y chút việc để làm, đừng để y tới đây.”
Huyền kỵ lĩnh mệnh mà đi, Cố Quân lúc này mới thu tầm mắt lại.
Y nhìn quét đội ngũ sơn phỉ bắt được từ đầu đến chân, trong ánh mắt có chút âm trầm mà bình thường không có: “Ta chỉ có một câu hỏi, mấy cái hang chuột chũi quý địa có bao nhiêu lối ra vào? Thỉnh chư vị thức thời một chút, thế này đi, bắt đầu từ người ở phía Tây nhất, không hé răng thì chém đầu tại chỗ, người phía trước nói xong, phía sau có thể bổ sung, bổ không ra cái gì mới cũng xin lỗi luôn, ai xếp hàng trước còn có thể được chút lợi – bắt đầu đi, đếm ba tiếng, không nói thì chém, nói bậy bạ cũng chém.”
Chúng sơn phỉ đều sợ ngây người vì An Định hầu còn phỉ hơn cả phỉ này.
Huyền kỵ phụng mệnh thẩm vấn mặt không biểu cảm bắt đầu hỏi từ người đầu tiên, người đầu tiên theo bản năng nhìn ngang liếc dọc, phân vân chưa quyết.
Cố Quân không chút do dự làm động tác chém, cát phong nhận trong tay huyền kỵ theo đó mà hành động.
Huyền kỵ bình thường chỉ biết giết người, chưa từng nuôi khỉ, cũng không nghiên cứu việc chém đầu, cát phong nhận xoay một vòng trên cổ sơn phỉ, bất hạnh kẹt trong khớp xương cổ, đầu sơn phỉ kia nửa liền nửa đứt, yết hầu vừa vặn chưa đứt, tiếng kêu thảm thiết làm lũ chim xa gần trong núi cùng sợ xù lông lên.
Huyền kỵ híp mắt, tay kéo một phát, hung tợn tăng lực, mới kết liễu kẻ xúi quẩy nọ.
Máu như địa mạch sơn tuyền phun trào ra, bắn đầy vào những kẻ bên cạnh, sơn phỉ thứ hai run lẩy bẩy như một cái hộp vàng quá tải, trong đầu trống rỗng, run rẩy chỉ phía sau nói: “Ở, ở đó có một…”
Cố Quân cười gằn: “Thừa lời, ta không nhìn thấy chắc?”
Thế là cái đầu người thứ hai cũng theo đó rơi xuống đất.
Sơn phỉ thứ ba bị thảm tượng nửa cái đầu vừa rồi dọa vãi đái, ngã phịch xuống đất, hai tay ôm đầu, chỉ sợ đao phủ vận hắc giáp sốt ruột chém thẳng xuống, một hơi khai hơn chục lối ra vào của mật đạo, ánh mắt kẻ xếp sau sắp bắn thủng cả lưng hắn.
Có tên này mở đầu, tiếp sau quá đơn giản, là sống hay chết một con đường, dù sao mình giữ bí mật cũng vô dụng, người sau rồi sẽ nói ra, khai sớm giữ mạng lại mới là đúng đắn.
Cố Quân ngoài mặt tỉnh rụi, trong lòng lại thực sự hơi chấn kinh vì bộ rễ khổng lồ của bọn sơn phỉ Nam Cương, số cửa ra vào đám sơn phỉ này khai có một số Lâm Uyên các đã thăm dò được – nếu không, dù là Huyền Thiết doanh, cũng không thể nửa đường chặn được lũ chuột chũi này dễ dàng như vậy, nhưng còn có nhiều hơn, ngay cả Lâm Uyên các cũng chưa từng biết.
Tướng sĩ Huyền Thiết phía sau y im lặng rời đi, lần lượt nghiệm chứng số cửa ra vào này, canh chừng mỗi một cửa mật đạo. Chưa đến một nén nhang, chúng sơn phỉ đã như đánh trống chuyền hoa(1), khai sạch các mật đạo rộng rãi dưới lòng đất nơi đây, ngay cả mẩu vụn cũng không sót.
Chớp mắt, đóa “hoa” chết người này chuyền đến trước mặt kẻ đầu têu sự việc, phỉ thủ Tĩnh Hư.
Tĩnh Hư đời này, oanh oanh liệt liệt từ trong đống người chết giết ra một đường máu mà chiếm núi làm vua, tài hoa chưa thấy, đảm khí và tâm ngoan thủ lạt thì không thiếu, thấy mũi đao bức đến trước mắt, dưới đất máu chảy thành sông, hắn hít sâu một hơi, thẳng lưng lên, biến một hơi mình ủ nhiều năm thành xương chống trên người, căng đôi mắt tam giác nhìn chằm chằm Cố Quân đang thong thả bước đến trước mặt.
Tĩnh Hư: “Ta trước kia chỉ từng nghe người ta nói Cố đại soái phong hoa vô song, không ngờ tra tấn bức cung cũng rất có thủ đoạn, thật đúng là nghề nhiều không nặng người.”
“Không cần nịnh bợ,” Cố Quân ngoài cười trong không cười nói, “Đánh trận chính là hoạt động chém người, ta một không nhốt ngươi vào phòng tối, hai không bỏ lên giường đinh, ba không mời ngươi ngồi ghế hùm, bốn chữ ‘tra tấn bức cung’ thật sự lấy làm hổ thẹn. Nếu ngươi không phản đối, thì đi theo làm bạn với chúng đi.”
Khóe mắt Tĩnh Hư giật giật: “Mật đạo này tổng cộng sáu mươi bốn lối ra vào, họ đã khai hết một lần, mấy kẻ vô dụng đằng trước rõ ràng đã bắt đầu nói bậy nói bạ, thứ cho ta ngu dốt, không biết Cố đại soái có dụng ý gì.”
“An toàn thôi, không có dụng ý gì hết,” Cố Quân cười nói, “Vạn nhất có cá lọt lưới chưa khai ra thì sao? Ngươi muốn khuyên ta bớt chém đi à? Dù gì các ngươi cũng đông, yên tâm đi, chém không hết đâu.”
Tĩnh Hư: “…”
Cố Quân: “Chúng đã lấy ngươi làm đầu, chắc hẳn ngươi còn biết chút việc khác, chi bằng nói mấy việc ta chưa từng nghe đi?”
Tĩnh Hư cắn chặt răng, nhớ tới Phó Chí Thành đầu sỏ gây nên hết thảy, càng thêm hận không thể lột da rút gân tay ấy, nghiến răng nghiến lợi nói: “Nếu ta nói ra chuyện Phó Chí Thành mua lậu tử lưu kim mưu phản, Đại soái có hứng thú nghe không?”
Cố Quân dần thu lại nét cười lạnh băng trên mặt: “Nếu ta không biết việc này, sao có thể đoán ra các ngươi sẽ to gan lớn mật chạy tới kho quân nhu Tây Nam tặng cơm? Cho ngươi một cơ hội nữa, nói về việc ta không biết.”
Cát phong nhận Huyền Thiết dựng thẳng bên tai Tĩnh Hư, hơi nhúc nhích là có thể cảm giác được sự lạnh lẽo của lãnh thiết. Hắn cũng biết, chỉ cần một luồng hơi nước nhỏ, là cát phong nhận sẽ cắt đầu hắn như cắt rau, Cố Quân kia lãnh khốc vô tình, khăng khăng cố chấp, cái đầu tốt đẹp của hắn sẽ như mọi kẻ bình thường khác, rơi xuống đất, dính đầy bụi, không có một chút đặc dị.
Tĩnh Hư: “Ngươi muốn biết cái gì?”
Cố Quân khoát tay, cát phong nhận cách Tĩnh Hư mấy tấc: “Ta muốn biết sau khi tử lưu kim Nam Dương nhập cảnh, kẻ liên hệ với ngươi là ai, kẻ bảo ngươi giấu tử lưu kim, tích trữ vũ khí là ai, kẻ bày mưu tính kế, bảo ngươi dùng mấy con diều kia lừa ta, thừa cơ chiếm kho quân nhu Tây Nam là ai?”
Tĩnh Hư cắn chặt răng.
“Nếu ta là ngươi, ta sẽ không liều mình che chở kẻ đó,” Cố Quân thình lình tiến lên một bước, hạ giọng nói, “Nhìn thử mật đạo sáu mươi bốn lối ra phía sau ngươi đi đạo trưởng, đám các ngươi lúc ăn no rửng mỡ chui vào, Đại La thần tiên đến cũng không thể quật ba thước đất mà lôi các ngươi ra… Là ai xúi bẩy ngươi hội tụ lực lượng ba đỉnh núi lớn lại, tiện cho chúng ta một lưới bắt hết, hửm?”
Cố Quân là cao thủ đổi trắng thay đen, cả đời có ba sở trường: đánh hay chữ tốt giỏi nói láo – chuyện vô lý vào miệng y đều giống như thật, huống chi nghĩ kỹ lại thì lời y nói vậy mà không vô lý chút nào, khiến Tĩnh Hư toát hết mồ hôi lạnh.
Y ở bên này thẩm vấn phỉ thủ tốn nhiều thời gian hơn là Trường Canh tìm người, không bao lâu, Trường Canh đã dẫn người quay lại, chỉ là chưa qua đỉnh núi đã bị tướng sĩ Huyền Thiết doanh tận chức tận trách ngăn cản, tiểu tướng sĩ kia thành thật học vẹt nói với Trường Canh: “Điện hạ, Đại soái bảo người hãy ở đây nghỉ ngơi một lúc trước.”
Trường Canh không bất ngờ lắm, nghe thế chẳng hỏi lấy một câu, ngoan ngoãn ở tại chỗ chờ đợi.
Mấy năm nay, tuy Trường Canh không chính mắt gặp Cố Quân, nhưng đã theo Chung lão tướng quân nghiên cứu mỗi một trận Cố Quân từng đánh, nghiên cứu mỗi một thay đổi chủ trương từ khi y được phong hầu ở tiền triều đến bây giờ, thậm chí chữ của y – nếu Trường Canh hiện tại vào thư phòng Cố Quân, tùy tiện lấy một bảng chữ cũ, có thể đại khái nhìn ra đó là Cố Quân bao nhiêu tuổi viết.
Việc này có thể giúp hiểu Cố Quân hơn xa cả ngày đi cùng nghe y bốc phét mình là “một nhành hoa Tây Bắc”.
Lúc nãy ánh mắt hơi chần chừ của Cố Quân đảo qua, Trường Canh liền biết y định bức cung, hơn nữa rất không muốn để mình nhìn thấy, cho đến hôm nay, Cố Quân vẫn theo bản năng giữ gìn “hình tượng từ phụ” đầy nguy cơ trước mặt Trường Canh.
Trường Canh không có dị nghị với việc này, cực kỳ quý trọng mà hưởng thụ chút cưng chiều không nói ra miệng của tiểu nghĩa phụ.
Phía sau Trường Canh có hai người đi theo, chính là Cát Bàn Tiểu và Tào Nương Tử năm đó từ Nhạn Hồi tiểu trấn cùng vào kinh với y – hiện tại tên là Cát Thần và Tào Xuân Hoa.
Cát Thần thời thiếu niên là một đứa nhóc béo ú đáng yêu, hiện giờ lớn lên lại không thể nói là béo, vóc dáng cao to chắc khỏe, chỉ nhìn cơ thể này, có thể tính là “đại hán vạm vỡ”; tiếc thay cái đầu trên cổ như gắn nhầm, bên trên là khuôn mặt tròn nhỏ vừa trắng vừa non, má có hai gò da mỏng thịt mềm rung rung, như đậu hũ non bọc cái mũi nhỏ cái miệng nhỏ và đôi mắt nhỏ, trong thất khiếu không đâu không toát ra sự vô hại chất phác.
Tào Xuân Hoa thay đổi nhiều hơn, vô luận trong lòng gã nghĩ thế nào, thân bất do kỷ phát triển khung xương nam tử trưởng thành, không còn vẻ sống mái khó phân thiên y vô phùng thời thiếu niên, gã cũng chỉ đành bất đắc dĩ thừa nhận mình thật sự là một xú nam nhân, thay lại nam trang, có điều vẫn chưa chịu từ bỏ mà lấy đại danh là “Tào Xuân Hoa” – trừ chính gã ra chắc chẳng ai thấy “Xuân Hoa” thì cao minh hơn “Nương Tử” ở chỗ nào.
“Sao còn chưa cho qua?” Tào Xuân Hoa thò đầu hỏi, “Đã nhiều năm chưa được gặp Hầu gia nhà ta, mấy ngày qua nhớ đến ngủ không yên luôn.”
Trường Canh u ám nhìn gã một cái, im lặng ghi một khoản nợ cho Tào Xuân Hoa, chờ y từ miệng tên này gom đủ năm mươi lần mấy lời hoa si như kiểu “Hầu gia nhà ta”, nhất định phải tẩn cho gã một trận mới được.
Tào Xuân Hoa không hề hay biết, lại hỏi: “Đúng rồi đại ca, lần này huynh về kinh, sẽ phong vương tập tước chứ? Ta nghe nói tiên đế sớm chuẩn bị xong xuôi phủ Nhạn Bắc vương cho huynh rồi, vậy về sau huynh sẽ dọn sang đó hay vẫn ở hầu phủ?”
Trường Canh hơi sửng sốt, cười khổ nói: “Việc đó cũng phải xem Hầu gia có muốn ta đi hay không.”
Hiện tại hồi tưởng, Trường Canh đã không nhớ nổi mấy năm trước mình đập nồi dìm thuyền rời khỏi hầu phủ, rời khỏi Cố Quân, dũng khí là từ đâu đến, không gặp thì thôi, lần này bất ngờ đụng mặt Cố Quân ở Thục Trung, y quả thực như đụng phải túc mệnh, đánh chết cũng khó mà tích tụ sự quyết tâm năm đó.
Trần Khinh Nhứ bảo y “bình tâm tĩnh khí, bớt vọng niệm”, cố nhiên có tác dụng nhất định đối với khắc chế Ô Nhĩ Cốt phát tác, nhưng hỉ nộ ai lạc đều liền nhau, khắc chế oán hận và phẫn nộ, hỉ lạc tự nhiên cũng biến thành hầu như không thấy, lâu dần con người sẽ như một gốc cỏ cớm nắng – tuy miễn cưỡng chưa chết, lá cây cũng trắng bệch đi.
Trường Canh cho rằng mình sắp thành Phật rồi.
Mãi tới khi gặp lại Cố Quân.
Mặc dù đi theo xe Cố Quân mệt nhọc chưa tính, còn thêm cả ngày không phải đối phó phản quân thì là đối phó thổ phỉ, trong lòng Trường Canh lại luôn vô cớ ngập tràn niềm vui một cách vô lý – là niềm vui đầy sức sống, chờ mong và sốt ruột, giống như sáng sớm vừa mở mắt, liền biết hôm nay có chuyện tốt sắp xảy ra.
Dù rằng y biết không có chuyện tốt đẹp gì, Ô Nhĩ Cốt cũng vẫn y nguyên mỗi ngày như mộng đến thăm y.
Giả như phong vương, Cố Quân sẽ giữ y lại chứ?
Lý trí nghĩ, Cố Quân nhất định giữ, hầu phủ chí ít sẽ sẵn lòng thu lưu y đến khi chính thức thành gia, nếu y mãi không thành gia, chưa biết chừng có thể dày mặt ở lại mãi, ý nghĩ này quá tốt đẹp, Trường Canh dốc sức của chín trâu hai hổ mới kiềm chế được mình không cười ngu.
Họ chờ chừng hai khắc thì Cố Quân ra.
Mật đạo trên núi như tấm mạng nhện khổng lồ, bốn phương thông suốt, móc nối thành vòng, Cố Quân tổng cộng chém hơn bốn mươi cái đầu, loại bỏ mấy lời nói nhảm của một số kẻ sợ phát khóc, cuối cùng tìm được lối vào của sáu mươi bốn mật đạo.
Cát Thần nghe thế hết sức kinh ngạc: “Cái gì? Hai anh em ta ở trên núi làm dã nhân hơn nửa năm, mới tìm được hơn ba mươi lối vào, sao Hầu gia vừa đến đã thẩm ra hơn sáu mươi!”
“Nếu không phải các ngươi mò đến đáy, ta cũng chẳng tiệt được chúng, càng khỏi nói tới thẩm vấn.” Cố Quân nhìn Cát Thần một cái, kiềm chế giây lát, rốt cuộc không nhịn nổi, vẫy tay gọi, “Lại đây.”
Cát Thần cho rằng Đại soái có việc gì quan trọng muốn phân phó, vội hăm hở xáp tới, nào ngờ Cố đại soái đột nhiên thò tay véo mặt gã một phát.
Cố Quân muốn làm như vậy từ lâu rồi, tật xấu ngứa tay của y sớm đã di căn, nhìn thấy thứ có xúc cảm liền không nhịn được muốn véo.
“Đã quá!” Cố Quân véo một hồi, chưa thỏa mãn mà nghĩ, “Làm sao hay nhỉ?”
Cát Thần: “…”
Tào Xuân Hoa mắt hổ ẩn tình, hâm mộ đến mòn mắt, thẽ thọt nói: “Hầu gia nhất bên trọng nhất bên khinh, sao không véo mặt ta?”
Lời này gã không dám đến trước mặt Cố Quân nói, bởi vậy chỉ có Trường Canh nghe thấy, Trường Canh nghĩ: “Được, bốn mươi tám lần.”
Tào Xuân Hoa tự dưng ớn lạnh rùng mình, nhìn xung quanh một chút, trong lòng đột nhiên trỗi lên dự cảm xấu khi tới gần nguy hiểm.
Cố Quân theo khẩu cung của Tĩnh Hư, vẽ ra mật đạo của vùng núi này, sau đó sai người xông khói từ cửa mật đạo, xông ba ngày, biến đại sơn thành ống khói, lũ dơi, chuột và độc trùng lớn nhỏ ở đậu bên trong đều dắt díu gia khẩu chạy ra, nhưng thủy chung không thấy người Cố Quân muốn bắt.
Mấy tướng sĩ xung phong thòng dây vào mật đạo tìm kiếm, lục soát sáu mươi bốn lối ra vào từ sớm đến khuya, nhưng ngay cả sợi tóc cũng chẳng tìm được, chỉ khiêng ra bộ sa bàn mà Tĩnh Hư nhắc đến.
Đến ngày thứ tư, thủ hạ tới báo, họ tra xét bên cạnh Khối Lan Đồ, quả thật tìm được một kẻ khả nghi – là một khách khanh Khối Lan Đồ nuôi, tên là Vương Bất Phàm, vừa nghe đã cảm thấy là tên giả.
Vị khách khanh này bình thường không hay ra ngoài gặp người, nhưng mấy tâm phúc của Khối Lan Đồ đều biết. Khối Lan Đồ rất sùng bái và tín nhiệm người này, trong phủ dọn riêng một viện cho hắn, phái tiểu tư tâm phúc và nha hoàn xinh đẹp hầu hạ.
Cố Quân: “‘Bất Phàm’ này hiện đang ở đâu?”
Thủ hạ trả lời: “Chạy rồi, hạ nhân trong viện thần không biết quỷ không hay bị độc chết, lúc người trong phủ phát hiện thì thi cốt cũng lạnh ngắt rồi.”
“Đại soái,” Lúc này, lại một kỵ binh đến hồi báo, “Chúng ta đi tra xét mấy điểm giấu tử lưu kim chuyển vận mà Tĩnh Hư khai ra, nhưng người đi lầu trống, ngay cả tờ giấy cũng không sót lại.”
Cố Quân im lặng lần chuỗi tràng hạt cũ, khách khanh thần bí bên cạnh Khối Lan Đồ, “Nhã tiên sinh” trong miệng Tĩnh Hư… Hết thảy thoạt nhìn tựa hồ đều là ngẫu nhiên, nhưng Cố Quân có trực giác không cách nào nói rõ, y luôn cảm thấy trong đây dính dáng âm mưu rất lớn.
Những người âm thầm một tay khuấy tung thời cuộc Nam Cương này xuất hiện thần không biết quỷ không hay, sau đó lại biến mất không một chút dấu vết, thân phận thành câu đố, mục đích cũng thành câu đố.
Nhìn như là địch nhân, nhưng lại giống như trong minh minh giúp y đao sắc chặt đay rối trị hết đám người này.
Cố Quân phần nào không nghĩ ra, rốt cuộc là mình phá hoại cục của người khác, hay đã chui đầu vào cục của người ta.
Người mà Cố Quân quật ba thước đất muốn tìm, lúc này đang ở trong một con thuyền hàng nho nhỏ không có gì đặc biệt trên mặt biển Nam Dương.
Nhã tiên sinh đã thay phục sức Tây Dương rườm rà, cúi đầu xem một tấm bản đồ. Vạn dặm giang sơn mênh mông của Đại Lương nằm cả trên bản vẽ da dê nho nhỏ này, hắn cầm bút chu sa, vẽ một vòng màu đỏ nho nhỏ ở vùng Nam Cương.
Tính cả nét này, trên tấm bản đồ cũ ấy đã có ba vòng tròn đỏ, hai vòng khác lần lượt ở Bắc cương và Đông Hải.
Ngòi bút của “Nhã tiên sinh” lưỡng lự chốc lát trên bản đồ, cuối cùng dừng ở lối vào con đường tơ lụa vùng Tây bộ.
“Tính đến hôm nay, cục của chúng ta đã bố trí tốt rồi.” Nhã tiên sinh cười, “Còn lại một kíp nổ, chỉ cần đốt nó, là có thể ‘Uỳnh’ một tiếng-“
Vương Bất Phàm trông như người Trung Nguyên tiếp lời: “Đốt đại hỏa Trung Nguyên.”
Hai người nhìn nhau cười, giơ chén rượu lên cụng một tiếng thanh thúy.
Nam Cương xảy ra chuyện lớn như vậy, thiên tử trong triều đương nhiên tức giận, thúc giục Cố Quân mau chóng áp giải phỉ thủ và phản tướng về kinh.
Cố Quân đành phải tạm thời buông xuống mối nghi ngờ trong lòng, khởi hành về phương Bắc.
Có điều nghĩ tới đứa con nuôi bảo bối rốt cuộc đã chịu về cùng, hầu phủ lại sắp náo nhiệt, y lại có chút chờ mong với việc “về kinh”.
“Nó lớn lên đã đáng yêu hơn,” Cố Quân cảm thấy rất được an ủi, lén nói với Thẩm Dịch, “Dù cho đột nhiên biến thành hiểu chuyện như vậy, ta cũng có phần không quen lắm.”
“Hạ tiện.” Thẩm Dịch lời ít ý nhiều mà bình luận, sau đó đúng như ý nguyện trúng một phát roi.
Thẩm Dịch lại hỏi: “Đúng rồi, bắt Phó Chí Thành rồi, ngươi định làm thế nào?”
Cố Quân thôi cười đùa, trầm mặc giây lát rồi nghiêm mặt nói: “Quý Bình, kỳ thực mấy năm nay ta thường xuyên nghĩ, ngươi đi theo ta, phải chăng hơi lãng phí tài hoa.”
Thẩm Dịch im lặng nhìn y một cái.
Cố Quân: “Ngươi thông kim bác cổ, văn có thể vào Hàn lâm, võ có thể an một phương, ở Linh Xu viện và Huyền Thiết doanh chìm nhiều năm như vậy, cũng đến lúc xuất đầu…”
Dù rằng Trường Canh đã phân tích, nhưng chợt nghe y nói thế, trong lòng Thẩm Dịch vẫn xúc động.
Hai người vừa là đồng bào vừa là bằng hữu, tuy rằng là quá mệnh chi giao có thể gửi gắm vợ con, nhưng cái miệng chó của Cố Quân chẳng bao giờ khạc ra nổi ngà voi, chưa từng thẳng thắn bày tỏ tán thưởng ngay trước mặt y.
Vành mắt Thẩm Dịch nhất thời hơi nóng lên: “Tử Hi, kỳ thực ngươi không cần…”
“Vả lại ta cũng rất áy náy,” Cố Quân lại thành khẩn bổ sung, “Ngươi nói một mỹ nam tử trời sinh cha mẹ nuôi như ta, luôn ở bên cạnh chặn hoa đào của ngươi, hại ngươi những năm qua ế chỏng ra, thật là… chậc, quá có lỗi luôn.”
Thẩm Dịch: “…”
“Mỹ nam tử trời sinh cha mẹ nuôi” này nói xong định mức một ngày hai câu đứng đắn, chuẩn bị tiến vào nội dung nhảm nhí, Thẩm Dịch đành phải qua loa thu lại một bầu tâm sự mắc trong họng, “Hừ” một tiếng, thúc ngựa chạy luôn.
Trường Canh không xa đó nhìn thấy thế vội vàng thừa cơ chạy tới, chiếm vị trí Thẩm Dịch, song hành với Cố Quân: “Sao Thẩm tướng quân lại nổi giận chạy mất rồi?”
Cố Quân tựa tiếu phi tiếu sờ sờ mũi.
Trường Canh nhìn thấy khinh cừu giáp của y dính một chiếc lá, liền giơ tay gỡ giúp, cẩn thận nói: “Nghĩa phụ, giáp nhẹ hơn cũng ngoài bốn mươi cân đấy, tháo ra cho thoải mái?”
Cố Quân không phản đối, để Trường Canh giúp mình tháo khinh cừu giáp, nhất nhất gỡ ra, người quá gần nhau, hai con ngựa không biết hợp nhãn thế nào mà lại quấn vào nhau.
Cố Quân dùng một tay đẩy đầu ngựa của mình, răn: “Đừng giở trò lưu manh!”
Giáp trên tay y mới tháo được một nửa, hất nhẹ như vậy, suýt nữa bay khỏi cổ tay, còn kéo theo một thứ trong tay áo.
Trường Canh tay mắt lanh lẹ đón được, phát hiện đó lại là một cây sáo trúc nhỏ làm ẩu.
—
Đánh trống chuyền hoa là trò chơi của người Trung Quốc, cách chơi là vài hoặc vài chục người ngồi thành vòng tròn, một người cầm hoa (hoặc vật nhỏ), một người khác quay lưng lại hoặc bịt mắt đánh trống (hay những vật tạo được tiếng), mọi người sẽ chuyền hoa tới khi trống kết thúc, lúc này hoa ở trong tay ai thì người đó phải lên biểu diễn.
|
Chương 46: Say rượu
Ban đầu, hai người đều chưa kịp phản ứng.
Trường Canh hoang mang nghĩ: “Y mang cây sáo quèn trên người làm gì?”
Cố Quân thì còn đang bực bội: “Thứ gì bay ra vậy?”
Sau đó tầm mắt hai người đồng thời dừng trên cây sáo trúc dãi dầu sương gió đã bị nứt phần đuôi.
Giây lát sau, Trường Canh đột nhiên cảm thấy cây sáo này hơi quen mắt, Cố Quân thì như bị sét đánh, sực nhớ ra – vật này lai lịch bất chính!
Hai người cơ hồ đồng thời ra tay, Cố Quân chộp lấy, Trường Canh nắm chặt tay theo bản năng, hai bàn tay cầm một cây sáo trúc giằng co nhau.
Trường Canh hỏi vẻ vô tội: “Không thể xem ạ?”
Cố Quân: “Có gì đẹp mà xem?”
Nói xong Cố Quân rút mạnh cây sáo trúc nhỏ khỏi tay Trường Canh, giấu đầu hở đuôi vội vã nhét vào tay áo.
Trường Canh hiếm khi thấy y chột dạ, không tự chủ được nhớ tới cô bé con khóc muốn đứt ruột nhà Diêu đại nhân Giang Nam bốn năm trước, lờ mờ hiểu được điều gì, lại không dám tin lắm, thế là bóng gió hỏi: “Là người khác tặng ạ?”
Cố Quân không đỏ mặt không thở mạnh nói láo: “Tự làm.”
“À,” Trường Canh chớp chớp mắt, lát sau lại như cố ý như vô tình nói, “Tây Vực Lâu Lan cũng có trúc ạ?”
Cố Quân: “…”
Trường Canh khẽ chớp mắt, làm đôi mắt y trông hơi lấp lánh, kế đó cười nói: “Nghĩa phụ thủ công kém quá, hay để hôm nào con làm cho người cây khác nhé?”
Cố Quân bị chặn họng á khẩu không trả lời được, xấu hổ muốn chết, cứ cảm thấy tiểu tử kia đã nhận ra, cố ý sỉ nhục y, nhưng do chuyện trộm sáo thật sự rất mất mặt, y không tiện nổi giận, đành phải cụp cái đuôi thỏ của anh hùng khí đoản mà chạy mất.
Trường Canh không đuổi theo, ở tại chỗ nghĩ lại việc này một lúc lâu, không nhịn được hơi buồn cười, lại sắp xếp một lần từ đầu đến cuối chuyện Cố Quân sáng sớm lén mò tới viện của trẻ con trộm sáo trúc, tức khắc tâm hoa nở rộ một bó to, sinh cơ bừng bừng nở hơn nửa ngày, cho đến khi mặt trời ngả về Tây, mới chậm rãi yên lại.
Hương thơm chưa tan trong lòng y đẩy Ô Nhĩ Cốt vào một góc bé tí, đợi đến khi hoa lạc thủy lưu hồng(1), phía dưới liền sinh ra một ý nghĩ như hạt giống, đâm ra ngàn vạn cành cây.
Trường Canh nghĩ: “Tại sao y vẫn giữ lại thứ đó?”
Giữ lại, thỉnh thoảng sẽ lấy ra xem chứ?
Tiểu nghĩa phụ lúc nhìn nó có nhớ đến mình không?
Việc này phải chăng có nghĩa là Cố Quân đối với y… so với bản thân tưởng tượng, càng tình sâu nghĩa nặng hơn?
Y phải chăng có thể được một tấc muốn tiến một thước mà gần gũi tiểu nghĩa phụ hơn?
An thần tán của Trần cô nương trong túi thơm thoang thoảng bay ra, Trường Canh nhìn chằm chằm bóng lưng Cố Quân, chừng như bị bốn chữ “thuận theo tự nhiên” vang vọng trong đầu đốt tan. Y không dám vọng tưởng thái quá, nhưng bất an lo sợ ôm một chút phỏng đoán như vậy, không khỏi ngứa ngáy khó chịu, tiêu hồn thực cốt.
Con đường áp giải khâm phạm vốn nên vừa dài vừa chán, tiếc thay không biết là Huyền Thiết doanh đi nhanh hay là trong lòng Trường Canh chậm chạp, rét đậm chưa đến mà họ đã về tới kinh thành rồi.
Mà lúc này, vụ án Nam Cương mưu nghịch chấn động triều dã oanh oanh liệt liệt nổ ra sâu trong đế đô.
Tôn Tiêu dở sống dở chết về kinh, do hoảng sợ mà chớp mắt đã ốm liệt giường, chính Hoàng đế Long An cũng không liệu được, hắn chẳng qua mượn thủ đoạn nhỏ thi hành lệnh kích trống, mà Đề đốc Tây Nam kia thực sự dám tạo phản, vừa sợ hãi vừa tức giận, ra lệnh tra rõ.
Bởi vụ án này liên lụy rất rộng, Lại bộ Hình bộ Binh bộ Đại Lý tự… Thậm chí Đốc sát viện trên dưới, đều căng thẳng theo, ngay cả Cố Quân chẳng dễ gì về kinh nghỉ ngơi vài hôm cũng không được yên tĩnh, liên tục bị triệu vào cung hỏi han.
Vụ án Đề đốc Tây Nam Phó Chí Thành cấu kết sơn phỉ, sát hại mệnh quan triều đình, tư vận tử lưu kim, ý đồ mưu phản đã không thể thay đổi, phỉ thủ và thủ lĩnh phản đảng trước sau bị phán tử hình, liên lụy gia quyến.
Mà Hoàng đế Long An thiết huyết khốc lệ vẫn chưa chịu từ bỏ ý định, tình thế nhanh chóng không thể vãn hồi, như nhổ củ cải lôi cả đất lên, liên lụy đến lục bộ trung ương – những người hay qua lại với Phó Chí Thành, từng nhận hối lộ, mở cửa sau cho hắn, thậm chí lão thần năm đó đề cử Phó Chí Thành thượng vị, không một ai chạy thoát, tất cả đều bị liên lụy.
Lớp hạ ngục, lớp bãi quan, nhất thời trong triều ai nấy đều lo sợ, cả kinh thành đều bị đè nén trong sự nghi kỵ âm trầm.
Trời âm u mãi đến cuối năm, một trận tuyết lớn mới rào rào rơi xuống.
Năm ấy, chào cũ đón mới, An Định hầu giao nộp Huyền Thiết hổ phù, thi hành lệnh kích trống đã thành định cục, Binh bộ nhanh chóng cử người chuyên trách đến tứ phương làm giám quân.
Đến lúc này, Hoàng đế Long An đã thu gom quân quyền hết mức, Vũ đế năm xưa cũng chẳng theo kịp.
Trong cả đợt cuối năm, việc duy nhất cho Lý Phong yên tâm, có lẽ chính là sự thức thời của Cố Quân.
Đúng như Trường Canh suy đoán, Hoàng thượng được nể mặt, quả nhiên cũng cho Cố Quân đủ thể diện, thật sự thăng Thẩm Dịch lên hai cấp liền, hạ chỉ làm Đề đốc Tây Nam, đồng thời phong tứ điện hạ Lý Mân làm Nhạn Bắc vương.
Ngày mười sáu tháng Giêng, Thẩm lão gia tử mượn danh chúc thọ An Định hầu, kéo hai cỗ xe to chất đầy quà đến chặn cửa.
Thẩm lão gia tử đã trí sĩ nhiều năm, dưới gối chỉ có một tên không cầu tiến như Thẩm Dịch, Thẩm Dịch từ nhỏ đã là một quái thai, đọc sách tập võ đều không tệ, thế nhưng chẳng chịu si mê loại nào, chỉ thích ru rú trong viện hí hoáy hỏa cơ, Thẩm gia từ thiết khôi lỗi giữ nhà hộ viện đến đèn măng-sông lớn nhỏ treo trong phòng, không thứ nào chưa bị y phá hoại.
Mặc dù Thẩm lão gia tử một lòng tin theo Lão Trang, xem trọng vạn vật tùy tâm, nhưng chắc là đạo hạnh chưa đủ, trong nội tâm vẫn có chút kỳ vọng vào đứa con này. (Lão Trang là Lão Tử và Trang Tử)
Cố Quân sáng sớm bị gọi vào cung nghị sự, đã đi rồi, tuy y thường niên không ở kinh thành, nhưng dẫu sao quyền cao chức trọng, quà biếu không ít, hầu phủ không có nữ chủ nhân, quà cáp lễ tết qua lại đều do một tay lão quản gia lo liệu, nghe nói là quà của Thẩm lão gia tử, Trường Canh đặc ý theo lão quản gia ra đón, tò mò dòm thử.
Bản thân Thẩm lão gia tử kia cũng là một đóa hoa lạ, thiếu niên ham chơi, trung niên vẫn chơi, về già chơi mệt rồi, bắt đầu cầu tiên vấn đạo, chẳng hỏi việc đời, bình sinh thích luyện đan và ủ rượu, trong số quà cáp tặng Cố Quân, vàng bạc châu báu, lụa là gấm vóc, đồ cổ trân phẩm… nhất loạt không có, một hơi tặng hai xe rượu, tất cả đều là tự ủ.
Trường Canh đang dở khóc dở cười, vừa ngẩng đầu lên liền nhác thấy Đề đốc Tây Nam nóng sốt mới ra lò hùng hục phóng ngựa tới.
Thẩm lão gia tử hoàn toàn tự chủ trương, chờ Thẩm Dịch biết chuyện đuổi theo thì đã muộn – Thẩm Dịch nhìn xe rượu ngay cửa hầu phủ, khóc không ra nước mắt mà giấu mặt vào cổ ngựa, bụng nghĩ: “Mất mặt quá đi!”
Cố Quân chập tối trở về, gặp người nhà dỡ rượu từ trên xe xuống, Thẩm Dịch mặt mày xanh xám đứng ở một bên.
Không biết Hoàng thượng đã nói gì với y, Cố Quân thần sắc thản nhiên – chỉ cần y về đến hầu phủ, bình thường luôn rất vui vẻ, lúc vào cửa không cười, cũng không đùa giỡn với thị vệ canh cửa, quá nửa là thật sự rất mất vui rồi.
Cố Quân: “Sao ngươi lại tới đây?”
Thẩm Dịch hất cằm ý bảo y nhìn xe rượu chết tiệt kia: “Lão đầu nhà ta đem đến hối lộ ngươi, cảm tạ ngươi nâng đỡ ta.”
Cố Quân hít thử, tiến lên xách một vò, trực tiếp xé lớp dán, đứng ở cửa ngửi ngửi, uống một ngụm ngay tại chỗ.
“Nghĩ cái gì có cái đó, lão gia tử nhà ngươi tự ủ nhỉ, ta ngửi qua là biết ngay.” Cố Quân cảm thán, “Vừa hay, ngươi đến rồi thì đừng đi nữa, dù sao chưa hết tháng Giêng là hai ta sẽ phải đi hai ngả, đến lúc đó trời nam đất bắc, chưa biết ngày tháng năm nào mới được gặp nhau, hôm nay uống chút rượu với ta đi.”
Thẩm Dịch đang có ý này, thống khoái đồng ý luôn.
Cố Quân lại hỏi: “Trường Canh đâu?”
“Dưới bếp ấy.”
Cố Quân dừng bước: “Cái gì?”
“Y nhất định muốn tự mình nấu mì cho ngươi,” Thẩm Dịch cười nói, “Vương bá ngăn cản cả buổi không được. Ta thấy Quận vương điện hạ của chúng ta thật tài ba, địch tiền có thể áp trận, hạ trường biết châm cứu, rỗi rãi có thể tự may hà bao, ngay cả trọng địa nhà bếp cũng như bước trên đất bằng… Nếu là một cô nương, dù kéo hết Huyền Thiết doanh đến cũng không ngăn nổi đám người cầu thân chặn trước cửa nhà ngươi đâu.”
Cố Quân nhíu mày: “Quân tử xa nhà bếp, hồ đồ quá!”
Thẩm Dịch thấy sắc mặt y khác thường, hỏi: “Sao vậy, Hoàng thượng gọi ngươi vào cung nói gì?”
Cố Quân im lặng giây lát, đoạn hạ giọng: “Hoàng thượng muốn xử trí Phụng Hàm công.”
Thẩm Dịch giật mình: “Cái gì?”
Phụng Hàm tiên sinh họ Trương, tự Phụng Hàm, làm thủ tọa Linh Xu viện đã mười tám năm, Thẩm Dịch năm đó khi còn ở Linh Xu viện, chính là làm việc dưới tay ông, hiện giờ ông đã sáu mươi tuổi, cả đời ở Linh Xu viện, không lập gia đình, thê thiếp con cháu nhất loạt không có, cũng không thích nam phong.
Nghe nói nha hoàn tiểu tư dâng trà trong phủ đều là bằng sắt, sinh vật sống trừ chính ông ta ra thì chỉ có một con chó già sắp xuống lỗ – chỉ là nghe đâu, đừng nói người khác, ngay cả Thẩm Dịch cũng chưa từng tới thăm, Phụng Hàm tiên sinh tính tình cổ quái, không muốn nhà có khách. Vị lão tiên sinh này dốc hết cả đời vào hỏa cơ cương giáp, trừ thời điểm Cố Quân trùng chỉnh Huyền Thiết doanh giương cờ đứng ra một lần, những lúc khác đừng nói triều chính, ngay cả người ông ta cũng chẳng buồn để ý, người vô tranh với đời như vậy, sao lại chọc giận Hoàng đế?
Thẩm Dịch: “Vì sao?”
Cố Quân: “Lão nhân gia hôm qua dâng tấu, phản đối “chưởng lệnh pháp”, làm Hoàng thượng tức phát điên.”
Thẩm Dịch: “Ông ấy luôn phản đối, bắt đầu từ ngày ban bố chưởng lệnh pháp vẫn chưa từng yên mà, ta nghe người cùng thế hệ nói ông ta ba ngày dâng một bản tấu, gió mặc gió mưa mặc mưa, Hoàng thượng vẫn chẳng thèm để ý, sao đột nhiên…”
Chưởng lệnh pháp là pháp lệnh hạn chế trường tý sư dân gian, lúc mới ban ra từng gây xôn xao bàn tán một thời gian, sau bị cơn sóng lớn do lệnh kích trống dấy lên nhấn chìm.
“Tính tình Phụng Hàm công… Ôi, ngươi chưa thấy bản tấu hôm trước ông ấy viết, nói chưởng lệnh pháp hạn chế không phải trường tý sư, mà là dân trí, cứ thế mãi quốc sẽ không thành quốc, chờ người Tây Dương đằng vân giá vũ đến đập cửa biên cương Đại Lương, ta thấy ông ấy thiếu mỗi chỉ mũi Hoàng thượng mắng quốc tặc thôi – kỳ thực Hoàng thượng vốn cũng không đến mức chấp nhặt với ông ta, có điều lần này chuyện Nam Cương ồn ào, làm trong lòng Hoàng thượng có khúc mắc, cả một mùa đông chưa gỡ được, lão đầu nhảy vào nòng pháo rồi.”
Cố Quân dừng lại, đoạn lắc đầu tiếp tục: “Hôm nay trước khi đi, Hoàng thượng còn gọi ta lại, nói ‘Trẫm tự hỏi từ khi kế vị tới nay luôn cần cù cẩn trọng, cả đêm khó ngủ yên, vì sao giang sơn chẳng ngày nào an bình’ – ta còn có thể nói gì!”
Hoàng đế Long An đăng cơ vài năm ngắn ngủi, trước là huynh đệ ruột cấu kết Đông Doanh mưu phản, sau lại là đại quan biên giới cấu kết sơn phỉ làm phản, mỗi một việc đều phảng phất là sự trào phúng dữ dội, chợ đen tử lưu kim cấm suốt không ngừng càng thành tâm bệnh của hắn.
Thẩm Dịch không nói gì, cả hai sóng vai đi vào nội viện – trong lòng họ đều biết, Phụng Hàm công tuy tự tìm đường chết, song những gì ông nói không phải là không có lý.
Về sau trường tý sư dân gian bị hạn chế, từ đây chỉ dựa vào Linh Xu viện, quanh năm suốt tháng có thể làm ra mấy món kỹ thuật mới? Huống chi Linh Xu viện vĩnh viễn lấy cương giáp quân dụng làm đầu, sau này kỹ thuật dân dụng còn đường nào để phát triển?
Thẩm Dịch: “Có thể cứu được ông ấy không?”
Cố Quân ngẩng đầu nhìn không trung chìm trong ánh hoàng hôn ở cuối đế đô, thở ra khói trắng: “Không biết, ta sẽ cố hết sức.”
Thẩm Dịch gật đầu, lát sau y chợt nói: “Đại soái, ta từ nhỏ lớn lên ở kinh thành, nhưng có đôi khi thật sự cảm thấy thở không nổi.”
Cố Quân không nói một lời đưa vò rượu cho y.
Thẩm Dịch tu luôn bằng vò một ngụm rượu nhà tự ủ, rượu mạnh xộc lên, y vỗ vỗ lưng Cố Quân: “Đều chuẩn bị sinh nhật cho ngươi đấy, lát nữa vào đừng có đanh cái mặt.”
Thế là cả hai đứng trên hành lang uốn khúc, mỗi người một ngụm mà chia hết vò rượu.
Rượu có thể giải ưu, có thể làm máu nóng lên, có thể hồng đôi má, có thể giúp người ta ném phăng việc tày trời trước mắt sau lưng, thả lỏng chốc lát.
Nhưng vào nội viện, Cố Quân vẫn giật mình.
Chỉ thấy hàng loạt thiết khôi lỗi hỏng trong hầu phủ bị Cát Thần lôi hết ra, cũng không biết gã mất bao lâu để sửa, một đám mặt đen to đùng hành động như thường, qua lại như bay, lại thêm một đám tháo giáp trụ và binh khí, xếp thành một hàng, hai tay cầm hai cây quạt tơ lụa, ở trong sân uốn éo múa ương ca – Tào Nương Tử là kẻ duy nhất bằng da bằng thịt, ăn mặc rực rỡ múa dẫn đầu.
Cố Quân: “…”
Thẩm Dịch lắc đầu cảm thán: “Thật là một thiên tài.”
Cố Quân: “… Gì?”
Thẩm Dịch bá vai y nói: “Tiểu tử Cát Thần kia, thật là một thiên tài, vừa nghĩ đến năm đó hỏa cơ cương giáp đầu tiên thiên tài này xử lý là nhận từ tay ta, ta quả thực… chậc, hận không thể cướp gã đến Nam Cương.”
Cố Quân: “…”
Luôn cảm thấy lời này của Thẩm tướng quân là lạ sao đó.
Trường Canh quả nhiên làm một bát mì mừng thọ cho Cố Quân, lần trước y chỉ đập một quả trứng gà, còn làm rơi vỏ vào, không ngờ sĩ biệt ba ngày phải rửa mắt mà nhìn, y xuống bếp lần nữa, trình độ quả thực không thể vơ đũa cả nắm.
Nấu ngon hết sảy, Cố Quân trước mặt y không nói mấy câu gây mất hứng như “quân tử xa nhà bếp” nữa, suýt nữa xơi luôn cả bát.
Ba bát rượu vào bụng, người trong viện đều trở nên vô pháp vô thiên.
Thẩm Dịch than thở: “Bao nhiêu năm qua từ kinh thành đến Tây Vực, Bắc cương, lại đến Lâu Lan, đi đâu cũng có ngươi, về sau đột nhiên không còn, trong lòng ta rất khó chịu.”
Cố Quân: “Bớt nói nhảm, uống rượu đi.”
Cát Thần chạy tới thành khẩn nói: “Thẩm tướng quân, ở vùng Tây Nam ta có quen vài bằng hữu giang hồ, về sau nếu ngài có việc gì không tiện làm, có thể nhờ họ làm cho!”
Thẩm Dịch nhìn gã lệ nóng tràn mi: “Bằng hữu giang hồ thì không cần, có thể tặng ta một con chim gỗ không?”
Hai người chỉ hận gặp gỡ muộn cầm tay nhìn nhau mắt ngấn lệ, chạy ra chỗ khác nước miếng tứ tung bàn về “cách kéo dài tuổi thọ của hỏa cơ”, bị Cố Quân phạt một người ba bát.
Cát Thần uống ba bát xong suýt lăn xuống gầm bàn, Tào Xuân Hoa lên cơn điên, cùng đám khôi lỗi lăn vào nhau, Trường Canh trông kẻ này ngó kẻ kia, đỡ trái hở phải.
Sau đó quả nhiên đều say mèm.
Thẩm Dịch túm Cố Quân, líu lưỡi rồi mà còn lắm lời, lặp đi lặp lại như bánh xe quay tròn: “Tử Hi… Tử Hi à, Cố gia ngươi ở nơi đầu sóng ngọn gió, ợ… liên tục ở nơi đầu sóng ngọn gió, ngươi phải cẩn… cẩn thận…”
Cố Quân nằm bò lên vò rượu, nhúc nhích cũng không muốn, nói cũng lười, chỉ cười, cười không dừng được, chảy cả nước mắt ra, vừa cười vừa nghĩ: “Cố gia chỉ còn lại mình ta thôi.”
Thẩm Dịch chân nam đá chân chiêu đứng dậy, đi ngang hai bước, ngã phịch xuống đất, miệng còn lẩm bẩm: “Hoàng… Hoàng thượng sợ ngươi.”
Hoàng thượng sợ ai chưa biết, chỉ biết Trường Canh hơi sợ họ rồi, vội gọi gia tướng và thị vệ đến đỡ Thẩm Dịch dậy: “Mau đưa Thẩm tướng quân xuống.”
Cố Quân dựa bàn, chống trán cười đến cao thâm khó lường, nếu không phải ánh mắt rời rạc, thật y như tỉnh táo vậy.
Thẩm Dịch bị bọn thị vệ ba chân bốn cẳng khiêng dậy, còn không chịu ngoan ngoãn, vừa giãy giụa vừa nói lộn xộn: “Ngươi… Cố Tử Hi, trong lòng ngươi… ngươi, là buông xuống, nhưng Hoàng, Hoàng thượng buông không được, y thủy chung sợ ngươi, sợ như tiên đế, có thể không sợ sao? Năm đó họ hủy ngươi như vậy, nhưng ngươi không chết, Huyền Thiết doanh cũng còn… Còn uy phong đến thế, những người đó liền nghĩ, nếu đổi lại là họ, họ sẽ trả thù như thế nào? Suy bụng ta ra bụng người, Tử Hi… Mọi người trên đời đều suy bụng ta ra bụng người…”
Trường Canh tửu lượng bình thường, bị Cố Quân chuốc không ít, vốn cũng chỉ miễn cưỡng giữ tỉnh táo một chút, ai ngờ nghe lời này, y chợt giật mình tỉnh hẳn.
“Họ hủy ngươi như vậy” là ý gì?
Y không xác định Thẩm Dịch nói có phải là lời bậy bạ của người say hay không, không nhịn được tiến lên một bước, muốn nghe rõ hơn.
Ai ngờ Thẩm Dịch kêu gào một hồi, sau đó quay người vịn cột nôn thốc nôn tháo, biến mình thành một vũng bùn loãng, mềm nhũn ngã xuống, trực tiếp ngủ thiếp đi.
Trường Canh hết cách, đành phải kêu người còn tỉnh khiêng hết đám hán tử say quắc cần câu nằm la liệt trong viện đi.
Sau cùng, chỉ còn lại mấy thiết khôi lỗi vẫn tận trung chức thủ mà múa may, trên đầu bốc lên hơi nước màu trắng.
Tiếng reo vang nói cười của kinh thành dần dần đi xa.
Cố Quân nhoài cả người lên bàn, hiển nhiên đã chẳng còn biết trời trăng gì, miệng lảm nhảm rất khẽ: “Giỏi thật, toàn là bị khiêng xuống.”
Còn mặt mũi nói người khác – Trường Canh thở dài, thấp giọng dỗ dành: “Người là giỏi nhất, chúng ta quay về thôi, để con đỡ người được không?”
Cố Quân ngẩng đầu nhìn y, đôi mắt ấy quá đen quá sâu, men say Trường Canh mới dằn xuống bị nhìn như vậy lại bốc lên đầu.
“A Yến…” Cố Quân bỗng nhiên gọi khẽ.
Trường Canh chau mày.
“A Yến à,” Cố Quân phá lên cười, giống như hơi bất đắc dĩ, lại có chút cay nghiệt bất cần đời bình thường, “Ta cho ngươi biết một bí mật, ngươi không được nói với người khác… Cha ngươi ông ta… thật khốn nạn.”
Trường Canh: “…”
Toàn là nói nhảm!
Cố Quân cười khe khẽ, lẩm bẩm lộn xộn: “Người nào biết ta sương tuyết thúc giục, người nào cùng ta say sưa một phen…”
Trường Canh không định cùng con mèo say này trố mắt nhìn nhau thêm nữa, đưa tay đỡ Cố Quân dậy, kéo vào phòng ngủ. Ai ngờ Cố Quân uống say rất dính người, sờ mó lung tung như Đăng Đồ Tử, Trường Canh bị y bám thấp thỏm không yên, muốn trực tiếp ném y lên giường, cúi đầu thấy tấm ván giường cứng ngắc của Cố đại soái chỉ trải một lớp nệm mỏng, rốt cuộc không nỡ làm vậy.
Ai ngờ Cố Quân quay người lại chộp gân tê trên khuỷu tay y, Trường Canh chợt bị như vậy, cánh tay thoát lực, suýt nữa để rơi Cố Quân, định đưa tay đỡ, lại quên mình cũng chếnh choáng, thoáng cái bị Cố Quân kéo ngã sấp.
Cố Quân bị nện trúng sặc một hơi, thở hổn hển hồi lâu, vỗ lưng Trường Canh nói bậy bạ: “Ôi bảo bối, ngươi đè chết ta rồi.”
Trường Canh nằm trên người y, hạt giống cố gắng chôn sâu dưới đáy lòng ở sâu trong tăm tối im lặng nhú mầm ra.
Y nhìn chằm chằm khuôn cằm nhợt nhạt của Cố Quân, bỗng nhiên thấp giọng hỏi: “Người đang gọi ai?”
Cố Quân không lên tiếng.
Trường Canh cảm thấy mình cũng say rồi, không thì làm sao có lá gan lớn như vậy?
Y chợt đè lên, nắm cằm Cố Quân: “Nghĩa phụ, người gọi ai?”
Hai chữ “nghĩa phụ” tựa hồ nhắc nhở Cố Quân điều gì, ậm ừ nói một tiếng “Trường Canh”.
Hai chữ ấy như một mảnh sắt cùn, nhẹ nhàng cạo qua tai Trường Canh, trong đầu y nổ uỳnh một tiếng, bốn chữ “thuận theo tự nhiên” đẩy lưng y một phát, khiến y như bị quỷ ám cúi người xuống, hôn Cố Quân.
Cố Quân thoạt đầu sửng sốt, một lúc lâu mới trì độn nhận ra một chút mùi vị, mơ màng túm cổ áo Trường Canh, bỗng nhiên đẩy y từ trên người mình xuống.
Trường Canh: “…”
Lưng y đập vào tấm ván giường cứng như đá của Cố Quân, tức khắc tỉnh táo lại, huyết sắc trên mặt mất sạch, y hoảng sợ cực kỳ, thầm nghĩ: “Ta đang làm gì đây?”
Cố Quân ở bên trên nhìn xuống y, Trường Canh mở miệng muốn gọi “nghĩa phụ”, nhưng há miệng ra lại chẳng nói thành tiếng.
Ai ngờ Cố Quân lại chợt nở nụ cười, con ma men kia căn bản chẳng nhận ra ai, đưa tay sờ soạng mặt y, mơ mơ màng màng nói với giọng mũi: “Ngoan.”
Trường Canh: “…”
Ngay sau đó, Cố Quân ôm Trường Canh toàn thân cứng ngắc, trịnh trọng hôn từ trán đến môi, hết sức ôn nhu liếm mở đôi môi y, cho y một sự tra tấn dài lâu lại triền miên, đồng thời tay cũng chẳng nhàn rỗi, lần mò cởi vạt áo Trường Canh.
Trường Canh cảm thấy mình như sắp nổ tung, một tay nắm thắt lưng Cố Quân, tay run lẩy bẩy, nhưng vẫn cố nhịn không dùng một chút sức.
Cố Quân phảng phất cảm giác được sự run rẩy của y, người này ở trên giường trái lại rất có phong độ của công tử thế gia, vừa sờ vạt áo Trường Canh, vừa say quắc cần câu mà cười, ôn nhu dỗ dành: “Đừng sợ, theo ta, về sau ta tốt với ngươi.”
Trường Canh hạ giọng rất nhỏ, hỏi khẽ: “Ta là ai?”
Cố Quân nghe tiếng ngẩn người, ngẫm nghĩ một lúc, đáng tiếc đầu óc căn bản không hoạt động, chẳng những không ra kết luận gì, bản thân còn bị vạt áo Trường Canh cuốn lấy, hì hục cả buổi, càng tháo càng quấn chặt, cuối cùng giày vò mình đến kiệt sức, ngã lăn ra bên kia mà ngủ luôn.
Trường Canh trong sự yên tĩnh cắn chặt răng, dùng hết toàn lực đếm nhịp thở dài lâu hơi run run của mình, đếm đến năm sáu mươi lần, rốt cuộc lấy đủ sức bò lên đẩy Cố Quân ra.
Y vội vàng lôi vạt áo khỏi tay Cố Quân, để người ta nằm ngay lại, qua quýt kéo chăn, sau đó chốc lát cũng không nán lại nổi, bỏ chạy mất tiêu.
–
Đoạn này trích trong Tây sương ký của Vương Thực Phủ, nghĩa là hoa rơi xuống nước làm đỏ cả dòng.
Cả câu: “Hoa lạc thủy lưu hồng, nhàn sầu vạn chủng, vô ngữ oán đông phong.” Đại ý là hoa rơi hữu ý, nước chảy vô tình, chỉ hận thế sự vô thường. (Theo Baidu
|
Chương 47: Nước đục
Cố Quân ngủ một giấc đến khi mặt trời sắp lên cao ba sào.
Đêm hôm trước trong lòng y rất khó chịu, ít nhiều có ý định mượn rượu giải sầu, thành thử say quắc cần câu, lúc dậy người cứng ngắc, còn mệt hơn một đêm không ngủ.
Trên cái bàn con bên cạnh không biết ai để sẵn một bát canh giải rượu, Cố Quân bịt mũi bưng lên một hơi uống hết, lúc này mới xem như mở được đôi mắt khô khốc. Y ngồi ngây ra bên giường một hồi, nhanh chóng tự xét lại mình, trong lúc nửa ngủ nửa tỉnh đã nhận ra sự nôn nóng lạ lùng của mình gần đây.
“Đến mức ấy không?” Cố Quân ngáp một cái, tự hỏi lòng mình.
Nghĩ kỹ lại, đương nhiên là không đến mức.
Mấy năm nay quốc khố hơi eo hẹp, quân phí dĩ nhiên cũng túng thiếu theo, nhưng cũng chưa đến mức phải nhịn đói.
Ông trời cũng coi như yên ổn, mấy đợt lũ lụt, động đất, rồi còn hai ba năm trước từng bị hạn hán một lần, đều không đặc biệt nghiêm trọng, Trung Nguyên lớn như vậy, tùy tiện Long vương gia trong đám mây nào hắt xì một cái, triều đình không phải sứt đầu mẻ trán chẩn tai theo? Mấy năm qua kể từ năm Long An thứ nhất, đã xem là trời yên biển lặng hiếm thấy rồi.
Giang Nam và Tây Nam xảy ra hai vụ án, tuy thanh thế đều rất lớn, khiến Hoàng thượng sợ bóng sợ gió, nhưng kỳ thực trong mắt Cố Quân, đó đều chỉ có thể tính là ẩu đả vặt thôi – Đông Hải là Ngụy vương rõ ràng vẫn chưa chuẩn bị xong, đã bị tử lưu kim tiết lộ tung tích, việc của Nam Cương là thế lực đa phương đụng vào nhau, Phó Chí Thành ban đầu chỉ sợ là ngay cả ý định tạo phản cũng không có – tóm lại, kỳ thực còn chưa hung hiểm bằng họ đuổi bắt sa phỉ giữa đại mạc cát vàng.
So với năm đó quốc vô cường binh, y một mình gánh cả Đại Lương chinh chiến sáu quốc gia Tây Vực liên hợp phản loạn có tính là gì đâu?
Khi đó mỗi ngày y đều không biết liệu rằng mình có thể nhìn thấy thái dương ngày mai hay không, trong lòng hoàn toàn không tạp niệm, hiện tại thì ngược lại, y quyền cao chức trọng, thong dong ở trong viện nhà mình xem thiết khôi lỗi múa ương ca, còn đi mượn rượu tiêu sầu, giỏi giang thật!
Tiêu xong hình như y đã làm việc gì dư thừa thì phải…
Làm gì nhỉ?
“A, đúng rồi,” Cố Quân nghi hoặc day huyệt thái dương, nghĩ thầm, “Hình như đã chòng ghẹo một nha đầu, còn làm người ta sợ hãi.”
“Quá đáng thật!” Cố Quân vừa lẩm bẩm một mình, vừa rửa mặt thay quần áo.
Đang thay giữa chừng, y đột nhiên khựng lại – không đúng, hầu phủ ngay cả con ngựa cái còn không có, thì đào đâu ra nha đầu!
Cố Quân rốt cuộc tỉnh hẳn, mặt mày tái xanh cân nhắc một hồi, đoạn lật chăn – chỉ thấy góc giường lăn xuống một vật nhỏ, là hà bao bằng da Trường Canh vẫn đeo trên người.
Cố Quân: “…”
Thẩm Dịch tửu lượng chẳng bằng ai, còn say hơn Cố Quân, sáng sớm chưa ngủ dậy đã bị Cố Quân xông vào khách phòng lôi đầu dậy.
“Ta nói với ngươi một việc.” Vẻ mặt Cố Quân nghiêm trọng như thể gặp ma vậy.
Thẩm Dịch không dám thờ ơ, một đống ý nghĩ lộn xộn lướt qua trong lòng: Phó Chí Thành vượt ngục? Phụng Hàm công bị Hoàng thượng định tội rồi? Bắc man xâm phạm? Hay trú quân trấn thủ Trung Nguyên làm phản?
Y cố nén sự khó chịu, nỗ lực định thần lại, nghe Cố Quân nói.
Kết quả là họ Cố kia ngập ngừng một lúc lâu, ánh mắt từ xà nhà dời đến mũi giày mình, ngay cả rắm cũng chẳng đánh ra.
Thẩm Dịch thấp thỏm lo lắng hỏi: “Rốt cuộc xảy ra chuyện gì rồi?”
Cố Quân: “… Thôi, không muốn nói nữa.”
Thẩm Dịch đương trường phát điên, lông toàn thân xù ra ba trượng, cái thể loại nói chuyện một nửa này sao vẫn chưa bị chém chết hả?
“Khoan đã,” Thẩm Dịch lao tới túm Cố Quân lại, cả giận nói, “Rốt cuộc có chuyện gì?”
Cố Quân lúc này đã theo “vật chứng” trên giường mình, chậm rãi quay về ký ức sau khi say rượu, bản thân đã nói gì, làm gì, nhất thời mồn một trước mắt – quá xấu hổ, quá hèn hạ, quá khốn nạn.
Cố Quân che mặt: mình đã làm gì vậy trời?
Y cảm thấy nước chua trong dạ dày trào ngược lên, thống khổ hỏi Thẩm Dịch: “Ta quá chén mượn rượu làm càn sao?”
“Ngươi cũng đâu có uống nhiều lắm?” Thẩm Dịch ôm chăn co vào đầu giường – họ thường niên ở biên quan, mặc dù cũng uống rượu, nhưng không dám uống say mèm, kẻo không cẩn thận có quân tình hỏng việc thì không ổn.
“Sao thế,” Thẩm Dịch ngó sắc mặt Cố Quân, hào hứng hỏi, “Hôm qua ngươi đã làm chuyện gì mất mặt?”
Cố Quân ấn Thẩm Dịch xem náo nhiệt không chê việc lớn vào chăn, thất hồn lạc phách bay đi, tự thấy là mình nên tìm sợi đai lưng treo cổ quách cho rồi.
Ban đầu, Cố Quân còn ôm vài phần hi vọng may mắn mà nghĩ: “Tiểu Trường Canh sẽ không chấp nhặt với con ma men chứ? Nếu là ta, ta sẽ không để bụng đâu.”
… Cùng lắm là lấy việc này ra giễu cợt chừng nửa năm một năm thôi.
Nhưng chút may mắn này nhanh chóng biến mất, bởi vì Cố Quân nhớ rõ Trường Canh hôm qua bị y đè trên giường cứ liên tục run lên, như vậy xem ra, có khả năng Trường Canh chẳng những để bụng, còn tức giận muốn chết.
Cố Quân mặt mày ủ ê ngắm nghía hà bao của Trường Canh, giống như ngắm một bao hỏa dược có thể nổ tung bất cứ lúc nào.
An thần hương thoang thoảng thấm vào ruột gan lan ra, Cố Quân vừa ngửi tới ngửi lui, vừa âm thầm tính toán: “Mình nên giả bộ hồ đồ? Hay giả bộ không biết? Hoặc là vờ như chưa có gì xảy ra hết?”
Không đợi y quyết định xong, lão quản gia đã bước thẳng tới, Cố Quân liền như chính nhân quân tử hỏi: “Vương bá, tứ điện hạ đâu?”
Lão quản gia trả lời: “Tôi đang muốn đi nói với Hầu gia đây, điện hạ sáng sớm đã đến Hộ Quốc tự rồi.”
Cố Quân: “…”
Trực tiếp bỏ nhà đi luôn!
Lão quản gia không chú ý biểu cảm như nuốt hoàng liên của y, lại nói: “Đúng rồi, hôm qua Giang đại nhân của Đại lý tự tặng Hầu gia một bức họa mừng thọ, bên trong còn kẹp một phong thư, Hầu gia có muốn xem không?”
Cố Quân sửng sốt: “Cầm tới đây ta xem.”
Thẩm Dịch tuy rằng đi theo Cố Quân tự dưng thành tướng quân, nhưng năm đó quả thật là xuất thân văn khoa cử, Đại lý tự khanh Giang Sung là sư huynh đồng môn của y, thông qua tầng quan hệ này mà quen biết Cố Quân, sau đó phát hiện đối phương tính tình rất hợp, dần dần thành bằng hữu, song bình thường để tránh hiềm nghi, hai người đi lại không thường xuyên lắm.
Cố Quân mở thư xem lướt qua như gió, tức khắc chẳng còn tâm trạng để ý Trường Canh đang giận mình.
Giang Sung ngoài hỏi thăm sức khỏe, còn ngắn gọn tiết lộ một tin tức – Hoàng thượng định đập nồi dìm thuyền, triệt để xóa sạch chợ đen tử lưu kim.
Chỉ riêng câu này đã ẩn chứa rất nhiều tin tức bên trong.
Chập tối hôm nay, Khởi Diên lâu vẫn huyên náo như xưa, trong gian phòng chữ thiên, tân nhiệm Đề đốc Tây Nam Thẩm Dịch làm ông chủ, mời một nhóm đồng liêu Linh Xu viện trước kia khi y ở kinh thành là đồng môn hảo hữu. Thẩm Dịch sắp đến Tây Nam nhậm chức, mặc dù xa xôi, nhưng tốt xấu gì cũng là vẻ vang thăng quan, đám lão bằng hữu sớm đã om sòm bắt y đãi khách.
Rượu qua ba tuần, An Định hầu cũng tự mình đến lộ mặt, nhưng chỉ nán lại một lúc, liền viện cớ nhà có việc đi trước, y đi chưa bao lâu, Giang Sung nhậm chức Đại lý tự khanh cũng cáo từ đi theo.
Giang Sung ra khỏi Khởi Diên lâu không ngồi xe, đuổi gia nhân đi, chỉ nói mình muốn tản bộ một lúc cho tỉnh rượu, dẫn theo mỗi một tiểu tư, từ dưới lầu hàn giang tuyết liễu đi theo đường nhỏ.
Đường nhỏ vừa rẽ, sớm có một chiếc xe ngựa cũ không hề hút mắt chờ ở đó, màn xe vén lên, lộ ra nửa khuôn mặt Cố Quân: “Trời lạnh quá, ta đưa Hàn Thạch huynh một đoạn.”
Giang Sung nói “Làm phiền”, liền hiểu ý lên xe y.
Giang đại nhân đã ngoài bốn mươi, nhưng từ diện mạo không thể nhìn ra, ngoại trừ khí độ trầm ổn, nói hắn là một công tử trẻ tuổi cũng không quá.
Lên xe mượn tiểu lô của Cố Quân làm ấm tay, Giang Sung cũng không thừa lời, đi thẳng vào vấn đề: “Hôm ấy sau khi Hầu gia rời cung, Hoàng thượng liền âm thầm triệu tập tam ty, ta nghe ý ngài thì thấy có khả năng chẳng những muốn trùng khải ‘dung kim lệnh’, còn tính làm hai việc cùng lúc, sẵn dư âm cuộc phản loạn Nam Cương, bắt đầu hạ đao từ Tây Nam, tra rõ chợ đen tử lưu kim trong nước.”
“Dung kim lệnh” là chuyện từ thời ngoại tổ phụ Cố Quân – Lương Vũ đế, khi đó hải vận mới mở, dân gian tư dụng tử lưu kim từng một dạo khó ngăn chặn, để tăng mạnh sự khống chế với tử lưu kim, Vũ đế ban bố bốn điều nghiêm lệnh, chính là “dung kim lệnh” mà hậu nhân vẫn nói.
Nhưng sau đó theo hỏa cơ cương giáp dân dụng ngày càng nhiều, dung kim lệnh dần dần không thích hợp để dùng nữa, thành thử đã bị bãi bỏ dưới thời tiên đế Nguyên Hòa.
Giang Sung: “Hầu gia đầu xuân đại khái sẽ phải về Tây Bắc, theo lý thuyết vùng kinh thành cho dù cải thiên hoán nhật cũng chẳng ảnh hưởng xuống đầu Hầu gia, chỉ là nếu Hoàng thượng muốn tra chợ đen tử lưu kim, sợ rằng Hầu gia trú lâu ở biên cương, đến lúc đó không khỏi tình ngay lý gian, xin hãy lưu tâm hơn…”
Giang Sung không thể trực tiếp chỉ mũi Cố Quân nói “Ta biết tay ngươi cũng chẳng sạch sẽ gì cho cam, gần đây tra nghiêm, bứt tuyến chợ đen trên tay cho sạch sẽ mà yên ổn vài ngày đi”, hắn nói như vậy, ám chỉ đã tương đối rõ ràng.
Cố Quân hiểu, cảm kích nói: “Đa tạ Hàn Thạch huynh nhắc nhở.”
Giang Sung thấy đã nói đến đó, không cần phải nhiều lời nữa, đổi đề tài, cười khổ nói: “Một khi dính dáng đến tử lưu kim, không thiếu được phải đối mặt với một đám cùng hung cực ác, cùng hung cực ác trên giang hồ thì đã đành, chỉ sợ còn âm thầm cấu kết với không ít cốt cán của triều đình. Vậy tra ai không tra ai? Tra thế nào đây? Ôi, chẳng giấu gì Hầu gia, ta hiện tại cũng chưa có đầu mối.”
Nước quá trong ắt không có cá, cũng không biết Hoàng đế Long An muốn an thiên hạ, hay là muốn khuấy động đến gà chó không yên đây.
Cố Quân biết chỗ khó xử của hắn, an ủi: “Hàn Thạch huynh yên tâm đi, tin tức này vừa ra, chỉ cần không phải kẻ quá mù mắt, thì đều biết giấu nghề, chúng ta có ai không căng thẳng như huynh? Đến lúc đó nếu thực sự có chuyện gì khó xử, huynh cứ phái người gửi cho ta bức thư, hiện giờ không có Huyền Thiết hổ phù, trú quân các nơi không còn do ta điều phối, nhưng một chút thể diện nhỏ chung quy phải nể.”
Giang Sung liên tục cười khổ: “Vậy thì đa tạ Hầu gia. Trước là chưởng lệnh pháp, sau là dung kim lệnh… Ta rất ít ra khỏi kinh thành, rất nhiều việc không biết, chỉ là nghe người ta nói, năm ấy ‘sương trắng phủ phố phường, điểm canh chẳng thấy bóng người’, ai cũng nói cảnh về sau phải ngồi ‘ngựa bay’ xuất hành đã sớm mất rồi.”
Cố Quân mân mê tràng hạt gỗ cũ trên tay, không tiếp tục chủ đề này, lảng sang chuyện khác: “Phụng Hàm công thế nào rồi?”
“Còn đang bị giam,” Giang Sung nói, “Yên tâm, đã có ta trông chừng rồi – Hầu gia định dâng sớ trần tình giúp Phụng Hàm công à?”
Cố Quân cười khổ nói: “Ta? Ta dâng sớ chỉ có tác dụng khiến ông ấy chết mau hơn thôi. Kỳ thực cũng không cần nói rõ, trong cung rất nhiều thứ đều là ra từ tay Linh Xu viện, Hoàng thượng nhìn thấy tự nhiên sẽ nhớ đến điểm tốt của ông ấy – Phụng Hàm công say mê hỏa cơ, không hiểu việc đời, ngay cả tính tình chó chết đó, Hoàng thượng cũng biết, qua vài hôm hết giận là được.”
Nói thì nhẹ, nhưng làm sao để sau khi Hoàng thượng tiêu hỏa khéo léo nhắc tới Phụng Hàm công nuôi chó thay con, khiến Hoàng thượng vừa tức giận vừa buồn cười không nổi nóng được, lại là phải trăm phương ngàn kế.
Giang Sung nhìn Cố Quân một cái, biết y đại khái đã âm thầm chuẩn bị sẵn sàng, An Định hầu từ nhỏ lớn lên trong cung, có mấy người dùng được cũng không ngạc nhiên, chỉ là…
Giang Sung thấp giọng nói: “Hầu gia lần này từ Tây Bắc trở về, đối nhân xử thế tựa hồ giỏi hơn không ít.”
Cố Quân ý tứ sâu xa trả lời: “Hổ lang ở bên ngoài, không dám không hết lòng hết sức, non sông chưa yên, cũng không dám coi thường thân này, tranh những nghĩa khí và nóng giận vô dụng đó cũng vô ích thôi.”
Hai người dăm ba câu trao đổi xong tin tức, Giang Sung cáo từ, trước khi đi hắn đột nhiên đứng lại, nói với Cố Quân: “Nói một câu đại bất kính, một hai năm này, địa phương liên tục báo khôi lỗi trồng trọt được mùa như thế nào, ở đâu lại có hỏa cơ hơi nước có thể tự dệt vải may đồ, nhưng quốc khố lại không thấy đầy lên, đủ loại pháp lệnh như xiềng xích, hạ quan thực sự có ảo giác, giống như sau ngần ấy năm, Đại Lương lại quay về thời Vũ đế rồi.”
Cố Quân cười nói: “Không giấu gì Hàn Thạch huynh, ta một hai năm nay cũng thường xuyên lo âu một cách kỳ lạ, nhưng nghĩ lại cảm thấy vô lý, có thể mọi người là như thế này, luôn yêu cầu ngày càng tốt hơn, một khi tạm thời hơi có đình trệ, cho dù đã thân cư cao vị, cũng sẽ mất mát sốt ruột thôi?”
Giang Sung hơi biến sắc, tựa hồ muốn nói lại thôi.
Cố Quân hỏi: “Sao thế?”
Đại lý tự khanh thấp giọng nói: “Người tra án chúng ta, đôi khi sẽ có một loại trực giác, vô lý do cũng vô căn cứ, nhưng cuối cùng rất có khả năng sẽ ứng nghiệm, càng là người lão đạo thì trực giác càng chuẩn – Hầu gia chinh chiến sa trường, vào sinh ra tử, có thể trực giác của ngài thật sự đã báo trước điều gì… Vạn mong bảo trọng.”
Cố Quân thoáng sửng sốt, không nói thêm nữa, hai người ôm tâm sự nặng nề mà cáo từ rời đi.
Cố Quân quay về hầu phủ thì trời đã tối rồi, hỏi thị vệ, đáp rằng Trường Canh vẫn chưa về, chỉ nhắn lại, nói Liễu Nhiên đại sư đã về Hộ Quốc tự, tính ở bên đó vài hôm.
Cố Quân đành phải nghĩ: “Ở thì ở đi, bớt giận rồi trở về cũng tốt.”
Ai ngờ Trường Canh không biết là “rất thích làm mình làm mẩy” hay là thế nào, mà ở bốn năm ngày liền, có vẻ như muốn an cư lạc nghiệp ở bên đó luôn, Cố Quân tổng cộng ở kinh thành chẳng được bao nhiêu ngày, lần này đi không biết mấy năm mới gặp lại, rốt cuộc không kiềm chế được, đành bịt mũi đến Hộ Quốc tự.
Liễu Nhiên hòa thượng vẫn thế, quanh năm suốt tháng cũng chỉ có mấy ngày trở về Hộ Quốc tự gặp toàn khách quý là chịu tắm rửa thành một gốc phù dung nước trong, mỗi ngày đi khắp nơi giả thần giả quỷ, buổi chiều hôm đó khó khăn lắm mới được rỗi rãi, cùng Trường Canh chơi cờ trong thiền phòng, hai người trò chuyện đều là ra dấu, yên tĩnh không tiếng động, nhưng nói không ít.
Trường Canh: “Ta muốn hỏi đại sư một việc – mắt và thính lực của nghĩa phụ ta rốt cuộc là thế nào?”
Liễu Nhiên nhanh chóng ra dấu trả lời: “Nói sau lưng người ta không có kết cục tốt.”
“Việc này ta nhất định phải biết.” Trường Canh nghiêm mặt nói, “Hơn nữa nhất định sẽ truy tra đến cùng, nếu đại sư không nói, ta cũng sẽ đi tìm người khác.”
Liễu Nhiên hòa thượng chăm chú nhìn y một lát.
Rất lâu sau, Liễu Nhiên hết sức đắn đo dùng ngôn ngữ của người câm trả lời: “Hòa thượng chỉ là bắt gió bắt bóng nghe nói đại khái, Hầu gia hồi nhỏ bị lão Hầu gia và công chúa điện hạ dẫn đến Bắc cương, khi đó chiến sự giữa Đại Lương và Bắc man vốn đã bình ổn, theo lý không nên có nguy hiểm, nào ngờ có một đám tử sĩ Bắc man ngoan cố chống cự, liều cá chết lưới rách xông vào trong trú quân của ta, Hầu gia là bị tên lạc gây thương tích, không khéo đó vừa vặn là độc tiễn của người man.”
Những lời này lại không mưu mà hợp với câu nói lấy lệ của Cố Quân.
Trường Canh truy hỏi: “Độc gì?”
Liễu Nhiên lắc đầu: “Điện hạ sư tòng Trần cô nương, nên biết độc vật của người man ngay cả Trần gia cũng thúc thủ vô sách – độc vật đó rất bá đạo, người trúng độc tiễn này trong vòng vài ngày toàn thân tê liệt mà chết, thế nhưng hiệu quả với trẻ nhỏ lại chậm hơn rất nhiều, năm xưa Trần lão tiên sinh chạy từ Sơn Tây tới vùng trú quân Bắc cương, không ngủ không nghỉ hai ngày một đêm, dùng tuyệt kỹ kim châm của Trần gia giữ mạng lại cho tiểu Hầu gia, song sau đó thị lực và thính lực cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng.”
Trường Canh hơi nhíu mày: “Bắc cương…”
Nếu việc này là do tử sĩ Bắc man làm, câu “họ hủy ngươi như vậy” của Thẩm Dịch lại nên giải thích thế nào?
Chẳng lẽ thật sự chỉ là uống say nói bậy?
Đúng lúc này, một tiểu sa di đột nhiên tiến vào báo: “Vương gia, Liễu Nhiên sư thúc, An Định hầu đến.”
|
Chương 48: Kinh giác
Liễu Nhiên giật mình, tuyệt đối không ngờ An Định hầu sẽ có một ngày đại giá quang lâm Hộ Quốc tự, vội ra hiệu bảo Trường Canh: “An Định hầu không phải giẫm một chút tàn hương cũng cảm thấy xui xẻo à? Hôm nay lão nhân gia xâm nhập hang hổ, trở về liệu có dùng lá ngải tắm tróc một lớp da không?”
Trường Canh không rảnh để ý hắn, trên mặt thoáng qua vẻ mất tự nhiên.
Y vẫn chưa chuẩn bị sẵn sàng đối mặt với Cố Quân khởi binh vấn tội.
Nói tới thì, quỷ xui thần khiến, cả hai đều cho rằng mình say rượu thất đức, phi lễ đối phương, đều tự chột dạ.
Liễu Nhiên lấy làm lạ nhìn Trường Canh – mấy năm nay do phải áp chế Ô Nhĩ Cốt, Trường Canh luyện công phu tĩnh tâm dưỡng khí đến cực hạn, có thể diện bích ngồi thiền hai ba ngày không nhúc nhích, đến cả “cao tăng” Liễu Nhiên này cũng cam bái hạ phong.
Có lúc người đang nôn nóng nhìn thấy đôi mắt y, cũng không tự chủ được an tĩnh theo, bạch y công tử tuấn mỹ vô trù kia ngồi trên bồ đoàn cũ của tăng nhân bần hàn tay cầm vân tử, vốn có loại nhập hóa cảnh u tĩnh cao huyền, nào ngờ đột nhiên bị ba chữ “An Định hầu” khuấy động gợn sóng. (Vân tử là quân cờ vây Giang Nam)
Trường Canh tựa hồ đứng ngồi không yên mà nhúc nhích một chút, tự nhiên giơ tay lên, cũng không biết muốn mò tìm cái gì, giơ nửa chừng phát hiện Liễu Nhiên đang nhìn mình không chớp mắt, lại miễn cưỡng dằn cảm xúc xuống, thấp thỏm đặt trên chén trà, cúi đầu nhấp một ngụm để che giấu.
Dù là Liễu Nhiên đại sư quen giả thần giả quỷ cũng buồn bực, nghĩ bụng: “Sao thế, Hầu gia đến đòi nợ à?”
Cố Quân nhanh chóng tiến vào, khóe mắt chân mày hiện rõ vẻ ghét bỏ, chỉ hận không thể nhón chân đi vào, khinh khỉnh nhìn Liễu Nhiên hòa thượng một cái, ngoài cười trong không cười mà chào hỏi: “Mấy năm không gặp, đại sư trắng trẻo hơn không ít.”
Liễu Nhiên phong phạm đại sư, không thèm chấp nhặt, đứng dậy chắp tay chào, ra dấu: “A di đà Phật, hòa thượng lòng như minh kính đài(1), không đâu dính bụi bặm.”
Té ra không tắm rửa cũng có thể trích dẫn kinh điển!
Cố Quân tựa hồ lại ngửi thấy mùi ôi thiu, không thể nán thêm một khắc ở chốn thị phi này, quay sang bảo Trường Canh: “Ngươi ở đây quấy rầy đại sư thanh tu đã mấy ngày, nên về nhà rồi.”
Tâm thần Trường Canh khó khăn lắm mới yên ổn lại bị hai chữ “về nhà” khuấy động, trong lòng biết cho dù ở lại dưới gốc bồ đề cũng chẳng niệm nổi “sắc tức thị không” nữa, đành phải dẹp yên sự thấp thỏm, vâng lời đứng dậy.
Cố Quân bị sặc đàn hương nồng nặc trong Hộ Quốc tự ho vài tiếng, hỏa tốc rút ra chờ ở ngoài thiền phòng, chán muốn chết mà nhìn Trường Canh cáo biệt Liễu Nhiên.
Kỳ thực giữa thân nhân bằng hữu đôi khi nhìn đối phương quen rồi, sẽ rất khó chú ý tới đối phương là đẹp hay xấu, Cố Quân vẫn biết Trường Canh giống mẫu thân Bắc man hơn, hiện giờ nhìn kỹ mới phát hiện, thì ra cũng không hẳn thế, ngũ quan đã nảy nở tuấn tú ngay ngắn, nhất thời cũng chẳng biết giống ai, chỉ cảm thấy người như mặc ngọc, vui tai vui mắt.
Cố Quân ngẩn ra, nhớ tới trên giang hồ tam giáo cửu lưu hạng người nào cũng có, đặc biệt là từ khi hải vận khai thông, dân phong Đại Lương khá thoáng, nhất là vùng ven bờ Đông Hải, nghe nói nam phong cũng rất thịnh hành, Trường Canh bạch long ngư phục, không có kẻ nào mắt mù trêu chọc chứ?
Thế nên hôm ấy y mới tức giận như vậy?
“Đúng thế,” Cố Quân sáng tỏ, mặc cho mình suy nghĩ lung tung, “Nếu ta cắn Thẩm Quý Bình một phát, hắn nhất định không để bụng, có bản mặt cổ hủ như vậy, căn bản sẽ không nghĩ đến phương diện đó, cắn hắn một phát còn là ta bị thiệt kìa.”
Y càng nghĩ càng cảm thấy có lý, càng nghĩ càng cảm thấy xấu hổ, mau chóng cân nhắc một chút, dứt khoát quyết định giả ngu, thế là điềm nhiên như không hỏi Trường Canh đang đi tới: “Sao nán lại lâu quá vậy, đậu hũ cải trắng của Hộ Quốc tự ngon thế cơ à?”
Trường Canh thấy thần sắc y bình tĩnh, mới hơi yên lòng, trả lời: “Phật âm thức chay có thể tĩnh tâm.”
“Tuổi trẻ nên tiên y nộ mã, cũng đâu có ý định xuất gia làm hòa thượng, thì tĩnh tâm làm gì?” Cố Quân sóng vai đi cùng y, theo thói quen định bá vai, vừa giơ tay lên lại sợ Trường Canh đa tâm, thế là lại im lặng rụt về chắp sau lưng.
Trường Canh thản nhiên nói: “Từng cân nhắc.”
Y từng nghĩ tới, kết thúc trần duyên tam thiên bước vào cửa Phật, chưa biết chừng một bụng vọng niệm cũng bị Phật pháp vô biên trừ hết.
“Cái gì?” Cố Quân dừng bước, mới đầu chưa kịp phản ứng, ngẩn người, hỏi với vẻ khó tin, “… Ngươi nói xuất gia?”
Trường Canh hiếm khi nhìn thấy vẻ kinh ngạc trên mặt y, cười nói: “Chỉ là nghĩ thôi, không dám đi thật đâu ạ.”
Cố Quân nghĩ bụng: “Nói nhảm, nếu ngươi mà dám, ta đập gãy chân ngươi.”
Nhưng Trường Canh hiện giờ đã không còn là nghĩa tử nho nhỏ không nơi nương tựa được y che chở trong hầu phủ, sau khi đội mũ thừa tước Quận vương, vẫn gọi y một tiếng “nghĩa phụ”, đó là tình cảm không phải danh phận, Cố Quân rốt cuộc không tiện giáo huấn như con ruột, nên không nói câu đó ra miệng.
Y hơi sầm mặt đi, hỏi: “Vì sao?”
Trường Canh nho nhã lễ độ chào tiểu sa di đi tới trước mặt, thủng thỉnh trả lời: “Con từ thời thiếu niên đã nhìn chữ thế bất khả tị trong phòng nghĩa phụ mà lớn lên, sau lại theo sư phụ đi khắp sơn xuyên, thế đạo gian nguy chẳng qua chỉ mới thử một chút, há dám trốn tránh từ đây? Thân này sinh ra trên thế gian, mặc dù trời sinh tư chất có hạn, vị tất có thể lập công thiên thu bất thế như tiên hiền, nhưng tốt xấu gì cũng không thể thẹn với thiên địa bản thân…”
… Và người.
Hai chữ cuối cùng Trường Canh giấu trong lòng, không nói ra.
Năm đó Tú Nương lôi y sau ngựa, không thể giết chết y, Ô Nhĩ Cốt quấn thân, đến bây giờ chưa thể khiến y phát điên – đôi khi Trường Canh cảm thấy, chỉ có đương đầu với sóng gió không ngừng đi ngược dòng, đi đến một nơi mà mình có thể tôn trọng mình, có lẽ mới xứng đôi với tiểu nghĩa phụ nửa đêm tỉnh mộng thường nghĩ về.
Cố Quân thần sắc hơi nguôi giận, nhưng vẫn không vui hỏi: “Vậy ngươi cứ chui vào chỗ đám hòa thượng làm gì?”
Trường Canh thuận miệng đáp lấy lệ: “Tìm Liễu Nhiên đại sư uống trà, con có lúc tâm hỏa quá vượng dễ ngủ không ngon – không phải Trần cô nương còn cho con an thần tán sao? Con bỏ vào hà bao rồi, nhưng mấy hôm nay đột nhiên tìm không ra.”
Cố Quân thoáng cái câm luôn.
Trường Canh: “Cũng không biết đánh rơi ở đâu rồi.”
Cố Quân mặt mày tái xanh – có người thật là toàn đi nhắc chuyện không nên nhắc.
Cố đại soái im lặng một lúc trong sự giày vò của lương tâm, sau cùng vẫn lấy cái túi thơm nhỏ bằng da trâu cất trong lòng, không nói một lời đưa cho Trường Canh: “Đây.”
Trường Canh: “…”
Sự kinh hãi này tới quá bất ngờ, Trường Canh không cẩn thận mua dây buộc mình suýt nữa cắn lưỡi, Nhạn Bắc vương vừa rồi còn nhất phái phong phạm cao nhân “đi khắp sơn xuyên” tức khắc rịn mồ hôi ướt lòng bàn tay, lắp bắp: “Sao, sao lại ở chỗ nghĩa phụ?”
Cố đại soái da mặt thiên chùy bách luyện tỉnh rụi lấp liếm: “Không biết làm sao mà rớt lên giường ta, có lẽ là hôm ấy ta uống say, không cẩn thận lôi xuống thôi.”
Trường Canh kinh hồn táng đảm nhìn y.
Cố Quân trơ trẽn làm bộ vô tội: “Sao vậy?”
Trường Canh vội lắc đầu, trong lòng thở phào nhẹ nhõm, biết việc này xem như đã qua, sau này vẫn có thể thản nhiên thân mật ở bên nhau như ngày trước. Song đồng thời, y lại khó tránh khỏi có chút mất mát giấu kín.
Cố Quân thấy thần sắc y khác thường, cho rằng Trường Canh còn để ý, liền hỏi với giọng hơi lấy lòng: “Hai hôm trước ta quên nói với ngươi, Hoàng thượng muốn cho ngươi vào triều nghe chính sự, ngươi muốn nhận chức gì? Để ta nghĩ cách cho.”
Trường Canh mau chóng thu tâm thần lại, nghiêm túc nói: “Lục bộ có phạm vi thế lực của riêng mình, con không tiện đi vào xáo trộn, mấy năm nay văn không thành võ không tựu, lại nhàn tản quen rồi, Hoàng thượng thực sự để con nghe chính sự, thì con cứ nghe là được rồi – hay là cho con đi theo Giang đại nhân của Đại lý tự tra án cũng được.”
Cố Quân không biết đây có phải là đáp án trong lòng Trường Canh nghĩ hay không, nhưng nhất định là Hoàng thượng muốn nghe, nhất thời hơi đau lòng, không muốn đưa Trường Canh đến chỗ Hoàng đế Long An để khuất tài bị khinh thường.
Nhưng điều đó là không thể, y họ Lý, dẫu tương lai làm một Vương gia nhàn tản phong hoa tuyết nguyệt, cũng không thể cả đời trốn trong phủ An Định hầu.
“Muốn đến Đại lý tự có thể chờ thêm một thời gian, gần đây chưa nên đi,” Cố Quân nói, “Gần đây Hoàng thượng muốn điều tra chợ đen tử lưu kim, chỗ Giang đại nhân sứt đầu mẻ trán, đã đủ rối loạn rồi, ngươi đừng xen vào, đừng kéo cả Lâm Uyên các vào nữa.”
Trường Canh “À” một tiếng, không hề bất ngờ với tin tức này: “Nhanh thế cơ à? Hoàng thượng quả nhiên chờ không nổi, hôm trước con còn đang nghĩ Hoàng thượng chuẩn bị khi nào thì trùng khải dung kim lệnh.”
Cố Quân: “Làm sao ngươi biết?”
“Con đoán,” Trời bắt đầu đổ tuyết nhẹ, Trường Canh thuận tay cầm một cây ô ở cửa tăng xá, ô nhỏ, Trường Canh lại liên tục đẩy nó về phía Cố Quân, không bao lâu, bả vai thò ra ngoài liền phủ một tầng bông tuyết mỏng, y cũng chẳng buồn phủi, vẫn đi không nhanh không chậm, như hơi hưởng thụ, “Kỳ thực cũng không thể coi là đoán, nghĩa phụ nghĩ xem, Hoàng thượng, tiên đế, thậm chí Vũ đế – họ mặc dù có sự anh minh thần võ của riêng mình, nhưng trên tử lưu kim đều như nhau, coi thứ này là họa lớn trong lòng.”
Cố Quân vẫn luôn coi y là hậu bối, lần đầu sóng vai đi bên nhau, nghe cách nghĩ của y, cảm thấy có chút mới mẻ, thế nên chỉ lắng nghe chứ không xen vào.
“Con hồi nhỏ ở Nhạn Hồi trấn, từng tận mắt thấy triều đình vì tử lưu kim mà hao người tốn của, mấy năm nay cũng liên tục suy nghĩ, tại sao nhất định phải quản chế nghiêm hơn? Nếu mọi người đều có thể tùy ý mua bán tử lưu kim như mua lương thực vải vóc, chẳng phải cũng không còn chợ đen à?” Trường Canh lắc đầu, “Sau mới biết điều đó là không thể, nói một câu đại nghịch bất đạo, bất kể ai làm Hoàng đế, là hôn hay minh, là văn nhược hay hiếu võ, đều không thể cho phép dân gian giao dịch tử lưu kim, nếu không từ nay về sau, đại thương hộ, người Tây Dương, man di, thậm chí quan viên nắm giữ một phần tài nguyên, tặc nhân làm xằng làm bậy… mỗi người đều cầm một thanh đao trên tay.”
Cố Quân: “Giống mấy tên thổ phỉ Nam Cương kia.”
“Không sai,” Trường Canh nói tiếp, “Đây mới chỉ là chợ đen, chỉ là thổ phỉ, chỉ là mấy bè phái Nam Cương nho nhỏ, nếu mở rộng đến toàn cảnh Đại Lương thì sao? Nếu mỗi người có ‘đao’ trong tay? Triều đình không thể lo hết lợi ích của mọi người, đến lúc đó tất nhiên dẹp được việc này lại ra việc khác, sẽ bị chế bởi thanh ‘đao lớn nhất’ kia, như vậy mỗi người đều muốn cầm thanh bảo đao Đồ Long này, họ sẽ vô pháp vô thiên đấu đá thôn tính nhau, như dưỡng cổ vậy, chờ cổ vương xuất đầu, giang sơn sẽ là của nhà ai?” (Bảo đao Đồ Long là thanh đao trong Ỷ Thiên Đồ Long ký của Kim Dung)
Cố Quân nhíu mày: “Trường Canh, những lời này ta nghe thì thôi, không được nói với người khác – thế theo ý ngươi, trùng khải dung kim lệnh là buộc phải làm sao?”
“Cũng không phải, kỳ thực tốt nhất là tiếp tục sự quản chế không lỏng không chặt với tử lưu kim, ổn định rồi, giải quyết vấn đề tiền bạc khẩn cấp trước đã – từ khi phát triển khôi lỗi trồng trọt, mỗi năm rất nhiều lương thực sản xuất ra đều để mọt trong kho, giá gạo ngày càng rẻ, đồn lương cũng đổi thành trữ vàng bạc, tổng cộng vài đồng bạc như vậy, tích hết vào kho, quốc khố dĩ nhiên chẳng sung túc nổi. Bạc không thể tự nhiên biến ra, gia tăng đúc tiền hiện tại cũng là nước xa không cứu được lửa gần, chỉ có thể dựa vào người Tây Dương, một khi con đường tơ lụa hoàn toàn thông, nghĩa phụ là công thần bất thế, bình hàng trăm vụ phản loạn cũng chẳng bằng.”
“Có tiền rồi, chẳng khác nào nhà có xà, người có chủ kiến, đến lúc đó lại dùng lửa nhỏ hầm từ từ, từng chút một điều chỉnh nội chính, vấn đề tuy luôn có, song sự thái không đến mức bị kích hóa, giữ được trăm năm quốc thái dân an, vững vàng quá độ một hai đời, có lẽ sẽ tìm được một đường ra.” Trường Canh nói đến đây, thoáng thở dài, “Đáng tiếc trong vòng vài năm hai cuộc phản loạn đều liên quan đến chợ đen, Hoàng thượng phản ứng gay gắt là quá bình thường – cho nên con vẫn hoài nghi chuyện Đông Hải và Nam Cương không hề là tình cờ, đang mượn lực lượng Lâm Uyên các truy tra, vừa mới thấp thoáng tìm được một tuyến, nhưng chúng quá giảo hoạt, nghĩa phụ, người nhất định phải cẩn thận.”
Cố Quân nghe xong một lúc lâu không lên tiếng, trên mặt cũng không nhận ra là hỉ hay nộ, Trường Canh không làm ồn, chậm rãi cùng y ra khỏi Hộ Quốc tự, tiếng trống chiều trong tự vang lên, vang vọng trên núi, xa gần không một bóng quạ, sơn tuyết im lặng rơi.
Chung Thiền lão tướng quân có khả năng định quốc an bang, nhưng chẳng dạy nổi khanh tướng chi tài trị quốc an thiên hạ, trong lòng Cố Quân lần đầu tiên trỗi lên sự tiếc nuối vô cùng, thầm nghĩ: “Tại sao y phải mang họ Lý kia chứ?”
Nếu y không mang họ Lý, khoa cử nhập sĩ tất nhiên dễ như trở bàn tay, nói không chừng sớm đã một bước lên mây, tương lai có thể thành một danh thần trung hưng, mà không phải vài câu ít ỏi chỉ nói cho mình nghe trong ngôi chùa lụp xụp này, bày tỏ bản thân chỉ muốn làm một Vương gia nhàn tản như bình hoa bài trí.
… Đều là mệnh.
Trường Canh: “Thời tiết không tốt, nghĩa phụ mặc mỏng, trở về đừng cưỡi ngựa, ngồi xe của con đi.”
Cố Quân đang thất thần, chợt nghe y lên tiếng, liền đột ngột nghiêng đầu, nào ngờ không kịp đề phòng gặp ánh mắt Trường Canh. Trong lòng Cố Quân bỗng nhiên “bộp” một phát, trước kia chưa bao giờ chú ý ánh mắt Trường Canh nhìn mình lại là như thế, đôi mắt ấy chuyên chú cực kỳ, hơi ánh một chút tuyết quang, như muốn chứa trọn cả người mình vào vậy.
Trường Canh thoạt đầu kinh ngạc, sau đó nhanh chóng nhìn đi chỗ khác, giấu đầu hở đuôi cúi đầu giũ giũ tay áo, tay áo y đã ướt, dính bết lên tay, Cố Quân lúc này mới phát hiện, nửa đầu vai Trường Canh đã bị tuyết phủ một lớp nước lạnh băng, nhưng y chẳng những không lên tiếng, còn chậm rãi tản bộ với mình.
Cố Quân đưa tay sờ thử thấy lạnh ngắt: “Ngươi…”
Y giơ tay như vậy, Trường Canh lập tức hơi căng thẳng, tuy chỉ là một tích tắc, song rốt cuộc không thể tránh được ánh mắt Cố Quân.
Cố Quân lúc riêng tư có chút không câu nệ tiểu tiết – cũng chính là vô tâm vô phế, mấy việc nhỏ nhặt rất ít lưu ý tới, thế nhưng sự xấu hổ sau đợt say rượu hôm ấy vẫn còn đây, khiến y không tự chủ được hơi mẫn cảm.
“Ảo giác sao?” Cố Quân kinh nghi bất định nghĩ thế, lên ngồi trên xe ngựa.
Trên xe đã đốt sẵn lò sưởi, Cố Quân liền dựa thành xe nhắm mắt nghỉ ngơi, trong lúc nửa ngủ nửa tỉnh, đột nhiên cảm giác được có người tới gần, y không mở mắt, sau đó cảm thấy Trường Canh đắp một tấm chăn mỏng lên người mình, nhẹ tựa một sợi lông vũ, giống như sợ đánh thức y – Thẩm Dịch trước nay toàn ném thẳng lên người y, dù là thân binh chu đáo nhất cũng không có động tác dịu dàng gần như che chở thế này.
Cố Quân lập tức chẳng còn buồn ngủ, vất vả nhắm mắt tiếp tục làm bộ, không dám nhúc nhích tẹo nào, cổ cứng đờ ra, luôn cảm thấy có đôi mắt đang dõi theo mình.
Trên đời đại khái không tâm sự nào có thể giấu đến thiên y vô phùng, chỉ là thiếu một chút thể nghiệm và quan sát cẩn thận tỉ mỉ thôi.
Sợi tơ trong lòng Cố Quân lặng lẽ căng lên, kế tiếp y không tự chủ được âm thầm quan sát Trường Canh, sau vài ngày, chẳng những không xua tan sự nghi ngờ lạ lùng, ngược lại càng cảm thấy kinh hồn táng đảm.
Ngoài việc này ra, y còn phải vừa lo nghĩ dung kim lệnh và Hoàng thượng tấn công chợ đen tử lưu kim, vừa vòng đường cứu Phụng Hàm công người cứng đầu bậc nhất Linh Xu viện, quả thực tâm lực đều mệt mỏi, khổ không tả nổi.
Hai mươi ba tháng Giêng, Cố Quân ở kinh giao tiễn Thẩm Dịch đến Tây Nam nhậm chức.
Hai mươi lăm tháng Giêng, Hoàng thượng đến ngự hoa viên, không biết làm sao mà long liễn nửa đường bị hỏng, nội thị vô tình nói một câu, khiến Hoàng thượng nhớ tới chuyện Phụng Hàm công quỳ dưới đất chạy thử long liễn hơi nước cho mình, lửa giận trong lòng liền tiêu quá nửa, dò la một chút, nghe nói lão đầu chỉ có một mình, mấy bữa nay hạ ngục, trừ các học trò Linh Xu viện đến thăm, ngay cả người nhà đưa cơm cũng không có. Hoàng thượng vừa vặn tâm trạng không tệ, nghe thế lại thấy hơi tội nghiệp lão già đó, liền thở dài, sai người thả Trương Phụng Hàm, chỉ phạt bổng nửa năm xem như trừng phạt, việc này coi như qua.
Giải quyết xong hai việc này, Cố Quân liền cảm thấy kinh thành này một ngày cũng không nán lại nổi nữa, lập tức dâng tấu xin quay về Lâu Lan.
Y quả thật cũng nên đi rồi, Hoàng thượng không có dị nghị gì, phê luôn hôm ấy.
Trước hôm đi, đêm đã khuya, Cố Quân mới uống thuốc xong đi nằm, mặc dù Trường Canh đã châm cứu một lúc cho y, nhưng dù sao chỉ làm giảm bớt, chứ không thể trị tận gốc chứng đau đầu, đương khi y trằn trọc khó ngủ, trong cung đột nhiên có người tới, truyền An Định hầu vào cung gặp thánh ngay trong đêm.
Không biết là tác dụng của dược vật hay là thế nào, mí mắt Cố Quân đột nhiên giật giật.
—
Minh kính đài tức đài trang điểm, đài trang điểm luôn được lau chùi sạch sẽ, do thường đặt gương ở đây mới có tên này. Sau vì một điển cố mà thành cách gọi khác của Phật tính
|
Chương 49: Chống đối
Cố Quân vội vàng dậy mặc quần áo, vừa ra khỏi phòng, lại kinh ngạc phát hiện Trường Canh đang ở gian ngoài, vậy mà không ngủ, tựa hồ cũng vừa mặc thêm áo ngoài, tay cầm một ngọn đèn măng-sông bỏ túi to bằng hạt đậu, trên đầu gối còn một quyển sách xem một nửa.
Gian ngoài thông thường là nơi bọn hạ nhân hầu hạ ban đêm ngủ lại, Cố Quân đơn giản quen, không để lại người canh đêm, chỉ có lão quản gia nửa đầu đêm thi thoảng tới, thêm lửa thêm than cho trong phòng.
“Trường Canh?” Cố Quân ngạc nhiên nói, “Sao ngươi ở đây? Ta tưởng Vương bá…”
Trường Canh: “Con chờ người ngủ rồi lại đi.”
“Ngươi đường đường Quận vương ngọc điệp,” Cố Quân nhíu mày, ẩn ý nói, “Hạ mình ở nơi của hạ nhân, còn ra thể thống gì nữa?”
“Hư danh mà thôi, còn không tự tại bằng làm hạ nhân cho nghĩa phụ,” Trường Canh nhàn nhạt nói, đứng lên lấy cái ấm nhỏ trên noãn lô đỏ rực, rót một chén trà thuốc đưa cho Cố Quân, “Vào cung ạ? Nếu người không chịu mặc áo lông, ít nhất phải uống một ít trước cho ấm.”
Cố Quân: “…”
Trong lòng y rất đỗi phiền muộn, cưới vợ chắc cũng chẳng chu đáo bằng Trường Canh, ý nghĩ này vừa sinh ra, y liền tự tát mình một cái ở trong lòng, thầm nghĩ: “Khốn nạn, tẩu hỏa nhập ma rồi à?”
Cố Quân nhận chén trà thuốc kia uống một hơi cạn sạch, lúc trả chén ngón tay hai người không cẩn thận chạm phải nhau, Trường Canh rụt phắt về như bị kim đâm, lập tức lại điềm nhiên như không quay người bỏ ấm xuống chỗ cũ.
Cố Quân nhìn bóng lưng y, ánh mắt hơi tối đi, nghĩ thầm: “Không thể tiếp tục như vậy được, chờ vào cung trở về, vô luận thế nào ta cũng phải thẳng thắn nói chuyện với y.”
Bên ngoài cung nhân đang thúc giục, Cố Quân không tiện trì hoãn thêm, chỉ đành vội vàng đi theo.
Tháng Giêng đêm khuya sương giá, cái đầu vốn hơi xây xẩm của Cố Quân bị gió lạnh thổi, tỉnh táo lại như vừa châm cứu vậy.
Nội thị dẫn đường đầu cũng không dám ngẩng lên, đi dưới tường cung, vài ba bước lại có một trạm canh gác gắn đầy nỏ kỳ lân, đều là đầu thú chỉnh tề, mặt mũi dữ tợn, trong răng nanh u u bốc khói trắng, bánh răng ở cổ chậm rãi chuyển động, phát ra tiếng ma sát như gầm rú, làm tường son ngói lưu ly trước mắt càng uy nghiêm đến không thể nhìn gần.
Đèn cung đình vĩ đại đu đưa trên không, mông lung phủ một tầng khí mù mịt, không thấy tiên khí, ngược lại âm trầm như có quỷ khí vậy.
Chúc Chân Nhỏ nội thị hầu hạ cận thân Hoàng đế Long An dẫn mấy người từ Tây noãn các đi ra, vừa vặn chạm mặt Cố Quân, đó là mấy người Tây Dương, người cầm đầu tóc bạc trắng, cao gầy vàng võ, ngũ quan cực giống ưng săn mồi, có ánh mắt bức người, sống mũi cao thẳng mà khoằm, cơ hồ không nhìn thấy môi, chỉ có một đường nhỏ như vết đao.
Chúc Chân Nhỏ vội tiến lên một bước, thi lễ nói với Cố Quân: “Hầu gia – mấy vị này là sứ giả do Giáo hoàng đại nhân phương Tây phái tới.”
Nam tử tóc bạc ngắm nghía Cố Quân, mở miệng hỏi: “Vị này chẳng lẽ chính là An Định hầu các hạ sao?”
Cố Quân bị bám một lớp tuyết mỏng trên lông mi, cả người phủ một tầng hàn ý, lãnh đạm chắp tay.
Nam tử tóc bạc trái lại hết sức trịnh trọng đặt tay trước ngực, khom người nói: “Không ngờ An Định hầu là người trẻ tuổi anh tuấn như thế này, hạnh ngộ.”
Cố Quân: “Quá khen!”
Hai tốp người đi lướt qua nhau, chờ người Tây Dương đi xa rồi, Cố Quân mới nhìn Chúc Chân Nhỏ một cái.
Chúc Chân Nhỏ nháy mắt nói: “Mấy tên mũi lõ ban nãy không biết nói gì với bệ hạ, mà bệ hạ lần này hưng trí rất cao, luôn miệng bảo họ đi mời Hầu gia đến, Hầu gia yên tâm, không phải chuyện xấu đâu.”
Lão thái giám này tiếng xấu vang khắp thiên hạ, là một lộng thần nịnh hót danh xứng với thực, nhưng quan hệ với Cố Quân cũng được, coi như là nhìn Cố Quân lớn lên, có một lần không biết hắn chọc giận gì tiên đế, vừa vặn Cố Quân bắt gặp, thuận tiện nói giúp vài câu, giữ cho hắn cái mạng nhỏ.
Chúc Chân Nhỏ mặc dù nhân phẩm tệ hại, nhưng bất ngờ là tri ân báo đáp, vẫn ghi nhớ chút ân nghĩa này, chuyện cứu Trương Phụng Hàm vài hôm trước, cũng là nhờ hắn ở bên trong giúp đỡ một chút.
Song hắn vừa nói như vậy, Cố Quân ngược lại không dám yên tâm.
Nếu Hoàng thượng không vui lắm, trong lòng y đại khái còn nắm được một chút – quá nửa là có người tố tội y từng tự mình mua tử lưu kim từ chợ đen.
Tố thì tố, dù sao Cố Quân đã cho người xử lý sạch sẽ, không có bằng chứng, cùng lắm là đánh trận bằng miệng một phen… Nhưng Hoàng thượng “hưng trí rất cao” lại là thế nào?
Mí mắt Cố Quân giật càng nhanh hơn.
Lúc y đi vào, Lý Phong đang cúi đầu xem một phong tấu chương. Hoàng đế Long An dưới đèn quả thật không được khí vũ hiên ngang cho lắm, còn tiều tụy hơn Cố Quân vừa đau đầu vài phần, không đợi y làm lễ chào hỏi, Lý Phong đã khoát tay, vui vẻ nói: “Nơi này đâu có người ngoài, hoàng thúc không cần đa lễ với ta.”
Lý Phong lại quay sang Chúc Chân Nhỏ: “Đi hỏi xem canh sâm lúc tối còn không, bưng một bát cho hoàng thúc làm ấm tay.”
“Vô sự mà nịnh bợ,” Cố Quân than thầm trong bụng, “Không gian thì đạo mà.”
Lý Phong không biết trong lòng y nghĩ gì về mình, thần sắc khá thoải mái hỏi: “Ta nhớ lần trước hoàng thúc từng nói, tử lưu kim của phản tặc Phó Chí Thành một phần là đến từ Nam Dương?”
Cố Quân: “Vâng, thứ cho thần vô năng, không thể điều tra rõ nguồn gốc của số tử lưu kim này.”
Lý Phong không lấy làm giận: “Không sao, đám phản tặc đó đều rất gian xảo, hoàng thúc không quen địa hình, trong lúc vội vã có thể đại phá mật đạo tặc nhân, nhất cử bắt gọn bọn chúng, đã là công lớn rồi, nếu ngươi cũng tự xưng vô năng, cả triều văn võ chẳng phải bỏ đi hết?”
Cố Quân không rõ trong hồ lô của hắn bán thứ thuốc gì, vội nói không dám.
“Chợ đen tử lưu kim trong nước thật sự quá hung hăng ngang ngược,” Lý Phong đổi giọng, nhanh chóng nói đến chính đề, “Trẫm gần đây đang phái người cải trang điều tra, phát hiện một phần rất lớn nguồn cung cấp lại đều đến từ ngoài nước.”
Cố Quân vừa nghe là hiểu, đám quan lại tuồn hàng ra ngoài đại khái đã thông qua các con đường nhận được tin tức, lần lượt án binh trông chừng, bọn Giang Sung tra được đều là đám tép riu lén đào mỏ, liền không tiếp lời.
Lý Phong: “Hoàng thúc thường đi lại vùng biên cương, kiến thức nhiều hơn những kẻ ếch ngồi đáy giếng cả ngày ở kinh thành như chúng ta, có biết bọn đào lén quặng này bình thường hay ẩn hiện ở nơi nào không?”
Cố Quân: “Bẩm Hoàng thượng, bình thường đều ở trên thảo nguyên của người Bắc man.”
“Không sai,” Lý Phong nở nụ cười, “Chỉ là chưa nói hết – hoàng thúc mau đến xem cái này.”
Cố Quân do dự nhận mật tấu Lý Phong ném cho, đọc lướt rất nhanh, trong đầu tức khắc “Uỳnh” một tiếng.
Chỉ thấy mật tấu kia liệt ra tỉ mỉ mấy tuyến đường đào quặng buôn bán tử lưu kim, hầu hết Cố Quân đều nắm được, chỉ trừ dòng cuối cùng – trên đó viết rõ “Lâu Lan quốc”.
Sao lại có Lâu Lan được?
Cố Quân ở Huyền Thiết doanh lối vào con đường tơ lụa đóng quân ngay cạnh Lâu Lan quốc, chưa bao giờ nghe nói trong nhà đám ngốc chỉ biết uống rượu ca hát kia có tử lưu kim…
Mật tấu này từ đâu tới?
Mật sứ dâng tấu có mục đích gì?
Lý Phong: “Thế nào?”
Trong lòng Cố Quân chớp mắt lướt qua vô số ý nghĩ, mồ hôi lạnh sắp túa ra: “Hoàng thượng, Huyền Thiết doanh làm láng giềng với Lâu Lan quốc nhiều năm, chưa từng biết ở Lâu Lan quốc có quặng tử lưu kim, thứ cho thần thất lễ, xin hỏi tấu này là do ai trình lên? Có căn cứ gì?”
“Ôi, sao hoàng thúc còn đa tâm thế,” Lý Phong cười nói, “Trẫm đâu nói ngươi có liên hệ với bọn đạo tặc đào trộm mỏ, nhưng việc này ngươi không biết cũng không lạ.”
Cố Quân hít sâu một hơi, miễn cưỡng kiềm chế, ra vẻ rửa tai lắng nghe.
Lý Phong: “Chuyện này kể ra dài lắm, tháng Chín năm ngoái hoàng thúc dẫn người đến Nam Cương, lúc ngươi vắng mặt, Lâu Lan quốc cầu viện tướng sĩ Huyền Thiết doanh lưu thủ, muốn vây tiễu một bọn sa phỉ, lúc ấy tham tướng Khưu Văn Sơn phái binh đến, sau đó giành được toàn thắng, bắt giết sa phỉ trên dưới một trăm tên, còn cứu một nhóm khách thương Thiên Trúc bị sa phỉ bắt giữ. Do nhóm khách thương này có văn điệp thông quan của Đại Lương ta, Khưu tướng quân liền hộ tống họ đến trạm dịch Tây khẩu – không ngờ trạm dịch lại phát hiện văn điệp của đám thương nhân này là giả.”
Lý Phong tâm tình vô cùng tốt, nói đến đây cố ý dừng lại như để gây tò mò, nào ngờ quay đầu lại chỉ thấy Cố Quân lắng nghe với thần sắc nghiêm trọng lạ thường, không hề định truy hỏi, Hoàng đế cũng không khỏi hơi bực mình.
Hắn đành phải mất vui tiếp tục: “Theo luật, kẻ ngụy tạo văn điệp thông quan nên chuyển giao cho đô hộ sở điều tra xử trí, Tây Bắc đô hộ tra mới biết, thì ra mấy người Thiên Trúc này không phải thương đội, mà là một bọn ‘kim đấu tử’ trên chợ đen tử lưu kim!”
“Kim đấu tử” chính là hạng vong mạng buôn lậu tử lưu kim.
“Cũng vừa đúng lúc, mật sứ của trẫm mới đến Tây Vực, chân chưa đặt xuống, bọn ‘kim đấu tử’ này đã đâm đầu vào tay. Theo bọn tặc nhân này khai, chúng vốn hoạt động trong quặng lậu ở ngoài Bắc đại quan, gần đây mới có một tấm ‘tàng bảo đồ’, chỉ ra dưới lòng đất Lâu Lan quốc có hàng loạt quặng tử lưu kim, bèn đến thử vận may. Ngươi nói chuyện này có kỳ lạ không, trẫm lại biết rõ dưới lòng đất chỗ họ có cái gì trước cả chính người Lâu Lan.”
Cố Quân chợt nhớ tới bọn sa phỉ bắt được bốn năm trước, lông tơ dựng hết lên.
Đám sa phỉ ấy sớm đã bị y và Thẩm Dịch bí mật diệt khẩu, sau đó Cố Quân không chỉ một lần phái người ngầm điều tra Lâu Lan quốc, không tìm được cái gọi là “quặng tử lưu kim”, cũng không đụng trúng chuyện tương tự nữa.
Nào ngờ qua vài năm, ngay khi việc này dần dần bị y lãng quên, nó lại bị lật ra với hình thế này!
Hơn nữa… Tại sao người hạ lệnh xuất binh là Khưu Văn Sơn?
Khưu Văn Sơn là một vị tham tướng chủ quản bố phòng của Huyền Thiết doanh, chưa từng tiếp xúc với chuyện thương lộ, nếu không thay bằng một người có kinh nghiệm, trong tình huống chưa xác minh văn điệp thật giả, quyết sẽ không trực tiếp chuyển giao người đến đô hộ sở Tây Bắc – đô hộ sở Tây Bắc trực thuộc trung ương, một khi chuyển giao, Huyền Thiết doanh sẽ không có quyền can dự vào công việc tiếp sau đó.
Cố Quân dẫn Thẩm Dịch đi, nhưng đốc kỵ của tam đại doanh đều còn đó, lúc ấy mọi người đã đi đâu hết?
Cố Quân: “Thần cả gan hỏi bệ hạ, chuyện sa phỉ xâm lấn là khi nào?”
Lý Phong nói: “Cuối năm ngoái, sao thế?”
Cố Quân miễn cưỡng nở nụ cười: “Không có gì, chỉ là thần thấy hơi lạ, Tây Vực sa phỉ quét sạch đã lâu, vì sao lại đột nhiên chui đầu ra?”
Đầu y càng đau hơn, giống như sức thuốc bị Trường Canh dùng châm cứu áp chế lại trỗi lên – đúng rồi, cuối năm trên lối vào con đường tơ lụa có họp chợ của vạn quốc, Huyền Thiết doanh phải tăng phái nhân thủ hộ vệ, cống hàng năm của Bắc cương qua Tây Bắc vận chuyển đến đế đô, thông thường cũng sẽ điều tạm một phần huyền kỵ… Thế nên mọi người đều bị phái đi hết.
Vì sao lại đúng vào lúc này?
Vì sao đô hộ sở Tây Bắc mới vừa tra ra “kim đấu tử”, mật sứ của Hoàng đế Long An đã đến liền, khiến ngay cả đường xoay xở cũng không có?
Hơn nữa, đủ các chuyện trong đây, vì sao trước đó y không nhận được một chút tin tức?
Đầu óc Cố Quân nhất thời hỗn loạn, trong noãn các bốn mùa như xuân chợt hơi ngột ngạt.
Lý Phong nói: “Sa phỉ Tây Vực bình thường loanh quanh ngoài Đại Lương, các ngươi không nhận được cầu viện cũng không tiện xuất binh, quả thật không dễ xử lý. Trẫm hôm nay đặc ý tìm hoàng thúc đến, không phải muốn hỏi bên kia có bao nhiêu sa phỉ, mà là muốn giao cho hoàng thúc một việc quan trọng.”
Cố Quân ngẩng đầu lên nhìn hắn.
Lý Phong ánh mắt như lửa: “Mật sứ của trẫm hiện tại đã cải trang xâm nhập cảnh nội Lâu Lan, chỉ sợ tám chín phần mười là dưới lòng đất Lâu Lan quả thực có một quặng tử lưu kim hiếm thấy… Hoàng thúc hiểu ý trẫm chứ?”
Lòng Cố Quân từ từ chùng xuống, y ngắt từng chữ nói: “Thứ cho thần ngu dốt, xin Hoàng thượng chỉ rõ.”
Lý Phong vỗ vai y, người Cố Quân phảng phất vĩnh viễn không ấm nổi, tùy lúc tùy nơi đều như một tảng đá đông lạnh ba ngày trong hàn băng.
“Ta nói thật lòng với hoàng thúc, trước mắt Đại Lương loạn trong giặc ngoài, hoàng thúc biết đấy,” Lý Phong thở dài nói, “Trẫm rất lo lắng, nửa đêm tỉnh mộng không nơi để kể, trên người đè một giang sơn như vậy thực không dễ dàng gì.”
Cố Quân cẩn thận cân nhắc từ ngữ một chút, uyển chuyển nói: “Hoàng thượng trăm công nghìn việc, là niềm hi vọng của vạn dân, nhất thiết phải bảo trọng long thể. Thần không rành chính vụ, nhưng mấy năm nay nhìn con đường tơ lụa từ từ kiến thành, mỗi năm đều sục sôi hơn, đại thương nhân Tây Bắc cũng bắt đầu đi ra ngoài, bách tính Trung Nguyên xưa nay cần cù thật thà, thần nghĩ chẳng qua dăm ba năm, sự phồn hoa này có thể lan rộng ra toàn cảnh Đại Lương, đến lúc đó…”
Y nói khéo léo, nhưng Lý Phong không ngu, đương nhiên hiểu y muốn cự tuyệt.
Hoàng đế Long An vốn hưng trí cực cao triệu Cố Quân tới, nào ngờ y ngay cả một câu xu nịnh cũng không có, mở miệng hắt ngay một chậu nước lạnh.
“Cố khanh,” Lý Phong đột nhiên thay đổi xưng hô, không khách khí cắt ngang, “Ngươi quả thật không rành chính vụ. Thương lộ thông thương qua lại, mấy năm nay đúng là kiếm được tiền, nhưng ngươi có thể cam đoan sẽ tiếp tục như vậy mãi sao? Chuyện của dân buôn bán, ngươi nói rõ được à? Trẫm trái lại không biết, An Định hầu ngoại trừ có thể ra trận giết địch, còn hiểu đạo lui tới trên thương thị.”
Cố Quân biết, nghe thấy hai chữ “Cố khanh”, y nên lập tức câm miệng lĩnh chỉ, đi làm việc cần làm.
Y nhất thời trầm mặc, ngọn đèn măng-sông phía sau Hoàng đế không biết cớ làm sao, đột nhiên hỏa lực bất ổn bùng lên một chút, “tách” một tiếng nhỏ.
Cố Quân nghĩ, độ trước hình như mình còn thề thốt với Giang đại nhân là “không dám coi thường thân này”.
Lý Phong day ấn đường, dằn cơn giận xuống, tìm lối thoát cho cả hai, gượng gạo nói: “Thôi, ngươi về nghỉ ngơi trước đi, việc này trẫm giao cho ngươi, trở về hãy nghĩ kỹ, hiện giờ chưa vào xuân, Tây Bắc trời lạnh đất đông, ái khanh không cần vội vã về đó…”
“Hoàng thượng.” Cố Quân thoáng nhắm mắt, đột nhiên vén vạt áo quỳ xuống – y từng nói không tranh nổi nóng và nghĩa khí, nhưng đây há là việc của nổi nóng và nghĩa khí?
“Hoàng thượng thứ tội,” Cố Quân chậm rãi nói, “Tử lưu kim cố nhiên trọng yếu, nhưng thứ cho thần ngu dốt, không thể hiểu thâm ý của Hoàng thượng trong lần hành động này, con đường tơ lụa hiện giờ thái bình phồn hoa không hề dễ, Hoàng thượng thật sự muốn vì một chút tử lưu kim có lẽ có mà vứt nó không ngó ngàng ư?”
“Con đường tơ lụa có thể có hôm nay, Cố khanh không phải không có công, trẫm cũng biết tâm huyết nhiều năm, ngươi không nỡ… Chẳng lẽ trẫm thì không đau lòng à?” Lý Phong kiên nhẫn phân tích, “Nhưng một quốc gia rộng lớn, cũng giống một căn nhà đổ nát bốn phía gió lùa, hơi có mưa gió, thì trẫm sẽ phải mệt mỏi dỡ tường đông vá tường tây, chỗ nào không giật gấu vá vai?”
Cố Quân cười khẩy trong bụng, trên mặt không tiện thể hiện, đành phải ra vẻ hờ hững.
“Mặt đất lạnh, ta thấy sắc mặt hoàng thúc không tốt, dược khí trên người chưa tan, không nên quỳ mãi.” Lý Phong thần sắc dịu đi, định nói lý lẽ với Cố Quân, “Trẫm nhớ hồi nhỏ Lâm thái phó từng giảng, lực của một quốc gia, không ngoài ‘trời ban’ và ‘người tạo’, hoàng thúc còn nhớ chứ?”
Cố Quân: “Thần nhớ, ông ấy nói ‘trời ban sơn xuyên cỏ cây, thóc gạo thú cá, lưu kim dưới đất; bởi vì đó là lời của thánh nhân, công kiến kỹ nghệ, hỏa cơ cương giáp, hai cái này như xà như cột, có thể có một, không thể gãy hết, người làm vua nên ghi vào lòng’.”
“Hoàng thúc quả thật xem qua là nhớ,” Lý Phong hạ mắt xuống nhìn y, “Hiện giờ hai cái xà cột này đều bị mọt gặm rỗng, trẫm phải làm thế nào đây?”
Kỳ thực Cố Quân rất muốn nói rằng “Nếu ngươi không thi hành chưởng lệnh pháp vớ vẩn kia, không chừng cũng chẳng có lắm mọt như vậy”, nhưng nói cũng vô dụng, Phụng Hàm công đang phải ôm cẩu nhi tử đóng cửa tự kiểm điểm kìa.
Một hỏi một đáp làm Lý Phong nhớ tới chuyện lúc trẻ hai người cùng đọc sách, Cố Quân hồi nhỏ thân thể không tốt, suốt ngày đau bệnh uống thuốc, tính tình rất tệ, cũng chẳng thèm để ý đến ai, nhưng đối với mấy huynh đệ họ lại rất có tự giác của người làm “thúc thúc”, dù rằng y còn nhỏ hơn Ngụy vương, nhưng có cái gì ngon miệng hay chơi được, đều giữ lại cho họ, chưa từng tranh giành, hơn nữa hữu vấn tất đáp, hữu cầu tất ứng, Lý Phong từng cực kỳ thích y.
“Mau đứng lên đi,” Chút giận dữ cuối cùng trên mặt Lý Phong cũng biến mất, “Hoàng thúc là vũ khí của quốc gia, trẫm còn phải dựa vào ngươi bình định tứ phương mà.”
Cố Quân nghe vậy, chậm rãi cúi người, trán hơi chạm đầu ngón tay mình đang chống xuống đất.
Lý Phong thở phào, cảm thấy xem như thuyết phục được người này rồi – Cố Quân những năm gần đây đối nhân xử thế càng khôn khéo, cũng đủ thức thời, không còn như mấy năm trước chạm vào là nổ, vừa rồi không biết nặng nhẹ chống đối, đại khái cũng là nghe thấy hai chữ “Lâu Lan” nên có chút phản ứng quá khích mà thôi…
Lâu Lan ư, ở bên đó hơn năm năm, tình cảm chắc hẳn sâu đậm, không phải là không thể hiểu.
Vừa nghĩ thế, Lý Phong lại mềm lòng đi không ít, thậm chí định tự mình đỡ Cố Quân dậy.
Nào ngờ hắn còn chưa đưa tay ra, Cố Quân đã đứng thẳng dậy, bình tĩnh nói: “Hoàng thượng, Lâu Lan tuy nhỏ, nhưng luôn luôn hữu hảo với triều ta, năm ấy Tây Vực đa quốc phản loạn, quân ta bị bao vây ở nơi cát vàng gò hoang hơn hai mươi ngày, duy nhất báo tin cho ta, lén vận lương thảo dược vật chính là người Lâu Lan, sau đó Tây Dương, Tây Vực, Thiên Trúc các nước ký kết hiệp ước con đường tơ lụa với Đại Lương ta, Lâu Lan cũng ở trong đây-“
Tay Lý Phong giơ ra giữa chừng khựng lại đó, hắn thoạt tiên sửng sốt, lập tức giận dữ quát: “Đủ rồi!”
“Do thèm muốn vật của nước khác, mà dấy binh xâm phạm, chính là bất nhân; ném phăng cựu ân, hủy ước bội tín, chính là bất nghĩa!” Cố Quân chẳng mảy may định đủ rồi, từng chữ như đao, nện thẳng xuống nền kim điện noãn các.
Lý Phong tức đến run lên: “Im miệng!”
Hắn chuyển tay phất qua văn phòng tứ bảo trên bàn, thuận tay cầm một nghiên mực vuông, hung tợn ném tới, Cố Quân không né tránh, mặc nghiên mực kia đập mạnh lên khinh giáp trên vai, “Choang” một tiếng, mực còn chưa khô từ phần ngực triều phục gấm hoa của An Định hầu chảy xuống.
Lý Phong: “Cố Quân, ngươi muốn làm gì?”
Cố Quân mặt không đổi sắc nói hết lời: “Quân đội bất nhân bất nghĩa không thể may mắn, Huyền Thiết doanh năm vạn tướng sĩ, mặc dù không sợ chết, cũng không dám phụng triệu, xin Hoàng thượng thu hồi mệnh lệnh.”
|