Sát Phá Lang
|
|
Chương 55: Đại hỏa
Mọi người đều sợ ngây ra.
Một lúc lâu, quan truyền lệnh mới nhớ tới sứ mệnh của mình chuyến này, giọng khô khốc mở miệng: “Đàm tướng quân, Hầu gia…”
“Ngươi câm miệng!” Đàm Hồng Phi chợt quát một tiếng, hắn trừng đôi mắt trâu như chuông đồng, chuyển hướng sang nam tử quỳ trong chính đường, nhất thời cổ hơi khô, toàn thân trên dưới mỗi một sợi lông đều như run rẩy, “Ngươi nói cái gì? Nói rõ ràng hơn xem – trung lương nào?”
Nam tử trung niên kia thẳng lưng lên, sắc mặt vàng bủng như nghệ đáng thương, trên mặt lại có vẻ quyết tuyệt không nói nên lời: “Hai mươi năm trước, Bắc man gặp thiên tai, Lang Vương dã tâm rành rành, dẫn binh xâm phạm, lão An Định hầu lấy oai của Huyền Thiết doanh, bình định Bắc cương, khiến quần lang cúi đầu, đem tuế cống và tỷ muội thần nữ hiến cho triều ta, Nguyên Hòa tiên đế nạp trưởng tỷ trong hai người làm phi, phong ấu muội làm quận chúa, lệnh cho vào cung tùy thị, chờ gả cho hoàng thất.”
“Nào ngờ hai yêu nữ này rắp tâm làm loạn, mưu đồ lớn, trước là giả tạo thư qua lại giữa lão Hầu gia và Lang vương, vu hãm lão Hầu gia hậu chiến uy bức mười tám bộ lạc, trữ riêng tử lưu kim, sau lại dùng yêu thuật mị hoặc tiên đế, ngày đêm ly gián tình nghĩa quân thần…”
Kinh triệu doãn Chu đại nhân chỉ nghe hai câu này liền nổi giận, lập tức quát: “Người đâu! Bắt lấy điêu dân tùy tiện nói xấu tiên quân này!”
Đàm Hồng Phi trợn trừng mắt: “Ta xem ai dám!”
Hắn gầm lên một tiếng, tốp tướng sĩ Bắc đại doanh bên cạnh cùng rút đao, nhất tề ngân giáp lẫm lẫm, ánh đao như tuyết, điêu văn đầu thú dữ tợn trên chuôi đao muốn lao ra xơi tái người ta.
Chu Hằng sắc mặt xanh mét, duy trì một chút lá gan của người đọc sách, run giọng nói: “Đàm Hồng Phi, ngươi muốn tạo phản sao?”
Đàm Hồng Phi cười gằn một tiếng, quay người sải bước xuống thềm đá, đi thẳng tới trước mặt nam tử trung niên kia, cắm trường mã đao xuống đất, đứng yên trước mặt hắn như tháp sắt, bức hỏi: “Ngươi nói tiếp đi, sau đó thì sao?”
Nam tử cáo trạng kia nói: “Tướng quân có nhớ, năm đó do tiểu Hầu gia còn nhỏ, ở nhà không ai quản thúc, sau khi biên cương bình định, phu phụ lão Hầu gia và công chúa liền bàn nhau dẫn y đến nơi đóng quân?”
Mắt Đàm Hồng Phi lóe lóe, dăm ba câu đã gợi dậy hồi ức xưa, hắn còn nhớ rõ, Cố đại soái hiện tại uy chấn một phương lúc nhỏ là một đứa con nít quỷ không hơn không kém, họa gì cũng dám gây, người nào cũng không sợ, lão Hầu gia và công chúa đều không có phụ mẫu trưởng bối để quản giáo thay, thấy y sắp vô pháp vô thiên, đành phải dẫn theo.
Đàm Hồng Phi: “Không sai, quả có việc này.”
Nam tử trung niên nọ tiếp tục: “Yêu nữ thừa cơ tiến ngôn, nói lão Hầu gia lúc này dẫn độc tử đi, nhất định có mưu đồ không nhỏ, chưa biết chừng là định cùng Hoàng thượng chia đông tây mà trị. Tiên đế Nguyên Hòa bị nhiếp hồn thuật mê hoặc, phẫn hận lão Hầu gia không thôi, lại sợ Huyền Thiết doanh chỉ ba mươi thiết kỵ đã san bằng man tộc, không biết nên làm sao cho được.”
Đàm Hồng Phi: “Vớ vẩn!”
Nam tử trung niên mặt không đổi sắc, bình tĩnh nói: “Lúc ấy yêu nữ cùng một gian nhân khác hợp lực bố trí một độc kế, lệnh cho tiên phụ Ngô công công lấy khao quân làm danh, dẫn ba mươi tử sĩ và hai kẻ am hiểu bàng môn tà đạo đến Bắc cương, lẻn vào trú địa ám sát, để phòng sự việc thất bại âm mưu bại lộ, còn cố ý để đám tử sĩ xăm hình đầu sói trước ngực, giả làm người man.”
Đàm Hồng Phi thở càng lúc càng nặng nề.
Năm đó ba mươi tử sĩ người man lẻn vào trú địa Bắc cương, không hề có dấu hiệu báo trước, gần như trời giáng, dùng chiêu hạ lưu rắc thuốc bột khiến tay chân tê liệt vào thức ăn nước uống, lại thay Huyền Thiết khinh cừu, đột nhiên gây chuyện, các tướng sĩ ngày nào cũng thấy kỵ binh khinh cừu lao qua doanh tuần phòng, nhất thời lại hoàn toàn không phòng bị…
Đàm Hồng Phi lẩm bẩm: “Không sai, ngươi nói đúng, lúc ấy ta còn là một thiên tướng con con, tử sĩ khinh cừu kia, quả thật chỉ có ba mươi người.”
Lão Hầu gia dùng ba mươi trọng giáp san bằng mười tám bộ lạc, yêu nữ liền trả ông ba mươi khinh cừu, khuấy đảo Huyền Thiết doanh bách chiến bách thắng đến nghiêng trời lệch đất, làm người thừa kế duy nhất của An Định hầu bị thương.
Đàm Hồng Phi đột nhiên cười khẽ: “Đó là nỗi nhục nhã vô cùng của Huyền Thiết doanh – ta nhớ lão Hầu gia vừa vặn xuất doanh tuần phòng, công chúa điện hạ sáng dậy thân thể không khỏe, chưa ăn uống gì, bằng không khi ấy bị thương không chỉ là một tiểu Hầu gia thôi, phải không?”
Thống lĩnh Bắc đại doanh dộng mạnh trường mã đao xuống đất, nền đá dày bằng bàn tay lại bị hắn nện ra một vết rạn: “Công chúa dưới sự kích phẫn, một mực chắc chắn quân ta có nội gian, mười mấy huynh đệ chúng ta đảm nhiệm phòng ngự trú địa Bắc cương, khó thoát được tội, tình ngay lý gian lại không biện bạch được, chỉ đành lũ lượt tháo giáp từ biệt, về kinh nhận tội… Bao nhiêu năm qua ta vẫn âm thầm oán trách người, cho rằng người thương con đến hồ đồ… Thì ra thật sự…”
Đàm Hồng Phi đột nhiên rơi lệ, hắn chẳng buồn lau, cũng chẳng nghẹn ngào, vẫn đứng đó như tháp sắt, không ngừng hít sâu vào như đau cực kỳ vậy.
Chu Hằng sững ra vì nước mắt của Diêm vương mặt đen, nhất thời ngay cả lửa giận tràn ngập trong lòng cũng phảng phất bị cái gì chọc thủng rỉ dần ra ngoài.
Kinh triệu doãn đại nhân không khỏi dịu giọng hơn: “Việc này lớn, chỉ dựa vào lời một phía của người này, thì không khỏi bất công, xin Đàm tướng quân thận trọng.”
Đàm Hồng Phi hơi định thần lại, kỳ thực trong lòng hắn đã tin bảy tám phần – không ai hiểu rõ bố phòng của Huyền Thiết doanh kín kẽ đến mức nào hơn Đàm Hồng Phi năm đó chưởng quản bố phòng trú địa Bắc cương, nhưng hắn không thể nói rõ được.
Dù cho nhiều năm qua Cố Quân đối đãi cựu bộ Huyền Thiết doanh không tệ, thậm chí giúp hắn trèo lên chức Thống soái Bắc đại doanh, hắn lại thủy chung nhớ rõ mình gánh nỗi oan khuất làm việc không tốt, không nơi khiếu nại.
Đàm Hồng Phi nhìn Chu Hằng một cái, miễn cưỡng cắn răng, cúi đầu hỏi hán tử trung niên kia: “Không sai, ngươi có bằng chứng gì?”
Nam tử kia lấy huyết thư cất trong lòng ra, đầu rạp xuống đất nói: “Đây là tiên phụ tự tay viết, di thể ông ấy hiện ở ngay ngoài cửa, tướng quân nhìn là biết có phải Ngô Hạc hay không, cũng biết tôi nói có phải là thật hay không.”
Chu Hằng nhíu mày, Đàm Hồng Phi thì đã hạ lệnh cho người đi khiêng.
Chốc lát sau, một nam thi như cây khô được khiêng vào, quỷ treo cổ không hề an tường, hai gò má sưng lên, lưỡi thè ra, cổ tím xanh như lệ quỷ, Đàm Hồng Phi chỉ ngó lướt qua liền hốt hoảng nhìn đi chỗ khác như không kham nổi gánh nặng, giọng khàn khàn: “Ta nhớ khóe mắt lão thái giám kia có một vết sẹo hình tam giác…”
Nam tử trung niên quỳ dưới đất lê đầu gối bò tới, từ từ lật mặt nam thi kia lại, vén mái tóc bạc xác xơ, trên khóe mắt chi chít đồi mồi và nếp nhăn hiện rõ một vết sẹo hình tam giác.
Xung quanh lặng ngắt như tờ, Chu Hằng mặt cắt không còn chút máu, hắn bỗng nhiên hít sâu một hơi, đưa tay chỉnh lại quan mạo bị Đàm tướng quân đập một phát lệch luôn, đôi tay thư sinh vẫn không ngừng run rẩy, miệng lại hỏi: “Sau đó thì sao?”
Nam tử bên dưới nói: “May mà tiểu Hầu gia cát nhân thiên tướng, đại nạn không chết, sau đó tiên đế tỉnh ngộ khỏi yêu thuật của yêu nữ, hối hận không thôi, âm thầm xử trí tỷ muội yêu nữ người man, đối với tiểu Hầu gia cũng ân sủng bội phần, lại đón vào cung tự mình chăm sóc – chỉ là yêu nữ tuy đã đền tội, nhưng tiểu nhân từng ra gian kế cho tiên đế vẫn còn đó, rất sợ Cố thị một mạch thánh sủng chưa hết, liền nhập bọn với Ngô Hạc công công, muốn tiếp tục xuống tay với tiểu Hầu gia.”
Chu Hằng: “Cung đình bí sự, ngươi phải nghĩ kỹ rồi hẵng nói.”
Nam tử trung niên cao giọng cười: “Đa tạ đại nhân, thảo dân ấu thời vốn là một nông dân sinh trưởng ở Bắc cương, nhiều thế hệ bị người man ức hiếp, phụ mẫu huynh đệ đều chết trong tay đám yêu nhân giả thần giả quỷ đó, là lão Hầu gia đã cứu mạng chúng tôi, trút giận cho chúng tôi, thảo dân thân hèn vị mọn, nhiều năm nhẫn nhục, hầu hạ lão thái giám đó, không hề là vì gia sản nhà lão, mà chỉ vì ngày hôm nay!”
Đàm Hồng Phi không sụt sùi nữa, cơ hồ đã chết lặng: “Nhưng ta nhớ rõ năm đó bị chết là tam điện hạ.”
“Không sai,” Nam tử kia nói, “Ngô Hạc bôi một loại độc có thể tan vào không khí lên đèn măng-sông bình nhật tiểu Hầu gia dùng đọc sách, Ngô Hạc nói, tiểu Hầu gia lúc nhỏ thích mở đèn măng-sông sáng hết cỡ, thường mở suốt đêm, ngủ cũng không tắt, qua một đêm, mặt sau ngọn đèn thường nóng đến chín trứng gà, tự nhiên sẽ tan độc vật vào không khí, lại hít vào phế phủ. Người trúng độc mới đầu sẽ ho không ngừng, sốt nhẹ liên tục, đều là chứng bệnh thường thấy ở trẻ con, không hề gây chú ý, nhưng từ từ, người sẽ dần suy nhược, cho đến khi độc vào ngũ tạng, thuốc thang vô dụng.”
Trong mắt Đàm Hồng Phi như phải nhỏ máu.
“Lúc ấy đèn măng-sông tiểu Hầu gia dùng ở trong cung là chụp đèn lưu ly bảy màu do Tây Dương đặc cung, rất là quý giá, chỉ mấy hoàng tử và tiểu Hầu gia có, hoàng hậu cũng không được một cây, nào ngờ tam điện hạ lỡ tay làm hỏng cây đèn măng-sông Tây Dương của mình, lo sợ bị quở mắng, lại không dám đi cầu người khác, tiểu Hầu gia liền đổi cây của mình cho y, lén dán lại chỗ vỡ, mỗi ngày che một quyển sách lên trên, vẫn làm bộ dùng như cũ.”
“Chuyện sau đó, chư vị đều biết rồi, tam điện hạ trúng độc chết non, tiên đế tức giận, triệt tra hậu cung, Ngô Hạc do mưu hại hoàng tự mà vào tù, thành cừu thế tội của gian nhân kia.” Nam tử cáo trạng vừa nói vừa vung ống tay áo, cả người mọp xuống đất, lên giọng nói, “Hiện giờ tiền căn hậu quả thảo dân đã bẩm rõ, đa tạ chư vị tướng quân đại nhân, gian nịnh đến nay còn nhơn nhơn ngoài vòng pháp luật, chính là đương kim quốc cữu gia Vương Quả!”
Chu Hằng ngớ ra: “Lớn mật… Ngươi, ngươi thật lớn mật!”
Người trung niên kia nói: “Cẩu đảm bao thiên, tiếc gì thân hèn!”
Chu Hằng ép hỏi: “Ngươi có bằng chứng gì?”
Người trung niên lấy một phong thư cũ mốc cất trong lòng: “Bẩm đại nhân, đây là phong thư năm đó khi Vương quốc cữu và đại thái giám trao nhận riêng đã từng viết, là thật hay giả, chư vị cứ xem là biết.”
Nói xong, nam tử ấy đặt phong thư xuống đất, bản thân hơi ngả ra sau, tựa hồ khẽ thở dài một hơi.
“Ân oán ngày xưa, hiện giờ một sớm kết thúc.”
Lúc Đàm Hồng Phi nhận thấy hắn có biểu cảm khác thường thì đã không còn kịp, nam nhân này đột nhiên đứng dậy, ngay vào khi mọi người đều chưa kịp phản ứng, quay người lao thẳng tới cây cột bên cạnh.
Máu và não cùng rơi tung tóe, đương trường mất mạng!
Hiển nhiên là một loại tử sĩ khác.
Lúc này, trong ôn tuyền sơn trang, mí mắt Cố Quân tự dưng bắt đầu giật không ngừng.
Hoắc Đan thống lĩnh gia tướng Hầu phủ đột nhiên xông vào cửa, thở không ra hơi: “Hầu, Hầu gia…”
Cố Quân quay phắt lại: “Sao?”
Hoắc thống lĩnh sau khi biết kinh thành chi biến, tim đập như điên, chưa kịp mở miệng, thì cửa chính bỗng bị người đập tung.
Trường Canh nắm chặt một con chim gỗ trong tay, con vật nhỏ ấy há miệng đập cánh, đầu và mình đã gãy đôi, vật bằng gỗ rắn chắc lại bị y bóp nát, bánh răng lởm chởm chỉa ra, đâm lòng bàn tay y máu thịt lẫn lộn, mà y giống như không biết đau, há miệng thở hổn hển như cá ra khỏi nước, nhưng trong ngực ngay cả một hơi cũng không thông nổi.
Y cầm trên tay một tờ giấy Hải Văn loang lổ vết máu, chim gỗ dù sao cũng nhanh hơn ngựa, đã có người truyền trò cười trong kinh thành đến cho y trước một bước.
Ngực Trường Canh như cắm đao nhọn, hô hấp cử động một chút là rỉ máu, lảo đảo đi đến trước mặt, ôm chầm lấy Cố Quân.
Hoắc thống lĩnh bên cạnh lấy làm kinh hãi: “Hầu gia…”
Cố Quân đưa tay ra hiệu: “Lão Hoắc, ngươi ra ngoài trước đi.”
Hoắc thống lĩnh tựa hồ muốn nói gì, cuối cùng vẫn im lặng lui ra ngoài.
Đứa trẻ xúi quẩy này sức lực còn không yếu, Cố Quân cảm thấy thắt lưng già sắp bị y siết gãy, chờ Hoắc thống lĩnh vừa đi, liền dùng một tay vỗ về lưng y: “Sao vậy?”
Trường Canh cúi đầu, vùi mặt vào vai Cố Quân, xung quanh lởn vởn mùi thuốc trên người Cố Quân, trước đây ngửi y chỉ cảm thấy an tâm, dẫu đi vào giấc mộng cũng có thể xua tan khói mù, nhưng lúc này y không muốn ngửi thấy mùi thuốc ấy nữa.
Trường Canh nhắm mắt lại, trong tai nổ ran, trong lòng còn lại duy nhất một ý nghĩ: “Ta phải giết sạch bọn người Lý gia.”
Cố Quân rút tờ giấy Hải Văn nhăn nhúm khỏi tay y, nhìn lướt đến cuối, tức thì rùng mình, đẩy mạnh Trường Canh ra, nổi giận quát: “Hoắc Đan!”
Hoắc thống lĩnh chờ ở bên ngoài nghe tiếng lập tức đẩy cửa tiến vào.
Cố Quân sắp phát điên rồi, đứng quá nhanh làm trước mắt nhất thời lại hơi hóa đen, y liền vội vàng vịn bàn, khuỷu tay liên tục run rẩy.
“Chuẩn bị ngựa, ta phải về kinh,” Cố Quân hít sâu một hơi, “Ngươi dẫn… khụ…”
Y nói đến đây đã không thành âm, hắng giọng: “Ngươi dẫn mấy khinh cừu đi trước một bước, nhất định phải ngăn Đàm Hồng Phi lại.”
Hoắc thống lĩnh nhìn y một cái thâm sâu: “Vâng!”
Cố Quân quay người muốn đi lấy triều phục và khinh giáp, bị Trường Canh túm cổ tay.
Trường Canh: “Đều là thật?”
Cố Quân cúi đầu nhìn y một cái, trong mắt mây gió vần vũ, rất đỗi phức tạp.
Dừng một chút, Cố Quân mới thấp giọng nói: “Đương nhiên không phải, yêu thuật đều là lời nói vô căn cứ, Vương quốc cữu cũng chẳng qua là…”
Chẳng qua là một nô tài chỉ đâu đánh đó dưới hoàng tọa, hai nữ nhân Bắc man kia, cũng chẳng qua là những kẻ đáng thương nước mất nhà tan, lưu lạc tha hương mà thôi…
Chân tướng mọi người đều hiểu rõ trong lòng, nhưng chẳng ai dám nói.
Cố Quân kéo tay ra: “Gần đây loạn, ngươi đừng về kinh, ở lại đây vài ngày…”
Nhưng Trường Canh không chịu bỏ qua: “Vậy tức là, trừ phần về yêu thuật và Vương Quả ra, đều là sự thật cả? Người biết, người vẫn luôn biết?”
Cố Quân mất sạch kiên nhẫn: “Lúc nào rồi mà còn đi theo làm rối, tránh ra!”
Trường Canh cơ hồ đồng thời mở miệng, khẽ nói: “Vì sao người còn chịu dốc lòng dốc sức thủ giang sơn đổ nát này cho lão? Vì sao còn chịu nhân nhượng đủ kiểu? Vì sao phải thu lưu con trông nom con bao nhiêu năm?”
Âm thanh nhẹ như tuyết rơi ấy dưới tiếng gầm giận dữ của Cố Quân thật nhỏ bé, song không biết là vì sao, chớp mắt lời ra khỏi miệng, người nên nghe vẫn nghe thấy.
Lòng Cố Quân thắt lại.
Môi Trường Canh một chút huyết sắc cũng không có, ánh mắt bức bách hỏi: “Nghĩa phụ, vì sao?”
Cố Quân cổ họng động khẽ, không biết phải nói từ đâu – nói như thế nào?
Nói mình kỳ thực không hề biết chuyện, những năm qua còn luôn cho rằng mình bị thương chỉ là một lần bất trắc, vẫn tưởng mình không thể bảo vệ A Yến, trơ mắt nhìn y chết trong tranh đấu hậu cung sao?
Cho đến khi… Y phụng mệnh áp giải Gia Lai Huỳnh Hoặc thế tử xuất quan, mới từ miệng lang nhân không có hảo ý kia biết được, độc của thần nữ thảo nguyên là bí mật bất truyền, nhiều thế hệ chỉ có mình thần nữ nắm giữ, ngay cả đồng tộc cũng không biết, chuyện hai mươi năm trước ba mươi khinh kỵ làm Huyền Thiết doanh thiệt hại nặng căn bản không liên quan đến man tộc.
Gia và quốc, thù và oán, đường lớn hướng lên trời mỗi loại nửa bên, nếu y đi một bước, vô luận đi lên bên nào, đều không còn có thể quay đầu lại.
Các việc trong đây đều không thể cho người ngoài biết, cuối cùng Cố Quân vẫn chẳng nói tiếng nào, bẻ mạnh tay Trường Canh ra, mặc giáp buộc tóc.
Tướng quân có tim, tiếc thay lại đúc bằng sắt.
Cố Quân phản ứng không thể nói là không mau, mấy trăm gia tướng hầu phủ điều động không thể nói là không lẹ, song vẫn không kịp.
Khi Hoắc Đan đầu mướt mồ hôi lạnh chạy tới dưới chân hoàng thành, gặp Bắc đại doanh làm loạn, Ngự lâm quân khẩn cấp điều động, kinh thành cửu môn phong kín, cả hoàng thành trở nên hỗn loạn.
|
Chương 56: Sấm rền
Trường Canh rốt cuộc vẫn chạy theo: “Nghĩa phụ khoan đã!”
Cố Quân đã lên ngựa, ở trên cao quay đầu lại nhìn y một cái, chiến mã cũng nôn nóng bất an như chủ nhân, cho dù dây cương bị kéo, vẫn đi qua đi lại tại chỗ.
Huyết sắc trên mặt Trường Canh phảng phất đều dính trên lòng bàn tay và cổ tay áo, trông y hệt như một hình người vẽ theo lối bạch miêu (1) trên giấy.
Thần sắc y gần như hờ hững, phảng phất đeo thêm một lớp mặt nạ trên gương mặt ban nãy đau đớn cực kỳ, ngắt từng chữ nói: “Vạn nhất Hoắc bá không áp chế được Đàm tướng quân, nghĩa phụ vào kinh lúc này, chắc chắn sẽ dẫn lửa thiêu thân.”
Cố Quân hơi nhướng mày, định nói gì đó, Trường Canh lại cắt ngang trước một bước.
“Con biết, cho dù dẫn lửa thiêu thân, người cũng không thể không vào kinh, bởi vì Ngự lâm quân ngăn không được Bắc đại doanh, trước mắt trừ nghĩa phụ ra thì không ai kiềm được Đàm tướng quân, kinh thành một khi binh biến rối ren, hậu quả không thể lường được,” Trường Canh hít sâu một hơi, kế đó chìa ra một bàn tay loang lổ máu, “Chỉ là, vạn nhất Hoàng thượng giam người lại, tướng lĩnh tứ phương tất nhiên hoang mang, sợ sinh tai họa, con cần nghĩa phụ để lại cho con một tín vật có thể tạm thời trấn an lòng người.”
Trên mặt Cố Quân thoáng qua vẻ kinh ngạc, đứa trẻ ban nãy còn khiến y vạn phần phiền lòng đột nhiên trở nên xa lạ hẳn.
Mỗi người đều có rất nhiều tướng mạo, giống như có một số người ở bên ngoài rung trời chuyển đất, uy phong truyền kỳ vô cùng, một khi trở về trước mặt người chí thân, sẽ biến thành một bé gái không biết đói no ấm lạnh, quên trước quên sau lại ưa cáu kỉnh.
Trường Canh tuy ngày càng xa nam hài không biết lớn nhỏ gọi người ta là “Thập Lục”, mà luôn ỷ lại tiểu nghĩa phụ kia, trong lòng rốt cuộc vẫn tồn tại vài phần ký thác ngưỡng mộ với Cố Quân, dù cho nửa đêm *** nảy sinh, cũng do chút tình cảm như cha như anh này mà pha lẫn cảm giác cấm kỵ khó nói thành lời…
Cho đến khi cơn gió đông này thổi nốt chút tình hoài thiếu niên cuối cùng.
Trường Canh trong thời gian ngắn nhất ý thức được rằng, có lẽ mình sẽ phải lẻ loi đi lên một con đường không ai lượng giải, cũng không ai bầu bạn.
Từ nay về sau, y sẽ không còn là nhi tử và vãn bối của ai nữa.
Cố Quân lấy tư ấn cất trong lòng ra ném cho Trường Canh, dặn dò: “Thứ này không có sức nặng như Huyền Thiết hổ phù, nhưng lão nhân từng theo ta đều nhận ra, có lẽ có chút tác dụng, vạn nhất… ngươi có thể nghĩ cách đi mời Chung lão tướng quân.”
Trường Canh chẳng thèm nhìn ấn kia, cất luôn vào tay áo, thản nhiên gật đầu nói: “Con biết rồi, nghĩa phụ yên tâm.”
Chưa dứt lời, Cố Quân đã thúc mạnh bụng ngựa, lao vút đi.
Trường Canh chăm chú dõi theo bóng lưng y, cho đến khi không còn thấy nữa, đột nhiên nhắm mắt, thì thào gọi một tiếng: “Tử Hi…”
Thị vệ hầu phủ bên cạnh không nghe rõ, nghi hoặc hỏi: “Điện hạ nói gì ạ?”
Trường Canh quay người lại: “Chuẩn bị giấy bút.”
Thị vệ vội vàng đuổi theo: “Điện hạ, tay ngài…”
Trường Canh nghe vậy dừng bước, vớ lấy bầu rượu Cố Quân ném lại, mặt không cảm xúc dốc hết cả bầu rượu mạnh vào vết thương trên hai tay, vết thương vốn đã kết vảy lại lần nữa chảy máu, y lấy một cái khăn từ trong lòng ra, lơ đãng quấn qua.
Lúc này trong kinh thành, không ai liệu được cái chết của một lão thái giám lại gây ra sóng lớn ngập trời như vậy.
Đàm Hồng Phi bộc phát nỗi oan khuất kìm nén hai mươi năm, rất có thể đã nổi điên, trước tiên phái binh bao vây phủ Vương quốc cữu, biết được lão già kia bỏ vợ con lại trốn vào cung, lập tức quay đầu, ngang nhiên chống lại Ngự lâm quân đến cứu trường.
Ngự lâm quân và Bắc đại doanh thường ngày một chủ nội một chủ ngoại, đều là phòng tuyến cuối cùng của kinh kỳ trọng địa, đi qua đi lại toàn chạm mặt. Ngự lâm quân chủ yếu do hai bộ phận là lính thiếu gia đi cửa sau ăn hoàng lương trong kinh thành và tinh anh điều động chọn lựa từ Bắc đại doanh tạo thành, loại trước đã sớm sợ vãi ra quần, căn bản không trông chờ được, loại sau mặc dù có bản lĩnh, nhưng đột nhiên nghe đối đầu với “nhà mẹ đẻ”, nhất thời cũng là tiến thoái lưỡng nan, chính như Trường Canh đoán trước, nhanh chóng tan tác không thành quân.
Trên Khởi Diên lâu sênh ca còn đang vấn vít chưa thôi, hoa tửu ấm áp sương trắng chưa tiêu, mà trong tứ cửu thành đã sôi sùng sục.
Đàm Hồng Phi dẫn người bức tới bên ngoài cung cấm, tháo mũ trên đầu ném xuống, giống như đang nâng cái đầu lâu trên cổ mình.
Hắn thoạt tiên hành đại lễ ba quỳ chín khấu với hướng đại điện, sau đó quát đại nội thị vệ chặn trước mặt: “Tội thần Đàm Hồng Phi, cầu kiến Hoàng thượng, xin Hoàng thượng giao gian tặc trốn trong cung ra đây, cho trăm vạn huynh đệ đồng bào bảo vệ quốc gia của thần một sự công bằng, cho thiên hạ một lời ăn nói! Tội thần nguyện muôn lần chết để chuộc tội khi quân!”
Hoàng đế Lý Phong trong cung nghe lời ấy, chưa kịp trách tội Vương Quả thì đã giận tím mặt, đảm phách của thiên tử xét cho cùng không phải hạng Vương quốc cữu cắp đuôi chạy trốn so được. Lý Phong suýt nữa đập cả ngọc tỷ, không để ý tả hữu khuyên ngăn, thay quần áo đi ra, đến trước đại điện, giáp mặt giằng co với Đàm Hồng Phi.
Trọng binh kinh sư và thị vệ đại nội cách thềm đá cẩm thạch rộng mấy trượng đối mặt nhìn nhau, ngay cả chim sẻ đậu trên tường cung cũng vã mồ hôi theo.
Ngay trong sự giằng co nguy hiểm này, Cố Quân rốt cuộc kịp thời chạy tới.
Cố Quân dẫn theo hơn hai mươi người, ép đội ngũ Bắc đại doanh bao vây cung cấm tách ra một đường, trực tiếp xông vào.
An Định hầu thực sự tức muốn hộc máu, sải bước tiến lên, dùng roi quất vào mặt Đàm Hồng Phi một phát, da tróc thịt bong, gầm lên: “Ngươi muốn chết à?”
Đàm Hồng Phi vừa thấy Cố Quân liền đỏ hoe mắt: “Đại soái…”
“Câm miệng, ngươi muốn làm gì? Bức vua thoái vị sao?” Cố Quân đá vai hắn một phát, Đàm Hồng Phi cơ hồ bị y giẫm rạp vai xuống đất, “Trong mắt có còn tôn ti, có còn trung nghĩa, còn biết quân thần trên dưới là gì không? Quy củ Bắc đại doanh chưa được truyền triệu không được vào kinh đâu? Ai cho ngươi lá gan khi quân võng thượng!”
Đàm Hồng Phi nằm phục xuống đất, cơ hồ rơi lệ: “Đại soái, hai mươi năm rồi, các huynh đệ uổng mạng, các huynh đệ trầm oan không được giải…”
Cố Quân cúi xuống nhìn hắn, mâu sắc lạnh băng, chẳng hề bị lay động: “Trong vòng nửa canh giờ lệnh cho toàn thể Bắc đại doanh lui ra ngoài cửu môn, chậm một bước ta tự tay lấy cái mạng chó của ngươi, cút!”
Đàm Hồng Phi: “Đại soái!”
“Mau cút!” Khóe mắt Cố Quân giật không ngừng, y đạp Đàm Hồng Phi ra, tiến lên một bước vén vạt áo quỳ xuống trước thềm đá đại điện, “Mong Hoàng thượng bớt giận, Đàm tướng quân năm xưa từng bị thương, sớm có chứng điên cuồng, lại bị kẻ xấu kích động, chắc hẳn nhất thời bị quỷ ám phát bệnh, xin Hoàng thượng niệm tình hắn nhiều năm công lao khổ lao, lệnh cho hắn về nhà tĩnh dưỡng, tha mạng cho kẻ điên này.”
Chúc Chân Nhỏ vội thừa cơ nói thầm vào tai Lý Phong: “Hoàng thượng, người xem Đại soái cũng đến rồi, người thân thể vạn kim, tuyệt đối không thể mạo hiểm, mau vào điện tránh né một lát đi.”
Lý Phong giận quá hóa cười, quay đầu âm trầm nhìn Chúc Chân Nhỏ một cái, lạnh lùng nói: “Sao, ngươi cũng gọi y là Đại soái rồi?”
Chúc Chân Nhỏ tức khắc trắng bệch mặt, quỳ thụp xuống bên cạnh.
Lý Phong khoanh tay đứng trên thềm đá cẩm thạch, từ trên cao nhìn xuống An Định hầu khinh cừu huyền giáp, lần đầu tiên hiểu được một việc – năm đó tiên đế trước lúc mất cầm tay hắn dặn tới dặn lui, bảo hắn phải cẩn thận một người, người đó không phải Ngụy vương dã tâm bừng bừng, cũng không phải phiên bang như hổ rình mồi, mà là cánh tay đắc lực của hắn… Cố Quân.
Nửa canh giờ sau, Bắc đại doanh rút khỏi cửu môn, kể cả Đàm Hồng Phi, mười mấy tướng lĩnh chủ sự bị giam giữ, An Định hầu bị hạ ngục.
Cùng lúc đó, vô số chim gỗ từ biệt viện ôn tuyền ở Bắc giao bay ra, lại có khinh kỵ chia làm hai đường ngựa khỏe dồn roi, chia nhau mang theo thư đóng tư ấn của Cố Quân, tiện trang chạy tới hai vùng biên cương trọng địa Tây Bắc và Giang Nam Đông Hải.
Nếu lúc này trong tay Trường Canh có huyền ưng, dù chỉ một hai người, có lẽ y cũng có cơ hội.
Nhưng Hoàng đế Long An khi tạm giữ soái ấn của Cố Quân, đã phái tất cả tướng sĩ Huyền Thiết doanh bên cạnh y trở về trú địa Tây Bắc.
Một lần nữa… đã quá muộn.
Nhân gian tháng tư, cổng vào con đường tơ lụa Tây Vực như châu tựa ngọc-
Sự phồn hoa mấy tháng trước sớm đã không còn tồn tại, tất cả trạm gác đều đóng kín, Huyền Thiết doanh bày trận sẵn sàng chờ địch.
Khắp nơi đều có thể nhìn thấy đám “quạ đen” phiếm khí sát phạt, Hà Vinh Huy phụng mệnh tạm thay chức Thống soái tam quân, lệnh kích trống đến từ kinh thành còn nằm đóng bụi trên bàn hắn.
Trời âm u quá sức, mây đen trĩu trên thành trì, trú địa vạn quốc tất cả đều đóng chặt cửa, bốn về vắng lặng, nơi cát vàng bay qua, tựa hồ có cái gì đó chạm vào là nổ.
Chẳng biết có phải ảo giác hay không, Hà tướng quân cứ cảm thấy sắp có chuyện xảy ra.
Mà đúng lúc này, một huyền ưng đột nhiên từ trên trời đáp xuống.
Huyền ưng hạ đất không đứng vững, lảo đảo lăn vào cát bụi Tây Vực. Vừa vặn Huyền Thiết khinh cừu tuần phòng trông thấy, vội tới kiểm tra.
Chỉ thấy sát thủ không trung tung hoành trường thiên này lại như là bị huyền ưng giáp đè trĩu đứng không nổi, quỳ dưới đất kéo chặt tay đồng bào, khuôn mặt trẻ tuổi sau mặt nạ bảo hộ tiều tụy đến đáng sợ.
Đô úy tuần phòng nhanh chóng chạy tới, luôn miệng hỏi: “Không phải Hà tướng quân sai ngươi đến kinh thành thám thính xem khi nào thì Đại soái có thể lấy lại soái ấn à? Sao rồi? Rốt cuộc xảy ra chuyện gì?”
Huyền ưng kia cắn chặt răng, kẽ răng toàn là vết máu, khuôn mặt anh tuấn hơi vặn vẹo, kéo giáp trên người xuống, khàn khàn nói: “Ta muốn gặp Hà tướng quân…”
Bắc đại doanh xảy ra chuyện, Đàm Hồng Phi vào ngục, Đề đốc cửu môn sợ chuyện An Định hầu bị hạ ngục dẫn đến hỗn loạn lớn hơn, sau khi tiếp quản doanh phòng, việc đầu tiên chính là phái người thủ vững mọi cửa ra vào kinh giao, huyền ưng kia chưa xuống đất, đã gặp một đợt bạch hồng tiễn, vất vả lắm mới phá vây thoát thân, cải trang hạ đất, từ lời đồn sôi sùng sục trong dân gian nghe ngóng ra tiền căn hậu quả.
Huyền ưng trong cơn kích phẫn quay về Tây Bắc luôn, vừa vặn gặp gỡ khinh kỵ Trường Canh phái đi Tây Bắc. Huyền ưng kia nhanh hơn ngựa không biết bao nhiêu lần, chạy về nơi đóng quân của Huyền Thiết doanh trước mấy ngày.
Thùng hỏa dược Hà Vinh Huy đương trường nổ tung, dẫn người xông thẳng vào đô hộ sở Tây Bắc, vừa vặn vào giờ phút quan trọng này, sa hổ liệt đội ở Khâu Từ quốc chậm rãi rời khỏi nơi đóng quân, ngẩng đầu chỉ nòng pháo đen ngòm về phương Đông.
Nhân mã đa phương xen vào đã dốc hết sức người, chỉ còn nghe thiên mệnh.
Nhưng lần này, thiên mệnh tựa hồ hoàn toàn vứt bỏ vương triều Lý gia vận số sắp tận.
Trên hoang nguyên Tái Bắc còn se lạnh-
Đồi núi trập trùng tạo thành độ cong ôn nhu, hoa dại nôn nóng đua nhau lộ ra những nụ hoa.
Đàn sói xám đứng ở trên cao, liệp ưng gầm rít chao liệng, cờ với da thú dính đầy mỡ và gió bụi cùng bay phần phật, trường thiên xanh thẳm, hậu thổ vàng tối, mà sâu giữa cỏ cây um tùm, có thiên quân vạn mã.
Trong tiếng hàn thiết và máy móc ầm ĩ, đột nhiên vọng đến một tiếng ca khàn khàn lưu luyến.
“Tinh linh sạch sẽ nhất, thiên phong cũng muốn hôn góc váy nàng, chúng sinh xướng hòa cúi đầu, quỳ ở nơi nàng ca múa, năm sau có bò dê thành đàn, có cỏ cây um tùm tốt tươi, hoa tươi thành thảm, trải đến tận cuối Thiên Sơn, trường sinh thiên cùng cây cỏ xanh biếc quanh năm, thỏ hoang ra khỏi hang, ngựa hoang chậm rãi quay về…”
Thoáng cái đã năm sáu năm, Gia Lai Huỳnh Hoặc thế tử Bắc man lúc ấy một bầu kích phẫn tùy tiện bức thẳng Nhạn Hồi trấn đã kế thừa mười tám bộ, thành Lang vương chân chính, gió Tây Bắc vùng quan ngoại để lại những vết hằn sâu như dao cắt trên mặt hắn, mấy ngàn ngày đêm lặp đi lặp lại chạm khắc khuôn mặt hắn, thù hận và oán niệm ngâm xương cốt hắn.
Hiện giờ, hắn tóc mai hoa râm, nội liễm nhập tâm, hung quang trong mắt không lộ mảy may, tiếng ca xa xăm cũng sớm bị bụi phủ từ lâu, ngâm nga chẳng qua hai câu, mang máng là lời xưa khúc cũ, nhưng giọng đã khàn lắm rồi.
Hắn cầm bầu rượu bên hông, nốc một ngụm rượu đục với mùi rỉ sắt ở miệng bầu, khuôn mặt căng thẳng nhìn chằm chằm một cái bóng từ đằng xa bay tới; bóng đen đồng hành với liệp ưng kia giây lát đã đến trước mặt, lại là một bộ ưng giáp, còn to hơn huyền ưng, giáp trụ dữ tợn hơn, lúc đi lại có tiếng rít chói tai, dừng trước mặt đương nhiệm Lang vương, hai tay trình lên một thanh tiểu kiếm màu vàng không biết làm từ chất liệu gì.
Gia Lai Huỳnh Hoặc cầm thanh kim kiếm nho nhỏ kia, xối rượu lên đó, trên phần cán vốn trơn bóng lại chậm rãi hiện ra một hàng chữ của mười tám bộ lạc, chữ viết thon dài uốn khúc kéo dài dưới liệt tửu, viết là “Thỉnh Lang vương đi trước một bước”.
Gia Lai Huỳnh Hoặc hít sâu một hơi, vốn tưởng rằng rốt cuộc tới giờ khắc này, mình sẽ vui mừng như điên.
Song không hề, hắn mới phát hiện, thì ra ngần ấy năm trôi qua, thù hận đã sắp vắt kiệt hắn, cho dù sắp lật ngược thế cờ, hắn cũng quên phải cười vui làm sao. Lang vương đương nhiệm nhìn trường thiên trên đầu, ánh dương khiến hắn hơi mê muội, như có vô số đôi mắt người chết còn đang chằm chằm dõi theo hắn.
“Đến lúc rồi.” Hắn thì thào rất khẽ, giữa thiên quân vạn mã không một tiếng quạ, giơ một tay lên.
Kế đó thả mạnh xuống.
Sói xám nghển cổ tru lên, lao vọt đi, nanh vuốt chỉ về hướng Nam.
Chư đảo Nam Dương quanh năm biếc xanh, gió mát vi vu-
Ban đêm, một con thuyền lớn thuần một màu đen chậm rãi lái vào bến cảng yên tĩnh mà đơn sơ, chưa kịp đậu vững, một đám người mặc giáp cầm vũ khí đã chạy ra từ cửa khoang thuyền mở rộng, trên hòn đảo nhỏ không người đột nhiên đèn đuốc sáng trưng, giữa đám đá ngầm khổng lồ lại có chiến giáp thành dải, bị ánh lửa yếu ớt chiếu rọi diện mục dữ tợn, như một đám âm binh mang theo điềm xấu.
Trong trọng giáp có một tấm bản đồ hành quân khổng lồ, mật đạo quật ba thước đất bao quanh đại sơn Nam Cương mà Cố Quân từng phái người đào lại chỉ là một góc núi băng.
Cuối cùng, là Đông Hải vốn trời yên biển lặng-
Võ sĩ Đông Doanh mang trường đao và Ninja như rắn ăn mặc thành giặc Oa vùng duyên hải, cẩn thận chèo thuyền nhỏ thần không biết quỷ không hay lướt qua biển rộng, dùng thủ thế kỳ lạ truyền tín hiệu cho nhau.
Họ như lũ kiến từ bốn phương tám hướng chậm rãi tụ lại, thuyền hàng bình thường tấp nập trên bến cũng lần lượt rút khỏi hải cảng Đại Lương, lặng lẽ chuyển hướng về chư đảo Đông Doanh.
Một tiếng còi hơi dài có lực xuyên thấu cực mạnh vang lên trên đại dương vô biên.
“Thương thuyền” dần dần tụ tập thành đoàn, cả đội xếp hàng trật tự rõ ràng, rời khỏi phạm vi tuần tra của thủy quân Giang Nam, theo đó trên thương thuyền cầm đầu bất ngờ thay cờ xí thương đội, chiến kỳ uy nghiêm dày nặng của Giáo hoàng Tây Dương ngang dọc trên mặt biển, tạo thành một cái bóng lớn.
Đổi cờ dường như là một tín hiệu đáng sợ, một “thương thuyền” vĩ đại bắt đầu đổi xác, lớp vỏ ngoài thái bình giả tạo rơi xuống biển, lộ ra hàng loạt nòng pháo đen ngòm, đây lại là một loại “hải giao” chưa bao giờ được biết đến, chúng nhỏ mà quái dị, có thể bao trong thương thuyền bình thường, tốc độ nhanh như chớp giật, rẽ biển lướt đi hệt như hải quái xé toang gió táp vậy.
Đàn quái tản ra theo tín hiệu cờ, sau đó một bóng đen khổng lồ chậm rãi trồi lên mặt nước.
Mặt biển vốn êm ả dấy lên ba đào như núi nhỏ, đó là một quái vật không gì đọ nổi, như một con bạch tuộc khổng lồ, trồi lên mặt biển lộ ra cái “đầu” quỷ quyệt, vô số “giác hút” trên đỉnh đầu dính hải giao và chiến thuyền, sẵn sàng chờ xuất phát, trong cây cột cao vút tầng mây kia chứa toàn tử lưu kim, lớp vỏ sắt nặng nề dưới vô số bánh răng khớp nhau ì ạch mở ra, nòng pháo lớn nhỏ xếp liền như vô số ánh mắt hiểm ác, khi xoay lại không chậm chạp tẹo nào.
Trên boong hải quái khổng lồ này, chí ít có thể để hơn chục hải giao Đại Lương.
Cửa khoang chậm rãi mở ra, một chiếc cầu thang đen sì như cái lưỡi hạ xuống, hai hàng hải quân Tây Dương đội loại mũ nhỏ cổ quái nối đuôi đi ra, trong cửa khoang thuyền tối om bật ra một cái ô đen, xòe lên che nước biển rơi xuống, nam tử Tây Dương đầu bạc Cố Quân từng gặp trong hoàng cung cúi đầu, bình thản ung dung đi đến dưới ô.
Người che ô đi sau nửa bước, rõ ràng là “Nhã tiên sinh” năm đó hãm hại đám phỉ Nam Cương.
—
Bạch miêu họa hay Công bút bạch miêu 工筆白描 là những bức tranh vẽ đường nét rõ ràng, chi li, dùng đơn sắc. Loại tranh này xuất hiện rất sớm ở Trường Sa tỉnh Hồ Nam thời chiến quốc.
|
Chương 57: Quốc nạn
“Giờ thì bệ hạ có thể yên tâm rồi.” Nhã tiên sinh đưa tay đỡ nam tử đầu bạc kia, thì ra cái vị từng nhiều lần lui tới Đại Lương, tự xưng sứ giả này, lại chính là Giáo hoàng.
Nhã tiên sinh: “Mặc dù giữa chừng xảy ra vô số sai lệch, nhưng kết quả cuối cùng dẫu sao cũng không lãng phí thời gian và tinh lực ngài bỏ ra ở đây.”
Giáo hoàng chăm chú nhìn đàn hải quái dữ tợn trên biển xanh, trên mặt là sự yên lặng vô bi vô hỉ, giống như chẳng những không hân hoan, còn có vài phần thương xót sầu muộn không nói thành lời.
“Kết luận còn quá sớm.” Giáo hoàng nói, “Vận mệnh là một thứ rất huyền diệu, vận mệnh của một người còn không thể đoán trước, huống chi là một quốc gia? Đó đại khái là việc chỉ có thần linh mới biết.”
Nhã tiên sinh: “Thí dụ như tên ngu xuẩn Gia Lai Huỳnh Hoặc lại không nhịn được mà tiết lộ sớm việc đó cho Cố Quân sao?”
Gia Lai Huỳnh Hoặc quá hận Cố Quân người cuối cùng của Cố gia, trong cả sinh mệnh hắn ngoài nỗi oán hận này ra thì không còn lại gì nữa, hắn đã sớm bỏ xuống tôn nghiêm của Lang vương, thành một con chó điên, không hề có cái nhìn đại cục, đối với hắn, chỉ cần có thể tấn công Cố Quân, phá hoại bộ thự của ai cũng mặc kệ. Thế nhưng, họ không thể không hợp tác với con chó điên này, thù hận giữa mười tám bộ và Trung Nguyên nhiều thế hệ dây dưa quá sâu, thế lực của thần nữ năm đó ở lại kinh thành ẩn mà chưa phát cũng quá trọng yếu.
“Tôi thật bội phục Cố Quân kia,” Nhã tiên sinh thở dài, “Nếu tôi là hắn, chưa biết sẽ làm ra chuyện gì, hắn lại im ắng xử lý những việc đó, nếu không hôm nay chúng ta lật ra sự thật, sẽ tuyệt đối điên cuồng hơn hiện tại, trú quân các nơi không chừng đã… Họ gọi đó là gì? ‘Thanh quân trắc’ sao?”
Giáo hoàng: “Hiệu quả không lý tưởng lắm, nhưng cũng chẳng có cách nào, thời cơ chỉ thoáng cái là mất, chúng ta đã không còn lựa chọn nào khác. Jacob, chúng ta đều là thú bị nhốt, đều đang tìm một đường sống, không phải ăn thịt kẻ khác thì là bị kẻ khác ăn thịt, vô số đôi mắt đang nhìn chằm chằm vào động vật ăn cỏ to lớn ngon miệng này, chúng ta nhất định phải đi trước một bước, nếu không dăm ba năm sau, không chắc còn đủ sức chiến một trận.” (Tên đầy đủ của Jacob là Jacobsen phiên âm sang tiếng TQ sẽ là Nhã Khắc Bố Sâm)
Nhã tiên sinh dõi nhìn mặt biển mênh mang, xa gần toàn là nước, trời biển một màu, hắn lấy làm khó hiểu hỏi: “Bệ hạ, nếu đây chỉ là một động vật ăn cỏ, tại sao chúng ta phải trăm phương ngàn kế nhổ nanh vuốt của nó?”
“Ăn thịt hay ăn cỏ, không phải khác biệt ở hình thể và nanh vuốt,” Giáo hoàng thì thào, “Ngươi phải xem nó tham lam hay không, có một trái tim khát khao nhai nuốt và cắn xé hay không… Ngươi ngửi được thứ mùi này chưa?”
Nhã tiên sinh ngẩn ra, tử lưu kim độ thuần đủ cao khi cháy cơ hồ không có mùi gì, chắc cũng chỉ có Cố Quân và chó là ngửi được, hắn hỏi dò: “Bệ hạ nói là… mùi tanh của nước biển ạ?”
“Là mùi hôi, trẻ con,” Giáo hoàng thấp giọng nói, “Nếu có ma quỷ tồn tại, vậy nó chắc chắn là loại khoáng vật nho nhỏ này, ngọn lửa màu xanh tím, bắt đầu từ ngày chui từ dưới đất lên, liền đốt bùng thời đại đáng chết này, nó biến lũ trẻ của thần thành tim của thiết quái vật.”
Máy móc dùng tử lưu kim chẳng lẽ không phải là nhân tạo sao?
Nhã tiên sinh nhún vai, không phản bác, nhưng ít nhiều không đồng ý lắm.
Giáo hoàng không giải thích nữa, ngài chỉ cúi đầu, lẩm bẩm mà bắt đầu hôn cái nhẫn vẽ quyền trượng trên tay mình, làm một lời cầu nguyện đơn giản.
“Xin tha thứ,” Ngài nói khẽ, “Xin hãy tha thứ cho tôi.”
Lúc này, trên hải giao tiên phong đột nhiên bùng lên lửa tín hiệu màu lam, lao thẳng lên trời.
Trong mắt Nhã tiên sinh cũng phảng phất hòa vào ánh lửa, hắn miễn cưỡng kiềm chế, nhất thời lại vẫn khó mà kìm nén tâm tình kích động: “Bệ hạ, sắp bắt đầu rồi!”
Đó là năm Long An thứ bảy, mùng tám tháng Tư.
Ngày thứ ba từ khi An Định hầu Cố Quân từ ôn tuyền biệt viện dọn đến thiên lao đế đô.
Trong thiên lao rất mát mẻ, u ám, may mà đế đô vào xuân hơi lạnh đã tan, rất ấm áp rồi, đống cỏ khô trong phòng giam so với giường hành quân còn êm hơn, ở vài ngày cũng không khó chịu, Cố Quân liền coi như đi nghỉ mát.
Bốn bề yên tĩnh, ngay cả một bạn tù để tán dóc bốc phét cũng không có, ngục tốt đều là thiết khôi lỗi, không biết nói – đây là gian trong cùng của thiên lao, không phải hoàng thân quốc thích vương hầu khanh tướng thì không được vào, ngay cả thống lĩnh Bắc đại doanh Đàm Hồng Phi cũng chưa đủ tư cách.
Người có tư cách nhốt ở nơi này lần trước còn là Ngụy vương huynh đệ ruột của Hoàng thượng, Cố Quân hưởng thụ đãi ngộ một gian này, cũng chỉ đành ở một mình.
Nhưng dù có người tán dóc với y, y cũng chẳng nghe thấy – thuốc trước khi đi vội vàng uống đã hết tác dụng từ lâu, màu hai nốt ruồi ở khóe mắt và bên tai nhạt đến cơ hồ không thấy, kính lưu ly cũng chẳng mang theo, mở mắt chắc có thể miễn cưỡng đếm được ngón tay mình, tiếng bước chân thiết khôi lỗi đi ra đi vào cũng rất mơ hồ.
Mấy vật bằng sắt trên người đương nhiên đều bị lục soát lấy hết rồi, nhưng không phải là Cố Quân không có cách.
Y có một ngón nghề bí mật bất truyền – đó là trò chơi lúc còn rất nhỏ y từng chơi với Thẩm Dịch, đấu xem ai có thể tháo linh kiện nhỏ trên khôi lỗi của hầu phủ nhanh nhất, hai đứa quỷ con không có việc gì liền xúm lại nghiên cứu cách tháo rời thiết khôi lỗi trông cửa của hầu phủ, có một lần Thẩm Dịch trốn không kịp, đang làm chuyện xấu thì bị thiết khôi lỗi nhầm là kẻ địch, ném thẳng lên nóc nhà, suýt nữa mất luôn cái mạng nhỏ, đương nhiên, Cố Quân cũng không thể tránh được bị lão Hầu gia đập cho một trận.
Giáo huấn đổ máu không khiến Cố Quân nhớ mùi, ngược lại càng tỏa càng dũng, hai người nghiên cứu tới lui rất lâu, cho rằng nhất định có phương pháp Linh tê nhất chỉ, có thể như bọn móc túi, đi ngang qua là lột luôn một linh kiện. (Linh tê nhất chỉ là tuyệt kỹ thành danh của Lục Tiểu Phụng, bất kể đối thủ dùng binh khí gì, đều bị y dùng ngón trỏ và ngón giữa tay phải kẹp lấy, không thể nhúc nhích.)
Sau đó phát hiện có chỗ tháo được, nhưng giới hạn ở mấy chỗ râu ria như mặt nạ bảo hộ và cánh tay thiết quái vật, bởi vậy tuyệt chiêu đó của Cố Quân thủy chung chưa kịp trổ ra.
Mà trước mắt rốt cuộc có cơ hội thi triển rồi.
Hôm trước lúc ngục tốt thiết khôi lỗi đưa cơm, Cố Quân tay mắt lanh lẹ nhân khi nó bỏ hộp cơm xuống mà thò tay ra, dễ dàng tháo được bảng tên hơi rỉ sét trên khuỷu tay-
Y mài mảnh sắt kia trên đá cho thật mỏng, trước tiên mở xiềng xích ở tay chân, vươn vai duỗi lưng, sau đó lại cắt một đoạn khăn trải giường bện thừng, bắt một con chuột nhỏ nuôi bên cạnh, mỗi bữa cơm bớt hai miếng cho nó ăn, rỗi rãi chơi với chuột.
Việc đó là do kẻ có rắp tâm cố tình lật lại, Cố Quân biết rõ, năm năm trước khi y âm thầm điều tra, từng ra tay xóa đi một số chứng cứ trí mạng, nhưng không hề động tới Ngô Hạc, thứ nhất đó chỉ là một con chó già thoi thóp, thứ hai… e là y không phải không có tư tâm, thật sự không cam lòng cứ thế xóa sạch một chút chân tướng khắc cốt minh tâm kia.
Cố Quân thừa nhận đây là y xử sự không thỏa đáng, nếu năm đó y có một nửa bình tĩnh và khôn khéo của hiện tại thì sẽ hiểu được, hoặc là y nên thu thập mấy thứ đó, chờ thời cơ chín muồi thì đẩy ra, phản quách cho rồi, hoặc là y nên quyết tâm hủy sạch tất cả những gì đã qua, chôn vùi quá khứ ở quá khứ, vĩnh viễn không cho chúng tái xuất hiện.
Ngàn sai vạn sai, y không nên chần chừ vào lúc nên quyết đoán.
Tựa như tiên đế Nguyên Hòa, nếu lão nhân gia không do dự chần chừ như vậy, thì trên đời hẳn đã không còn Cố Quân, và chắc hẳn đã có một loại thái bình khác.
Cố Quân không biết việc này tiếp sau sẽ như thế nào, cũng không biết Trường Canh chim non mới ra ràng liệu có thể thật sự ổn định lòng quân tứ phương hay chăng, nhưng y đang ở trong thiên lao, sầu lo cũng vô dụng, đành phải thoải mái nghỉ ngơi dưỡng sức trước.
Sau đó con chuột phát hiện người này ngứa tay đến đáng ghét, thấy y phiền, lại trốn không thoát, thế là dứt khoát giả chết, không thèm ngó ngàng tới y nữa.
Tiểu Hầu gia mèo ghét chó chê đành phải vô công rồi nghề ngồi dựa tường, cảm thấy thái độ của con chuột này chẳng khác Trường Canh hồi nhỏ là mấy.
Cố Quân lan man nhớ tới Trường Canh, vẫn không nhịn được thở dài, mảnh sắt trên ngón giữa xoay như chong chóng, cảm khái với chuột: “Chẳng thà y cứ ngày ngày chê ta phiền phức còn hơn.”
Chuột cho y một cái mông tròn quay.
Cố Quân hít sâu một hơi, cương quyết gạt sạch chút tạp niệm này, chẳng mảy may chú trọng, thò tay lôi cái chăn rách rưới mốc meo trên đống cỏ khô xuống đắp, nhắm mắt nghỉ ngơi.
Nghỉ cho khỏe, mới có thể đối mặt với con đường gian nguy phía trước.
Không ai có thể làm ồn tới kẻ dở điếc trong thiên lao, Cố Quân nhanh chóng ngủ khò khò, trong mùi mốc meo lạnh lẽo âm u, y mơ một giấc mơ.
Cố Quân mơ thấy mình nằm ngửa mặt dưới một con dao chém khổng lồ, lưỡi dao nặng hơn ngàn cân đè trên ngực, từng chút một cắt qua da thịt tiến vào xương, chém y đang sống sờ sờ ra làm đôi, y và tứ chi mình đều cắt đứt liên hệ, chỉ có một đường vết thương ở ngực, khiến y đau đớn khó chịu nổi, trong tai là tiếng khóc lóc, tiếng pháo ầm ĩ, tiếng gào thét như khóc ở biên thành cùng tiếng sáo tậm tịt ngắt quãng lạc điệu…
Y bị con dao kia chém, nhưng miệng vết thương không có máu, ngược lại rơi ra một mũi tên tín hiệu, gầm rít lao lên phía chân trời, nổ tung làm núi sông chao đảo.
Cố Quân rên khẽ một tiếng choàng tỉnh dậy, vết thương cũ ở ngực tự dưng lại đau, tiếng rít của tên tín hiệu trong mộng có sức xuyên thấu cực mạnh quanh quẩn trong tai, hội tụ thành một luồng ù tai khác biệt.
Giữa y và Huyền Thiết doanh của y phảng phất có một loại cảm ứng kỳ dị, đêm hôm nay, vùng trú quân nơi con đường tơ lụa Tây Vực, mũi tên tín hiệu không may mắn đầu tiên nổ ra muôn vàn sắc màu giữa bầu trời đêm.
Chiến báo khẩn cấp một ngày sau mới đưa đến kinh thành, huyền ưng truyền tin chỉ còn một chân, gượng một hơi tàn, sau khi đến Bắc đại doanh lòng người đang hoảng sợ, chưa kịp nói một câu đã rơi xuống đất mà chết.
Hai canh giờ sau, việc Huyền Thiết doanh ở Tây Vực bị tập kích đã chấn kinh triều dã.
Tin tức kinh thành có biến truyền ra, Hà Vinh Huy lập tức dẫn người bao vây đô hộ sở Tây Bắc, hắn vừa đi thì Khâu Từ quốc liền cho một trăm sáu mươi sa hổ đi đầu, dùng sức mạnh mở doanh địa được huyền kỵ tuần phòng ở cổng vào Tây Vực.
Chiến xa sa hổ là khắc tinh lớn nhất của khinh cừu thiết kỵ binh, nhất thời bụi bay mịt mù, ánh lửa như màn, chiến mã hí dài mà chết, thiết kỵ thành dải ngã xuống.
Song Huyền Thiết doanh dù sao cũng là Huyền Thiết doanh, sau sự hỗn loạn nhất thời, tức khắc có phản ứng. Huyền giáp không chút do dự xông lên, Hà Vinh Huy nhận được tin liền dẫn huyền ưng quay về, quyết đoán kịp thời từ trên không trực tiếp cắt đứt hậu viện của sa hổ – chiến xa cỡ lớn rất hao dầu, một khi tiếp tế gián đoạn thì lập tức thành một đống phế liệu.
Thế nhưng đám sa hổ đến gõ cửa này không hề phô trương thanh thế, phía sau đúng như mọi người lo lắng, lại là mấy vạn đại quân cờ quạt đen ngòm.
Người Tây Dương ở trú địa vạn quốc, chư quốc Tây Vực từng phạm thượng tác loạn, thậm chí người Thiên Trúc thừa nước đục thả câu… còn nhiều hơn họ tưởng tượng. Dẫu là đám ô hợp, cũng là “đám”, sa hổ ở bên, Huyền Thiết doanh chỉ có thể lấy trọng giáp chống đỡ, nhanh chóng đến tình trạng song phương bắt đầu đấu tử lưu kim.
Hà Vinh Huy khẩn cấp mở kho tử lưu kim của đại doanh Tây Vực, mới giật mình phát giác lượng dự trữ đã không còn lại mấy – khi Hoàng đế Long An triệt tra việc buôn lậu tử lưu kim, Cố Quân bất đắc dĩ tạm dừng tuyến ngầm trong tay, mà số lượng triều đình cấp cho Huyền Thiết doanh chỉ đủ duy trì tuần phòng thường ngày, căn bản không ứng phó được chiến dịch quy mô lớn đột nhiên bùng nổ như vậy.
Hà Vinh Huy phái người điều phối, nhưng con đường điều phối tử lưu kim lại lần nữa bị chặn – tin tức An Định hầu vào ngục đã truyền ra, tình huống cụ thể không ai rõ, hiện giờ mọi người đều hoảng sợ, đồn đại gì cũng có, vào lúc sống còn này, ai dám không qua lệnh kích trống mà điều phối tử lưu kim cho Huyền Thiết doanh?
Vạn nhất họ muốn đánh vào kinh thành tạo phản thì sao?
Hà Vinh Huy đành phải một mặt phái huyền ưng vào kinh, một mặt cầu viện quân thành phòng Bắc cương ngay gần đó, song quan truyền lệnh còn chưa lên đường, mười tám bộ lạc ở quan ngoại Bắc cương đột nhiên nổi loạn, tin tức Lang vương Gia Lai Huỳnh Hoặc thân chinh Nam hạ đập xuống cái rầm.
Năm năm yên ổn, ngoài bức tường sắt vậy mà đã long trời lở đất.
Gia Lai Huỳnh Hoặc dẫn mấy vạn tinh binh, hơn một ngàn trọng giáp, thậm chí còn có một loại “ưng” khó lòng phòng bị, so với huyền ưng còn lớn hơn, lực sát thương mạnh hơn, cắn tới biên phòng Bắc cương kéo dài ngàn dặm, đuôi to khó vẫy.
Tây Bắc thất thủ không thể cứu vãn, không có chủ soái An Định hầu hạ lệnh, Huyền Thiết doanh cho dù chết trận đến người cuối cùng cũng không dám lui nửa bước, Hà Vinh Huy cầm cự ba ngày hai đêm, quân bị đánh đến thấy đáy, nhánh thần binh do sức ba đời tạo ra sắp sửa mất quá nửa.
Mà đúng lúc này, tín sứ của Trường Canh rốt cuộc đã đến.
Vị điện hạ xa tận kinh kỳ bất hiển sơn bất lộ thủy này cầm tư ấn của Cố Quân, bắt chước như in bút tích của Cố Quân.
Y giao cho tín sứ tổng cộng hai phong thư – nếu biên quan còn an ổn, thì giao phong thứ nhất, bảo Hà Vinh Huy không cần cố kỵ triều đình, không cần biết là từ chợ đen hay dùng thủ đoạn khác, lập tức bí mật làm đầy kho tử lưu kim Tây Vực, tu chỉnh quân giáp, chuẩn bị đánh một trận bất cứ lúc nào.
Vạn nhất biên cương đã sinh biến, thì giao phong thư thứ hai cho Hà Vinh Huy, bảo hắn không được tử thủ, không được ham chiến, nhanh chóng co cụm binh lực rút về hướng Đông hai trăm dặm vào Gia Dự quan, chờ đợi viện quân.
Địch nhân nấp trong tối đã động thủ, lúc này ra tay, chắc chắn đã muộn, Trường Canh không có huyền ưng, người dựa vào chim gỗ của Lâm Uyên các để liên lạc quá có hạn, vô luận trời sập hay đất sụt, tín sứ cũng khó lòng chạy đến ngay lập tức, bởi vậy y đã nghĩ đến tình huống tệ nhất, cố gắng hết mức mất bò mới lo làm chuồng.
Nếu Tây Vực sinh biến, Bắc cương tất khó có thể chỉ lo thân mình, bởi vậy khi Huyền Thiết doanh lui thủ, Thái Phân tướng quân Thống soái trú quân Trung Nguyên đồng thời nhận được một phong thư khác của Trường Canh, thỉnh tăng binh lên hướng Bắc, và cố hết sức điều động tử lưu kim trọng binh dự trữ đến Gia Dự quan, giải mối nguy sém lông mày.
Nhưng Trường Canh cũng hiểu rõ, vạn nhất thực sự xảy ra chuyện, thì chút bộ thự này còn thiếu nhiều lắm.
Y không cách nào khống chế thập vạn đại sơn Tây Nam, mặc dù Thẩm Dịch ở bên kia, nhưng là Thống soái chức suông, không hề có căn cơ, căn bản không thể tự tiện điều binh khiển tướng trong tình huống chưa có lệnh kích trống, thủy quân Giang Nam tuyến Đông Hải càng đáng lo hơn, bởi Triệu Hữu Phương tướng quân là người của Lý Phong, không thể vì một tư ấn của Cố Quân mà điều động.
Mà Trường Canh có dự cảm, dù cho y có thể đỡ trái hở phải dập tắt lửa ở nơi khác, giữa Đông Hải mênh mông nhất định ẩn tàng một kích trí mạng.
Tin dữ đến từ huyền ưng quả nhiên xác thực thiết tưởng tệ nhất của y, Trường Canh hít sâu một hơi, thả con chim gỗ cuối cùng, quay đầu lại nói với Hoắc Đan mọc mấy cái mụn liền ở miệng: “Chuẩn bị ngựa, ta muốn vào cung.”
Trường Canh bị Liễu Nhiên hòa thượng chặn lại ngay cửa cung, Liễu Nhiên gió bụi mệt nhoài, nhưng sắc mặt vẫn chẳng gợn sóng, tựa hồ lửa sém mông cũng có thể tan trong vết sẹo hương chỉnh tề của hắn, bị một tiếng Phật hiệu dập tắt.
Liễu Nhiên: “A di đà Phật, tứ điện hạ…”
Trường Canh hờ hững ngắt lời hắn: “Đại sư không cần nhiều lời, ta vào cung chờ lệnh, không phải đi bức cung.”
Liễu Nhiên hơi biến sắc, ra dấu nói: “Bần tăng tin tưởng điện hạ có chừng mực.”
“Ta không hề có chừng mực,” Tứ điện hạ giỏi tài ăn nói lại xé phăng khuôn mặt nhã nhặn, nói thẳng, “Từ Tần Lĩnh chia nam bắc, vùng Đông Nam và Tây Nam không ở trong khống chế, dù ta có thể đương trường làm thịt Lý Phong, cũng không thu dọn được loạn cục trước mắt, huống chi trước mắt chẳng ai có thể kế vị, hoàng trưởng tử mới chín tuổi, hoàng hậu căn bản là ma ốm đẹp mà vô dụng, Tử Hi danh bất chính ngôn bất thuận, ta…”
Y cười khẩy một tiếng: “Ta thì là con trai của yêu nữ Bắc man.”
Liễu Nhiên sầu lo nhìn y.
“Đại sư yên tâm, ta vốn đã là một độc vật, nếu tùy hứng thêm chút nữa, chắc đã bắt đầu hại nước hại dân từ lâu rồi, nhưng không phải ta còn chưa làm gì sao?” Thần sắc Trường Canh lại lần nữa nhạt đi, “Hiện tại cũng không phải là lúc để nói những điều này, ngoại địch xâm phạm, chắc hẳn ủ mưu đã lâu, việc này vẫn chưa xong, có điều họ phản ứng quá nhanh, ta hoài nghi trong cung… thậm chí bên cạnh Lý Phong có nội ứng của địch nhân, Lâm Uyên các ở trong cung có ai dùng được không?”
Liễu Nhiên thần sắc nghiêm túc, ra dấu: “Ý điện hạ là…”
Trường Canh: “Việc này liên lụy đến cựu án hai mươi năm trước, tất không thoát được can hệ với Bắc man, tra những người hai nữ nhân Bắc man năm đó ở trong cung từng tiếp xúc – bất cứ ai, vu nữ Bắc man giỏi dùng độc, có rất nhiều thủ đoạn hèn hạ, một chút manh mối cũng không được bỏ qua.”
Lúc nói “hai nữ nhân Bắc man”, giọng y bình tĩnh, giống như đó là người chẳng có quan hệ gì với y.
“Ta sớm nên cảm thấy kỳ lạ,” Trường Canh thấp giọng nói, “Năm ấy Lý Phong dễ dàng đưa Gia Lai Huỳnh Hoặc thả hổ về rừng như vậy, phía sau quả nhiên không hề đơn giản, đáng tiếc…”
Đáng tiếc năm ấy y còn quá nhỏ, trong lòng dạ chỉ bằng nắm tay chứa được mỗi một chút ưu phiền của thiếu niên xa xứ.
“Nếu ta sinh ra sớm mười năm…” Trường Canh đột nhiên nói.
Liễu Nhiên nheo mắt.
Trường Canh ngắt từng chữ: “Thiên hạ tuyệt đối không phải thiên hạ này.”
Cố Quân y cũng tuyệt đối không buông tay.
“Tử Hi từng nói, triều ta hải giao lạc hậu hơn quân chủng khác mười năm, ta lo Đông Hải không yên bình, Triệu tướng quân có tài thủ thành, nhưng chưa chắc ứng phó được đại chiến,” Trường Canh nói, “Ta đã viết thư cho sư phụ, Lâm Uyên các ở vùng Giang Nam nền móng vững chắc, làm phiền đại sư tiếp ứng, xin lỗi không bồi được – đi!”
Liễu Nhiên hòa thượng hiếm khi nhíu mày, không biết vì sao, tiếng “Tử Hi” của Trường Canh khiến hắn kinh hồn táng đảm.
Song trước mắt lửa sém lông mày, không phải lúc nhì nhằng trên một cách xưng hô, hòa thượng mặc áo gai vải thô, thân ảnh giây lát tan vào nắng mai, nhanh chóng đi mất.
Trường Canh vừa vào cung, tin tức xấu đã ập xuống đầu, quân tình tiền tuyến liên tiếp khiến Hoàng đế Long An và cả triều văn võ đều không kịp trở tay-
Huyền Thiết doanh đã rút khỏi Gia Dự quan.
Bắc cương một đêm mất bảy tòa thành trì… thậm chí không thể đợi được viện quân của Thái Phân.
Bạo dân Nam Cương như đã thương lượng, cấu kết với giặc cỏ Nam Dương, xuất quỷ nhập thần nổ kho quân nhu Tây Nam…
“Báo-“
Mọi người trên đại điện sắc mặt xanh mét nhìn ra cửa, Lý Phong thậm chí không kịp để Trường Canh chào.
“Hoàng thượng, cấp báo tám trăm dặm, có mười vạn thủy quân Tây Dương mượn đường chư đảo Đông Doanh đến xâm phạm-” (Cấp báo 800 dặm tức là mỗi ngày đi 800 dặm, đây là công văn khẩn cấp cao nhất)
Lý Phong trợn trừng mắt: “Triệu Hữu Phương đâu?”
Sứ giả đập đầu xuống đất, nghẹn ngào thành tiếng: “… Triệu tướng quân đã tuẫn quốc rồi.”
|
Chương 58: Huyền đao
(Thanh đao treo lơ lửng)
Lý Phong loạng choạng, Trường Canh mặt không biểu cảm nhìn hắn ngã ngồi trên vương tọa kim điện, ngoài lý trí bỗng nhiên trỗi lên khoái ý tàn nhẫn, song y hết sức hà khắc với mình, chỉ một chớp mắt, liền thản nhiên bấm lòng bàn tay mình, dằn khoái ý thị huyết kia xuống – Y biết đó là do Ô Nhĩ Cốt gây chuyện, không hề là bản tâm.
Trường Canh mở miệng không thành tâm lắm: “Hoàng huynh bảo trọng.”
Giống như người ở sau lưng nói “phải thịt Lý Phong” không phải là y vậy.
Nhạn Bắc vương vừa lên tiếng, văn võ bá quan ngây ra như phỗng trên đại điện lập tức có phản ứng, nhao nhao phụ họa: “Hoàng thượng bảo trọng.”
Tầm mắt Lý Phong chậm rãi dừng ở Trường Canh – trên danh nghĩa, đây là đệ đệ duy nhất của hắn, hắn lại không thường có thể chú ý tới y. Từ khi tứ điện hạ Lý Mân phong vương vào triều tới nay, trên triều đường hầu như không lên tiếng, cũng không cố ý kết giao triều thần, thậm chí chưa từng mượn ngọn gió đông của Cố Quân để bắt chuyện với các võ tướng, chỉ thỉnh thoảng đàm luận thi thư với mấy hàn lâm nghèo thanh bần.
Trường Canh như chẳng mảy may chú ý tới ánh mắt hắn, mặt không đổi sắc nói: “Triệu tướng quân tuẫn quốc, Đông Hải không còn thành chắn, người Tây Dương vừa đi về hướng Bắc là lập tức có thể bức thẳng cảng Đại Cô, việc đã đến nước này, nói gì cũng muộn rồi, xin hoàng huynh gạt đi tạp niệm, sớm định đoạt.”
Đâu phải Lý Phong không biết, chỉ là lòng rối như tơ vò, nhất thời nói không nên lời.
Lúc này, Vương quốc cữu nhiều ngày liền bị đồn đãi ngoài đường giày vò đến mặt xám mày tro dò xét sắc mặt Hoàng đế, bạo gan góp lời: “Hoàng thượng, kinh giao chỉ có một Bắc đại doanh, xung quanh đều là bình nguyên bằng phẳng, nếu lúc này chạm trán, binh lực bên ta nhất định không đủ. Hơn nữa, chuyện Đàm Hồng Phi mưu phản còn chưa kết luận, Bắc đại doanh cơ hồ không người thống lĩnh, nếu quần giao Giang Nam toàn quân bị diệt, Bắc đại doanh thì được sao? Còn ai có thể bảo vệ hoàng thành bình an? Kế hoạch trước mắt… không bằng… A…”
Vương Quả chưa nói xong lời này, bởi vì ánh mắt chúng võ tướng trên đại điện đều như bạch hồng tiễn ghim vào người lão.
Lão già này còn chưa chùi sạch mông mình, mà hơi có gió thổi cỏ lay là lại cả gan xúi giục Hoàng thượng dời đô – giả như không phải ngoại ưu nội hoạn, chỉ sợ mọi người sẽ xẻ thịt lão mà ăn luôn.
Vương Quả chán chường nuốt nước bọt, khom lưng không dám thẳng dậy.
Thần sắc Lý Phong không rõ buồn vui, im lặng chốc lát, bỏ xó Vương quốc cữu, chỉ nói: “Để Đàm Hồng Phi quan phục nguyên chức, cho hắn cơ hội lập công chuộc tội… Trẫm gọi các ngươi tới là nghị sự, kẻ nào còn đánh rắm, thì cút ra cho trẫm!”
Hoàng thượng trong tình thế cấp bách ngay đến lời thô tục ngoài chợ cũng gầm ra, cả đại điện lặng ngắt như tờ, mặt Vương Quả thoắt đỏ thoắt trắng.
Lý Phong hơi nóng nảy chuyển hướng sang Binh bộ Thượng thư: “Hồ ái khanh, ngươi quản lý Binh bộ, nắm lệnh kích trống, ngươi nói đi.”
Binh bộ Thượng thư trời sinh mặt mày xanh xao, mặt dài hai thước, tên “Hồ Quang”, nghe lại hơi giống “hồ qua” (quả bầu), thế nên có người lén gọi hắn là “Hồ Qua Thượng thư”.
Hồ Qua Thượng thư nghe Lý Phong nói vậy, mặt mày nhăn nhó như trái khổ qua – Lệnh kích trống trên danh nghĩa là do Binh bộ ký phát, nhưng Binh bộ khi không dám tùy tiện phát à? Hắn chỉ là một cây bút trong tay Hoàng thượng, bút cũng dám có ý kiến sao?
Hồ Quang lau mồ hôi lạnh, yếu ớt mà nghĩa chính ngôn từ: “A… Hoàng thượng nói đúng, kinh kỳ là nơi gửi gắm quốc tộ Đại Lương ta, càng là nơi vạn dân hướng về, sao có thể để bọn mũi lõ xông vào? Còn ra thể thống gì! Chúng ta dù còn một binh một tốt, cũng phải tử chiến đến cùng, trước mắt rút lui giữa chừng, chẳng phải là dao động lòng quân?”
Lý Phong thật sự không kiên nhẫn nghe mấy lời vô nghĩa như bánh xe quay tròn của hắn, liền ngắt ngang: “Ta bảo ngươi nói cách đánh như thế nào!”
Hồ Quang: “…”
Mọi người đều đang trừng Vương Quả, nhưng Vương Quả nói đúng, nếu Thống soái thủy quân Giang Nam cũng đã tuẫn quốc, vùng Đông Hải ai làm tướng được? Quần giao tan tác, làm sao động binh đây?
Vạn nhất người Tây Dương tiến về phương Bắc, Bắc đại doanh và Ngự lâm quân có thể ngăn được mấy đợt pháo?
Xét từ mặt nào đó, Vương Quả cũng coi như có dũng khí, ít nhất lão đã nói ra tình hình thực tế mà mọi người không dám nói.
Hồ Quang tức thì thành một trái khổ qua thối, đầu ròng ròng mồ hôi lạnh như chảy nhựa.
Đúng lúc này, Trường Canh thình lình lên tiếng.
Nhạn Bắc vương trẻ tuổi tiến lên nói: “Hoàng huynh có muốn nghe một lời của ta?”
Hồ Quang ném ánh mắt cảm kích về hướng Trường Canh, Trường Canh ôn văn nho nhã nở nụ cười nhẹ với hắn: “Hoàng huynh trước tiên hãy bớt giận, nước đổ khó hốt, người chết cũng không thể sống lại, khốn cảnh của biên cảnh tứ phương đã thành sự thật, tranh luận nổi giận đều vô dụng, thay vì loạn trận cước, chi bằng chúng ta nghĩ xem còn cách nào sửa chữa.”
Chắc do y đi theo hòa thượng lâu ngày, trên người không dính mảy may khói lửa, ngọc thụ lâm phong đứng trước điện, tĩnh đến thấm vào ruột gan, lửa giận phừng phừng cũng không khỏi bình ổn theo.
Lý Phong âm thầm thở ra một hơi, khoát tay nói: “Ngươi nói đi.”
Trường Canh: “Trước mắt Trung Nguyên tứ phương khởi hỏa, binh mã đã động, lương thảo lại chưa xong, không khỏi tái xuất hiện cảnh tiếp viện quay vòng không được, thần đệ xin hoàng huynh mở quốc khố, đem toàn bộ tử lưu kim cấp xuống, đây là thứ nhất.”
“Đúng, ngươi đã nhắc tỉnh trẫm,” Lý Phong quay sang Hộ bộ, “Lập tức sai người sắp xếp…”
“Hoàng huynh,” Trường Canh không nhanh không chậm cắt ngang, “Thần nói là cấp xuống toàn bộ – thời điểm đặc biệt thế này, lệnh kích trống đã thành cản tay, các tướng quân còn bị đeo xiềng xích, chẳng lẽ hoàng huynh muốn trói họ lên chiến trường sao?”
Lời này đổi thành bất cứ một ai khác nói, đều là mạo phạm mười phần, nhưng không biết vì sao, từ miệng Nhạn Bắc vương nói ra, lại khiến người ta không nổi giận được.
Hồ Quang mới bị bỏ xó vội hùa theo: “Thần tán thành.”
Không đợi Lý Phong mở miệng, phía Hộ bộ đã ầm lên, Hộ bộ Thị lang lên giọng nói: “Hoàng thượng, tuyệt đối không thể, lúc này cấp tử lưu kim xuống quả thật là giải mối nguy sém lông mày, nhưng thần nói một câu không lọt tai, vạn nhất kéo dài, ngày hôm nay chưa qua được, sau này phải làm thế nào? Năm Dần ăn lương năm Mão sao?”
Thống lĩnh Ngự lâm quân có lẽ rất muốn cắt đầu Thị lang đại nhân xuống dốc nước ra, lập tức phản bác: “Cường đạo đã đánh tới cửa, mà trong đầu chư vị đại nhân vẫn chi li tính toán, mạt tướng thật sự được mở mắt rồi – Hoàng thượng, lửa sém lông mày không dập, còn nói gì ‘cứ thế mãi’, vạn nhất tứ cảnh bị vây chết, chỉ dựa vào chút ít quặng tử lưu kim trong nước, quật ba thước đất cũng không lâu dài nổi!”
Hồ Quang như sợ không xen vào được, lại đỏ mặt tía tai hét lên theo: “Thần tán thành!”
Trường Canh còn chưa nói đến cách đẩy lùi quân địch, đã gây ra một cuộc tranh cãi, chính y ngược lại không lên tiếng, kiên nhẫn đứng yên ngoài cuộc, chờ họ kết thúc trận đấu võ mồm.
Lý Phong muốn nứt cả não, đột nhiên cảm thấy “rường cột” cả triều đều nhìn chằm chằm mảnh đất một mẫu ba lông gà vỏ tỏi, cách cục trên dưới cộng lại chẳng to bằng cái bát, nếu đuổi hết đến ngự thiện phòng, không chừng có thể cãi nhau ra một mâm món mới vĩ đại như sơn hà cẩm tú.
“Đủ rồi!” Lý Phong chợt quát một tiếng.
Xung quanh im lặng, Trường Canh đúng lúc tiếp tục: “Thần đệ còn chưa nói xong, thứ hai là hoàng huynh phải chuẩn bị sẵn sàng co cụm binh lực.”
Lời này vừa ra, quần thần lại lần nữa ồ lên, cơn giận của thiên tử cũng áp không được phía dưới om sòm vang trời, có mấy lão đại nhân trông như chuẩn bị lập tức đâm đầu vào cột vậy.
Khóe mắt Lý Phong giật một cái, lửa giận xộc lên tận cổ, miễn cưỡng dằn xuống không trút vào Trường Canh, hắn nhíu mày như nén giận, thấp giọng cảnh cáo: “A Mân, có một số lời ngươi nghĩ kỹ hẵng nói, liệt tổ liệt tông truyền giang sơn đến tay trẫm, không phải để trẫm cắt đất tự hổ.”
Trường Canh mặt không đổi sắc nói: “Thần đệ muốn thỉnh hoàng huynh sờ thử hầu bao, triều ta hiện giờ dốc hết quốc lực có thể giữ được bao nhiêu cương thổ? Đây không phải là cắt đất tự hổ, mà là tráng sĩ đoạn cổ tay, khi nên đoạn không thể không đoạn, chỉ sợ phải đợi trúng độc đã sâu, toàn cảnh bị người Tây Dương đánh tơi bời mới chịu đoạn.”
Giọng điệu nhạt nhẽo như đọc Luận ngữ tựa một chậu nước lạnh, hắt xuống đầu Lý Phong không lưu tình chút nào.
Trường Canh không ngẩng đầu nhìn sắc mặt Hoàng thượng, tiếp tục: “Thứ ba, Vương đại nhân nói không sai, trước mắt Tây Bắc có Huyền Thiết doanh tọa trấn, dù cho tổn thất nặng nề, vẫn có thể cố gắng, lửa sém lông mày chính là binh biến Đông Hải, một khi người Tây Dương tiến về phương Bắc, Bắc đại doanh chiến lực đáng lo, xa gần viện binh đều bị giam chân, vị tất chạy tới kịp, đến lúc đó hoàng huynh định làm thế nào?”
Lý Phong chớp mắt bị lời y nói ép già đi hàng chục tuổi, suy sụp rất lâu, hắn rốt cuộc mở miệng: “Tuyên… mời hoàng thúc đến.”
Trường Canh nghe thấy ý chỉ này, mắt cũng chẳng hề chớp, không hân hoan cũng không oán phẫn, giống như hết thảy đều là chuyện thuộc bổn phận, hợp tình lý.
Chúc Chân Nhỏ thở mạnh cũng không dám mà đáp một tiếng, đang toan đi thì Trường Canh đột nhiên mở miệng nhắc nhở: “Hoàng thượng, dẫn người khỏi thiên lao, chỉ phái Chúc công công tuyên, không khỏi như trò đùa.”
Y đã theo bản năng không tin bất cứ nội thị nào bên cạnh Lý Phong, kể cả kẻ trên danh nghĩa vẫn âm thầm giúp đỡ Cố Quân này.
Lý Phong uể oải nói: “Lúc nào rồi mà còn để ý những hư lễ này – Giang ái khanh, ngươi thay trẫm đi một chuyến.”
Chúc Chân Nhỏ cất bước nhỏ đuổi theo Giang Sung, không khỏi từ xa nhìn Trường Canh một cái.
Hắn là lão nhân trong cung, Đại Lương hiện nay cả triều văn võ, vương hầu khanh tướng đếm được, không có ai là hắn không quen thuộc, độc mỗi Nhạn Bắc vương này, từ nhỏ được Cố Quân che chở kín kẽ trong hầu phủ, lớn lên lại “không làm việc đàng hoàng” mà du lịch bốn phương, rất ít lộ diện, trừ xen lẫn trong một đám người vào triều nghe chính sự, y thậm chí không hay một mình tiến cung, cùng lắm là ngày lễ ngày tết theo Cố Quân đến thỉnh an… Mọi người cơ hồ không mảy may biết gì về y.
Không mảy may biết gì, có nghĩa là biến số.
Giang Sung và Chúc Chân Nhỏ ngựa không dừng vó, xuất cung chạy thẳng đến thiên lao, sắp tới nơi thì Chúc Chân Nhỏ đột nhiên nhớ ra, léo nhéo nói: “Không được, Giang đại nhân à, Hầu gia phải vào cung gặp thánh, mặc tù phục thì ra thể thống gì? Hay là ta lập tức kêu người xem thử triều phục nhất phẩm hầu năm nay mới may, đi lấy một bộ tới?”
Trong đầu Giang Sung đang tràn đầy bi phẫn khi nước mất nhà tan, đột nhiên bị giọng của lão thái giám kia kéo hồn về, dở khóc dở cười nói: “Chúc công công, lúc nào rồi mà ngài còn nghĩ đến những việc vụn vặt này, ta…”
Hắn còn chưa dứt lời, liền thấy một người thúc ngựa đến, chớp mắt đã tới trước mắt, xuống ngựa thi lễ bái, chính là Hoắc Đan thống lĩnh gia tướng hầu phủ.
Hoắc Đan nhanh nhẹn chắp tay: “Giang đại nhân, Chúc công công, tiểu nhân là gia nô phủ An Định hầu, phụng mệnh điện hạ nhà ta, đưa vật này cho Hầu gia.”
Nói đoạn, hai tay dâng một bộ triều phục và khôi giáp.
Giang Sung giật mình – Nhạn Bắc vương mặc dù vừa nhìn đã thấy là một người cẩn thận, nhưng có cần chi tiết đến mức này không?
Vị điện hạ kia đang đề phòng ai?
Cố Quân trong thiên lao đang chán muốn chết mà xách đuôi con chuột ú kia để nó đu đưa, nhận thấy hướng gió sau lưng bất thường, y hơi kinh ngạc quay đầu lại, mơ hồ nhìn thấy ba bóng người từ ngoài xông vào, kẻ dẫn đầu đi như gió, tựa hồ còn mặc triều phục.
Tiếp đó, cửa lao đóng kín mở rộng ra, mùi cung hương đặc biệt xộc vào mũi Cố Quân, còn lẫn mùi đàn hương riêng biệt trên người Lý Phong.
Cố Quân híp mắt, nhận ra kẻ cao to vạm vỡ chính là Chúc Chân Nhỏ.
Nếu là muốn thẩm vấn y, quyết không có đạo lý trực tiếp phái Chúc Chân Nhỏ tới, loại người như Lý Phong cũng không thể tự tát vào mặt mình, thay đổi xoành xoạch mà bắt rồi lại thả, như vậy chỉ có thể là…
Nụ cười trên mặt biến mất, Cố Quân thầm nghĩ: “Xảy ra chuyện gì rồi?”
Giang Sung nhanh chóng nói câu gì đó, Cố Quân căn bản không nghe thấy, chỉ bắt được vài từ “địch tập… triệu…”, chẳng hiểu gì hết, đành phải mù mờ giả bộ ổn trọng khi Thái Sơn đổ mà bất động, lấy bất biến ứng vạn biến mà gật đầu.
Giang Sung bị sự trấn định bất động như núi của y ảnh hưởng, nhất thời cảm thấy rất vững vàng, sự lo âu chợt nóng chợt lạnh tràn lòng rơi hết xuống bụng, suýt nữa rớt nước mắt: “Đại Lương có lương trụ như Hầu gia, quả thật là may mắn của vạn dân.”
Cố Quân mù tịt nghĩ bụng: “Mẹ ơi, lại nói gì nữa vậy?”
Ngoài mặt lại chỉ tùy tay vỗ vai Giang đại nhân, nhanh nhẹn phân phó: “Dẫn đường đi.”
May mà lúc này Hoắc Đan tiến lên một bước, dâng triều phục cho y, đồng thời tháo một bầu rượu trên hông: “Điện hạ bảo ta mang cho Hầu gia xua hàn.”
Cố Quân mở nắp ngửi qua liền biết là thuốc, tức khắc như được đại xá thở phào nhẹ nhõm, uống một hơi cạn sạch.
Hoắc Đan thuần thục giúp y thay quần áo, tốt xấu gì cũng tươm tất hơn, đoàn người lao thẳng vào cung, An Định hầu vừa điếc vừa mù miễn cưỡng đi chung, lần đầu tiên ngóng trông thuốc mau có tác dụng như vậy.
Cho tới khi họ chạy đến chân tường cung, tai Cố Quân mới như kim châm mà chậm rãi khôi phục tri giác.
Y thản nhiên đưa tay ra hiệu cho Hoắc Đan, Hoắc Đan hiểu ý, vội tiến lên hai bước, kề tai y, lặp lại một lần đầu đuôi ngọn ngành những lời Giang Sung nói trong thiên lao.
Cố Quân chưa kịp nghe xong, cái đầu vốn đau muốn nổ tung “uỳnh” một tiếng đứt dây, hoa vàng nhảy nhót trước mắt, bước chân hoảng loạn lảo đảo, Hoắc Đan đỡ lấy tay y: “Đại soái!”
Giang Sung giật mình đánh thót, không biết An Định hầu vừa rồi còn trấn định đến khác người đột nhiên bị bệnh gì, thấy sắc mặt Cố Quân khó coi như người chết, vội căng thẳng hỏi: “Hầu gia, sao vậy?”
“Huyền Thiết doanh thiệt hại quá nửa”, “Bắc cương đại quan liên tiếp thất thủ”, “Triệu tướng quân tuẫn quốc”, “Kho quân nhu Tây Nam bị nổ”… Dăm ba câu ấy hóa thành những lưỡi đao trí mạng, xoay tròn chui vào tứ chi bách hài của Cố Quân, ngực y đau nhói một trận, trong cổ trào lên vị tanh ngọt.
Gân xanh hơi lồi lên thái dương y, mồ hôi lạnh theo thái dương chảy xuống, ánh mắt lại có chút rời rạc, tuy Giang Sung biết dù ở thiên lao cũng không ai dám tra tấn An Định hầu, vẫn rất lo sợ: “Hầu gia sao vậy? Cần hạ quan kêu bộ liễn đến không? Ngự y đâu?”
Cố Quân hơi loạng choạng.
Giang Sung: “Hiện giờ an nguy của Đại Lương nằm cả trên vai Hầu gia, ngài tuyệt đối không thể có gì bất trắc!”
Câu này như sấm sét xẹt qua tai Cố Quân, ba hồn bảy phách sắp sửa bay ra tứ phương chấn động mạnh, khắc cốt minh tâm mà tụ về cột sống thông thiên triệt địa kia, Cố Quân nhắm mắt, miễn cưỡng nuốt một búng máu xuống.
Khựng lại một lúc, dưới ánh nhìn chăm chú của Giang Sung đang kinh hồn bạt vía, y điềm nhiên như không mà khàn khàn cười nói: “Vài ngày không thấy mặt trời, hơi đau đầu – không sao, bệnh cũ thôi.”
Nói đoạn Cố Quân cúi đầu chỉnh qua khinh giáp trên người, rút tay ra khỏi tay Hoắc Đan, ném con chuột xám vẫn nằm trong tay cho hắn, dặn dò: “Đây là huynh đệ chuột quá mệnh của ta, tìm chút thức ăn cho nó, đừng để chết đói.”
Hoắc Đan: “…”
Nói xong, Cố Quân quay người cất bước đi vào trong cung.
Lúc này trong đại điện Kim Loan, dăm ba câu của Trường Canh dẫn đến một cuộc hỗn chiến võ mồm, khi Chúc Chân Nhỏ giọng cao vút hô lên chói tai “An Định hầu vào cung yết kiến”, tất cả đều tắt ngóm, trên đại điện nhất thời im lặng như chết chóc.
Cố Quân vừa ngẩng đầu lên liền bắt gặp ánh mắt Trường Canh, tầm mắt hai người chỉ chạm qua, y đã nhìn thấy gió cuốn mây vần thiên ngôn vạn ngữ khó mà miêu tả một phần trong mắt Trường Canh.
Lập tức, Cố Quân mục hạ vô nhân tiến lên hành lễ, dáng vẻ bình thản giống như y không phải từ thiên lao tới, mà là mới ngủ ngày trong hầu phủ vậy.
Lý Phong lập tức tuyên bố tan triều, đuổi hết đám to mồm và thùng cơm cãi nhau om sòm ra ngoài, chỉ để lại Cố Quân, Trường Canh cùng chúng tướng lĩnh, suốt đêm thương thảo chỉnh đốn phòng ngự kinh thành.
Phụng Hàm công ở nhà phản tỉnh không thể không xuất sơn lần nữa, cả Linh Xu viện đèn đuốc sáng trưng, tăng ca sửa chữa chiến bị hiện còn ở kinh thành.
Suốt một ngày một đêm, cho đến khi lại qua một canh bốn, vầng dương đã ló dạng nơi chân trời, Lý Phong quầng mắt đen sì mới cho họ về.
Trước khi đi, Lý Phong một mình gọi Cố Quân lại.
Trong đại điện, kẻ hầu đều bị cho lui, chỉ có một quân một thần đối mặt, Lý Phong trầm mặc rất lâu, cho đến khi cung đăng cảm giác được ánh dương tự động tắt “phụt” một tiếng, Lý Phong định thần lại, thần sắc phức tạp nhìn Cố Quân một cái, mập mờ nói: “… Oan ức cho hoàng thúc rồi.”
Cố Quân đã thuộc làu làu một bụng lời hình thức, không cần qua đầu óc đã có thể bật ra.
Mấy lời nhảm nhí như “Lôi đình mưa móc đều là quân ân”, “Chết vì xã tắc thì oan ức gì” đã kín kẽ xâu chuỗi dưới miệng lưỡi trơn tru.
Nhưng đột nhiên, đầu lưỡi y như cứng lại, cố gắng mấy lần cũng chẳng nói được, đành phải thoáng nở nụ cười với Hoàng đế Long An.
Nét cười cứng ngắc khó nói thành lời, có vẻ hơi xấu hổ.
Nhất thời hai người thật sự chẳng có gì để nói, Lý Phong thở dài phất tay.
Cố Quân cúi đầu cáo lui.
|
Chương 59: Nghênh chiến
Lúc Cố Quân ra khỏi đại điện, mắt hơi hoa, y không biến sắc đứng lại thở hổn hển mấy hơi, từ lúc chào đời tới nay lần đầu tiên cảm thấy khinh giáp chỉ mấy chục cân nặng nề như vậy.
Tiềm lực của con người trong tình huống nguy cấp đại khái là vô cùng, Cố Quân cố chịu cơn đau đầu bình thường có châm có giường còn khó nén, bận rộn một ngày một đêm trong kim điện, chưa cảm thấy thế nào thì đã qua đi. Nhưng lúc này vừa đi ra, y mới phát hiện cả người hư thoát, quần áo cơ hồ dính bết lên người, gió nhẹ mang theo sương sớm mới thổi qua, y đã xây xẩm mặt mày mà rùng mình.
Ban nãy trên trời còn có chút ánh dương, lúc này chớp mắt đã bị mây đen che khuất, nắng sớm le lói.
Trường Canh đứng ở cổng chờ y, đưa lưng về phía cung vàng điện ngọc tầng tầng lớp lớp như tiên cung, tay áo triều phục của Nhạn Bắc vương tung bay, từ đằng xa chăm chú nhìn về hướng Khởi Diên lâu, không biết đang nghĩ gì.
Nghe thấy tiếng bước chân, Trường Canh mới quay đầu lại, liếc nhìn sắc mặt Cố Quân, nhíu mày nói: “Xe ngựa đang chờ bên ngoài, người nghỉ ngơi một chút đi.”
Cố Quân tâm thần đều mệt lử, qua loa đáp một tiếng.
Trường Canh: “Vị kia giữ người lại nói gì vậy?”
Cố Quân nhạt nhẽo đáp: “Chuyện phiếm… lời thừa.”
Trường Canh nhận thấy y không còn sức lực để nói nhiều, liền không mở miệng nữa, im lặng đi một mạch về hầu phủ.
Mới sáng sớm đã có vô số thẻ lệnh phát xuống, lục bộ địa phương đều phải hành động theo, họ đều biết, đây có khả năng là thời gian nghỉ ngơi chỉnh đốn còn sót lại.
Cố Quân vừa vào phòng thì đầu gối liền nhũn ra, lảo đảo ngã vật xuống sập.
Giáp trụ chưa cởi, nện xuống cái “Rầm” như vậy, nửa người đều tê rần, cả nóc nhà xoay vòng vòng trước mắt, Cố Quân có ảo giác như mình không bò dậy được nữa.
Trường Canh nắm mạch môn của y, đôi tay vừa nãy còn lạnh ngắt lúc này nóng đến đáng sợ, giống như mới lôi ra từ chậu than: “Nghĩa phụ, người bắt đầu phát sốt từ khi nào, bản thân có biết không?”
Cố Quân rên khẽ một tiếng, từ xương cốt rỉ ra sự mệt mỏi, mí mắt nặng trĩu nâng không nổi, khó khăn hỏi: “Vị tiểu huynh đệ kia của ta còn khỏe mạnh không?”
Trường Canh: “… Ai ạ?”
Hoắc Đan theo sau vội đáp một tiếng, xách con chuột xám loi nhoi như giòi giấu trong lòng ra: “Đại soái, sống rất khỏe nhé.”
“Thế ta cũng không sao,” Cố Quân ốm yếu nói, đoạn y gượng bò dậy, để một nhóm người ba chân bốn cẳng tháo khôi giáp cho, người hơi khoan khoái hơn, y qua loa vén mấy sợi tóc dính mồ hôi bết trên mặt, “Không phải cảm lạnh thì là thượng hỏa, uống ít thuốc ra mồ hôi là khỏi thôi.”
Hoắc Đan không biết đầu đuôi đứng cạnh bên, không rõ tại sao Hầu gia nhà mình lại đồng sinh cộng tử với một con chuột xám, Trường Canh thì hiểu, ánh mắt hơi lóe lóe, đè Cố Quân trên sập không cho lộn xộn: “Giao hết cho ta đi.”
Y tỏ ý bảo Hoắc Đan lui xuống trước, tự mình cởi bộ quần áo có thể vắt ra nước cho Cố Quân, Cố Quân mềm nhũn người, vừa mở mắt thì đầu liền choáng váng, đành phải nhắm mắt lại nghiêng qua một bên mặc y muốn làm gì thì làm, hơi thở hơi dồn dập, thoạt nhìn tự dưng thêm vài phần yếu ớt.
Ngoại y và trung y vừa cởi ra, tay Trường Canh không khỏi hơi run run.
Lớp áo lót mỏng manh của Cố Quân bị mồ hôi ngấm ướt sũng, cơ hồ là một lớp vỏ tỏi, chẳng che được gì, ngực và thắt lưng tất cả đều muốn che càng lộ, không biết là vì sao, Trường Canh cảm thấy so với lần trước Cố Quân trực tiếp nhảy xuống ôn tuyền ngay trước mặt mình còn chết người hơn.
Trường Canh nhất thời tim đập như sấm, vô luận thế nào cũng không dám cởi nữa, đành phải kéo chăn trùm hết lên người Cố Quân, lấy bộ quần áo sạch đặt ở bên cạnh, thấp giọng nói như hơi khẩn cầu: “Nghĩa phụ, còn lại người tự thay được chứ?”
Cố Quân từ khi trưởng thành không hay bệnh, thỉnh thoảng bị một lần, có vẻ đặc biệt nghiêm trọng, cơn sốt khiến thất khiếu bốc khói, ù tai không thôi, nghe vậy lờ đờ phất tay, trách móc Trường Canh: “Khi nào rồi, ngươi cũng thật là…”
Trường Canh mắt nhìn mũi mũi nhìn miệng đứng ở một bên, Cố Quân thấy y ngượng nghịu cũng mất tự nhiên theo, hai người im lặng nhìn nhau một lát, Trường Canh lúng túng nói: “Để con đi sắc thuốc cho người.”
Y quay người đi ra ngoài, cuối cùng đã cho cả hai thoáng thở phào nhẹ nhõm.
Cố Quân nằm một lúc, mạch suy nghĩ mau chóng bị cơn sốt cao làm rối, mấy thứ lộn xộn tuôn hết vào đầu, lúc thì nghĩ: “Tiểu tử Trường Canh này rốt cuộc phải làm thế nào?”
Lúc lại nghĩ: “Huyền Thiết doanh lui thủ Gia Dự quan, các huynh đệ đã khuất đều không có người nhặt xác cho, dù là lấy da ngựa bọc về.”
Nghĩ một hồi, trong lòng y liền thủng một lỗ, gió thảm mưa sầu gì cũng chui hết vào, sự đau lòng lúc ở trên đường đi bị một câu của Giang Sung ép về hiện giờ quay lại, phát tác nặng nề hơn, quả thực đau không muốn sống nữa.
Năm vạn thiết giáp chỉ một đêm đã mất một nửa…
Sau cùng, ý thức của Cố Quân dần dần mơ hồ, thay vì nói là ngủ, kỳ thực cơ bản là ngất đi, ý thức hỗn loạn, khi mộng khi tỉnh, đủ các chuyện hiện tại và quá khứ lộn xộn rối vào nhau, trút thẳng xuống, ký ức lâu năm như phù quang lược ảnh nhất nhất lướt qua.
Y nhớ tới mấy năm khi mình còn nhỏ, chưa điếc cũng chưa mù, hệt như một con bọ chét đánh mãi chẳng chịu ngoan, lão Hầu gia vừa thấy y là dựng râu trợn mắt, hằm hằm nổi giận.
Nhưng có một lần, lão Hầu gia hiếm khi nhẫn nại dẫn y đi ngắm mặt trời lặn ở tái ngoại.
Lão Hầu gia vóc dáng cao lớn, là người uy nghiêm, với ấu tử bé tí cũng đối xử bình đẳng, tuyệt đối không chịu bế, miễn cưỡng dắt tay, đã là sự từ ái hiếm hoi, cứ thế khiến người lớn phải nghiêng người khom lưng, trẻ con phải cố gắng vươn tay, chẳng ai thoải mái. Thế nhưng Cố Quân không oán trách, đó là lần đầu tiên y nhìn thấy tà dương như máu nơi biên thành đại mạc, thân ảnh huyền ưng chốc chốc bay vút qua, như kim ô kéo bạch hồng, xa gần cát vàng mờ mịt, rừng xanh tĩnh mịch, Cố Quân tuổi nhỏ cơ hồ rúng động. (Kim ô là loài chim ba chân điều khiển xe mặt trời trong thần thoại, sau dùng để chỉ mặt trời, còn bạch hồng là quầng sáng màu trắng xung quanh mặt trời và mặt trăng)
Họ ngắm mãi đến khi mặt trời đỏ rực khổng lồ kia lặn xuống, Cố Quân nghe thấy lão Hầu gia cảm khái với phó tướng bên cạnh: “Kẻ làm tướng, nếu có thể chết vì non sông, cũng coi như đại hạnh cả đời.”
Lúc ấy y chưa hiểu, mà hiện giờ, hai mươi năm đã trôi qua.
“Đại soái,” Cố Quân mơ màng nghĩ thầm, “Ta có lẽ… sẽ thật sự chết vì non sông này.”
… Phảng phất như bóng câu trong khe, lửa trong đá, thân trong mộng.
Lúc này có người đẩy cửa tiến vào, ôm Cố Quân lên, đút cho y một bát nước, người nọ thật sự quá ôn nhu, như là quen chăm sóc người khác rồi, không để đổ chút nào.
Sau đó người ấy thấp giọng dỗ dành bên tai: “Tử Hi, uống thuốc rồi ngủ tiếp.”
Cố Quân mắt cũng không mở, mơ màng đáp: “Nửa canh giờ… Nửa canh giờ sau đánh thức ta, gọi không dậy thì hắt một bát nước lạnh.”
Trường Canh thở dài, im lặng đút thuốc cho y, sau đó ở bên trông chừng.
Cố Quân dường như không thoải mái, lăn qua lộn lại, sắp đá văng chăn, Trường Canh đắp cho y vài lần, cuối cùng bọc kín ôm trong lòng luôn.
Kể cũng lạ, có lẽ do Cố Quân từ nhỏ chưa từng đặc biệt thân cận với ai, lúc này cảm thấy lưng mình dựa vào người ta, liền nằm yên, người ôm y cẩn thận đổi cho y tư thế thoải mái nhất, an thần tán Trần cô nương phối chế tràn ngập trong hơi thở, một bàn tay vừa vặn lướt qua trán y, ngón tay không nhẹ không nặng ấn trán và kiên cảnh.
Cố Quân đời này chưa từng được ngủ trên cái “giường” thoải mái như vậy, chớp mắt đã chẳng còn biết trời trăng gì.
Thời gian yên tĩnh nhanh chóng vô thường như nước chảy, mới chớp mắt mà nửa canh giờ đã qua.
Trường Canh liếc đồng hồ để bàn bên cạnh một cái, thật sự không nỡ chút nào – vừa không nỡ buông Cố Quân ra, cũng không nỡ đánh thức y.
Nhưng chẳng có cách nào, binh họa như lửa sém lông mày, phóng nhãn ra khắp thiên hạ, còn nơi nào có thể cho y ngủ yên?
Trường Canh đành phải cố hạ quyết tâm, búng nhẹ huyệt vị của Cố Quân, đúng giờ đánh thức y, bản thân đứng dậy đi xuống bếp.
Trong lòng Cố Quân liên tục căng thẳng, một bát thuốc một thân mồ hôi, liền dằn bệnh khí xuống, nghỉ ngơi nửa canh giờ, chờ tỉnh dậy thì đã gần hết sốt, y nằm ườn trên giường một lúc mới khoác áo dậy, cảm thấy mình đã sống lại.
Người dễ chịu hơn, lòng y cũng thoải mái theo không ít.
Cố Quân nghĩ: “Không phải là một đám người Tây Dương thôi sao? Thực sự thần thông quảng đại như vậy, thì cần chi giở âm mưu quỷ kế?”
Dù tệ hơn, y cũng còn sống, chỉ cần Cố gia còn người, Huyền Thiết doanh sẽ chưa tính là toàn quân bị diệt.
Cố Quân thở phào một hơi dài, lúc này mới phát hiện mình đã đói móp bụng, y đau khổ ấn dạ dày mà nghĩ: “Nếu bây giờ có ai cho ta hai cái bánh nướng nóng, ta sẽ cưới người đó về nhà luôn.”
Đang nghĩ thì Trường Canh bưng một bát mì nóng hổi vừa thổi vừa xơi đi vào, hơi nóng và mùi thơm không chút khách khí hất vào mặt, ngũ tạng lục phủ Cố Quân đều đói khát đến quéo cả lại.
Y buồn bực tự nuốt lời: “Ngoại trừ người này, không thể tính…”
Nào ngờ vừa nghĩ như vậy, bên ngoài đột nhiên đúng lúc sấm rền một tiếng.
Cố Quân: “…”
Trường Canh đưa tay sờ thử trán y: “Hạ sốt rồi, nghĩa phụ tới ăn một chút trước đi.”
Cố Quân im lặng nhận đũa, nghe hai chữ “nghĩa phụ”, bỗng nhiên mơ hồ cảm thấy có chỗ nào là lạ, đáng tiếc ý nghĩ này chỉ thoáng qua, y không thể bắt được.
Cố Quân: “Ngươi nấu à?”
“Gấp gáp chỉ kịp nấu đại một bát mì.” Trường Canh mặt không đổi sắc nói: “Tạm được chứ?”
Cố Quân tức khắc không dễ chịu lắm, không biết đường đường “Nhạn Bắc vương” biến mình thành “hiền huệ” như vậy là muốn làm gì.
Trường Canh tựa hồ nhận ra y đang nghĩ gì, bình tĩnh nói: “Nếu mất nước, thì đẩy Lý Phong đi, con đến Tây Bắc mở quán mì, cũng đủ sống.”
Cố Quân sặc mì, ho đến chết đi sống lại.
Trường Canh cười nói: “Con đùa thôi.”
Cố Quân cầm một chén trà lạnh dốc một ngụm: “Hài tử giỏi lắm, biết lấy ta ra tiêu khiển rồi, thật là càng ngày càng không ra gì.”
Trường Canh nghiêm mặt nói: “Năm đó ở Nhạn Hồi, người đột nhiên muốn dẫn con về kinh thành, con đã định bỏ chạy, nghĩ hoặc là vào núi thẳm rừng già làm thợ săn, hoặc tìm một nơi nho nhỏ ở biên thùy, mở cái quán ngắc ngoải, đủ sống qua ngày là được, nhưng sau đó cảm thấy mình không thể trốn khỏi tầm mắt người, nên liền ngoan ngoãn.”
Cố Quân gạt rau ra, vớt miếng chân giò hun khói dưới đáy lên ăn, không đợi y nhai nát, Trường Canh bỗng nhiên dựa lên lưng ghế, thở phào một hơi dài: “Nghĩa phụ không biết đâu, người một ngày không bình an xuất hiện trước mặt con, thì con một ngày không dám chợp mắt, cuối cùng…”
Cố Quân sắc mặt thản nhiên nói: “Cách bình an còn mười vạn tám ngàn dặm cơ – ngươi nói một chút đi.”
Trường Canh ngầm hiểu, biết y đang chỉ chuyện không nói ra trước mặt Lý Phong.
Cố Quân: “Huyền Thiết doanh nhất định là do ngươi rút về, bằng không bọn Hà Vinh Huy chưa biết chừng sẽ đánh tới người cuối cùng.”
“Con bắt chước nét chữ của người.” Trường Canh nói, “Để Huyền Thiết doanh rút về Gia Dự quan, lại cho Thái Phân tướng quân Bắc thượng cứu viện biên cương, tính thời gian thì chắc hẳn tử lưu kim cấp báo ở bên phía Hà tướng quân đã đến tay – việc này không cần cho Lý Phong biết, dù sao y đã nghĩ chỉ hủy lệnh kích trống rồi.”
Cố Quân chớp chớp mắt: “Ngươi biết bắt chước…”
“Đều là bàng môn tà đạo thôi.” Trường Canh lắc đầu, “Bên phía Giang Nam con vốn đã truyền tin cho sư phụ, không ngờ vẫn không kịp, ngoài ra con hoài nghi trong cung có gián điệp hai mươi năm trước Bắc man lưu lại, đã nhờ người đi tra, bên phía Thẩm tướng quân vẫn chưa có tin tức gì, chỉ sợ sẽ không có tin tốt.”
“Không có tin tức chính là tin tức tốt nhất,” Cố Quân im lặng chốc lát, nói, “Lão mụ tử đó mạng lớn lắm, không chết được đâu.”
Trường Canh: “Nghĩa phụ, Tây Bắc thế tới rào rạt, nhưng hiện tại xem ra, nhất thời sẽ chưa có việc gì, theo người thì sau họa Đông Hải, kinh thành có thể thủ được không?”
Cố Quân ngẩng đầu nhìn y một cái, đôi mắt ấy như một đôi đá lửa, lạnh lẽo, cứng rắn không nói thành lời, lại phảng phất như chạm nhẹ là có thể bùng lên hỏa hoa.
Trong phòng chỉ có hai người là y và Trường Canh, chính giữa cách một bát mì, Cố Quân liền không nói lời hình thức, thành thật đáp: “Thế phải xem chúng ta có thể chèo chống đến khi có viện quân hay không. Ngàn dặm tập kích bất ngờ, người Tây Dương cũng muốn tốc chiến tốc thắng, nếu không sẽ không có mở màn lớn như vậy, vốn dĩ kéo dài càng lâu càng có lợi cho chúng ta, nhưng…”
Nhưng quốc lực Đại Lương không kham được đánh lâu dài.
Lý Phong điên cuồng muốn quặng tử lưu kim Lâu Lan, là bởi vì ở cái nơi đất rộng của nhiều nhất trên đời này, quặng tử lưu kim cực kỳ hiếm, hoàn toàn cung không đủ cầu, gần bốn phần tử lưu kim của Đại Lương là do mười tám bộ lạc tiến cống, còn có một phần lớn tựa hồ mua rải rác từ bên ngoài, bạc chảy vào nhờ hải vận thông thương lại đều chảy ra như vậy.
Trước mắt mười tám bộ lạc phản loạn, tứ cảnh bị vây, điều động được chỉ có tử lưu kim tồn kho, cứ thế mãi tất nhiên số vào chẳng bằng số ra.
Đây mới là tử lưu kim, huống chi quốc khố còn gầy còm hơn hoa cúc nào có lắm bạc như thế?
Cố Quân: “Theo lời ngươi nói, vạn nhất cuối cùng không xong, thì co cụm binh lực toàn cảnh, từ từ tính tiếp, cố nhiên là cách làm lý trí nhất, song vị tất có thể được. Huyền Thiết doanh lui thủ Gia Dự quan thì thôi – ngoài Tây quan mặc dù bình thường náo nhiệt, qua lại phần lớn là thương nhân tạm trú, con đường tơ lụa mới thông vài năm, chưa đủ để họ định cư, trước sau Tết con đường tơ lụa không khí căng thẳng, quan khẩu vừa đóng thì chẳng làm ăn được gì, hiện tại chắc đã đi gần hết, nhưng trong quan thì không thể, trong quan còn có ngàn thôn vạn hộ và vô số bách tính, Hà Vinh Huy không thể lui nữa.”
Huyền Thiết doanh là tín ngưỡng thậm chí trụ cột của dân gian Đại Lương, một khi trụ cột này đổ, thật sự chẳng cần đánh trận nữa, giang sơn trực tiếp đổi tên thay họ luôn cho nhanh.
Trường Canh trầm mặc chốc lát: “Con nói là tình huống vạn bất đắc dĩ.”
“Không có vạn bất đắc dĩ.” Cố Quân lắc đầu, “Ngươi có tài, biết cách bài bố xã tắc, nhưng chưa từng đánh giặc, đánh giặc trừ thiên thời địa lợi thì còn hai thứ, một là trang bị hỏa cơ cương giáp, hai là dũng khí không sợ chết, việc trang bị đã đến nước này, không còn cách gì… Nhưng ta tin quân Tây Dương dù mạnh, cũng chưa chắc mạnh hơn chúng ta bao nhiêu, càng khỏi bàn bọn nhà quê người man cho đại bác cũng có thể dùng làm chày – thuộc hạ binh tướng không phải quân cờ, đó đều là người, đều có huyết tính, cũng đều sợ chết, ngươi nhớ lần trước khi tiễu phỉ ở Tây Nam ta từng nói gì với ngươi chứ?”
Trường Canh: “Nhớ ạ, ‘Ra trận, ai không muốn chết sẽ chết trước’.”
Cố Quân “À” một tiếng, gia quốc điêu linh cũng không làm lỡ cơm nước, trong mấy câu, một bát mì to đã bị y ăn thấy đáy, cuối cùng bịt mũi dốc hết số rau củ đáng ghét lẫn trong nước mì, nhai cũng chẳng thèm nhai, xong xuôi y bỏ bát xuống bàn: “Còn không?”
“Hết rồi, con chỉ nấu một bát thôi, người mới bị bệnh, tì vị còn yếu, ăn no sáu bảy phần là tốt nhất.” Trường Canh nói, “Đánh thế nào, người quyết định, không cần có nỗi lo sau lưng, cũng không cần cố kỵ kẻ khác nghĩ gì, kiếm tiền làm sao, xoay tử lưu kim như thế nào, cách phân chia bố cục, những việc này có thể giao hết cho con.”
Cố Quân hơi chấn động, bật cười nói: “Chuyện gì ta cũng quyết được sao? Đánh không thắng thì làm thế nào?”
Trường Canh chỉ cười không đáp, đôi mắt chăm chú vào người y, như một đầm nước yên ả bỗng nhiên nổi lên gợn sóng, giả như ánh mắt biết nói thì một câu “Nếu người thua, con và người cùng gánh bêu danh thiên cổ, nếu người chết, con tuẫn táng cho người” đã tuyên bố rất rõ ràng.
Chính lúc này, Hoắc Đan chợt gõ nhẹ cửa: “Đại soái, Phụng Hàm công và Đàm tướng quân cùng đến, còn tiện đường mang đến phong chiến báo thứ hai của vùng Đông Hải.”
Cố Quân vội nói: “Mau mời!”
Trường Canh thu ánh mắt lại, dọn dẹp đũa, chớp mắt khi cúi đầu, y thình lình nói: “Vừa rồi còn có một câu là nói bừa.”
Cố Quân sửng sốt.
“Con nói năm đó không đi, là cảm thấy chạy không thoát tầm mắt người.” Trường Canh đầu cũng không ngẩng lên, cười nói, “Năm đó con chẳng qua là một thiếu niên biên thùy lớn lên ở nơi bé tí, trong lòng căn bản không nghĩ nhiều như vậy…”
Cố Quân đã nhạy bén nghe ra ý tại ngôn ngoại, nghiêm mặt nói: “Trường Canh, đừng nói nữa.”
Trường Canh biết điều ngậm miệng, nuốt lại câu kế tiếp.
Lúc ấy trong lòng y căn bản không nghĩ nhiều như vậy, sở dĩ cuối cùng không trốn, chỉ là không bỏ được một người mà thôi.
Đàm Hồng Phi và Trương Phụng Hàm nhanh chóng tiến vào, chiến báo tiền tuyến gắn kỹ đệ trình lên trước mặt Cố Quân, tay Đàm Hồng Phi còn hơi run, lòng Cố Quân chùng xuống.
“Đại soái, Giang Nam đến báo, thủy quân của ta tan tác ngàn dặm, quân Tây Dương đã tiến về phương Bắc, bọn người Tây Dương kia không biết dùng loại giao gì mà nhanh như chớp giật, chọi lại hai ba giao thuyền thủy quân ta, chính giữa còn vây một đại hải quái.” Đàm Hồng Phi nói, “Nếu đây không phải là nói bậy, vậy họ Bắc thượng đến cảng Đại Cô, cũng chỉ khoảng hai ba ngày nữa thôi.”
|