Sát Phá Lang
|
|
Chương 65: Phùng sinh
Ngay sau đó, trọng giáp động.
Tường thành đổ nát trong tiếng bước chân chỉnh tề đến khó tin ấy uỳnh uỳnh lắc lư, một tốp Huyền Thiết hắc giáp dầm trong hơi nước trắng như tuyết gió thổi không tan, nghênh lửa đạn quân địch như hải triều ngược dòng mà lên.
Tốp trọng giáp đầu tiên như một thanh trảm mã đao có thể chặn hết thảy, như gió xoáy quét qua cực nhanh, lao thẳng vào trận địa địch, đầu thân tứ chi bị nổ nát bét tung bay, song liệt hỏa chung quy đốt không tan huyền thiết, chỉ cần hộp vàng chưa tự nổ, hầu hết số xác chết xuất sư vị tiệp(1) đó có thể đứng thẳng nguyên, tướng sĩ trong giáp trụ đã chết mà bánh răng của máy móc còn xoay, tựa như linh hồn chưa tan vẫn tiếp tục xông lên.
Xông đến không thể tiếp tục nữa, sẽ có người theo sau mở hộp vàng trên lưng huyền giáp, châm kíp nổ giấu sẵn bên trong.
Những tướng sĩ dưới mặt nạ sắt bảo hộ đó không phân đây kia, ngàn người như một, vạn hộ hầu và tiểu binh Bắc đại doanh mới nhập ngũ chẳng khác gì nhau – hoặc đội lửa đạn cầm cát phong nhận cắt thủ cấp quân địch, hoặc ở tại chỗ nổ thành một đóa pháo hoa màu tím mai danh ẩn tính.
Lý Phong khoanh tay đứng trên hồng đầu diên, thình lình nói với Đàm Hồng Phi phụng mệnh đứng hầu bên cạnh: “A Mân đâu?”
Đàm Hồng Phi chợt bị điểm danh, hơi sửng sốt, trả lời: “Quận vương điện hạ lên tường thành rồi.”
Gió nóng thổi tan nộ sắc trên mặt Lý Phong, giữa cảnh điêu tàn hắn dần bình tĩnh lại, ném Thượng phương bảo kiếm cho Đàm Hồng Phi trên huyền ưng: “Truyền khẩu dụ của trẫm, quốc nạn ập xuống, Thái tử tuổi nhỏ không gánh nổi trọng trách, trẫm vô đức vô tài, chôn vùi giang sơn lê dân ở nơi đây, thẹn với liệt tổ liệt tông, muốn nhường ngôi cho Nhạn Bắc vương – thánh chỉ không kịp nghĩ, ngươi cầm cái này giao cho y, đưa y đi.”
Đàm Hồng Phi: “…”
Hắn luống cuống nhận thanh bảo kiếm nặng trịch, nhìn trộm long nhan một cái, ánh mắt đảo qua tóc mai hơi xám của Hoàng đế Long An.
Lý Phong hờ hững khoát tay.
Trường Canh cầm trường cung lên tường thành, tiếp nhận chiến trường trên không.
Trong tiếng rít của bạch hồng, Đàm Hồng Phi hạ xuống cạnh Trường Canh, cầm theo Thượng phương bảo kiếm như củ khoai lang phỏng tay: “Điện hạ!”
Trường Canh liếc qua là biết hắn muốn nói gì.
Đàm Hồng Phi: “Điện hạ, Hoàng thượng nói…”
Một thương binh chỉ còn một chân trên thành chạy tới: “Điện hạ, xuy hỏa tiễn hết rồi!”
“Xuy hỏa tiễn hết thì đổi thiết tiễn, thiết tiễn hết thì cài cát phong nhận vô chủ lên, lo gì?” Trường Canh mí mắt cũng không chớp, chớ hề khách khí nói, “Chúng ta thủ đến khi tường thành nát thành cát mới thôi – Đàm thống lĩnh, ngươi hãy đi trả thứ đó, bảo với Lý Phong, ta không nợ y, không làm vong quốc chi quân cô gia quả nhân thay y đâu. Vả lại, hiện giờ y là một soái kỳ, hai quân đối đầu, không thể không có cờ, các huynh đệ máu chảy đầu rơi đều dựa vào lá cờ này chèo chống, ngươi hãy chú ý đừng để y tùy tiện chết.”
Giờ khắc này, ít nhất đối với Đàm thống lĩnh mà nói, mười Lý Phong nói chuyện cũng chẳng hữu dụng bằng một Trường Canh, nghe vậy hắn không ý kiến ý cò gì, khẩu dụ của Thánh thượng nghe thế nào thì ném về thế ấy, miệng huýt sáo dài, cùng mấy huyền ưng thủ vững cạnh hồng đầu diên của đế vương.
Dưới thành trọng giáp dùng thịt người kẻ sau tiếp bước kẻ trước phá ra một đường, mà một khi trọng giáp xâm nhập trận địa quân địch, trường đoản pháo nổ vang và bạch hồng tiễn thanh thế lớn đều không còn tác dụng, dưới đất toàn là tử chiến liều mạng, quân Tây Dương nhất thời vô kế khả thi, đành phải đột ngột tăng thêm tập kích trên không.
Vô số cát phong nhận đã vô chủ cài trên bạch hồng trường cung, sau khi Nhạn Bắc vương ra lệnh một tiếng, những thần binh trong truyền thuyết đó như thiết tiễn bắn ra không chút tiếc rẻ, lưỡi dao xoay tròn thành từng đóa hoa nở rộ, giảo nát cả gió, chi chít cuốn tên họ của người đã khuất về hướng hàng loạt ưng giáp Tây Dương.
Trường Canh dùng ngón tay chùi qua loa thiên lý nhãn dính đầy bụi, kẹp trên sống mũi cao thẳng như vót, phân phó: “Lên đợt cát phong nhận thứ hai.”
Một tiểu tướng sĩ bên cạnh y tự phát làm thân binh thị vệ, nghe vậy dùng giọng nói lanh lảnh của thiếu niên chưa vỡ tiếng quát to: “Lên tên-“
Sau đó gã quay sang Trường Canh, thấp giọng hỏi: “Điện hạ, cát phong nhận cũng bắn hết thì làm thế nào? Chúng ta ném đá xuống dưới thành ạ?”
Trường Canh liếc gã một cái, tựa hồ hơi mỉm cười, nói: “Lần này mặc dù đạn tận lương tuyệt, nhưng nhờ Hoàng thượng Đại Lương ta nhiều năm tích lũy, tử lưu kim trong kinh còn một ít, thủ không được thật thì học Hàn Kỳ tướng quân, tạt tử lưu kim từ trên tường thành xuống, đốt trụi cả kinh thành, bọn Tây Dương một kẻ cũng đừng hòng thoát.”
Tiểu tướng sĩ bị một câu dửng dưng của y dọa rùng mình.
Trường Canh: “Ngươi bao nhiêu tuổi?”
Tiểu tướng sĩ hơi sửng sốt, lúng túng đáp: “Mười… mười tám.”
Trường Canh cười nói: “Bớt dùng trò này với ta đi.”
“… Mười lăm.”
Có một số gia đình nghèo không nuôi nổi con, sẽ đưa tiểu tử choai choai vào quân ngũ ăn quân lương, sợ tuổi quá nhỏ người ta không nhận, sẽ giở trò khai gian tuổi.
“Mười lăm,” Trường Canh thấp giọng nói, “Ta hồi mười lăm cùng Cố đại soái tra loạn Ngụy vương ở Giang Nam, còn chưa biết gì, ngươi khá hơn ta một chút rồi.”
Đúng lúc này, đằng xa ưng giáp Tây Dương được Giáo hoàng hạ lệnh cùng lên không, cũng liều mạng rồi.
Từng ưng giáp Tây Dương cầm trường pháo nã lên thành, trường pháo vốn nên do chiến xa thiết tí giữ có sức giật cực mạnh, lửa đạn đầu này bay ra, người ôm trường pháo ở đầu kia lập tức sẽ bị xô bay ngã chết.
Đoàn ưng giáp Tây Dương này như một đội quân cảm tử, liên tục nã trường pháo lên tường thành, tường thành lập tức sập một nửa.
Hồng đầu diên bị sóng khí lan đến, lắc lư muốn rơi. Vương quốc cữu kêu cha gọi mẹ ôm cột buồm, bị Trương Phụng Hàm thở hồng hộc trèo lên đẩy ra.
“Hoàng thượng!” Phụng Hàm công đã cởi luôn triều phục, tay ôm bong bóng cá, trong bong bóng cá lắc lư chứa tử lưu kim tím đến hóa đen, suýt nữa bị hồng đầu diên đu đưa làm ngã sấp, một thị vệ bên cạnh sợ tới hồn phi phách tán, cuống quýt tiến lên đỡ vật phẩm nguy hiểm kia.
Phụng Hàm công: “Hoàng thượng, đạn dược hết rồi, lão thần theo lời Nhạn Bắc vương Quận vương điện hạ ủy thác, vận tất cả tử lưu kim hiện có trong thành đến cổng thành, đã cho thủ hạ luân phiên bỏ vào…”
“Hoàng thượng cẩn thận!”
“Hộ giá!”
Lửa đạn bay tới cắt ngang lời Phụng Hàm công, sượt qua hồng đầu diên của Lý Phong, hồng đầu diên lập tức bị nổ rơi một góc, rên lên một tiếng, nghiêng sang một bên.
Lại một phát pháo không buông tha đuổi tới, đâm thẳng vào phần bụng hồng đầu diên, hồng đầu diên bị hỏng nặng mất khống chế, trong tiếng kêu la của mọi người, đồng tử của Lý Phong theo lửa đạn co thành một điểm nhỏ như đầu kim.
Đàm Hồng Phi rống to một tiếng dang hai cánh, như che kín bầu trời mà lao tới.
Trong nháy mắt hắn ôm trường pháo, ưng giáp đẩy với tốc độ nhanh nhất, nhiệt độ cao và va chạm tích tắc nổ vị cựu bộ vẫn canh cánh trong lòng cựu án hai mươi năm trước văng lên trời, kể cả trường pháo kia, hóa thành toản thiên hầu một đi không trở lại.
… May mắn chưa nhục sứ mệnh.
Cát phong nhận lấy mạng vô số người Tây Dương trên tường thành rốt cuộc cũng bắn hết, Trường Canh ngoảnh lại nhìn kinh thành không mấy thân thiết, hơi tiếc nuối – ở nơi đây không nhìn thấy hầu phủ.
Tiếp đó y kéo trường cung, chấm dầu hỏa lên mũi thiết tiễn, bắn về phía quân địch, dầu hỏa tốc độ cao xuyên qua không trung, mũi tên cháy phừng phừng, tựa như sao băng – đây là một tín hiệu.
Phụng Hàm công xắn tay áo: “Hồng đầu diên chuẩn bị!”
Trừ chỗ Lý Phong, mười mấy chiếc hồng đầu diên cuối cùng trong kinh thành nhẹ nhàng bay lên thành, như một nhóm vũ nữ vận cẩm tú hồng trang, gót sen khẽ dời lên núi đao biển lửa, chở tử lưu kim, đâm sầm vào ưng giáp Tây Dương đến chịu chết.
Hoàng thiên biến sắc.
Trường Canh trên tường thành đứng mũi chịu sào, một chút khinh giáp lâm thời mặc lên căn bản ngăn không được dòng khí nện xuống, chỉ cảm thấy bị đập mạnh vào ngực, trước mắt tối sầm, phun ra một búng máu, nhất thời mất đi tri giác.
Thiếu niên ban nãy truyền lệnh thay y kêu to một tiếng lao tới, muốn lấy thân bảo vệ.
Tường thành rốt cuộc hoàn toàn đổ sụp.
Trường Canh không biết mình ngất đi bao lâu, một lúc lâu mới từ từ khôi phục tri giác, phát hiện một chân mình bị kẹt giữa bánh răng đã hỏng, mà tiểu tướng sĩ vừa rồi bảo vệ y chỉ còn lại một đôi cánh tay, nhất tề đứt ở hai vai, không tìm thấy người, thành tấm áo choàng ngắn đầm đìa máu tươi trên người y.
Trường Canh cắn răng, cảm giác đau nhức khắp người còn có thể chịu được, bởi vì sự khó chịu còn thua xa khi Ô Nhĩ Cốt phát tác.
Trong tai chắc chảy máu rồi, âm thanh xa gần chẳng nghe rõ, rất hỗn loạn, cực mơ hồ.
Trường Canh nghĩ: “Lúc Tử Hi không uống thuốc, chung quanh với y mà nói chính là thế này ư… Cũng thanh tĩnh quá!”
Tường thành đã sập, thành phá rồi sao?
Lý Phong còn sống không?
Đúng, còn có Cố Quân…
Vừa nghĩ đến Cố Quân, Trường Canh liền không dám tiếp tục, sợ hai chữ kia rút hết tất cả dũng khí của mình. Y bèn cắt ngang mạch suy nghĩ, cuộn người lại, sờ soạng đến chỗ đường nối của cương giáp trên đùi, lần lượt mở hết tám khóa, lết mình ra ngoài.
Sau lưng còn một mũi thiết tiễn, mà trường cung thì vẫn chưa bị đè nát, y còn có thể giết một người nữa.
Chỉ cần y còn thở…
Trường Canh vừa rút chân ra, chưa kịp đứng dậy, thì một bóng đen đột nhiên lướt qua trước mặt.
Trường Canh tránh không kịp, vô thức ngửa đầu, rút thiết cung trong tay theo bản năng.
Một con chim gỗ be bé rơi xuống trước mặt y, bị thiết cung chém thành hai nửa ngay trên không, một cục giấy Hải Văn rơi khỏi bụng nó.
Trường Canh hoàn toàn ngây ra.
Sau đó, Nhạn Bắc vương mới bình tĩnh đến đáng sợ đột nhiên toàn thân run rẩy, tờ giấy Hải Văn nhẹ tênh kia nằm dưới đất, mà y giơ tay hai lần cũng không thể nhặt lên, tay run đến độ năm ngón cơ hồ khó mà khép lại, lúc này y mới phát hiện, cương giáp trên cánh tay tuột mất từ lâu, khớp hai ngón tay đã bị trật không nghe sai sử nữa.
Y mang máng nghe thấy có người hét “Viện quân tới rồi”, đây vốn nên là tin tức tốt mà mọi người chờ đợi đã lâu.
Song trong lòng Trường Canh chưa kịp sinh ra bao nhiêu vui mừng, sau khi chấn kinh ngược lại trỗi lên nỗi sợ hãi không cách nào tả được.
Bởi vì chỉ khi y dứt khoát chuẩn bị chịu chết, mới có thể tạm thời bỏ sang một bên cái sự thật là Cố Quân có thể hóa thân thành nước thép.
Hoàng Tuyền lộ tính toán sẵn đột nhiên có rắc rối chen ngang, muốn ngăn y ở bên này, làm Trường Canh nhất thời sững ra.
“Đại ca!” Y mơ hồ nghe thấy một tiếng kêu, ngay sau đó, một khinh kỵ lao tới, chính là Cát Thần lâu ngày không gặp, gió bụi mệt nhoài.
Cát Thần nhảy xuống ngựa, đỡ lấy Trường Canh đang thảm hại vô cùng, lộn xộn giải thích: “Đại ca, ta ta ta lúc nhận được thư của huynh, vừa vặn đang ở chỗ Thẩm tướng quân, nhưng khi ấy Nam Cương…”
Trường Canh nửa chữ cũng không nghe, điên khùng ngắt lời gã: “Tử Hi đâu?”
Y nói khá mơ hồ, Cát Thần nhất thời không nghe rõ: “Cái gì?”
Trường Canh hất mạnh tay gã ra, giãy giụa đứng dậy, bất chấp tất cả mà đi tới hướng ngoài thành, lưng y không biết bị cái gì gây thương tích, máu nhỏ thành tảng xuôi theo y phục, mà bản thân lại hoàn toàn không hay.
Cát Thần: “Đại, đại ca? Điện hạ!”
Trường Canh mắt điếc tai ngơ. Cát Thần nhìn thấy một mũi tên lạc phóng tới Trường Canh, mà y cũng không biết né, hồn phi phách tán lao tới kéo y ra, chẳng qua chỉ hai bước, mắt Trường Canh đỏ như có thể nhỏ máu vậy.
Cát Thần rùng mình, nghĩ: “Hỏng rồi, không phải Hầu gia đã xảy ra chuyện chứ?”
Cát Thần từ nhỏ đã không thiếu quyết đoán, quả quyết dùng tay thay đao, chém nghiêng lên cổ Trường Canh làm y ngất đi.
Hôm ấy, hoàng thành ngày trước sóng yên biển lặng đã trải qua một trận chiến đẫm máu nhất xưa nay, thiên tử lấy thân làm cờ, tướng quân chết trong chiến hỏa, mọi người đều đến nông nỗi bát gạo thổi nốt, rốt cuộc vào lúc tường thành sập, chờ được viện quân.
Nhánh viện quân này kinh lịch và thành phần đều phức tạp đến mức một lời khó nói hết, thống lĩnh là Đề đốc Tây Nam Thẩm Dịch, Chung lão tướng quân ẩn lui nhiều năm ra mặt áp trận thay y, trong đây còn lẫn cả một tốp thủy quân Giang Nam – đó là tàn binh Diêu Trấn tập hợp lại sau khi Đông Hải binh bại.
Quân Tây Dương thấy đại thế đã mất, buộc phải rút quân.
Gần bốn phần mệnh quan triều đình vùi thân dưới tường thành đổ, hồng đầu diên của Lý Phong hoàn toàn mất khống chế, mà Thẩm Dịch lại không có ưng trong tay, đành phải vã mồ hôi dùng bạch hồng bắn dây lên lan can, điều động mấy chục trọng giáp, hì hục đến nửa đêm, mới kéo được Hoàng thượng Long An trên không trung xuống.
Bắc đại doanh kể cả Thống soái, cơ hồ mất toàn bộ trong trận này.
Cố Quân bị người ta đào từ dưới một chiến xa Tây Dương lên, gãy vài cái xương sườn, mới đầu cơ hồ không ai dám động vào y, vì hễ chạm vào là rỉ máu.
Cuối cùng Chung lão tướng quân tự mình đến nhìn qua, ném lại một câu “Y không dễ chết đâu, chết thì ta đền”, bấy giờ mới phái mấy quân y, cố định y trên cáng gỗ khiêng đi.
Cả hoàng cung vét ra mấy củ sâm ngàn năm, đoạn đoạn tục tục mà giữ mạng y lại ba ngày, mấy lần suýt nữa thì đi, rốt cuộc chờ được Trần Khinh Nhứ từ quan ngoại vượt muôn sông nghìn núi chạy về.
Nàng chạy chết mấy con ngựa, đến kinh không ngủ không nghỉ một đêm, sau cùng cướp được An Định hầu về từ chỗ Diêm vương.
Cố Quân lần đầu tỉnh lại là một buổi hoàng hôn, mí mắt chỉ có thể mơ hồ cảm nhận được chút ít ánh sáng len qua cửa sổ, song còn chưa có sức mở mắt, đau nhức đã kéo tới.
Không chết, nhưng Cố Quân không hề lấy làm may mắn, trước tiên âm thầm kinh hãi – kinh thành thất thủ rồi ư? Hiện giờ là ở nơi nào?
Trong cơn mơ màng y giãy mạnh một cái, bị người ta nắm tay.
Người nọ kề tai y, tựa hồ biết y đang lo lắng điều gì, nói: “Viện quân đến rồi, không sao… Kinh thành không sao.”
Mùi an thần tán quen thuộc bao vây y, ý thức của Cố Quân chỉ chống đỡ giây lát, lại lần nữa hôn mê đi.
Mê man như vậy vài ngày, Cố Quân mới chính thức tỉnh lại, dược hiệu đã hết từ lâu, y lại là một kẻ mù nghe không thấy nhìn không rõ.
Cố Quân trầy trật chớp mắt một cái, nhìn thấy bên giường có một bóng người lờ mờ, nhờ ngửi để nhận ra đó là Trường Canh.
Trong đầu y om sòm hết lên, một đống vấn đề không phân trước sau ùa vào: Bắc đại doanh còn lại bao nhiêu người? Viện quân từ đâu tới? Đội ngũ của ai? Quân Tây Dương rút lui tới nơi đâu? Hoàng thượng thế nào rồi?
Trường Canh cẩn thận chấm một chút nước đút cho y, Cố Quân giơ tay sờ soạng theo bản năng, không biết đụng phải vết thương nào, cả người đau suýt ngất đi.
“Được rồi được rồi,” Trường Canh ghé vào tai y nói, “Thẩm tướng quân đã trở lại, còn có sư phụ tọa trấn, người bớt nhọc lòng, nghỉ ngơi đi.”
Cố Quân: “…”
Y hít sâu một hơi, bình tĩnh trở lại, cảm giác ngũ tạng lục phủ đều đau nhức.
An Định hầu trước kia khi không chỉ thích cùng Thẩm Dịch nhìn thân thương phận, nhắc tới Cố gia ba đời đều không có mệnh trường thọ, luôn cảm thấy mình “đa sầu đa bệnh” đến “hồng nhan bạc mệnh”, nào ngờ cái mạng chó này chẳng những không bạc, còn dai như gián, mãi vẫn chưa chết.
Cố Quân há miệng, muốn gọi một tiếng “Trường Canh”, không ngờ sau khi trọng thương mê man mấy ngày, giờ không phát ra nổi âm thanh gì.
Bỗng nhiên, mặt bị chạm khẽ, Cố Quân cảm thấy một bàn tay nâng cằm y lên, ngón tay hơi chai nhẹ nhàng đảo qua bờ môi y, lưu luyến ám muội khó nói thành lời.
Trường Canh ngồi trên mép giường, nếu lúc này Cố Quân có thể thấy rõ, sẽ phát hiện Trường Canh kỳ thực chỉ khoác qua loa nửa bộ quần áo, tóc xõa tung, vai cổ tay thậm chí trên đầu cắm chi chít châm, thành một con nhím nho nhã. Y ngồi cứng đờ như khúc gỗ, nghiêng đầu cũng rất khó khăn, tất cả biểu cảm hỉ nộ ai lạc trên mặt đều bị châm phong lại, khóc không nổi cười không ra, đành phải duy trì trạng thái mặt không biểu cảm, làm một người gỗ cỡ lớn tuấn tú.
Dù vậy, trong mắt y vẫn còn vệt đỏ.
Mấy ngày qua, Ô Nhĩ Cốt trên người Trường Canh vài lần phát tác, Trần Khinh Nhứ đành phải thi châm miễn cưỡng phong độc tố, biến y thành con bù nhìn.
Bù nhìn thì thào với âm lượng mà kẻ dở điếc không nghe thấy: “Thêm một lần nữa chắc ta điên mất thôi, Tử Hi à.”
Cố Quân: “…”
Tuy y không nghe thấy Trường Canh nói gì, nhưng xúc cảm trên môi lại nhắc nhở y việc trên tường thành, nhất thời Cố Quân quả thực chỉ muốn rên lên – ai có thể nghĩ đến y còn phải sống sót đối mặt với việc này!
Vậy là, cứ thế, Cố đại soái từ cổ trở xuống cứng đờ thành một cây gậy hình người đỉnh thiên lập địa.
—
“Xuất sư vị tiệp thân tiên tử, trường sử anh hùng lệ mãn khâm” nằm trong bài Thục tướng của Đỗ Phủ, nói về Gia Cát Lượng sáu lần xuất sơn phạt Ngụy, mãi đến chết vẫn không thể chiến thắng.
|
Chương 66: Loạn thế
Nhất thời kích động thì dễ, kích động xong kết thúc thế nào mới là vấn đề.
Nếu không có cuộc đại họa kinh thành này, nhất định Trường Canh sẽ không làm chuyện to gan lớn mật như vậy, trước trường chiến loạn này, thậm chí y chưa từng ôm hy vọng xa vời không thực tế gì với Cố Quân, bằng không cũng chẳng trốn bốn năm năm liền.
Cố Quân là niềm an ủi cả đời y, nhưng phát triển theo hướng bình thường thì chắc đời này cũng chỉ dừng ở đây thôi, y đã bộc bạch tâm ý đến đây, Cố Quân cũng đã dùng cách nhu hòa khéo léo nhất đời để nói ra, với lòng tự tôn của Trường Canh, tuyệt không có hành động dây dưa thực tế nữa.
Y vì Cố Quân mà làm chuyện gì, đi con đường thế nào, đều là việc của chính y.
Y có rất nhiều tâm cơ, nhưng không muốn vì việc thế này mà dùng với Cố Quân – có vẻ quá rẻ mạt.
Hai người sẽ coi tình cảm lệch lạc này thành một bí mật hơi xấu hổ, tiếp tục duy trì dài lâu, chờ Trường Canh từng chút một tôi luyện mình đến có thể lấy những tâm ý này ra đùa giỡn, thuận miệng trêu chọc, hoặc là thời gian dài rồi, tên vô tâm vô phế Cố Quân kia tự quên việc này đi.
Trường Canh từ nhỏ đã quen khắc chế, chỉ cần còn chưa hoàn toàn điên thì y sẽ mãi khắc chế đến chết.
Tâm tồn dục vọng, nhất là dục vọng không thực tế, là chuyện cực kỳ thống khổ, bất luận là tài dục, quyền dục hay cái gì khác – kỳ thực đều là gông xiềng trên người, sa càng sâu thì bị trói càng chặt, đạo lý này Trường Canh quá rõ, bởi vậy không dám phóng túng dù là một khắc.
Tiếc thay, đạo lý có biết rõ hơn cũng vô dụng – dù sao thì bây giờ nói gì cũng muộn rồi.
Dưới thành một ý nghĩ sai, để y tiến lên một bước này, lại thêm câu trả lời không có trả lời của Cố Quân…
Tạm thời khoan nói Trường Canh còn có thể thoải mái buông tay như khi chưa bao giờ có được bất cứ hi vọng gì hay không, ngay cả trong lòng Cố Quân, y còn có thể xem như chưa có chuyện gì xảy ra sao?
Về phần Cố đại soái thương bệnh cùng lúc, đầu y quả thực phải căng lên gấp đôi.
Y cho rằng trong việc này trách nhiệm của mình lớn hơn, nhắc đến thật sự rất chột dạ, bởi trong tình huống bình thường, nếu không được y ngầm đồng ý, Trường Canh không thể chạm vào y – mà cho dù lúc ấy nhất thời hỗn loạn chưa định thần lại, “ngoài ý muốn”, sau đó phản ứng của y cũng không nên là bỏ mặc.
Kỳ thực chính Cố Quân cũng chẳng rõ lúc ấy mình nghĩ thế nào, có thể là cái gì cũng chưa kịp nghĩ cũng nên. Y vừa nhắm mắt là phảng phất có thể nhìn thấy ánh mắt Trường Canh chăm chú nhìn mình trong tiếng lửa đạn hãm thành, giống như giữa đất trời này, đôi mắt ấy chỉ chứa được mỗi mình mà thôi.
Không ai – đặc biệt là nam nhân, có thể chẳng chút động lòng trước ánh mắt như thế.
Cố Quân một cái mũi hai con mắt, không hề đặc biệt hơn người ta chỗ nào, cũng có thất tình lục dục.
Y chẳng cách nào đơn thuần coi Trường Canh là một hậu bối thân cận như trước kia, nhưng nuôi như con từng ấy năm, đột nhiên thay đổi cảm giác, y cũng không dễ dàng chấp nhận được.
Lúc này, Trường Canh chậm rãi khom người xuống, đưa tay che đôi mắt không dùng được lắm của Cố Quân, không cho y nhìn thấy diện mạo mình lúc này.
Cố Quân toàn thân không một chỗ nào nghe sai sử, không nghe thấy không nhìn thấy, nhất thời cũng chẳng có sức để nói, bình sinh lần đầu tiên bất lực mặc người ta phi lễ, há hốc mồm nghĩ bụng: “Y còn dám bắt nạt thương hoạn cơ à? Thiên lý ở đâu!”
Lập tức, y cảm thấy hơi thở nhè nhẹ lướt qua mặt, mùi của một người khác áp sát đến khó mà lơ đi.
Cố Quân: “…”
Mẹ ơi, tiểu tử này thật sự dám kìa!
Cổ Cố Quân không tự chủ được nhích nhẹ, song Trường Canh không hề làm gì, tựa hồ chỉ dừng lại một lúc lâu, sau đó chạm nhẹ khóe môi Cố Quân.
Cố Quân bị che mắt, không tự chủ được triển khai liên tưởng phong phú và tự mình đa tình theo xúc cảm vi diệu kia, cảm giác giống như động vật nhỏ tội nghiệp sống sót sau tai nạn bổ nhào vào lòng y làm nũng, liếm y một cái vậy.
Y lập tức mềm lòng, mặc dù chưa kịp hỏi rõ thương vong trong quân, nhưng kỳ thực trong đầu Cố Quân đã nắm được đại khái, thoáng đổi mạch suy nghĩ, liền không khỏi bi thương, mà Trường Canh lúc này đầu đuôi nguyên lành ngồi cạnh bên, với y mà nói quả thực như mất đi còn tìm lại được, Cố Quân bỗng nhiên chẳng muốn tính toán nhiều như vậy, định ôm Trường Canh một cái, tiếc là chẳng còn sức để giơ tay.
Sự thương hại tràn lòng và phiền não không nói nên lời của Cố Quân nhanh chóng lẫn lộn vào nhau, không đành lòng mắng mỏ Trường Canh, chỉ hận không thể trở lại khoảnh khắc hãm thành để tát mình một phát – xem ngươi đã làm gì kìa!
“Tử Hi.” Trường Canh ở ngay bên tai gọi y một tiếng, mi mắt Cố Quân sượt qua lòng bàn tay, thời điểm thế này, tựa hồ chỉ có ôm đối phương khóc to cười to một trận, mới có thể phát tiết ra một chút kinh hoảng sợ hãi kéo dài mãi không ngừng, đáng tiếc y lúc này cũng là hữu tâm vô lực.
Trần cô nương cấm y có hết thảy cảm xúc mạnh, châm y thành một kẻ mặt liệt triệt để, dùng tới sức bú mẹ cũng chẳng mỉm cười nổi, y đành phải mở một cái miệng nhỏ để tâm sự chảy từ từ ra bên ngoài.
Cố Quân sau khi trọng thương xét cho cùng nguyên khí đại thương, tinh lực không đủ, mặc dù cố gắng cầm cự song vẫn nhanh chóng rơi vào mê man với tâm tình phức tạp.
Trường Canh im lặng kéo lại chăn cho y, lưu luyến ngắm Cố Quân một lúc, cho đến khi khớp xương cứng ngắc không chịu nổi tra tấn “Rắc” một tiếng, mới chậm rãi vịn cột giường đứng dậy, lê đôi chân cương thi rời đi.
Đẩy cửa ra, Trường Canh liền nhìn thấy Trần Khinh Nhứ chờ đợi không biết bao lâu rồi, nàng đi dạo qua lại trước cửa phòng Cố Quân, thảm cỏ xanh bị giẫm rạp cả dải.
Trường Canh làm bộ không nhìn thấy thây phơi khắp nơi, hết sức đứng đắn chào hỏi nàng, còn vì thần sắc vô cảm mà có vẻ đặc biệt nghiêm túc chân thành: “Làm phiền Trần cô nương rồi, lần này nếu không có cô không từ nguy hiểm chạy đến, ta thật không biết phải làm thế nào.”
Trần Khinh Nhứ lơ đãng xua tay: “Việc nên làm mà, a, điện hạ chờ ta một lát, chút nữa ta hạ châm cho ngươi… Cái kia, còn có cái kia…”
Đầu lưỡi của người Trần gia nhìn quen đại trường diện này lại bị líu vào, trên khuôn mặt vạn năm đoan trang như tượng đất hiếm khi hơi chần chừ.
Trường Canh không dám cho ai biết chuyện Ô Nhĩ Cốt phát tác, đối với bên ngoài chỉ có thể mượn cớ y trọng thương chưa lành. Trần Khinh Nhứ dùng ngân châm ngăn chặn độc cho y, không dám mượn tay người khác, đành phải một mình bị bắt nghe hết một lần mấy lời nói mớ của y, bất hạnh chắp vá ra một chân tướng đáng sợ, dằn vặt nàng cả đêm khó yên, mặt sắp sửa có nếp nhăn luôn rồi.
Trường Canh vốn muốn gật đầu với nàng, thế nhưng cổ thật sự không cong được, đành phải khom người, có vẻ càng nho nhã lễ độ hơn: “Không cần, ta tự mình lo được, lát còn phải tiến cung, không làm phiền Trần cô nương nữa.”
Kinh thành sập một mặt tường thành, vòng vây tuy tạm thời được giải, nhưng tiếp sau vẫn là một đống tơ vò, trừ loại thật sự không xuống giường được như Cố đại soái, những người khác đều không dám thả lỏng, một hơi còn nằm lại lưng chừng chưa thở ra.
Trần Khinh Nhứ nghe thế nặng nề tâm sự mà gật đầu, nuốt lại lời ban đầu muốn hỏi.
Ai ngờ đúng lúc này, Trường Canh bỗng nhiên lại nói: “Nhưng nếu cô muốn hỏi…”
Y hơi dừng lại, nghiêng đầu thoáng nhìn cửa phòng Cố Quân đang đóng chặt, Trần Khinh Nhứ lập tức hồi hộp.
Sau đó Vương gia điện hạ với khuôn mặt quan tài chẳng chút rung rinh, thản nhiên thừa nhận: “Ta quả thật có ý đồ không tốt đối với nghĩa phụ.”
Trần Khinh Nhứ: “…”
Câu này… dùng ngữ khí thẳng thắn bình tĩnh như vậy nói ra, nghe thật đúng là quá vi diệu.
“Y cũng biết, xin Trần cô nương…”
Trần Khinh Nhứ vội vàng vô thức trả lời: “Ta sẽ không nói đâu!”
Trường Canh chắp tay, ngoại y khoác hờ trên người nhẹ bay, phong tư trác tuyệt đi lướt qua Trần Khinh Nhứ, như một tiên nhân phong lưu đạp nát trường không… Chẳng mảy may nhận ra bên trong bọc một con nhím.
Nếu như Cố Quân đời này cũng có lúc cảm kích Lý Phong, vậy chính là ngày hôm sau nghe nói Lý Phong giữ Trường Canh lại trong cung.
Thật sự cho y thở phào một hơi, chỉ hận không thể dâng tấu xin Hoàng thượng dựng một gian bên cạnh Tây noãn các cho Vương gia ở hẳn trong đó luôn đừng ra nữa.
Sa trường thương bệnh là chuyện thường, Cố Quân đã quen từ lâu, tỉnh lại chính là vượt qua giai đoạn hung hiểm nhất, nằm thêm một ngày thì y đã có sức nói chuyện tiếp khách.
Vị khách đầu tiên y tiếp chính là Thẩm Dịch.
Do Trần Khinh Nhứ không chịu cho Cố Quân uống thuốc, y chỉ có thể vừa điếc vừa mù mà đeo kính lưu ly, cùng họ Thẩm tiến hành cuộc trao đổi gồm cả hai cách gào thét và ra dấu.
Hai người xa cách hơn nửa năm, gặp lại lần nữa có phần cảnh còn người mất – khi tống biệt góc biển chân trời hãy còn hăng hái, mà khi trở về một kẻ băng kín như xác ướp nằm trên giường, hận không thể hít vào mà không thở ra, một kẻ bôn ba mấy tháng, phí hoài như trồng huyền sâm ở nông thôn Giang Nam vậy.
Thẩm Dịch sụt sùi gào lên với Cố Quân: “Bọn ta đều cho là chỉ kịp nhặt xác cho ngươi, không ngờ còn có thể gặp lại một kẻ biết thở. Đại soái, ngươi đại nạn không chết, tất có hậu phúc!”
Cố Quân bị y “sụt sùi” văng đầy nước bọt vào mặt, tức khắc ngứa hết cả mắt, không thấy “hậu phúc” ở đâu, “hậu hối” trái lại cả sọt, lập tức nổi giận nói: “Ngươi còn mặt mũi mà nói, con mẹ nó bọn mũi lõ đổ bộ cảng Đại Cô hơn một tháng, đốt hành cung Tây giao như bếp lò, phế vật ngươi đi đâu mất dạng hả? Ăn cứt cũng chẳng kịp nóng!”
Thẩm Dịch: “…”
Cố Quân: “Tránh ra, tránh xa ta ra, miệng ngươi mẻ hả? Phun đầy mặt ta rồi!”
“Việc này ta vốn không định nói tới, sợ ngươi khó chịu,” Thẩm Dịch thở dài, xắn tay áo, không khách khí phịch mông ngay bên cạnh Cố Quân, “Lúc ấy ta căn bản không gặp sứ đến hủy lệnh kích trống của Binh bộ, sứ vừa ra khỏi kinh thành đã bị tiệt, đám tiểu quốc Nam Dương như cứt dê kia thừa nước đục thả câu, không biết làm sao mò được mật đạo bọn sơn phỉ để lại, trong một đêm như từ trên trời giáng xuống, ta không kịp đề phòng, để họ nổ bay kho quân nhu Tây Nam.”
Mà không có lệnh kích trống, Thẩm Dịch Thống soái mới tới này căn bản không điều động được trú quân Nam Cương.
“Ta bên đó sứt đầu mẻ trán, quả thực là ấn hồ lô xuống thì gáo lại nổi, Tiểu Cát vừa vặn đi tìm ta, còn mang đến tờ giấy của tiểu điện hạ – lúc ấy ta vừa xem liền cảm thấy hỏng bét rồi, đáng tiếc chẳng cách nào phân thân.” Thẩm Dịch lắc đầu, “Sau đó chim gỗ còn đưa tới Huyền Thiết hổ phù và phong hỏa lệnh ngươi đích thân ký phát, tuy rằng ta không biết kinh thành lại sẽ bị vây khốn đến tình trạng này, vẫn miễn cưỡng phân ra một nửa binh lực và tử lưu kim tồn kho, đích thân dẫn người về kinh.”
Lời còn lại y không cần nói tỉ mỉ, Cố Quân nghe thế cũng hiểu rồi, vấn đề xảy ra trên tử lưu kim.
Tây Bắc bị hổ lang quấy nhiễu, Huyền Thiết doanh và Bắc thành phòng đều không dám di chuyển, nếu không thủ được cương thổ hay chăng còn là thứ yếu, chưa biết chừng sẽ bị người ta đuổi theo vây đánh, đến lúc ấy vòng vây kinh thành sẽ thật sự là Nam có hải quân Tây Dương, Bắc có thiết giáp Lang bộ.
Mà bên phía Thẩm Dịch binh họa còn giải được, phiền toái chính là kho quân nhu Tây Nam bị nổ hủy, tử lưu kim tồn kho của trú quân Nam Cương vốn đã rất có hạn, còn lại chút ít căn bản chẳng đủ sức chạy đường dài.
“Ta chỉ đành lên phương Bắc tìm Thái Phân đòi tiền trước.” Thẩm Dịch thở dài nói, “Ai biết được trên đường năm lần bảy lượt bị cản trở, ngươi có biết quấn chặt trú quân Trung Nguyên là ai không?”
Thần sắc Cố Quân hơi trầm xuống.
“Là quân khởi nghĩa do lưu dân tạo thành.” Thẩm Dịch thở dài, “Binh lực của Lão Thái bị Huyền Thiết doanh và Bắc thành phòng chia quá nửa, còn một ít ở lại Trung Nguyên, mỗi ngày sứt đầu mẻ trán đấu với đám người đó, vốn đều là một số lão bách tính đi không nổi, đánh không được, không đánh cũng không xong, Lão Thái rầu đến bạc cả tóc.”
Cố Quân dựa đầu giường im lặng chốc lát: “Sao lại loạn đến nông nỗi này?”
“Từ Trung Nguyên về Nam tới Thục Trung lưu dân không nghề ngỗng thành họa đã nhiều năm, vẫn chẳng nên trò trống,” Thẩm Dịch nói, “Lần này là có kẻ nhân loạn đục nước béo cò, xúi giục lưu dân hình thành vài lực lượng, thấy thế đạo sắp loạn, Huyền Thiết doanh cũng có thể một đêm mất một nửa, lá gan cũng lớn hẳn, liền… Kỳ thực ngươi biết không Tử Hi, mấy năm nay ta vẫn cảm thấy Huyền Thiết doanh tiếng tăm lẫy lừng quá không phải chuyện tốt, bị trên kiêng kị là một mặt, truyền thuyết dân gian cũng quá nhiều, mấy năm trước quả thật có thể uy hiếp vài kẻ có ý đồ, song một khi Huyền Thiết doanh xảy ra chuyện, dù chỉ là gió thổi cỏ lay, cũng quá dễ dao động quân tâm và dân tâm.”
Hai người im lặng nhìn nhau chốc lát, Cố Quân: “Đừng nói nhảm nữa, hiện tại thế nào? Các huynh đệ Bắc đại doanh còn lại mấy người?”
Thẩm Dịch hơi thay đổi sắc mặt, nhất thời không tiếp lời.
Vừa thấy biểu cảm của y, trong lòng Cố Quân liền lạnh một nửa: “Lão Đàm đâu?”
Thẩm Dịch cho tay vào lòng, tháo một thanh cát phong nhận bên dưới khinh giáp, im lặng đặt bên gối Cố Quân.
Cố Quân ngây ra giây lát, không kịp đề phòng đụng vào một vết thương, cắn răng không lên tiếng, đau đến mức phải im lặng cuộn tròn mình lại.
Thẩm Dịch vội đưa tay đỡ y: “Đừng, Tử Hi… Tử Hi!”
Cố Quân hất ra, khàn khàn nói: “Người Tây Dương rút lui đến nơi nào rồi?”
Thẩm Dịch dè dặt nhìn trộm thần sắc y: “Người Tây Dương sau khi đại phá thủy quân Giang Nam chia binh làm hai lộ, một lộ do Giáo hoàng đích thân dẫn dắt, từ cảng Đại Cô lên bờ bức thẳng kinh thành, một lộ nhân mã khác chủ yếu là tử sĩ Đông Doanh họ bỏ tiền thuê, dùng trọng giáp chiến xa ven theo kênh đào tiến về phía Bắc, qua hai phủ Sơn Đông Trực Lệ, trú quân địa phương chưa từng gặp trận thế như vậy, lập tức bị đánh tan tác, trên đường bọn ta đã giao thủ một lần với họ, quả thật khó chơi. Sau đó Chung Thiền lão tướng quân lộ diện ở Giang Nam, giúp đỡ Diêu Trọng Trạch trùng chỉnh thủy lộ quân Giang Nam rải rác, tập hợp tàn quân lên miền Bắc, giúp chúng ta một phen, đám người ấy mới đành phải nhường đường lui tới cảnh nội Sơn Đông – hiện tại hai lộ quân Tây Dương hợp làm một, lui về trên biển, đóng ở chư đảo Đông Doanh, chỉ sợ vẫn chưa thôi.”
Cố Quân “À” một tiếng, đôi mày cau chặt.
Thẩm Dịch vừa nãy la hét đến khô cả miệng với lưỡi, tự rót trà lạnh nốc ừng ực, thở dài nói: “Đừng nghĩ nhiều nữa, ngươi dưỡng thương cho khỏi trước mới là chuyện đúng đắn, hiện tại không có ngươi là không được đâu.”
Cố Quân nhắm hờ mắt không lên tiếng.
Để làm dịu bầu không khí, Thẩm Dịch nói sang chuyện khác: “Tiểu điện hạ nhà ngươi thật y như thoát thai hoán cốt vậy, ban đầu bất hiển sơn bất lộ thủy, khi nguy nan lại dám đứng ra gánh vác việc lớn, ta cũng sắp nhận không ra rồi… Hoàng thượng đã lấy chữ ‘bắc’ trong ‘Nhạn Bắc vương’ của y rồi, ngươi biết chưa?”
Nhạn Bắc vương đến Nhạn vương – tuy chỉ khác một chữ, quả thật từ Quận vương lên Thân vương rồi.
Cố Quân định thần lại, mệt mỏi làu bàu: “Nào phải chuyện gì tốt…”
Để cho y vui, Thẩm Dịch lại đi nói chuyện chẳng nên nói: “Trên đường ta nhìn thấy y với Trọng Trạch từ trong cung đi ra, chắc bây giờ cũng sắp về đến nhà rồi.”
Cố Quân: “…”
Thẩm Dịch thấy mặt y tự dưng đen như cái đít nồi, ngạc nhiên hỏi: “Lại sao vậy?”
Cố Quân nằm đến mỏi nhừ toàn thân, muốn đổi tư thế, nhưng hành động bất tiện, lão mụ tử họ Thẩm đặc biệt có nhãn lực, thấy y khó khăn ngọ ngoạy ở đầu giường, không biết đến giúp thì chớ, còn ở đó lải nhải hỏi: “Mấy hôm trước lúc ngươi chơi cờ với Diêm vương lão nhân gia, tiểu điện hạ không màng thương thế của bản thân, từ sáng đến tối không ngủ không nghỉ trông chừng ngươi, trên người còn cắm chi chít châm, cổ cũng không cong được, chúng ta đều cảm thấy không đành lòng, ta nói này Tử Hi, thật sự là so với con ruột còn…”
Cố Quân hết nhịn nổi cáu lên: “Ruột con bà ngươi, đâu ra lắm lời nhảm nhí vậy, mau cút đi!”
Thẩm Dịch chẳng những không sợ, ngược lại còn hếch mũi sấn tới hỏi: “Sao thế, ngươi lại làm chuyện gì khốn nạn đắc tội người ta rồi? Ta bảo này Tử Hi, Thân vương điện hạ không còn là đứa trẻ bị ngươi tùy tiện bóp nặn trước kia nữa, ngươi sắp…”
Cố Quân rên khẽ một tiếng: “Quý Bình huynh, nể ta suýt nữa vì nước hy sinh thân mình, van ngươi, xéo đi!”
Thẩm Dịch nhạy bén nhìn thấy bốn chữ “nỗi niềm khó nói” trên mặt y.
Thẩm tướng quân nhiều năm qua bị Cố Quân ức hiếp, đánh không thắng nói không lại, thù hận tồn tại đã lâu, vất vả lắm mới đợi được trò hề của y để hóng hớt, còn khuya mới chịu từ bỏ ý đồ, tò mò muốn chết: “Nhanh lên, ngươi xem hiện tại cả triều sầu vân thảm đạm, chúng ta cũng nói chuyện xui xẻo của ngươi cho vui đi…”
Cố Quân: “…”
Thế là trong nhà không còn âm thanh gì nữa, hai kẻ vốn gào lên với nhau đổi thành trò chuyện bằng thủ ngữ.
Sau một nén nhang, Thẩm Dịch vẻ mặt như bị sét đánh từ trong phòng Cố Quân “bay” ra, cùng tay cùng chân.
Nhắc Tào Tháo là Tào Tháo đến, vừa vặn lúc này Nhạn vương điện hạ về tới, đụng mặt Thẩm Dịch.
Trường Canh chào hỏi: “Thẩm tướng quân đến rồi à, nghĩa phụ ta bây giờ thế nào?”
Thẩm Dịch: “…”
Thẩm tướng quân Đề đốc Tây Nam đối mặt với Trường Canh, thần sắc thay đổi xoành xoạch, cuối cùng rắm cũng chẳng đánh được phát nào, mặt nom như gặp quỷ nép tường chạy mất tăm.
|
Chương 67: Tế tửu
Lúc Trường Canh đẩy cửa đi vào, nhìn thấy Cố Quân dựa lên đầu giường, trên đầu gối đặt ngang một thanh cát phong nhận loang lổ, trên khuôn mặt tái nhợt có sự quạnh quẽ khó nói thành lời.
Mặc dù không nghe thấy tiếng mở cửa, Cố Quân vừa cảm giác được gió lùa qua khe cửa, lập tức thu liễm biểu cảm: “Sao ngươi trở lại…”
Y vốn tưởng là Thẩm Dịch đi rồi quay lại, nào ngờ ngẩng đầu xuyên qua kính lưu ly thấy rõ người vừa vào, một câu tức khắc nghẹn lại.
Tay Cố Quân không dễ nhận thấy mà vuốt nhẹ cát phong nhận của Đàm tướng quân, nhủ thầm một tiếng “toi rồi”, trở tay không kịp mà nghĩ bụng: “Bây giờ mình giả ngất còn kịp không?”
Trời đất chứng giám, đây là lần đầu tiên từ thuở lọt lòng Cố đại soái sợ đến mức muốn lâm trận bỏ chạy.
Thế nhưng trời đất không chứng giám.
Trường Canh đi thẳng đến trước mặt, điềm nhiên nắm tay Cố Quân, ngón tay đặt trên mạch, lẳng lặng bắt mạch một hồi, lần này Cố mù dở rốt cuộc nhờ kính thấy rõ y, mấy ngày không gặp, Trường Canh gầy đi trông thấy, môi hơi xanh như không thở nổi hoặc trúng độc, thần thái như gắng gượng ra, còn bên trong chỉ là cái xác rỗng.
Sự xấu hổ trong lòng Cố Quân hơi giảm đi, y nhíu mày nói: “Bị thương ở đâu rồi, lại đây ta xem.”
“Không hề gì, tuy Trần cô nương tự xưng chưa xuất sư, nhưng quả thật là thánh thủ đương thời.” Trường Canh dừng một chút, lại tiếp, “Ngươi khỏe là ta cũng không sao.”
Trường Canh tuyệt đối không chịu dồn khí xuống đan điền rồi nghển cổ tru lên như Thẩm Dịch, ngón tay y còn đặt trên mạch môn của Cố Quân, bởi vậy cả câu Cố Quân cơ bản không nghe thấy mấy chữ, chỉ nhận được ánh mắt như thực thể đó.
Cố Quân: “…”
Tiểu tử, nói cái gì thế hả?
Ngay sau đó, tay Trường Canh xuôi theo cổ tay y trượt xuống, nắm tay Cố Quân vô cùng tự nhiên.
Sau khi trọng thương hoặc bệnh nặng người ta thường không đủ khí huyết, dù là tháng Năm tháng Sáu cũng dễ bị lạnh tay chân, Trường Canh liền nâng tay y lên, đặt trong lòng bàn tay mà xoa bóp, thần sắc nghiêm túc cực kỳ, chẳng những chú ý đến mỗi một huyệt vị trên tay, còn không bỏ qua chỗ mẫn cảm nhất giữa kẽ tay, thường xuyên dùng ngón tay lướt nhẹ qua, để trắng trợn nhắc nhở Cố Quân biết rằng – không phải ta đang hiếu thuận ngươi, mà là thương ngươi, đừng lừa mình dối người nữa.
Cố Quân: “… Sàm sỡ nghĩa phụ ngươi chưa đủ hả?”
Trường Canh ngẩng đầu nhìn Cố Quân nở nụ cười, mặt mày y rất anh tuấn, là loại anh tuấn đặc thù của người mang huyết thống ngoại tộc, sắc bén đến có phần không hợp lẽ thường, nhưng khí chất lại bình hòa tột cùng, khoác thêm áo cà sa có thể giả mạo cao tăng đi lừa bịp, vừa mâu thuẫn vừa kín kẽ mà áp chế sự sắc bén sinh ra đã có, lúc cười lại có vẻ hơi ngọt ngào.
Cố Quân cách kính lưu ly bị lóa mắt một chút – khi tâm tính một người bắt đầu phát sinh biến hóa, thị giác cũng không tự chủ được thay hình đổi dạng theo.
Y không thể không thừa nhận, trong chớp mắt, sắc tâm của y rung động một chút khó lòng tả được.
Cố Quân không phải lão hòa thượng, có thể nảy sắc tâm bất cứ lúc nào, tuy y không phải loại hoàn khố hành vi phóng đãng, cũng tự biết đó chủ yếu là do bình thường không có điều kiện, chứ không phải không muốn, bởi vậy cũng không tiện giả đứng đắn quá mức.
Nhưng xét cho cùng đó không phải người khác, mà là Tiểu Trường Canh của y.
Cố Quân thật sự không thể xuống tay được.
Ngay khi lương tri được tí ti đứng thành một hàng khiển trách y, bỗng nhiên Trường Canh không hề báo trước đưa tay cởi quần áo y.
Cố Quân đang chột dạ rụt lại theo bản năng, lập tức đau đến méo mặt.
Trường Canh chính trực mà lấy thuốc để bên cạnh tới, ra dấu chế nhạo: “Thay thuốc thôi – ta có phải cầm thú đâu.”
Kỳ thực Cố Quân lo mình là cầm thú hơn, định thần lại không khỏi dở khóc dở cười, bụng nghĩ “sao lại thành như thế”, nhất thời bất đắc dĩ bật cười, vừa cười liền đụng trúng phần ngực bụng xương chưa lành, cười không được mà nhịn cũng không xong, thật khó tả.
Trường Canh vội nói: “Được rồi được rồi, ta không trêu nữa, đừng lộn xộn.”
Y không dám ghẹo Cố Quân nữa, tạm thời lấy ra sự nghiêm túc của đại phu, cẩn thận cởi quần áo thay thuốc giúp Cố Quân, hì hục một lúc, cả hai đều toát mồ hôi, Trường Canh dùng lụa mảnh lau người cho Cố Quân, thuần thục như là làm không biết bao nhiêu lần rồi, Cố Quân nhất thời lại nhớ tới lời Thẩm Dịch nói, thần sắc trên mặt hơi thu đi, hỏi khẽ: “Sao lại tự tay làm việc này? Không thích hợp.”
Trường Canh ánh mắt tối đi, kề vào tai y nói: “Không có gì là không thích hợp cả, ngươi bây giờ còn khỏe mạnh ở đây nói chuyện với ta, bảo ta làm thế nào cũng được.”
Y tới quá gần, như vành tai và tóc mai chạm nhau, tai Cố Quân hơi ngứa, nhưng chẳng có cách gì – trốn xa lại không nghe thấy.
Cố Quân thở dài: “Làm khó ngươi hôm ấy…”
“Đừng nói nữa,” Trường Canh khẽ cắt ngang, “Đừng khiến ta nhớ lại, Tử Hi, hãy tội nghiệp ta một chút đi.”
Cố Quân vẫn chưa quen với cách xưng hô này, môi mấp máy, song dường như không còn mặt mũi nào yêu cầu Trường Canh gọi mình là “nghĩa phụ” nữa. Vừa rồi có một nháy mắt, Cố Quân muốn theo đề tài đem chuyện dưới thành hôm đó ra nói thẳng – không cầm được lòng là không cầm được lòng, nhưng về sau phải làm thế nào đây?
Mặc cho Trường Canh cứ thế lầm đường lạc lối mà đoạn tử tuyệt tôn sao?
Cho dù bản thân Cố Quân lão binh lưu manh này không biết xấu hổ, không để ý danh phận phụ tử ngày xưa, nhưng đường đường Nhạn thân vương ủy thân cho một nam nhân, tương lai triều đình giang hồ người ta sẽ nhìn y thế nào?
Không thể – đừng nói Trường Canh là phượng tử hoàng tôn, dẫu y chỉ là một thường dân, thân hoài tài hoa và trí dũng ngăn cơn sóng dữ này, làm sao Cố Quân có thể để y vì mình mà chịu nhục được?
Đáng tiếc, lời vừa nhẫn tâm chuẩn bị sẵn ra đến môi lại bị Trường Canh chặn về, Cố Quân lại lỡ mất một cơ hội thoát thân.
Trường Canh gục lên vai Cố Quân, tránh đi vết thương, ôm y một lúc, hồi lâu mới dằn được sự nôn nóng trong lòng. Cảm thấy lúc nữa có thể mình vẫn nên đến chỗ Trần cô nương châm một hồi, mấy bữa nay ngày càng không kìm nén được Ô Nhĩ Cốt, tiếp tục như vậy sớm muộn sẽ có chuyện.
Trường Canh định thần lại, lưu luyến lui ra một chút: “Hôm nay không nóng, bên ngoài thái dương cũng không tệ, ra ngoài ngồi một lúc đi? Như vậy mới có lợi cho thương thế.”
Cố Quân: “… Cái gì?”
Trường Canh một lần nữa dùng thủ thế.
Cố Quân nghĩ ngợi một thoáng, sau đó trả lời như đinh đóng cột: “… Không đi.”
Phơi nắng thì y không có ý kiến, nhưng y biết ít nhất trong vòng hai ngày mình không cách nào tự dùng chân mình ra ngoài đi dạo được – Cố Quân không hề muốn biết Trường Canh định đưa mình ra bằng cách nào.
Trường Canh dùng thủ ngữ hỏi: “Không phải ngươi không thích ru rú trong phòng à?”
Cố Quân nghiêm mặt đáp: “Bây giờ thích rồi.”
Trường Canh tựa hồ khá hết cách với y, bỏ thuốc xuống, đứng dậy đi luôn.
Ngay khi Cố Quân cho rằng mình đã đuổi được người ta rồi, Trường Canh lại vòng về, cầm một tấm chăn mỏng, chẳng thèm phân bua bọc lấy Cố Quân, sau đó hai tay ôm tiểu nghĩa phụ không đủ sức phản kháng, vững vàng bế ra cửa.
Cố Quân: “…”
Muốn tạo phản hả!
Vừa vặn lúc này Thẩm Dịch hốt hoảng đào tẩu không yên tâm, rối rắm suốt dọc đường, cuối cùng lại quay về, nào ngờ gặp ngay phải tình cảnh này, lập tức run như cầy sấy, vấp bậc cửa hầu phủ ngã sấp mặt.
Trường Canh hơi sửng sốt, rồi ngay lập tức mặt không đỏ thở không loạn hỏi: “Thẩm tướng quân đánh rơi cái gì à?”
Thẩm Dịch cười gượng, lồm cồm bò dậy phủi bụi đất, lại giấu đầu hở đuôi xóa đi nửa dấu chân bị trượt: “Không quan trọng, đánh rơi một dấu chân thôi… Ha ha, à ừm… Ta ừ à… Không quấy rầy nữa.”
Nói xong, tên kỳ lạ ăn cây táo rào cây sung này quay người bỏ chạy thục mạng, chỉ sợ Cố Quân giết người diệt khẩu.
Trong viện đã kê sẵn ghế nằm, Trường Canh thả Cố Quân tức sùi bọt mép xuống, lại rút cát phong nhận của Đàm tướng quân khỏi tay y, đặt trên bàn trà bên cạnh, thản nhiên cười nói: “Sao nào? Có một năm Trừ tịch ta ngại bên ngoài đông người không muốn đi đâu, chẳng phải là ngươi trước mặt mọi người khiêng ta ra như thế này à?”
Cố Quân mặt không biểu cảm nói: “… Cho nên các ngươi hôm nay cá muối sống lại, xếp đội tới tìm ta báo thù rửa hận.”
Trường Canh bật cười to.
Cười xong, y lấy một thứ từ trong tay áo, đặt vào tay Cố Quân: “Cho này.”
Cố Quân chạm tay vào chỉ cảm thấy lạnh ngắt, y hơi đẩy kính lưu ly kẹp trên mũi, thấy rõ đó là một cây sáo nhỏ bằng bạch ngọc, cả vật thể như dương chi, một khối hoàn chỉnh điêu thành, chất ngọc cực nhẵn, trông như một thanh cát phong nhận thu nhỏ, tay cầm trên cát phong nhận, phù điêu thậm chí đường ra của mũi đao đều mô phỏng như đúc, phần đuôi khắc một chữ “Cố”. (Dương chi cũng là một loại bạch ngọc)
Mới nhìn Cố Quân còn tưởng chữ đó là y tự khắc, quả thực có thể lấy giả tráo thật.
“Cây bằng trúc trước kia đã mất rồi nhỉ,” Trường Canh nói, “Kinh thành khô hanh, để lâu sẽ nứt, lần đó đã nói là sẽ làm cái tốt hơn cho ngươi mà.”
Cố Quân vuốt nhẹ cây sáo ngọc, hơi thất thần nói: “Kỳ thực ta không có một thanh cát phong nhận khắc tên mình.”
Trường Canh ngồi xuống trước mặt y, cẩn thận pha trà, bình gốm bốc lên khói đặc, súc ba cái chén, một cho Cố Quân, một cho chính mình, còn một đặt trước thanh cát phong nhận của Đàm Hồng Phi.
“Ngay cả Thẩm Dịch cũng có, chỉ mỗi ta là không, lúc trẻ luôn cảm thấy Huyền Thiết doanh là gông xiềng lão Hầu gia đè trên người ta, cả đời này không tự do đều là vì nó.”
Lớn lên lại cảm thấy cây gậy huyền thiết có khắc tên này như một bức di thư không tiếng động, mà Cố Quân y không cha không mẹ không vợ không con không vướng bận, nhân thế mênh mang, phong di thư này chẳng biết nên để lại cho ai, chỉ cầm trong tay đã cảm thấy cô khổ không nói nên lời, làm tiêu mòn chí khí-
Trước mặt Trường Canh, Cố Quân nuốt lại câu sau, chỉ dặn dò: “Đều là oán khí lúc chưa hiểu chuyện, ngươi nghe vậy rồi thôi, đừng nói ra ngoài, để tránh dao động quân tâm – Lão Đàm trâu điên kia không uống trà đâu, ngươi có rượu chứ?”
“Ừ, nghe xong quên rồi.” Trường Canh nói, “Không có rượu, Đàm tướng quân uống trà, ngươi uống nước lã, hai vị quân gia dùng tạm đi.”
Cố Quân: “…”
Y phát hiện Trường Canh ngày càng không khách khí với mình!
“Mấy hôm nay theo người của Hộ bộ kiểm kê của cải một chút,” Trường Canh rót hai chén trà một chén nước, dùng tay ra dấu, “Tồn kho của Kinh Tây bị Hàn thống lĩnh dùng một mồi lửa đốt trụi, hao tổn của thủ thành cũng rất nặng, phía Bắc nguồn cung cấp đã đoạn, chỉ sợ còn đánh tiếp, thì chúng ta thật sự khó mà duy trì, Lý Phong nhờ ta tới hỏi xem ngươi có ý kiến gì.”
Triều đình rộng lớn, vậy mà vừa đánh trận thì, đòi tiền không có tiền, đòi nhiên liệu không có nhiên liệu, kỳ lạ lắm thay.
“Không ý kiến, chỉ có thể đình chiến.” Cố Quân xoay chén, “Kỳ thực Tây Dương hao tổn nhiều hơn ta, không chỉ là thủy lục hai quân vây khốn kinh thành, họ còn cung ứng hỏa cơ cương giáp cho mười tám bộ biên cảnh và chư quốc Tây Vực, đánh đến bây giờ vô công mà về, cũng không phải chuyện vẻ vang, vị tất kéo dài được hơn ta.”
“Quân Tây Dương rút về trên biển, sẽ không dễ dàng chịu thôi,” Trường Canh nói, “Bỏ ra nhiều như vậy mà phí công vô ích, Giáo hoàng Tây Dương trở về cũng không ăn nói nổi, họ đành phải tử chiến đến cùng – hiện tại họ quay về Đông Doanh đảo nghỉ ngơi tu chỉnh, nếu xuất binh chiếm Giang Nam, từ nam về bắc giằng co với triều đình, chúng ta sẽ rất bị động.”
Đại Lương quá lớn, mà triều đình lại nghèo rớt mồng tơi, thật sự rất dễ dàng được cái này mất cái khác.
“Ừm… Nếu không được thì phái người đến Tây Vực một chuyến, minh hữu Lâu Lan lúc ấy cuối cùng chưa kịp trở mặt, chỉ cần chưa đến nông nỗi chúng bạn xa lánh, cứ thử xem có thể buôn lậu một ít không.” Cố Quân bình thản bưng chén trà nho nhỏ lên, cầm bằng ba ngón tay, tìm “Đàm tướng quân” cạn chén nói, “Huynh đệ, Nhạn vương điện hạ không có rượu, bảo hai ta miễn cưỡng, ta quản y không được, ngươi cũng miễn cưỡng đi.”
Trường Canh im lặng kính chén với thanh cát phong nhận vô chủ kia, uống một hơi cạn sạch, lại đổ chén của Đàm Hồng Phi xuống đất.
Lấy trà thay rượu, tế rượu làm an.
Trường Canh một ngữ thành sấm – mười ngày sau, quân Tây Dương từ bỏ kinh thành, thay đổi phương hướng, lại lần nữa đổ bộ từ Giang Nam, thế như chẻ tre, hai ngày một đêm đã xông vào thành Lâm An, vùng cá gạo trù phú nhiều thế hệ giàu sang bị chiếm đóng, các đại thế gia hoảng sợ, một phần sớm đã thu gom châu báu nữ trang nghe gió mà chạy, một phần ngoan cường chống cự, không địch lại, sau khi bị bắt tự sát tuẫn tiết.
Lý Phong lại dùng Chung Thiền lão tướng quân, một lần nữa mặc giáp trụ ra trận, dẫn đám người Diêu Trấn cùng tàn binh chắp vá mà thành trong tay xông ra tiền tuyến.
Cố Quân gắng gượng bò dậy, vội vàng gặp mặt lão sư xa cách nhiều năm, không kịp chuyện trò, ở ngoài thành một chén rượu đục tống biệt quân Nam chinh, dõi theo lão tướng quân tóc hoa râm lên ngựa mà đi.
Ngày hôm sau, An Định hầu và Thẩm Dịch cùng đi Tây Bắc.
Nhạn thân vương Lý Mân trùng chỉnh phòng ngự kinh kỳ, tổng lĩnh lục bộ, bắt đầu kiếp sống “lương đống” dỡ chỗ này đắp chỗ kia.
|
Chương 68: Độc thương
Cố Quân ngồi ngay ngắn trên lưng ngựa, hỏi: “Còn ở đó không?”
Thẩm Dịch theo câu hỏi giơ thiên lý nhãn lên, quay đầu lại nhìn: “Còn.”
Ngày Cố Quân rời kinh trời trong nắng đẹp, là một ngày diễm dương mười dặm hiếm thấy, Hoàng đế Long An dẫn bá quan văn võ đưa tiễn, tiễn đến tận cổng thành, nhìn mãi theo binh mã đi xa khuất dạng mới tan, chỉ còn lại một Nhạn vương điện hạ không đi.
Y một mình đi lên một tòa tháp theo dõi sót lại trên cổng thành đã sập, không hề nhúc nhích nhìn bóng lưng Huyền Thiết tướng quân, có vẻ như muốn đứng đến khi trời tàn đất tận vậy.
Cố Quân không quay đầu lại, chỉ nói với Thẩm Dịch: “Đi bao xa rồi? Thiên lý nhãn hẳn cũng không thấy rõ nữa, ngươi bớt nói bừa đi.”
Thẩm Dịch cả giận nói: “Chê mắt ta kém thì tự xem đi, sai ta hết lần này đến lần khác, khiến người khác còn cho rằng giữa ta với Vương gia có gì không rõ ràng đấy.”
Cố Quân sớm chuẩn bị cả tá lý do lý trấu: “Ngươi thử bó thép tấm đầy người xem còn quay đầu lại được không? Lắm lời thật!”
Thẩm Dịch cười khẩy một tiếng, chẳng thèm vạch trần.
“Ta có đến mức ấy không?” Cố Quân dừng một chút, lại giấu đầu hở đuôi tự hỏi tự đáp, “Đừng lấy lòng lão mụ tử lông gà vỏ tỏi của ngươi đến đo dạ đại tướng có thể dung nạp cả trăm con giao long của ta.”
Có câu thương gân động cốt một trăm ngày, Cố Quân bị moi ra từ đống xác, dở chết dở sống, tổng cộng cũng chẳng qua hơn nửa tháng, đừng nói là người, dù là cương giáp hỏng thành như vậy, bình thường cũng không dễ sửa, lúc Cố Quân thỉnh mệnh đi Tây Bắc, Nhạn vương đương đình nổi giận, suýt nữa cãi nhau với y ngay trước mặt cả triều văn võ.
Ngay cả Lý Phong tay Hoàng đế dở hơi “không cho trâu ăn cỏ, chuyên bắt trâu đi cày” kia cũng hơi áy náy.
Nhưng lúc này cần phải có người trùng chỉnh Huyền Thiết doanh.
Người Tây Dương vây kinh không thành, nửa chết nửa sống mà chiếm mé nam Trường Giang, nhất định không có tinh lực dư thừa đi chiếu ứng đám minh hữu nghèo rớt mồng tơi kia, tuyến Tây Bắc hiện tại có liên quân Tây Vực lộn xộn, có mười tám bộ lạc Bắc man, vốn đã không tính là bền chắc như thép, nếu có thể xoay chuyển chiến cục Tây Bắc, giải quyết vấn đề tử lưu kim như lửa sém lông mày, như vậy đánh người Tây Dương về lại quê cũ cũng chỉ là vấn đề thời gian mà thôi.
Ngàn quân dễ có, một tướng khó cầu, Cố Quân không thể không đích thân đi.
Sau cùng vẫn là Trần Khinh Nhứ ra mặt giải quyết vấn đề này, nàng nảy ra ý tưởng kỳ lạ, dùng một loại thép tấm đặc biệt, để Linh Xu viện cấp tốc chế ra, có thể bó kín trên người, cố định xương cốt chưa kịp lành của Cố Quân, cứ thế làm một bộ xương thép nhân tạo cho y.
Tuy rằng mặc vào cảm giác thật sự chẳng ra làm sao, nhưng tốt xấu gì cũng có thể cam đoan cho y thoạt nhìn vẫn đi lại như gió.
Thẩm Dịch thở dài nói: “Ta nói Đại soái à, mau thu lòng dạ rộng như trời của ngươi lại đi, ngươi rốt cuộc định làm thế nào đây?”
Cố Quân hết sức chuyên chú thả thuyền trước ngực, giả câm vờ điếc.
Thẩm Dịch thấy tên này lại chơi trò này, lập tức ứng đối đâu vào đấy mà hít sâu một hơi, lên giọng la to: “Ta nói Đại soái à, Nhạn… Á!”
Cố Quân trở tay cho y một roi, Thẩm Dịch hiểm hiểm dùng cát phong nhận che trước mặt, mắt trợn như mắt gà chọi, không ngừng vỗ ngực nói: “Nguy hiểm thật nguy hiểm thật, suýt nữa bị hủy dung – Ê, Đại soái, lời hay mới nói hai câu ngươi đã thẹn quá hóa giận, ta thấy Liễu Si đại sư kia tuy là gian tế Đông Doanh, nhưng rắm đàn hương đánh ra cũng không hoàn toàn vô lý, ta thấy ngươi cũng là mạng cứng, sao Hồng Loan bị ngươi khắc bay không nổi, khó khăn lắm mới chạm được một lần, vậy mà toàn hoa đào nát.”
Cố Quân: “…”
Thẩm Dịch chép miệng, cảm thấy có thể cổ Cố Quân quả thật không tiện xoay lắm, bằng không đã lao tới nện mình một trận từ lâu rồi.
Cố Quân thu roi ngựa, trầm mặc giây lát, đoạn lắc đầu nói: “Suýt nữa mất nước, còn có thể làm thế nào, được một ngày thì hay một ngày đi, không chắc ngày nào da ngựa bọc thây, nghĩ nhiều thế làm gì?”
Thẩm Dịch nghe vậy nhíu mày, y rất hiểu Cố Quân, nếu thật sự một chút ý đó cũng không có, thì Cố Quân đã sớm nói thẳng ra rồi, chứ tuyệt đối không có một chút mập mờ, trước mắt nghe ý này, cùng với nói là do dự, chi bằng nói trong lòng đã hơi xuôi, chỉ là bởi vì có điều gì băn khoăn, mới tạm thời “lưu trung bất phát”.
Thẩm Dịch: “Khoan đã, Tử Hi, ngươi sẽ không…”
Cố Quân: “Không nói chuyện này nữa.”
Thẩm Dịch: “Nhưng đó là con ngươi mà!”
Cố Quân: “Còn cần ngươi nói nhảm à!”
Thẩm Dịch vẻ mặt kinh hãi, Cố Quân bực bội nhìn đi chỗ khác.
Không gặp lão mụ tử này thì rất nhớ, vừa gặp liền cảm thấy y thật phiền, Cố Quân bèn thúc bụng ngựa, lao khỏi chỗ Thẩm Dịch, lấy một cây sáo nhỏ bằng bạch ngọc từ trong lòng ra, nghẹn ngào thổi lên.
Ngoại trừ thứ không cần tấu nhạc cũng tự vang, nhạc khí gì đến tay Cố Quân cũng chẳng phát nổi âm nào hay, Cố Quân bị thép tấm nẹp thành nửa cương giáp không đủ hơi, giọng run run, bấm các lỗ cũng buông cương mặc ngựa, điệu chạy quanh toàn cảnh Đại Lương, vốn hơi buồn cười.
Thế nhưng lúc này, tiếng sáo ấy bị cuốn trong gió, cuốn theo than thở của Tây xuất Dương Quan(1), vậy mà chó ngáp phải ruồi có sự thê lương không nói nên lời, chẳng tài nào cười nổi.
Lưng Cố Quân bị tấm thép của Trần thị nẹp thẳng băng, như một lương trụ vĩnh viễn không đổ, sau lưng đeo hai thanh cát phong nhận đều sứt mẻ… không một thanh nào là của bản thân y.
Trần Khinh Nhứ tùy quân nghe tiếng sáo phía sau dần tới gần, chợt thấp giọng cảm khái: “Bằng quân mạc thoại phong hầu sự(2)…”
“Bằng quân mạc thoại phong hầu sự,” Cố Quân bay vút qua bên cạnh nàng, râu ông nọ cắm cằm bà kia ngắt lời: “Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ(3), ha ha ha.”
Trần Khinh Nhứ: “…”
Bị tiếp lời như thế, nàng nhất thời lại không nhớ ra nửa câu sau là gì!
Cố Quân hành quân như gió, dù sao bên cạnh dẫn theo một thánh thủ Trần cô nương, không sợ làm bung tấm thép trên người, sau khi rời kinh đi một mạch về phương Bắc, vừa ra khỏi cảnh nội Trực Lệ đã gặp liền hai đợt lưu dân xâm nhập và tấn công, đều không ra hồn, vừa đánh đã tan, vừa đụng đã chạy, như mấy con chó hoang thò đầu dòm chừng vậy.
“Vừa rời kinh thành chưa bao xa đã dõi theo chúng ta.” Thẩm Dịch nói với Cố Quân, “Ta từng giao thủ với họ, giảo hoạt, địa bàn cũng quen thuộc, phát hiện đánh không lại là lập tức bỏ chạy, chẳng bao lâu lại bám theo, rất đáng ghét, khi ấy ta đi đến nơi này thì nghe tin kinh thành bị vây, trong lúc hành quân gấp thật sự bị họ chọc cáu vô cùng.”
Cố Quân “À” một tiếng, đưa thiên lý nhãn trong tay cho Thẩm Dịch: “Quân sư quạt mo chỉ sợ còn từng học hành vài ngày.”
Thẩm Dịch: “Sao cơ?”
Cố Quân: “Từng nghe nói lúc giả vờ rút lui phải ‘triệt loạn kỳ mị(4)’ mới có thể khiến đối phương mắc mưu đuổi theo, đáng tiếc tiểu binh không thể lĩnh hội, cán cờ kia là họ tự chém, ta vừa nhìn thấy rồi.”
Thẩm Dịch: “…”
Cố Quân nhíu mày nói: “Những người này tạo phản với mục đích gì, biết không? Sống không nổi nữa à?”
“Nào có,” Thẩm Dịch cười khẩy, “Ngươi nghĩ quá tốt cho bọn điêu dân rồi, dù không có việc làm, lương dân phần lớn sẽ buôn bán nhỏ, hoặc học một môn tay nghề, chung quy không đến mức sống không nổi. Đám lưu dân chạy giữa hai vùng Trung Nguyên và Thục Trung này vốn là mấy tay lưu manh vô công rồi nghề, bị kẻ có rắp tâm tổ chức lại, không phải gây rối Thái tướng quân thì là chuyên môn ăn cướp, bên Thái tướng quân vừa đuổi là chạy, hễ hơi yên bình sẽ quay lại. Ta nghe nói trừ cướp bóc ra thì chúng còn có một quy củ, nếu đàn ông trưởng thành nhà ai đi theo tạo phản, nhà này sẽ không phải bị đám giặc cỏ này tấn công, vợ con chị em cũng có thể bảo vệ, không cần luôn lo lắng bị bắt đi.”
“…” Cố Quân nói, “Khoan đã, cách nói này nghe quen tai quá, chẳng phải giống với chế độ lao dịch của Đại Lương à? Quân hộ không cần nộp thuế.”
Thẩm Dịch hết nhịn nổi nói: “Đại soái, ngươi rốt cuộc đứng bên nào vậy?”
“Được được, đừng có nóng,” Cố Quân nói, “Như vậy kẻ làm thổ phỉ không phải ngày càng nhiều à? Chẳng những ‘miễn thuế’, có một đội ngũ đi theo, tốt xấu gì còn có thể tránh chiến loạn, thế đầu lĩnh là ai?”
“Nghe nói là một lão thổ phỉ trông rất đáng sợ, làm nghề này rất nhiều năm rồi, người chi chít sẹo, mặt còn từng bị bỏng, tự xưng là ‘Hỏa Long’.” Thẩm Dịch thở dài: “Vậy ngươi xem nên làm thế nào, chúng ta ra roi thúc ngựa vất vả vài hôm vòng qua đám bạo dân này, đi thẳng đến nơi viện quân Tây Bắc của Thái Phân đóng quân sao?”
Cố Quân chắp tay sau lưng bước tại chỗ chốc lát: “Loạn trong giặc ngoài, xử lý được chút nào hay chút ấy, trước có hổ lang, sau không thể có thêm nỗi lo lắng khác, nghĩ một phong tấu, báo cáo lên Sở quân cơ, nói chúng ta phải nán lại đây dăm ba hôm.”
Sau khi kinh thành được giải vây, Lý Phong liền quyết đoán dẹp hết tả hữu nhị tướng ngồi không ăn bám, sau đó để dễ bề quản lý, lại noi theo quan chế tiền triều, thiết lập “Sở quân cơ” thống lĩnh lục bộ, bắt đầu dùng chúng văn thần trong hoạn nạn thấy mới bản lĩnh thật.
Trong Sở quân cơ thường niên nửa đêm vẫn đèn đuốc sáng trưng, lúc Giang Sung đẩy cửa đi vào đã là canh ba, đèn măng-sông sáng như ban ngày, nhưng Nhạn thân vương đã gục lên bàn ngủ thiếp đi, tay hãy còn cầm một cây bút.
Giang Sung vốn không muốn đánh thức y, tự mình nhận tấu sớ nội thị ôm trong lòng, cho hạ nhân lui, khẽ khàng đi vào, nhưng hắn dù sao cũng là một văn quan, không giỏi ẩn tiếng, Trường Canh vẫn bị kinh động. Chỉ thấy trong tích tắc mở mắt, Nhạn thân vương bình nhật khôn khéo lại có vệt đỏ hiện lên nơi đáy mắt, như hung quang đằng đằng sát khí, đột nhiên lao đến người trước mặt.
Giang Sung chưa kịp phản ứng, mồ hôi lạnh trên cột sống thoáng cái đã chảy xuống, tựa như con thỏ bị sát khí của mãnh thú khóa chặt, không tự chủ được lui một bước, tay áo va vào giá bút của Trường Canh, giá bút lập tức đổ xuống.
Trường Canh lúc này mới tỉnh táo, chớp mắt liền như gió cuốn mây tan thu lại sát khí, đứng dậy nói: “Không sao, để ta dọn.”
Giang Sung kinh hồn táng đảm nhìn y, hoài nghi phải chăng mình mệt quá hồ đồ nhìn lầm rồi, dè dặt hỏi: “Vương gia vừa rồi bị bóng đè à?”
“Không có gì.” Trường Canh điềm nhiên như không nói, “Nguyên nhân là do ép ngực… Sắc mặt không dễ nhìn làm huynh sợ à, ta lúc thức giấc thường hơi nóng, vừa nãy nhất thời ngủ mơ hồ, suýt nữa không rõ mình đang ở đâu.”
Y nói như thế, Giang Sung cũng không tiện hỏi nữa, cứ cảm thấy cơn giận lúc tỉnh giấc của Nhạn vương điện hạ hơi lớn quá.
Trường Canh kê lại giá bút bị đổ, lúc này mới hỏi: “Sao vậy, Hàn Thạch huynh có việc gì à?”
Giang Sung định thần lại, ngồi xuống đối diện y: “Vì chuyện phát hành ‘phong hỏa phiếu’ ra dân gian mà Vương gia nói trên triều hội hôm qua, trong triều tạp âm không nhỏ, thứ nhất triều đình vay tiền bách tính, là chưa từng có bao giờ, làm thế không phải chiêu cáo thiên hạ rằng quốc khố ta trống rỗng sao? Mặt mũi triều đình ở đâu?”
Trường Canh tựa hồ còn chưa tỉnh táo lắm, ngồi trên ghế không ngừng bóp trán, nghe thế cười nói: “Mất hết nửa giang sơn thì có mặt mũi lắm à?”
Giang Sung: “Còn có người hỏi đến lúc đó triều đình không trả được tiền thì làm thế nào? Vốn liếng trong quốc khố, Vương gia cũng biết đấy.”
“Dời kỳ hạn trả tiền, sau đó có thể phát hành thêm đợt thứ hai, thứ ba, cứ mượn tạm, sẽ quay vòng được thôi,” Trường Canh nói, “Nhóm người đầu tiên mua phong hỏa phiếu có thể cho vài lợi ích thực tế thích hợp, tước vị, hư chức trong triều, lệnh đặc biệt… đều có thể, lý tưởng nhất chính là nếu thi hành việc này, dân gian có thể sử dụng phong hỏa phiếu như ngân lượng.”
“Nếu là như vậy thật,” Giang Sung do dự nói, “Mớ phiếu đó chẳng phải sẽ bay đầy trời? Đến lúc ấy tất nhiên không đáng một xu!”
Trường Canh: “Triều đình đỡ hơn là có thể mua lại, chờ qua đợt này, là hoàn tiền hay tiếp tục, là cơ cấu đặc xá hay luật pháp chuyên môn ban bố, đều tính sau.”
Giang Sung lại nói: “Còn có kẻ hỏi, nếu tương lai dân gian có người làm giả, cầm phiếu giả đến đòi tiền triều đình thì làm thế nào?”
Trường Canh nghe thế tức đến bật cười: “Việc này thì đi hỏi Linh Xu viện, việc nhỏ nhặt như vậy cũng cần đem đến Sở quân cơ mà nói à? Ngày mai chúng ta có nên nói quy phạm cách dùng bô không?”
Giang Sung cười khổ: “Đúng là đạo lý này, điện hạ cũng biết Ngự sử đài mà… chẳng có việc gì ngoài cãi nhau, nghe nói đang thâu đêm suốt sáng viết tấu tố ngài làm xằng làm bậy đấy.”
Trường Canh thở dài: “Nói một ngàn loại đạo lý, hiện tại cũng chỉ là giải quyết vấn đề khẩn cấp thời chiến, không thì còn có thể làm thế nào? Đánh thuế nặng lên lưu dân trong thành, hay dỡ hành cung của Hoàng thượng đi bán lấy tiền? Ai có vấn đề có thể đưa ra trên triều hội, trả lời được thì ta sẽ nói ngay đó, chưa nghĩ ra thì ta trở về ngẫm lại nói sau, những người này…”
Triều đình này chính là như vậy, có một nhóm nhỏ phụ trách làm việc, còn lại phần lớn phụ trách cản trở bới móc, tương lai nếu sự thành, thì xem như nhờ mình suy nghĩ chu toàn, vạn nhất sự không thành, chính là “năm đó vì sao không nghe ta”.
Đây cũng chưa tính là gì, lại còn có những kẻ ôm tâm cơ và quan hệ lợi hại phá rối, ngáng chân, muốn làm chút việc còn khó hơn lên trời… Chẳng trách mọi người đều biết đạo lý “kiêm thính tắc minh”, thế nhưng nhiều nhất trong lịch sử lại vẫn là đế vương chuyên quyền và quyền thần quyền khuynh triều dã. (Kiêm thính tắc minh ý là phải nghe từ nhiều phía mới có cái nhìn đúng đắn được)
“Không phải nhằm vào huynh đâu, Hàn Thạch huynh đừng chê trách,” Trường Canh khoát tay, “Ta gần đây cũng tranh cãi quá nhiều, nên hơi nóng nảy.”
“Nói tới Linh Xu viện, Phụng Hàm công hôm qua lại dâng tấu, hạ quan làm chủ giữ lại trước, Vương gia xem xem có thể trình lên không?”
Trường Canh rót cho mình một chén trà nguội qua đêm: “À, nói gì vậy?”
“Một bản đề nghị Hoàng thượng hủy chưởng lệnh pháp, bỏ lệnh cấm trường tý sư dân gian, một bản là muốn Hoàng thượng bỏ lệnh cấm giao dịch tử lưu kim trong dân gian, nói là đại phú thương tất nhiên đều có cách của mình, quốc nạn ập xuống, chi bằng phát huy tác dụng của những người này, để tử lưu kim trong Đại Lương ta cũng có thể thêm một đường đến.”
Trường Canh dừng một chút, lắc đầu: “Phụng Hàm công… Ôi, Phụng Hàm công này.”
Lão nhân gia lúc kinh thành bị bao vây cởi trần ra trận, tinh thần ấy làm Lý Phong khắc sâu ấn tượng. Tuy rằng tính tình lão già này vừa khó ưa vừa cứng nhắc còn cố chấp, nhưng trung tâm như một là không cần bàn cãi, bởi vậy gần đây ông ta thường nói vớ nói vẩn, Lý Phong cũng đều dung nhẫn.
“Bản tấu hủy chưởng lệnh pháp kia mọi người xem qua, không quá đáng thì có thể trình lên,” Trường Canh nói, “Việc tử lưu kim thì thôi đi, ngược long lân của Hoàng thượng có thoải mái không? Khéo léo giúp ông ấy viết tóm tắt trình lên trên, sớ cũ thì trả lại.”
Giang Sung bất đắc dĩ đáp một tiếng, đang định đứng dậy đi, bỗng nhiên lại như nhớ tới điều gì, quay đầu nói: “Đúng rồi, còn có An Định hầu…”
Trường Canh lập tức ngẩng đầu lên.
Lý Phong trả Huyền Thiết hổ phù lại cho Cố Quân, cho y quyền điều phối binh lực và chiến bị tứ phương, theo lý là không cần báo cáo tất tần tật các việc lớn nhỏ dọc đường, nhưng Cố Quân không lĩnh tình, định kỳ dâng tấu theo quy củ, đã đến nơi đâu, chiến cục ra sao, định làm thế nào, có lý do gì, tất cả đều trình bày rõ ràng.
Giang Sung: “An Định hầu vừa đến vùng Trung Nguyên, không có việc gì khẩn yếu, chỉ nói đụng phải một đám ô hợp thổ phỉ bạo dân, định xử lý sạch trước, tối đa dăm ba hôm thôi.”
Trường Canh “Ồ” một tiếng: “Để lại ta xem xem.”
Giang Sung cảm khái: “Việc lớn việc nhỏ đều bày ở chỗ Vương gia, những người khác ngài đều nghe báo cáo vắn tắt, chỉ có tấu của Cố soái là xem kỹ từ đầu đến cuối, tình cảm của Vương gia và Đại soái thật là sâu nặng.”
Nói xong hắn liền cáo từ, mới đi tới cửa thì Trường Canh chợt gọi lại: “Hàn Thạch huynh.”
Giang Sung không rõ nguyên do quay đầu lại: “Vương gia còn điều gì phân phó?”
Trường Canh đặt một tay trên bản tấu của Cố Quân, bất tự giác vuốt ve nhè nhẹ, trầm mặc chốc lát, sắc mặt bình thản nói: “Phiền huynh giúp ta thu thập một chút dị nghị về phong hỏa phiếu trong triều, ai nói, nói khi nào, nói gì, để ta xem xét chỉnh sửa phương án.”
Giang Sung kinh hãi – chỉnh sửa phương án thì cần gì “ai nói” và “nói khi nào”, hắn không nhịn được nhờ ánh đèn măng-sông sáng suốt đêm nhìn Nhạn vương một cái, mặt là trẻ tuổi, ánh mắt lại không một chút ngây ngô, mới nhìn cảm thấy là một quý công tử nho nhã, song nhìn lại thì ánh mắt không phải xuân phong hóa vũ, hơi lộ ra nét lành lạnh.
Nghe nói tiên đế lúc lâm chung phó thác tứ điện hạ cho Cố Quân, y lớn lên ở phủ An Định hầu, Giang Sung chợt giật mình phát giác, thì ra điện hạ và Hầu gia không giống nhau chút nào.
Giang Sung: “… Vâng.”
Trường Canh hơi gật đầu, đều là người thông minh, không cần giải thích nhiều.
Chờ Giang Sung kinh nghi bất định đi rồi, Trường Canh mới khẽ thở ra một hơi, y vốn ngủ không ngon, vất vả lắm mới thiêm thiếp ngủ gật một giấc không mấy thoải mái, bị quấy nhiễu như vậy, chỉ sợ đêm nay không ngủ nổi nữa, y liền đứng dậy thay huân hương trong phòng, đốt an thần tán của Trần cô nương.
Trường Canh im lặng đứng một lúc trước an thần tán hất vào mặt, cơn ác mộng căn bản không nhớ rõ nội dung ban nãy khiến ngực y đau như kim châm, có người ngoài miễn cưỡng nhịn xuống không lộ ra – cảm giác này rất giống vài lần hiếm hoi khi Ô Nhĩ Cốt phát tác.
Bởi thương thế của Cố Quân, Trần cô nương đi tùy quân, trước khi đi đặc ý gọi y ra một góc, bảo y tăng thêm lượng an thần tán, có thể tĩnh dưỡng thì hãy tận lực tĩnh dưỡng.
Phen này bị đại hỉ đại bi giày vò, quét sạch vốn liếng mấy năm tĩnh tâm tích được, về sau muốn áp chế sẽ khó khăn gấp bội, Ô Nhĩ Cốt tối kỵ nghĩ nhiều – nghĩ nhiều càng hao tổn tinh thần.
Nhưng có biện pháp nào đâu? Chẳng lẽ ném gánh chạy lấy người, nhìn Cố Quân bị giang sơn đổ nát này vây chết?
—
“Tây xuất Dương Quan vô cố nhân” là một câu trong bài thơ Vị Thành khúc – Tống Nguyên nhị sứ An Tây của Vương Duy, nghĩa là: Ra khỏi Dương Quan về phía Tây không còn cố nhân nữa.
“Bằng quân mạc thoại phong hầu sự, nhất tướng công thành vạn cốt khô” nằm trong bài thơ Kỷ Hợi tuế của Tào Tùng, tạm dịch: Đừng ai nhắc chuyện phong hầu nữa, một tướng công thành vạn thây khô.
“Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ” – Một tấm lòng băng trong bình ngọc là câu thơ trong bài Phù Dung lâu tống Tân Tiệm của Vương Xương Linh.
Triệt loạn kỳ mị – xe loạn cờ giạt đại khái hình dung quân đội tan tác tháo chạy. Xuất xứ: Tả truyện – Trang Công thập niên.
|
Chương 69: Thân thế
Thổ phỉ bạo dân hoành hành vùng Trung Nguyên làm Thái Phân phiền lòng vô cùng. Thái tướng quân dù sao cũng già rồi, đại quân Trung Nguyên dưới trướng nhìn như uy vũ hùng tráng, kỳ thực cũng bị người ta gọi là “quân dưỡng lão”, nơi đóng quân trước không thấy thôn sau không gặp ***, tứ bình bát ổn tọa lạc ngay chính giữa, ngoại trừ thỉnh thoảng bình loạn, cơ bản là dùng để tăng viện cho biên cảnh.
Lúc này Tây Bắc hai nơi kéo đi phần lớn binh lực của Thái Phân, trên tay ông vốn không có ưng giáp, lại thêm trời sinh tính cẩn thận, không dám mảy may mạo hiểm, thành thử bị bạo dân quấy nhiễu phiền hết sức.
Cố Quân mất dăm ba ngày, tìm hiểu rõ nguồn gốc của bọn bạo dân này, tự mình mò một lần địa hình trên bản đồ, sau đó phái người liên lạc với Thái tướng quân, chuẩn bị hai mặt bao vây.
Thổ phỉ tạo phản không biết đội ngũ đến từ kinh thành do ai dẫn binh, chỉ là sau vài lần thăm dò, phát hiện đội quân này còn bảnh hơn Thái Phân, có trọng giáp và thương pháo hù dọa người, nhưng chưa bao giờ khai hỏa, chỉ xuất khinh kỵ, lần nào cũng đuổi theo một hai dặm là thu binh, nhận định nhánh quân đội này là dưa chuột trông ngon nhưng vô dụng, đang lên kế hoạch muốn vây đánh họ, thì Thái Phân lại đột nhiên như động kinh, thay đổi tác phong chỉ đánh không truy, dốc toàn bộ binh lực trú quân Trung Nguyên lưu thủ, bất ngờ bao vây bạo dân tạo phản.
Kỳ thực binh lực trú quân Trung Nguyên lưu thủ không nhiều, nếu nói đánh, song phương chưa chắc ai thua, chỉ là bọn phỉ quen cách nhàn nhã ngươi tiến ta lui, tự cho là con cá chạch trơn tuột, không nỡ dốc vốn liếng ra đánh bừa, bởi vậy giở lại trò cũ, vừa chiến vừa đi, quanh co trốn Thái Phân, trên đường lui lại đụng phải Cố Quân chờ đã lâu.
Cố Quân lệnh cho trọng giáp lên nòng thương pháo nhắm thẳng vào phỉ bang, đại phỉ thủ thấy đám lính thiếu gia lại đến hù dọa, lập tức quát lệnh thủ hạ lao vào trong trận trọng giáp, phòng tuyến trọng giáp vừa xông đã phá, khinh kỵ “chật vật” đối kháng, phỉ thủ thấy quả nhiên trong pháo khẩu đều không có đạn, thuần túy là giấy, dưới sự mừng rỡ càng không kiêng sợ gì, trực tiếp dẫn binh xông lên.
Chờ phỉ bang chui hết vào rọ, những trọng pháo “bằng giấy” đó đột nhiên nổ vang, phỉ bang không kịp đề phòng, người ngã ngựa đổ, còn chưa kịp rút, thì khinh kỵ mới trốn trốn tránh tránh cùng quân Thái gia chạy đến hai bên vây lại, thực sự úp sọt chúng.
Phỉ bang tan tác không thành quân, thủ lĩnh “Hỏa Long” trong lời đồn bị bắt sống, Cố Quân nhức cả mắt vì thân thể lồi lõm xấu xí của phỉ thủ, định trực tiếp ném tên này cho Thẩm Dịch chơi, phân phó: “Hỏi hắn đồng đảng ở đâu, bị kẻ nào sai sử, hang ổ ở chỗ nào, có cái gì để cho chúng ta hắc ăn hắc hay không…”
Thẩm Dịch bị sặc ho sù sụ: “Đại soái, ngươi nghèo đến điên rồi!”
Cố Quân khoát tay: “Không nói thì đánh hắn… Nghiêm hình bức cung, ta với Lão Thái đi ôn chuyện đây.”
Y nói xong đang định đi thì đột nhiên nhìn thấy một thân binh cầm trong tay một thanh đoản đao tạo hình kỳ lạ, dài hơn chủy thủ một chút, mũi đao hơi cong vào, tạo thành độ cong ưu mỹ, rất khác đoản đao Trung Nguyên, Cố Quân cảm thấy hơi quen mắt, liền đưa tay nhận lấy.
“Đại soái, đây là lục soát được trên người phỉ thủ kia.”
Cố Quân rút đoản đao, ngón tay lướt qua lưỡi đao một chút, nheo mắt thấp giọng nói: “Đồ của người man?”
“Là đoản loan đao của mười tám bộ lạc.” Lúc này, Trần Khinh Nhứ đi tới, “Hầu gia, tấm thép đã lỏng ra chưa?”
“Vẫn chưa, làm phiền Trần cô nương đêm hôm chạy ngược chạy xuôi với bọn ta.” Cố Quân lắc đầu, nắm thử chuôi đoản đao, “Ồ, chuôi đao ngắn thế này không vướng tay à?”
“Không ngắn đâu, đây là đao của nữ nhân,” Trần Khinh Nhứ nhận loan đao, cầm áng thử, “Bắc man mười tám bộ ăn gió nằm sương, tranh thức ăn với mãnh thú trên thảo nguyên, bởi vậy chỗ chuôi đao thường có một đường lõm, vạn nhất gặp dã thú khỏe, trong đánh nhau có thể phòng rời tay, thanh đao này chất lượng thép rất tốt, nguyên chủ nhất định có thân phận không thấp, chuôi đao quá nửa là lượng thân đặc chế, thế thì tay nàng ta nhất định rất nhỏ, xấp xỉ cỡ ta, nên là một nữ nhân – Hầu gia hãy xem chỗ này.”
Nàng xoay chuôi đao lại cho Cố Quân xem, chỉ thấy phía dưới chuôi đao có một vòng hoa văn phức tạp, như một đồ đằng do vô số hoa đằng quấn quanh, chính giữa là hình ngọn lửa.
Trần Khinh Nhứ nói: “Ta từng nhìn thấy hình hoa đằng này trong di tích bỏ đi của mười tám bộ lạc, nghe nô lệ người Hán bị bắt nói, đây hình như là dấu hiệu của thần nữ mười tám bộ.”
“Ta biết,” Sắc mặt Cố Quân thoáng cái nghiêm túc hẳn, “Ta còn biết dấu hiệu chính giữa kia đại diện cho ai.”
Thẩm Dịch không biết tiến lại từ khi nào, nhìn thấy hoa văn nọ thì hơi thở mạnh: “Tâm của đại địa?”
Trần Khinh Nhứ hoang mang hỏi: “Ai?”
Thẩm Dịch: “Hồ Cách Nhĩ… Tú Nương, nàng ta… nàng ta không phải chết rất nhiều năm rồi à? Sao lại…”
Cố Quân vẫy tay gọi y đi theo, cầm thanh đoản đao kia quay người đi vào nơi giam giữ phỉ thủ Hỏa Long, xua tay đuổi hết thủ vệ ra ngoài.
Y cầm thanh đoản đao nọ, trên mặt không rõ hỉ nộ, thanh đao hơi cong đã rất cũ mà vẫn sắc bén y nguyên, có sự tàn nhẫn đâm vào sẽ kéo ra một tảng máu thịt. Cố Quân đặt mũi đao trên cằm Hỏa Long: “Nghe nói ngươi không khai ra sào huyệt của quý khởi nghĩa quân, cũng không chịu nói là ai xúi giục ngươi thừa nước đục thả câu đi quấy rầy quân Thái gia?”
Hỏa Long: “Phi, tiểu bạch kiểm!”
Cố Quân nghe vậy nở nụ cười, cảm giác hơi hưởng thụ – với y thì mắng nam nhân là “tiểu bạch kiểm” và nữ nhân “hồ ly tinh” là một đạo lý, chỉ có thể chứng minh người bị mắng rất đẹp.
“Thích nói hay không thì tùy,” Cố Quân thong dong quay đầu lại phân phó Thẩm Dịch, “Quốc nạn ập xuống, kẻ này thông đồng ngoại quốc, qua lại với Bắc man, bọn mọi cha mọi con đó còn chưa nhập quan, mà bên này đã liếm chân người ta trước rồi… Thẩm ngươi cũng lãng phí thời gian của ta, ngày mai chiêu cáo tứ phương, lăng trì thị chúng!”
Hỏa Long nghe một nửa, thoạt đầu mù mờ, sau đó thần sắc càng lúc càng kinh hãi, thấy Cố Quân không phải nói đùa, thật sự thái độ khinh mạn đứng dậy, liền ra sức giãy giụa: “Vu oan! Cẩu quan! Các huynh đệ đều biết lão tử đây là hán tử đỉnh thiên lập địa, ngươi dám dùng lời xằng bậy như vậy để bôi nhọ thanh danh ta…”
“Bôi nhọ?” Cố Quân quơ quơ thanh đao nữ của mười tám bộ trước mặt Hỏa Long, “Người Trung Nguyên thèm vào quan tâm thứ này tên lang nha cương, mũi cong kiểu trăng khuyết là điển hình người man chế tác, cái này có phải của ngươi hay không?”
Hỏa Long sững ra.
“Vỏ đao và rãnh đều là đặc chế, vỏ da tốt nhất, đồ đằng trên chuôi sống động như thật, tất xuất từ tay danh gia, người man bình thường không dùng nổi thứ này, vậy nên nguyên chủ không phú thì quý-” Cố Quân hất cằm, liếc Hỏa Long nói: “Ta nói xú bát quái, các huynh đệ của ngươi đều biết ngươi cả ngày cất vật này trên người, chỉ là không ai biết lai lịch của nó nhỉ? Chậc, một đám chân đất mắt toét không biết nhìn hàng…”
“Từ từ! Chờ… chờ đã!” Hỏa Long hét lớn, “Đó là… Đó là thứ của cừu gia, không phải…”
Cố Quân cười to nói: “Đúng thế, nghe rất giống thật, ta từng gặp người tùy thân mang theo vật của tình nhân, nhưng lần đầu nghe nói còn có kẻ nhớ mãi không quên địch nhân như vậy, cừu gì sầu triền miên đến thế, nói nghe xem.”
“Nữ nhân đó dùng dược hạ gục trại ta trên dưới trăm huynh đệ, lần lượt chém từng người, cuối cùng còn phóng hỏa, đốt sạch sẽ đỉnh núi, một ngọn núi, mà ngay cả chim cũng cháy đen, chỉ thoát được mình ta, để lại sẹo chằng chịt khắp người. Con mẹ nó lão tử căn bản không biết ả ở đâu tới, cũng không biết ả là người man, mang theo thanh đao này để nhắc nhở bản thân sự sỉ nhục trong quá khứ thôi!” Hỏa Long cực kỳ giận dữ, quát, “Cẩu quan, ngươi bôi nhọ lão tử cái gì cũng được, nhưng nếu dám chụp cho ta chậu cứt này, ta thành quỷ cũng phải cắn chết ngươi!”
Thẩm Dịch ở bên cạnh ngoài cười trong không cười mà nói: “Răng ngài còn rất bén đấy, bịa tiếp đi, một nữ nhân man tộc khi không chui vào hang thổ phỉ, một mình đốt chết thổ phỉ trên cả ngọn núi? Thật mới mẻ – Đại soái, gánh hát quý phủ mời tới có vở nào hấp dẫn vậy không?”
Cố Quân than: “Thịt cũng chẳng có mà ăn, ở nhà ngày nào cũng phải húp cháo loãng, còn gánh hát gánh hủng…”
Hỏa Long mắt đăm đăm nói: “Đại soái… Đại soái nào?”
Cố Quân xoay đoản đao trong tay ra hoa, nhìn hắn cười không có hảo ý.
Hỏa Long phút chốc ngộ ra, rùng mình: “Ngươi, ngươi chẳng lẽ là Cố… Cố…”
“Đừng nhận thân thích linh tinh, ai là cô ngươi hả?” Thẩm Dịch cắt ngang, “Nói xem ngươi và người man cấu kết làm xằng làm bậy như thế nào.”
Mặt Hỏa Long thoắt cái đỏ gay lên: “Đã nói là cừu gia rồi! Có một chữ không thật bà mẹ nó cho thiên lôi đánh ta đi!”
“Ả đó lúc ấy đi theo một tiểu thương đội, hình như là lạc gia đình, dùng tiền nhờ người ta đưa đi một đoạn, không biết muốn đến đâu, trên đường chúng ta chặn thương đội, thấy ả có vài phần tư sắc, liền cùng bắt lên núi, lúc ấy ả bế một đứa trẻ còn quấn tã, có vẻ chưa đầy tháng, bản thân còn mang bầu một…”
Thẩm Dịch trong lòng giật mình, ngoài mặt lại cố gắng bình tĩnh hỏi: “Chuyện khi nào?”
Hỏa Long nói: “Mười chín… hai mươi năm trước.”
Nhờ ngọn đèn tù mù, Cố Quân cùng Thẩm Dịch trao đổi một ánh mắt khó hiểu – nghe giống như chuyện năm đó thần nữ man tộc bỏ trốn, vậy đứa trẻ lúc ấy nên là Trường Canh, nhưng đứa trong bụng Tú Nương lại là thế nào?
Thẩm Dịch: “Sau đó thì sao?”
Hỏa Long ngửa ra sau, khàn khàn nói: “Những kẻ bị bắt lên núi khác phần lớn tìm đến cái chết, ả thì không giống. Ả đó mặt mũi không tệ, nhưng đầu óc hình như không ổn lắm, người ta nói chuyện cũng không có phản ứng gì, đánh ả không biết kêu đau, bảo làm gì cũng không phản kháng, chưa đến mấy tháng, đã sinh non một thằng bé.”
Tay Cố Quân cầm đoản đao hơi nắm chặt, không biết vì sao, nghe đến đoạn này, y bỗng có cảm giác hãi hùng – trực giác từng ấy năm chưa bao giờ sai giống như lại gảy sợi tơ trong lòng.
“Đều nói nữ nhân mới đẻ không sạch sẽ, thời gian ấy chẳng ai động vào ả, cũng chẳng ai thèm quản, chỉ là sợ ả chạy, bèn xích chân ả trong phòng, mỗi ngày cho miếng cơm, ấy vậy mà ả không chết… Qua một thời gian, một tiểu huynh đệ não úng nước mê sắc đẹp của ả đàn bà đó, trộm chạy tới xem, trở về kinh hãi nói cho ta biết, rằng bên cạnh ả chỉ còn lại một đứa, không thấy đứa kia đâu.”
Thẩm Dịch cơ hồ quên luôn là mình đang moi tin, buột miệng hỏi: “Thiếu đứa nào?”
“Mẹ nó ai mà biết được, đều là nhãi con ngắc ngoải, da bọc xương chỉ to bằng con chuột.” Hỏa Long quả nhiên lập tức cảnh giác, “Ngươi hỏi việc này để làm gì?”
Thẩm Dịch khựng lại, lập tức quất mạnh roi ngựa trong tay xuống bên cạnh, lạnh lùng nói: “Cái gì cũng không biết thì ngươi nói làm đếch gì? Thêm bớt một thằng nhãi người man thì lạ lắm ấy, đang bảo ngươi khai, ngươi nói nhăng nói cuội tính chờ cái gì hả?”
Thế nhưng Hỏa Long không tức giận, sắc mặt căng thẳng: “… Không, đứa trẻ chết không ngạc nhiên, bọn nhãi này mạng đều thấp hèn, chết một đứa hay sống một đứa cũng không nhiều… Ngạc nhiên là, huynh đệ ta nói, hắn không nhìn thấy thi thể ở đó, nữ nhân ấy bị nhốt trong phòng, căn bản không ra được, không thể chôn dưới đất, nhưng ả vừa không vứt ra, cũng không để trong phòng, đứa trẻ đó… tự, tự dưng biến mất. Lúc ấy có huynh đệ canh gác nói thấy phòng ả nửa đêm có ánh lửa, mới đầu còn tưởng là lén nấu ăn, sau nghe nói dạo ấy có rất nhiều quạ đen cả ngày bay lượn trên xà nhà…”
Thẩm Dịch nổi da gà, vô thức nhìn Cố Quân một cái.
Khóe mắt bị đốt nát của Hỏa Long giật vài cái: “Việc này một dạo khiến mọi người hoảng sợ, có người nói nữ nhân này là yêu trong yêu, không bình thường, muốn giết ả, còn có mấy kẻ bị sắc tâm mê hoặc mà tiếc rẻ, cãi nhau rất lâu không ra kết quả, lúc ấy đại ca ta thấy ả nói gì cũng nghe, giỏi làm việc, trên giường cũng hăng hái, liền làm chủ giữ lại, kể cả thằng oắt ngắc ngoải kia, giữ cũng được vài năm…”
“Ả đó, đúng là yêu quái…” Hỏa Long thở dài, “Thật sự, ban đêm nếu không có nam nhân đi tìm ả, thì ả sẽ giày vò đứa trẻ bên cạnh đủ kiểu, gào thét đến mức cách đỉnh núi cũng nghe thấy, năm lần bảy lượt huynh đệ trong trại nhìn không nổi, bắt ả bớt đi, ả ngoài mặt bằng lòng, sau đó lại ra tay.”
Cố Quân đứng bật dậy.
Thẩm Dịch thót tim, thấy Cố Quân miễn cưỡng để tay cầm đoản đao ra sau người, gân xanh muốn lồi lên mu bàn tay.
May là Hỏa Long không chú ý tới, giống như đã đắm chìm trong ký ức, lẩm bẩm: “Cách ngôn nói hổ dữ không ăn thịt con, bọn ta tuy đều là tâm độc thủ ngoan không sợ báo ứng, cũng chưa gặp nữ nhân ác độc đến vậy… Nhưng đại ca ta không biết bị ả bỏ bùa mê thuốc lú gì, khăng khăng nói loại nữ nhân không phải con nhà lành này mới nên ở lại trên núi, nên là người của chúng ta, hắn nhất thời bị quỷ ám, tiễn luôn cả mạng!”
Giọng Cố Quân có chút khô khốc khó phát hiện: “Tiễn như thế nào?”
“Hạ độc, nữ nhân người man toàn thân đều là độc, ả ở trong sơn trại nhịn nhiều năm không lộ ra dấu vết, dần dần các huynh đệ đều không đề phòng, dễ dàng thả mặc, thế là ả giết sạch cả sơn trại, ngay cả những nữ nhân, nô lệ, con tin bị bắt lên núi như ả, không buông tha một ai, cuối cùng một mồi lửa đốt trụi ngọn núi.” Trên mặt Hỏa Long thoáng qua vẻ đau đớn, hắn chửi rủa um sùm, phun ra một đoạn dài ô ngôn uế ngữ.
Lúc này chẳng ai màng ngắt lời hắn nữa, sắc mặt Cố Quân khó coi vô cùng.
“Bữa đó ta vừa vặn tiêu chảy, rượu và nước đều không dám uống nhiều, mới miễn cưỡng có thể đủ sức bò khỏi biển lửa, nhặt lại mạng. Thanh đao đó… thanh đao đó là ta rút từ trên ngực đại ca. Nếu ta gặp lại nữ nhân đó, nhất định băm vằm ả ra!”
Cố Quân thấp giọng nói: “Nàng ta mang theo một đứa bé cùng nhau giết người đốt núi.”
“Ả bỏ thằng nhỏ trong gùi,” Hỏa Long nói, “Địu trên lưng, đứa trẻ đó trông luôn nửa chết nửa sống, nằm trong gùi như không xương. Nó cứ nhìn, nhìn người chết khắp nơi, ngay cả khóc cũng không biết khóc một tiếng, nhiều năm như vậy, nếu nó không chết trong tay nữ nhân đó, chắc hẳn cũng phải là một yêu nghiệt tinh phong huyết vũ.”
Cố Quân không nói một lời quay người đi ra ngoài.
Thẩm Dịch vội vàng đuổi theo: “Đại soái, Đại soái!”
“Không thể để kẻ này lại,” Cố Quân hạ giọng mau chóng nói, “Lão Thái còn ở đây, nhân lúc ông ta chưa phát hiện, cho tên đầu ghẻ này vĩnh viễn câm miệng, nhớ sạch sẽ một chút.”
Nói xong, Cố Quân đột nhiên lại nhớ tới điều gì, khựng lại, mặt mày phủ đầy khói mù: “Không đúng, ta quên còn có Gia Lai Huỳnh Hoặc, năm đó ở Nhạn Hồi, hắn với Tú Nương vẫn âm thầm qua lại, tên người man ấy chắc phải biết chuyện gì đó.”
Thẩm Dịch kinh hồn táng đảm nói: “Đại soái…”
“Y chưa từng nói với ta,” Hai vai Cố Quân đột nhiên sụp xuống, tấm thép trên người lại khiến y không cong nổi lưng, tư thế đứng cứng đờ khó tả, “Y chưa bao giờ nói với ta, ngay cả nhắc cũng chưa từng… Ta biết nữ nhân man tộc đó đầu óc toàn phục quốc báo thù, sẽ không tốt với y lắm, nhưng chung quy cũng là máu mủ ruột rà…”
Thẩm Dịch vội nói: “Ngươi đâu có biết ả điên Hồ Cách Nhĩ kia đã làm gì, hai mươi năm trước ngươi còn chảy nước mũi viết chữ đại mà, Tử Hi, việc này không liên quan tới ngươi!”
“Lần ấy hai ta nhặt được y giữa trời tuyết, căn bản không phải y tuổi nhỏ vô tri trộm đi ra ngoài chơi,” Cố Quân thấp giọng nói, “Rõ ràng là y không chịu nổi ngược đãi, cho nên…”
Mà họ lại còn “tốt bụng” đưa y về.
Thẩm Dịch không thể đáp gì.
Một lúc lâu, Thẩm Dịch mới thì thào: “Nếu… ta nói là một giả thiết, giả sử đứa trẻ lưu lại không hề là con hoàng quý phi…”
Thẩm Dịch khó lòng kiềm chế nhớ tới cảnh tượng nhiều năm trước, thiếu niên Trường Canh ở trước mặt y, trấn định nói mình không phải hoàng tử, tàn tật trên chân là bị Tú Nương bẻ.
Cố Quân phút chốc ngẩng lên: “Ngươi muốn nói gì?”
“Mẫu thân là ai không quan trọng, vu nữ mười tám bộ hay tỷ muội vu nữ khác biệt không lớn, vấn đề là… đứa trẻ Hồ Cách Nhĩ mang thai là của ai?” Thẩm Dịch khó khăn liếm khóe miệng một chút.
Năm đó muội muội hoàng quý phi ở trong cung, là muốn gả cho con cháu tôn thất, tiên đế Nguyên Hòa sẽ đi làm chuyện trộm đồ mình trông sao?
Nếu tiên đế thật sự không biết xấu hổ như vậy, thì mọi người đều thở phào nhẹ nhõm, nhưng nếu… không phải thì sao?
Nếu không phải tiên đế, thế hiềm nghi nhất chắc chắn là người năm đó giúp các nàng đào tẩu – rắp tâm xấu xa, lại có thể ra vào cung cấm, thậm chí có khả năng thả vu nữ mười tám bộ lạc, nhiều năm sau tiếp quản nội tuyến hai người để lại trong cung…
Cộng những điều kiện này lại, thật sự rất dễ gợi liên tưởng đến Liễu Si đại sư cùng đám gian tế Đông Doanh của lão.
Thẩm Dịch toàn thân lạnh buốt: “Đại soái, việc này…”
Cố Quân ngẩng đầu nhìn y, ánh mắt như đao, Thẩm Dịch tự dưng không dám mở miệng.
“Nát trong bụng.” Cố Quân cúi đầu, hai tay vuốt đoản đao, nói như đinh đóng cột, “Bên phía Bắc man, sớm muộn cũng có một ngày ta xử lý sạch sẽ, việc này không được nhắc lại.”
Thẩm Dịch: “… Vâng.”
Cố Quân mặt trầm như nước mà đi, sau lưng bị thép tấm nâng thẳng tắp có vẻ đặc biệt nặng nề tâm sự, cho đến khi tìm được Trần Khinh Nhứ.
“Trần cô nương xin mượn một bước nói chuyện.” Cố Quân nói.
Trần Khinh Nhứ không hiểu có chuyện gì, theo y ra một góc.
Cố Quân nói: “Trần cô nương tinh thông y lý lại ở chỗ man tộc hơn nửa năm, ta có một vấn đề muốn thỉnh giáo.”
Trần Khinh Nhứ vội vén vạt nói “Không dám”.
Cố Quân lơ đãng đỡ hờ: “Ở chỗ họ có vu thuật đặc thù gì… dùng đến trẻ con hay không?”
Trần Khinh Nhứ giật nảy mình.
Cố Quân lập tức bắt được sự kinh ngạc lộ ra ngoài trong nháy mắt này: “Sao?”
Trần Khinh Nhứ trầm mặc rất lâu, bất an bước vài bước tại chỗ, kế đó thở dài thườn thượt: “Đại soái… từng nghe về Ô Nhĩ Cốt chưa?”
|