Sát Phá Lang
|
|
Chương 70: Tà thần
Cố Quân nhíu mày cẩn thận nhớ lại chốc lát: “Quen tai, từng nghe nói qua… hình như là một thần gì đó phương Bắc?”
“Là đứng đầu trong tứ đại tà thần mười tám bộ lạc thờ cúng.” Trần Khinh Nhứ nói nhỏ, “Truyền thuyết nói rằng ông ta có bốn chân bốn tay hai đầu hai tim, ty quản nạn bão và nạn đói, Ô Nhĩ Cốt trời sinh tính tham lam, khi giáng xuống thiên địa biến sắc, hết thảy sinh linh đều sẽ bị ăn thịt, là một vị thần đáng sợ nhất ở vùng Bắc man.”
Cố Quân “À” một tiếng, có phần không hiểu lắm.
“Ta xâm nhập thảo nguyên nửa năm, song đến nay đối với vu độc thuật của mười tám bộ lạc cũng chỉ có thể nói là biết chút chút, sự tinh thâm và nguyên viễn của nó ngoại tộc chúng ta không thể nào tưởng tượng được – rất nhiều vu độc thuật có liên quan với truyền thuyết tà thần cổ quái của họ, ác độc nhất chính là ‘Ô Nhĩ Cốt’.” Trần Khinh Nhứ dừng một chút, “‘Bốn chân bốn tay hai đầu hai tim’, nhìn từ trên mặt chữ, Hầu gia cảm thấy giống cái gì?”
Cố Quân chần chừ nói: “Nghe như dán hai người vào nhau vậy.”
Trần Khinh Nhứ: “Không sai, tà thần Ô Nhĩ Cốt vừa sinh ra đã ăn thịt huynh đệ mình, từ đây đạt được thần lực gấp đôi. Trong mười tám bộ lạc có một loại vu thuật xa xưa, đem hai huynh đệ huyết mạch tương liên mới đẻ chưa bao lâu hợp làm một, quái… nhân bồi dưỡng ra, có thể đạt được sức mạnh của tà thần, cũng gọi là ‘Ô Nhĩ Cốt’.”
Cố Quân nghe thế trầm mặc một lúc, ấn nhẹ sườn mình, mặc dù có thép tấm bảo vệ, nhưng không biết vì sao, y vẫn cảm thấy bên dưới sườn đau như bị kim châm vậy.
Trần Khinh Nhứ vội nói: “Hầu gia, thương thế của ngài…”
“Không sao,” Cố Quân khoát tay, y hơi liếm môi, ngữ điệu chậm lại hỏi, “Trần cô nương, ta có chút không rõ, ‘đem hai người hợp làm một’ là thế nào?”
Trần Khinh Nhứ hơi do dự.
“Không sao đâu,” Cố Quân nói, “Cô cứ nói đi.”
“Ta cũng nghe đồn đại thôi, chỉ sợ không hề chuẩn xác,” Trần Khinh Nhứ hạ giọng nói, “Chính là đem một đôi trẻ nhỏ trong vòng một tuổi bỏ vào một nơi bịt kín, ánh sáng, nước, thức ăn… nhất loạt không cho, một đứa sẽ chết ngộp trước, lấy đứa chết ra, dùng bí pháp luyện chế.”
Cố Quân chớp mắt còn tưởng rằng dược hiệu trên người đã hết, tai lại không dùng được, khó khăn hỏi: “… Cái gì?”
“Luyện chế.” Trần Khinh Nhứ cân nhắc một chút, “Sau đó phối hợp với bí dược của vu nữ man tộc làm dẫn, cho huynh đệ sống sót ăn dần từng chút một.”
Cố Quân thất thanh nói: “Đứa trẻ đó còn có thể sống được sao?”
“Đại soái quá coi thường vu độc chi thuật ngàn năm của mười tám bộ rồi,” Trần Khinh Nhứ thở dài nói, “Trong vu độc thuật đã thất truyền, ngay cả ghi chép về việc chế người chết thành hoạt cương chạy được động được còn có, huống chi là dùng người sống luyện khí. Họ cho rằng người… hay gọi là ‘Ô Nhĩ Cốt’ luyện chế như vậy, từ nhỏ hoặc khỏe vô cùng, hoặc trí tuệ khác hẳn người thường, đều là vì ‘y’ kỳ thực là hai người, bốn chân hai đầu, có thể mời đến tà thần chi lực.”
Cố Quân do dự nói: “Thứ cho ta cô lậu quả văn, đối với… thứ kiểu này không có kiến giải gì, Trần cô nương, ta cảm thấy nghe như chuyện vô căn cứ lưu truyền trong ngu dân chưa khai hóa ấy.”
Trần Khinh Nhứ nói: “Dùng kiến văn cố hữu của chúng ta để lý giải, Hầu gia có thể coi Ô Nhĩ Cốt là một loại kịch độc phá hoại thần trí, có một số kẻ điên so với người bình thường quả thật khỏe vô cùng, góc độ suy nghĩ cũng luôn bất đồng với người ta, lúc chưa hoàn toàn mất đi thần trí, có vẻ trí tuệ dị thường cũng không hề lạ.”
Cố Quân: “… Còn có việc không thể dùng kiến văn cố hữu của chúng ta để lý giải.”
Trần Khinh Nhứ nói: “Đại soái, không giấu gì ngài, ta lẻn vào mười tám bộ lạc dò la vu độc chi thuật, không chỉ là vì tai và mắt ngài, cũng là để truy nguyên Ô Nhĩ Cốt, nhưng ghi chép liên quan của người man cực kỳ ít, chỉ có một lời đồn về một đại tướng man tộc cổ đại, tên là ‘Ô Nhĩ Cốt’, người này tàn nhẫn hiếu sát, nhưng bách chiến bách thắng, một tay tạo nên cục diện mười tám bộ lạc thống nhất hiện giờ, sống ba mươi hai tuổi, cả đời không kết hôn, nguyên nhân là ‘phi sinh phi tử, phi nam phi nữ’.”
Cố Quân nghe mà nổi da gà.
Trần Khinh Nhứ: “Ta từng tra sinh tuất và xuất thân của người này, được biết mẹ ông ta sinh một đôi long phượng thai, nhưng sau đó không có bất cứ ghi chép gì về nữ hài, cũng không nói đã chết rồi… Việc này có hai cách giải thích, hoặc là sau khi gia tộc suy tàn nữ hài đi lạc, hoặc là…”
Đôi long phượng thai này bị luyện thành Ô Nhĩ Cốt, người đã chết và kẻ còn sống hợp làm một, nam và nữ sống cùng, đây là “phi sinh phi tử, phi nam phi nữ”.
Cố Quân nắm chặt bàn tay đang ấn xương sườn, Trần Khinh Nhứ căng thẳng hỏi: “Hầu gia, có phải tấm thép bị lỏng hay không?”
Cố Quân khom lưng, một lúc lâu mới hít sâu, thấp giọng nói: “Vì sao lại có người làm việc thế này?”
Trần Khinh Nhứ đỡ y sang bên kia ngồi xuống: “Bình thường là nước mất nhà tan, toàn gia khó bảo vệ mới ra tay tàn nhẫn vậy, dùng huyết mạch làm tế, cúng tà thần báo thù, khi tất cả người tên Ô Nhĩ Cốt xuất thế, đều dẫn đến bấp bênh tinh phong huyết vũ.”
Cố Quân: “Cô mới nói nó giống một loại kịch độc tổn thương thần trí, phần này hãy nói rõ xem nào.”
Trần Khinh Nhứ nói: “Ô Nhĩ Cốt sẽ điên, mới đầu là ác mộng quấn thân, dần dà trở nên mẫn cảm đa nghi, nếu không khống chế, còn từ từ sinh ra ảo giác, cuối cùng…”
“Cho nên…” Cố Quân mới nói hai chữ, giọng liền khản đặc, y không thể không hắng giọng thật mạnh, mới có thể tiếp tục câu này, “Cho nên cô kê an thần tán cho y.”
Trần Khinh Nhứ: “…”
Nàng đương nhiên biết Cố Quân đang nói đến ai, không thể trả lời, đành mặc nhận.
Cố Quân hơi nhắm mắt – nhớ ra, kỳ thực Trường Canh không chỉ một lần thờ ơ nhắc tới, can hỏa mạnh dễ ngủ không ngon, song y căn bản không để tâm, chỉ cho là đứa trẻ này đi theo người của Trần gia học y đến trúng ma chướng, từ sáng đến tối biến mình thành tiểu lão đầu mở miệng là dưỡng sinh, nhưng thì ra… có nhiều nỗi khổ tâm như vậy.
Cố Quân: “Trường Canh đến mức độ nào rồi?”
Trần Khinh Nhứ nhất thời không lên tiếng.
Cố Quân: “Cô nói đi, bất kể thế nào ta đều chấp nhận được, chỉ cần ta còn sống một ngày, y điên hay ngốc ta đều quản đến cùng.”
Trần Khinh Nhứ nói: “Điện hạ… điện hạ ý chí kiên định, tâm cảnh bình hòa, nhiều năm qua Ô Nhĩ Cốt trên người chưa hề phát tác, chính y cũng nắm rõ, so với người bình thường còn khắc chế hơn vài phần, chỉ là một thời gian trước… ừm… ta đã dùng châm áp chế, Hầu gia không cần lo lắng.”
Tuy nàng úp mở, nhưng Cố Quân lại nghe ra – vẫn luôn là tâm cảnh bình hòa, không hề phát tác, ngoại trừ thời gian trước.
“Là vì ta.” Y ngỡ ngàng nghĩ, gần như xác chết vùng dậy mà đứng lên, nhất thời hơi lảo đảo, sắc mặt như vừa bị đâm một nhát đao.
Sau đó y né tay Trần Khinh Nhứ muốn đỡ mình, thất hồn lạc phách mà đi, tấm thép nẹp cứng ngắc làm y trông như thiết khôi lỗi sắp đốt cạn tử lưu kim.
Trần Khinh Nhứ dừng chân tại chỗ giây lát, trên khuôn mặt trắng nõn là vẻ nặng nề vô cùng, nàng không tự chủ được nhìn lại phương hướng kinh thành – chim gỗ mấy hôm trước thả hẳn đã đến kinh, chỉ là… quyết định nàng viết trong thư thật sự là đúng sao?
Trời kinh thành âm u, khi chim gỗ bay qua, bóng dáng nho nhỏ hoàn toàn tan vào mây đen trĩu xuống, cơ hồ là ẩn hình.
Trương Phụng Hàm chui ra khỏi một chiếc xe ngựa, chắp tay cảm tạ người trong xe: “Làm phiền Vương gia bớt thời giờ đưa lão hủ đến đây.”
Trường Canh vén màn xe, cười nói: “Ta cả ngày ở Sở quân cơ, cũng nên về hầu phủ lấy ít quần áo tắm rửa, tiện đường thôi, Phụng Hàm công không cần khách khí – mà Linh Xu viện không chuẩn bị xe ngựa cho ngài sao?”
Trương Phụng Hàm không để ý lắm: “Đều lấy đi cho người dưới dùng chạy qua chạy lại rồi, ta không xuất kinh, nắm xương già cũng nên hoạt động một chút, hiện tại khắp nơi đều đang đánh giặc, triều đình chỗ nào cũng dùng tiền, chúng ta bớt được bao nhiêu hay bấy nhiêu, không thể ngăn cơn sóng dữ, còn không thể dốc chút lực bạc sao?”
Trường Canh cười nói: “Đúng là như vậy, hậu sinh thụ giáo.”
Trương Phụng Hàm vội nói “Không dám” rồi đi, nhưng Trường Canh gọi giật lại: “Phụng Hàm công dừng bước.”
Đoạn y lấy ra bản tấu dõng dạc yêu cầu Hoàng thượng bỏ lệnh cấm tử lưu kim trong dân gian, hai tay đưa tới nói: “Phụng Hàm công thứ tội, bản tấu này ta tự tiện chặn lại, không trình lên trên – ở đây không có người ngoài, ta nói một câu mong ngài đừng giận, tử lưu kim dân gian xưa nay là vảy ngược của Hoàng thượng, bắt đầu từ thời Vũ đế vẫn chưa một ngày nới lỏng, đặt mình vào hoàn cảnh người khác, tử lưu kim đối với Hoàng thượng không khác gì ngọc tỷ truyền quốc, nếu ngài là Hoàng thượng, có thể cho phép dân gian tự lấy củ cải khắc ngọc tỷ bán chơi không?”
Trương Phụng Hàm biết bản tấu của mình trình lên chỉ sợ chẳng có tác dụng gì, không phải bị Sở quân cơ trả về thì là lại chọc giận Hoàng đế Long An, nhưng ông khá có khí phách văn nhân, luôn cảm thấy “dù ngươi thích nghe hay không, điều nên nói ta vẫn phải nói”, ai ngờ Nhạn vương điện hạ lại đích thân hạ mình tìm ông phân thuyết, còn chân thành như vậy.
Sự chân thành này làm Trương Phụng Hàm hơi đỏ mặt, thở dài nói: “Điện hạ… Ôi, điện hạ nói có lý, nhất thời già cả hồ đồ, gây thêm phiền toái cho điện hạ rồi.”
“Ta biết tấm lòng vì nước vì dân của Phụng Hàm công, là một trụ cột của Linh Xu viện, mấy năm nay Đại Lương cuộc sống không tốt lắm, cương giáp chiến bị toàn phải nhờ một tay ngài lo liệu,” Trường Canh xua tay, “Chúng ta bảo vệ ngài còn không kịp, nào có phiền toái gì để nói?”
Trương Phụng Hàm hơi bối rối, thế nhưng Nhạn vương thần sắc chân thành tột cùng, ngữ khí cũng không gây khó chịu, nhất thời không biết phải ứng đối thế nào, chỉ luôn miệng nói “hổ thẹn”.
“Cát Thần huynh đệ từ thời để chỏm của ta từ khi vào Linh Xu viện, cả ngày lải nhải bên tai ta Phụng Hàm công thế nào ra sao,” Trường Canh trêu, “Chỉ hận không thể ngay cả việc ngài mê uống Hầu Khôi, thích ăn củ cải muối cũng học theo, ta thấy hắn chỉ thiếu mua tóc bạc mà đội lên thôi.” (Hầu Khôi là một loại trà truyền thống của người Hán)
Lần này thì Trương Phụng Hàm thực sự đỏ bừng mặt, hận không thể gọi tiểu đồ đệ Cát Thần mới nhận tới tát cho một phát, chuyện lắt nhắt gì cũng đi bép xép với Nhạn vương.
“Ta và Cát Thần từ nhỏ cùng lớn lên ở Nhạn Hồi thành, hồi nhỏ gặp người man xâm lấn, nhà hắn cũng không còn ai, ngần ấy năm qua vẫn đi theo ta…” Trường Canh dừng lại, hơi khó xử nhìn Trương Phụng Hàm, “Ta không nói nhăng nói cuội nữa, nói thẳng đi vậy, có một yêu cầu quá đáng Cát Thần muốn nhờ ta nói với Phụng Hàm công, hắn vẫn quý nhân phẩm Phụng Hàm công, muốn nhận ngài… ừm, làm trưởng bối, không cầu gì khác, chỉ mong tương lai có thể thường phụng dưỡng, coi như là thành toàn một tâm nguyện của hắn, ngài cảm thấy thế nào?”
Trương Phụng Hàm nhất thời hô hấp cũng dồn dập hẳn.
Cát Thần sau khi theo Thẩm Dịch nhập kinh, liền ở lại kinh thành vào Linh Xu viện, hắn vừa chăm chỉ vừa lanh lợi, còn rất có thiên phú, đặc biệt hợp với Trương Phụng Hàm, mới mấy hôm đã được lão đầu kia nhận làm đệ tử thân truyền.
Nhưng ông cũng tự mình biết mình, Trương Phụng Hàm ông đời này thanh liêm, không quyền không thế, từ sáng đến tối chẳng được ai chào đón, có thể mang đến lợi ích gì cho người ta? Có thể che chở ai sao? Cho dù tuổi già dưới gối vắng tanh, ngoại trừ mấy con chó già trong nhà, còn ai chịu để ý đến?
Trường Canh liếc trộm thần sắc ông: “Ôi, ta sớm nói với hắn rồi, Phụng Hàm công thích nhất là thanh tịnh, không ưa loại ồn ào như hắn, ngài không cần khó xử, lát ta sẽ thay ngài mắng hắn một trận là được, ngài yên tâm, tên đó từ nhỏ vô tâm vô phế, sẽ không để bụng đâu.”
Trương Phụng Hàm vội nói: “Điện hạ chậm đã! Điện hạ! Ta… việc này… lão hủ…”
Ông ta vừa cuống lên thì đầu lưỡi liền líu lại, trán vã mồ hôi, Trường Canh cũng không lên tiếng, thong dong nhìn ông mà cười, nụ cười chẳng mảy may có vẻ u ám, trong veo như một thiếu niên, với chút bỡn cợt đúng mức.
Trương Phụng Hàm hiếm khi thấy y không trưng ra dáng vẻ lão luyện thành thục, định thần lại, bất đắc dĩ bật cười nói: “Điện hạ thật là…”
“Thế ta sẽ đi nói với hắn, ta rẽ phía trước là về nhà rồi, Phụng Hàm công cứ tự nhiên,” Trường Canh nhẹ nhàng nói, “Ta sẽ bảo Tiểu Cát tìm ngày tốt giờ lành, dập đầu trước ngài – đúng rồi, xem chừng trời sắp mưa, ngài theo ta đi lấy ô, phòng sẵn khi cần.”
Trương Phụng Hàm lão gàn dở khiến Lý Phong toác đầu này mỉm cười cáo biệt y, ánh mắt hiền lành nhìn mãi đến khi xe của Nhạn vương đi xa.
Trường Canh vừa đi thì trời quả nhiên như lời y nói, tí tách mưa lâm râm.
Phụng Hàm công xòe cây ô Trường Canh để lại, nhất thời có chút cảm khái, hơn nửa năm qua, binh hoang tiếp mã loạn, cho dù không được thái bình, nhưng chỉ cần nhìn mấy người trẻ tuổi này, ông liền cảm thấy cây cột lớn đỉnh thiên lập địa trên kim điện Đại Lương còn chưa đổ, còn có họ chống.
Thế gian kẻ thông minh tài trí đếm không xuể, song một người nếu quá thông minh, thì luôn thiếu vài phần huyết khí, có khuynh hướng bo bo giữ mình hơn, nhất định phải có người đại trí đại dũng chân chính dẫn đầu đứng ra, chống cây cột ấy, mới có thể tụ họ lại.
Người đi đằng trước định sẵn là lao tâm phí lực, cũng không nhất định có kết cục tốt, dù không đáng hơn cũng không còn… Nhưng muôn ngàn hạt cát, giả sử không có mấy tảng đá như vậy, chẳng phải đã sớm bị thiên thu vạn đại xô tan rồi sao?
Phụng Hàm công quay đầu lại, thấy một góc cuối hẻm có tăng bào trắng như tuyết lướt qua, ông liền thu lại nụ cười trên mặt, sải bước tới.
Tửu lâu trong hẻm không khí thế lịch sự như Khởi Diên lâu ngày xưa, mà giống một quán trà nhỏ tùy tiện hơn, nghèo hèn như Phụng Hàm công đi vào cũng thấy bình thường. Ông cụp ô lại, giũ sạch nước mưa, nghe thấy trên cầu thang gỗ bị người gõ nhẹ vài cái, ngẩng đầu lên thấy Liễu Nhiên đại sư tháo mũ xuống, đứng ở tầng hai hơi gật đầu chào mình, Phụng Hàm công hiểu ý, rảo bước tới.
Hai người một trước một sau đi vào phòng trong cùng, bên trong đã có một nam nhân trung niên chờ sẵn, nam tử nọ trạc bốn năm mươi tuổi, tướng mạo thường thường, ăn vận cũng không nổi lắm, nhưng trông rất hòa khí, giống như khóe mắt chân mày đều là tròn, song nếu có quan viên Hộ bộ ở đây, chắc sẽ rất giật mình – người này chính là Đỗ Vạn Toàn giàu nhất vùng Giang Nam.
Đỗ Vạn Toàn làm giàu ở Giang Nam, từng tự mình tổ kiến một thương đội đến Tây Dương, là cự cổ duy nhất của Đại Lương triều từng đến Tây Dương sau khi Vũ đế khai hải vận, cửu tử nhất sinh, lợi nhuận kếch xù, trở về được xưng là “Đỗ tài thần”.
Sau đó dời về Tây Bắc, được chọn làm hội trưởng thương hội con đường tơ lụa Trung Nguyên.
Từ khi An Định hầu không biết vì việc gì mà bị cưỡng chế phạt bổng phản tỉnh ở kinh thành, ngày về chưa rõ, đại thương nhân khứu giác nhạy bén này liền dẫn đầu triệu tập thành viên thương hội bắt đầu rút lui từng nhóm, sau đó thế cục Tây Vực rung chuyển cũng không ảnh hưởng quá nhiều đến người vô tội, có thể nói là chong chóng đo hướng gió của thần tài này dẫn đường rất kịp thời.
Không ai biết Đỗ Vạn Toàn có bao nhiêu tiền, đều nói hắn phú khả địch quốc – dĩ nhiên, với sự nghèo nàn của Đại Lương hiện giờ, có thể địch quốc cũng chẳng có gì là giỏi.
Một thần tài như vậy, hiện giờ lại cùng hòa thượng Hộ Quốc tự, lão cứng đầu Linh Xu viện tụ tập trong một tửu quán nhỏ khá đơn sơ.
Thấy Trương Phụng Hàm, Đỗ Vạn Toàn vội khách khí đứng dậy nhường thượng tọa, chắp tay nói: “Mời ngồi mời ngồi, ta và lão ca ca hơn chục năm rồi chưa gặp mặt, hiện giờ xem ra, ngài không thay đổi chút nào, phong thái càng hơn năm đó.”
Trương Phụng Hàm vừa chối từ vừa nói: “Nào có, già rồi.”
Đỗ Vạn Toàn nghiêm túc chắp tay nói: “Đỗ mỗ trước khi đến kinh thành đã bị thê nhi khuyên can, chỉ sợ thế cục kinh thành chưa ổn, nắm xương già sẽ phải bỏ lại tại đây, ta nói với họ, Phụng Hàm công chẳng lớn tuổi tài cao hơn ta à, mà khi nguy cấp tay không tấc sắt mặt không đổi sắc? Thương nhân con con ta đây, mặc dù không so được với loại quốc sĩ vô song này, nhưng nếu ngay cả đến gặp cũng không dám, thì thành cái gì?”
Đỗ tài thần lăn lộn thương trường nhiều năm, hòa khí phát tài, nói chuyện dị khúc đồng công với Nhạn vương điện hạ, đều thuộc về loại hai câu có thể làm người ta đỏ mặt còn làm người ta cảm thấy hưởng thụ, Trương Phụng Hàm ý thức được còn tiếp tục khách sáo với hắn, trước khi trời tối chưa chắc nói được chính sự, đành phải ngồi ở thủ vị.
Liễu Nhiên hòa thượng chắp tay, dùng thủ ngữ: “Đỗ tiên sinh gia đại nghiệp đại, trăm công nghìn việc, Phụng Hàm công lát nữa còn phải chạy về Linh Xu viện, chúng ta bớt nói linh tinh đi, hậu sinh vượt quyền, nhắc tới việc này trước.”
Nói đoạn, hắn lấy tràng hạt trong lòng ra, kéo nhẹ một cái, một chuỗi hạt châu liền rời ra, Liễu Nhiên bẻ hạt châu lớn nhất, lấy một đoạn gỗ rỗng cũ kỹ bên trong, xác ngoài mộc mạc, trong có vô số bánh răng tinh xảo, lẳng lặng bày ra.
Phụng Hàm công và Đỗ Vạn Toàn nhìn nhau một cái, không khách sáo nữa, đều lấy từ trong lòng ra một mẩu gỗ rỗng ruột tương tự, ba mẩu gỗ bày cạnh nhau, hút lẫn nhau, ở trên bàn tự trượt đi, bánh răng khớp lại, chớp mắt liền kín kẽ, hợp thành nửa trên của một tấm mộc bài, trên có chữ “lâm”.
“Lần trước mộc bài này hợp lại, là chuyện từ hơn hai trăm năm trước,” Đỗ Vạn Toàn thở dài, “Lần trước các tiền bối tổ tiên giao vật này cho Thái Tổ Hoàng đế, không chọn sai người, đổi lấy hai trăm năm thái bình thịnh thế, hiện giờ truyền đến tay thế hệ chúng ta, chỉ mong lần này chúng ta vẫn có thể chọn đúng… Hôm nay Liễu Nhiên đại sư triệu tập ‘Lâm Uyên’, chắc là có người để chọn rồi.”
Liễu Nhiên ra dấu: “Chung lão và người của Trần gia ở tiền tuyến, không thể đến, mấy hôm trước Chung lão nhờ người đưa ý kiến của mình và mộc bài đang bảo quản đến, chỗ Trần cô nương loạn, cũng hơi xa hơn, vẫn chưa thấy, nhưng ta đoán cũng chỉ tầm nửa ngày một ngày nữa thôi.”
Đỗ Vạn Toàn thoáng nhìn mộc bài Lâm Uyên trên bàn, ngồi ngay ngắn lại nghiêm nghị nói: “Mời đại sư nói.”
“A di đà Phật,” Liễu Nhiên chắp tay cúi đầu, “Có một người từ khi chiến loạn bắt đầu mượn Lâm Uyên các mộc điểu truyền thư, để lại một nước cờ sống cho kinh thành bị bao vây, nhận nhiệm vụ lúc lâm nguy, giết nội gian, tự mình thủ thành, kháng chỉ không nhận hoàng vị-“
Trương Phụng Hàm nghe đến đó, lập tức phụ họa: “Người đại sư nói ta đồng ý, ta ở trong triều tiếp xúc nhiều nhất với Nhạn vương điện hạ, y tuy còn trẻ, nhưng tài đức vẹn toàn, ta nguyện ý phó thác mảnh mộc bài của mình cho y – nói ra thật xấu hổ, lão già này ăn cơm nhàn bao nhiêu năm, đến lúc mấu chốt tác dụng gì cũng chẳng có, nghe thấy chiến báo tiền tuyến liền đần ra, vừa không ngờ quân Tây Dương có thể vây khốn kinh thành thật, cũng không nghĩ đến dùng mộc điểu truyền tin… Đỗ tiên sinh, ngươi nói sao?”
Hai người trong bàn đồng thời nhìn Đỗ Vạn Toàn, Đỗ Vạn Toàn nghĩ một chút, nhất thời không đáp gì, khéo léo nói: “Nhạn vương điện hạ thân phận cao quý, ta chưa từng tiếp xúc, nhưng nghe nói vị điện hạ kia từng sư thừa Chung lão tiên sinh, còn có giao tình với người của Trần gia, hai vị ấy chắc hẳn hiểu y hơn, chi bằng chờ họ một chút?”
Liễu Nhiên lấy từ trong lòng ra một con chim gỗ, bụng chim có một tờ giấy niêm phong cực mảnh, vẫn còn y nguyên.
“Đây là của Chung lão,” Liễu Nhiên nói, “Bần tăng chưa mở ra, mời.”
Đỗ Vạn Toàn xoa tay, hơi ngượng ngùng nói: “Đỗ mỗ không khách khí nữa.”
Nói xong hắn cẩn thận gỡ niêm phong, nạy bụng chim, lấy mảnh mộc bài thứ tư ra.
Mảnh này ghép vào, chữ “Uyên” liền hợp lại hơn một nửa, chỉ còn một góc, dưới mộc bài còn chặn một tờ giấy Hải Văn đến từ Chung Thiền.
Trương Phụng Hàm nói: “Chung lão tay cầm tay dạy Nhạn vương điện hạ phái binh bố trận, công phu cưỡi ngựa bắn cung, đó là tình cảm thế nào, liệu có…”
Ông đột nhiên dừng lại, chỉ thấy Đỗ Vạn Toàn bày tờ giấy Hải Văn của Chung Thiền tướng quân trên bàn, trên tờ giấy kia viết rằng: “Người này có tài năng an thiên hạ, nhưng ấu niên quá nhấp nhô, thiếu thời tuy có thể nói là nhân hậu, trung niên về sau vị tất có thể như trước, lại có ẩn hoạn ‘Ô Nhĩ Cốt’, mong chư quân cẩn thận.”
|
Chương 71: Quyền bính
Trương Phụng Hàm tự vả vào miệng, nhìn chằm chằm tờ giấy kia ngây ra một lúc lâu, tái cả mặt: “Đây là ý gì? Cái… Cái gì là ẩn hoạn Ô Nhĩ Cốt?”
Liễu Nhiên nhíu mày, hình như không biết phải nói từ đâu, một lúc lâu mới hơi do dự ra dấu: “Là một loại độc của Bắc nhân, Nhạn vương điện hạ lúc nhỏ lưu lạc đến Nhạn Hồi trấn, bị vu nữ Bắc nhân hãm hại, đến nay người của Trần gia còn đang nghĩ cách, vẫn chưa thể triệt để trị tận gốc…”
Trương Phụng Hàm không thể tưởng tượng nổi: “Còn có chuyện như thế? Thái y viện chết hết rồi à? Việc này…”
“Phụng Hàm công hãy bình tĩnh,” Đỗ Vạn Toàn cắt ngang, “Vài năm trước vì con đường tơ lụa, ta cũng thường đi lại vùng Tây Bắc, có nghe qua một chút về vu độc chi thuật của người man, từng nghe người ta nói, Ô Nhĩ Cốt này hình như làm tổn thương thần trí, chắc hẳn Chung tướng quân cũng băn khoăn điểm này, lo lắng điện hạ suy nghĩ quá nhiều thôi.”
“Quốc nạn ập xuống, An Định hầu thương gân động cốt còn đi Tây Bắc, Nhạn vương há lại là người tiếc rẻ bản thân, cách nói của Đỗ công không khỏi khiến người ta chạnh lòng,” Trương Phụng Hàm nghiêm nghị nói, “Vả lại Liễu Nhiên đại sư cũng nói độc này y trúng từ nhỏ, đến bây giờ ta chưa thấy y có gì không bình thường, tương lai vị tất có nhiều ảnh hưởng, nếu Chung lão tướng quân không tin được Nhạn vương, chẳng lẽ còn có thể tìm được người khác tiếp quản Lâm Uyên mộc bài?”
Từ sau khi kinh thành bị bao vây, Trương Phụng Hàm hoàn toàn thành người ủng hộ trung thành của Nhạn vương, ô cầm trong tay còn là mới lấy trên xe người ta, nhắc tới Nhạn vương liền nóng não, chỉ hận không thể chiêu cáo thiên hạ rằng “điện hạ nhà ta là tốt nhất trên đời này”.
Lão linh xu này nói một chặp vẫn chưa hết giận, còn chưa thỏa mãn mà tiếp tục: “Lúc này khác với hai trăm năm trước, khi đó là triều đình sưu cao thuế nặng đánh mất dân tâm, mới có tứ phương quần hùng khởi nghĩa, hiện giờ lại là ngoại địch nhập cảnh, Hoàng thượng… Hoàng thượng tuy rằng một số thủ đoạn pháp lệnh quá mạnh tay, nhưng cũng xem như cần chính yêu dân, chưa từng có lỗi lầm, gặp loạn thế này, nếu Lâm Uyên mộc bài rơi vào tay kẻ khác, ai có thể đảm bảo hắn không sinh dị tâm? Nhạn vương điện hạ vốn là thiên hoàng quý trụ, nguy cơ giáng xuống có thể kế vị trốn về Đông Đô, nhưng y không đi Lạc Dương, mà ở trên cổng thành! Nếu người như vậy không đáng phó thác Lâm Uyên mộc bài, thì còn ai xứng?”
Đỗ Vạn Toàn khôn khéo quen rồi, không tranh cãi, nghe vậy chỉ cười nói: “Điều này thì ta tin, Nhạn vương điện hạ nhân phẩm tài hoa không thể chỉ trích, song việc thân thể, người ngoài nghề chúng ta đều không chắc được mà? Ta thấy chi bằng thế này, chúng ta đều nghe Trần cô nương, gọi ít rượu thịt trước, chờ thư của Trần cô nương đưa đến rồi hãy quyết định, được không?”
Trương Phụng Hàm thần sắc hơi dịu đi, cũng lắc đầu tự giễu: “Già rồi già rồi, mà vẫn nóng tính như lửa, Đỗ công đừng để bụng.”
Ông còn chưa dứt lời, thì cả ba đồng thời nghe thấy một tràng đập cánh phành phạch từ ngoài cửa sổ truyền vào.
Đỗ Vạn Toàn cười nói: “Nhắc Tào Tháo là Tào Tháo đến.”
Đỗ tài thần với tay đẩy cửa sổ, một con con chim gỗ nhỏ trông như thật chui vào, mổ nhẹ lên bàn hai cái, rồi nằm sấp bất động. Con chim này còn đặc biệt hơn con của Chung tướng quân, bởi con kia là nhờ người đáng tin đưa tới, con của Trần Khinh Nhứ lại là thả về trên đường tòng quân Tây Bắc.
Bụng chim dán “niêm phong” theo cách đặc biệt, không phải giấy niêm phong mang ý nghĩa tượng trưng như của Chung tướng quân, mà là một chuỗi khóa chìm kín kẽ, trên có hai mươi bảy lỗ, cần lấy châm mảnh cắm vào theo thứ tự, nếu không sẽ làm số tử lưu kim còn lại trong bụng chim bùng cháy, người không biết mở khóa sẽ không lấy được gì.
Loại chim gỗ đặc chế này công nghệ cực kỳ phức tạp, ngay cả trong Lâm Uyên các cũng không được mấy con, đến cả Trường Canh cũng không biết – lúc người Tây Dương vây thành, một dạo y còn lo lắng về tính an toàn thông tin của chim gỗ.
Đỗ Vạn Toàn lấy một cây ngân châm, hai đôi mắt khác đồng thời tập trung vào tay hắn, tích tắc, trong lòng Trương Phụng Hàm chợt dâng lên một chút căng thẳng khó nói ra.
“Khoan đã.” Ngay khi Đỗ tài thần mở niêm phong, còn chưa kịp lấy thư ra, Trương Phụng Hàm đột nhiên kêu dừng tay.
Đỗ Vạn Toàn và Liễu Nhiên cùng ngẩng đầu nhìn ông.
Mặc dù cùng thuộc Lâm Uyên các, song Phụng Hàm công thường niên cắm đầu trong Linh Xu viện và Trần Khinh Nhứ vãn bối phiêu bạt giang hồ này không hề thân quen, chưa từng gặp mặt, càng khỏi bàn tới hiểu nhau, nhưng không biết vì sao, trong lòng ông trỗi lên dự cảm là kết quả có thể sẽ không như ý người.
Trương Phụng Hàm nét mặt căng thẳng, chậm rãi nói: “Trước mắt phía Nam Trường Giang, ven bờ Đông Hải đều nằm trong tay người Tây Dương, Chung lão tướng quân đích thân trấn thủ tiền tuyến, nhưng cũng chỉ thủ mà thôi, không dám tùy tiện hành động, với binh lực và chiến bị trong tay ông ta, hiện tại căn bản không đủ để qua sông. Ta nghe nói quân Tây Dương dã man tàn nhẫn, đã đốt trụi thư viện Giang Nam – việc này cũng không có gì, sách mất có thể in lại, có thể tái lập tân thuyết, nhưng nếu người cũng không còn, vậy thì hết cứu nổi.”
Nói đến đây, giọng lão linh xu nhất thời hơi run run: “Nơi ‘quế ngát ba thu, sen đơm mười dặm'(1), trước mắt thành một vùng đất sém, mà quốc khố trống rỗng, tử lưu kim lại sắp hết… Tứ phía gió lùa, nếu Lâm Uyên các khoanh tay đứng nhìn, chi bằng tan hết đi, về nhà bế con, chứ nhập đạo gì, lập mệnh gì? Đã không thể trầm tịch, mộc bài nhất định phải xuất thế, chúng ta tuy chỉ là hạng dân thường, cũng không muốn gửi gắm nhầm người, thiên hạ hiện nay, trong triều có Nhạn vương, tái ngoại có Cố soái. Cố soái… Không phải ta nói, y sớm có qua lại với Lâm Uyên các, song chưa bao giờ bày tỏ mảy may ý muốn thân cận, vị nắm giữ Huyền Thiết doanh ấy không thèm nhìn cũng chẳng rảnh quản lý chút tài nguyên lộn xộn của chúng ta, nếu chư vị lại lấy… nguyên do có lẽ có này, mà bỏ lỡ Nhạn vương điện hạ, bước tiếp theo định làm thế nào đây?”
Ông nói rất chân thành, dốc hết toàn lực muốn kéo Đỗ Vạn Toàn về phe mình, ngay cả Liễu Nhiên cũng hơi động dung.
Nhưng Đỗ tài thần là hạng người thành tinh, nào dễ dàng kích động, nghe xong ngoài mặt nhiệt thiết kích phẫn, miệng lại vẫn tránh nặng tìm nhẹ: “Kỳ thực Nhạn vương điện hạ từ nhỏ có giao tình không nhạt với Lâm Uyên các, vốn đã xem là người trong các, ngay như mạng lưới thông tin khi kinh thành bị bao vây, chẳng lẽ không phải là điện hạ dùng Lâm Uyên các dựng ra à? Quốc nạn ập xuống, có chỗ dùng được chúng ta, mọi người tuyệt đối không ý kiến, có nghi thức phó thác mộc bài hay không, kỳ thực cũng chẳng khác biệt mấy nhỉ?”
“Không phải đạo lý này, Đỗ công nghĩ sai rồi,” Liễu Nhiên lắc đầu, “Nếu không có tấm mộc bài này, khi gặp chuyện Lâm Uyên các chẳng qua nhấc tay giúp một tẹo, có mộc bài, mới có thể làm cho người trong các hiến toàn bộ gia sản toàn lực tham gia, đâu có giống nhau. Lâm Uyên các trầm tịch hai trăm năm, toàn dựa vào mộc bài này duy trì liên hệ và triệu tập, trong loạn thế mọi người đều muốn bo bo giữ mình, nếu không có Lâm Uyên mộc bài, ngay cả chúng ta, lực lượng có thể dùng cũng chẳng qua là chân sai vặt truyền tin linh tinh – chỉ sợ còn chưa hữu dụng bằng bang phái giang hồ hơi lớn.”
Lời này ý tứ sâu xa, Đỗ Vạn Toàn hơi biến sắc.
Thần tài bất đồng với Phụng Hàm công nghèo đến độ phải chơi với chó, người ta là gia đại nghiệp đại chân chính, một người chân trần ăn no cả nhà không đói, nhưng kẻ đi giày thì không thể.
Nếu nói ở đây có ai không hy vọng Lâm Uyên mộc bài trùng hiện nhân gian nhất, chắc chắn chính là Đỗ tài thần.
Liễu Nhiên nể mặt hắn, chỉ nói vậy rồi thôi, không vạch thẳng ra – Lâm Uyên mộc bài có thể điều động “Đạo Pháp đường” thần bí nhất trong Lâm Uyên các, bất cứ ai trong các không phục mộc bài điều phối mà trốn tránh, Đạo Pháp đường đều sẽ truy sát tới chân trời góc biển, nói cách khác, không có mộc bài hiệu lệnh, Đỗ tài thần có lẽ chỉ cần bỏ ra vài xu, có mộc bài này, dù bắt hắn táng gia bại sản, hắn cũng phải nhận.
Liễu Nhiên lần lượt xâu phật châu của mình lại: “Đỗ công hãy mời mộc bài của Trần gia xuất hiện đi.”
Đỗ Vạn Toàn im lặng một lúc, mở bụng chim gỗ, mảnh mộc bài cuối cùng rớt xuống bàn, liền tự động hợp lại với mộc bài của hắn, bổ toàn chữ “Uyên”.
Tờ giấy Hải Văn viết ngoáy của Trần Khinh Nhứ lăn ra, Liễu Nhiên kéo ra, thấy trên tờ giấy kia viết rất ngắn gọn: “Trần gia sẽ toàn lực ứng phó.”
Trương Phụng Hàm nhất thời chưa kịp hoàn hồn: “Hết rồi?”
Liễu Nhiên bất đắc dĩ cười cười, Trần Khinh Nhứ hơi kiệm lời, bình thường nói bằng miệng còn đỡ, viết lên giấy thì nàng tuyệt đối không kiên nhẫn viết trường thiên đại luận, được là được, không được là không được, chuyện tày trời đến tay nàng cũng chỉ là một câu rồng bay phượng múa.
“Trần cô nương đã nói như vậy, độc mạn tính mà điện hạ trúng hẳn là không thành vấn đề.” Liễu Nhiên quay sang Đỗ Vạn Toàn, “Thế ý Đỗ công là sao?”
Lâm Uyên mộc bài chia năm mảnh, bất cứ ai cũng không có tư cách một mình phủ quyết, lúc này đã là ba chọi một, Đỗ Vạn Toàn biết, bất kể mình có đồng ý hay không, kết cục đều đã định trước.
Đỗ tài thần cười khổ: “Liễu Nhiên đại sư khách khí rồi – ta nghe nói Nhạn vương điện hạ gần đây đang thúc đẩy phong hỏa phiếu, đến lúc đó nếu có chỗ cần Đỗ mỗ, cứ việc mở miệng.”
Trương Phụng Hàm uyển chuyển khuyên nhủ: “Đỗ công, dưới ổ lật không có trứng lành, đến khi thiên hạ loạn lạc thật, người loạn ly không bằng chó thái bình, gia tài bạc triệu cũng chẳng khác gì lưu sa phi thủy, có phải là đạo lý như vậy?”
Đỗ Vạn Toàn bị một đám quỷ nghèo ép lên tặc thuyền vẫn rất khó chịu, chắp tay nói một câu lấy lệ: “Không sai, Phụng Hàm công cao nghĩa.”
Ba người vội vàng ăn một bữa cơm nhạt với các tâm sự riêng, rượu cũng chưa động tới đã giải tán.
Ngay khi họ đưa ra quyết định này, Trường Canh cũng về tới hầu phủ.
Cát Thần đang chờ y trong thư phòng, Trường Canh phân phó một câu không được quấy rầy, đoạn thản nhiên đi vào, đóng cửa lại – hầu phủ vắng vẻ ít người, lão bộc kẻ thì điếc kẻ thì đi đứng chậm chạp, cũng chẳng biết là hầu hạ chủ hay dưỡng lão ở nhà chủ, thường xuyên gọi người sai sử mà không tới, bưng trà rót nước đôi khi cũng phải tự làm, nhưng cũng có chỗ tiện, thí dụ như khỏi cần suốt ngày đề phòng tai vách mạch rừng.
Cát Thần vừa thấy Trường Canh liền đứng dậy, trên khuôn mặt trời sinh non choẹt có chút căng thẳng.
Trường Canh lại hết sức bình tĩnh thản nhiên, khoát tay: “Tiệt được rồi?”
Cát Thần đáp một tiếng, lấy từ trong lòng ra một tờ giấy Hải Văn.
“Ta làm theo lời huynh, lợi dụng tu sửa lưới cấm không, lén tiệt con chim ấy, tờ giấy bên trong đã thay, niêm phong cam đoan sửa đến thiên y vô phùng,” Cát Thần mím môi, nói, “Đợt cuối năm Tiểu Tào đi phương Bắc tìm Trần cô nương, chính mắt thấy nàng ta thu thả chim gỗ, sau đó lén bắt lại, dùng khuôn dập lại khóa chìm niêm phong, hẳn không có vấn đề gì – đại ca, vì sao chúng ta phải tiệt chim của Trần cô nương, trên tờ giấy nàng viết có ý gì?”
Trường Canh nhất thời không trả lời, giở tờ giấy dúm dó kia ra xem.
Chữ viết trên đó giống hệt với tờ mà nhóm Liễu Nhiên thu được, chỉ có nội dung là khác.
Trên tờ giấy này viết rằng: “Trần mỗ tài sơ học thiển, tìm kiếm nhiều năm vẫn không thể tìm được giải pháp cho Ô Nhĩ Cốt, phụ trọng thác, việc Lâm Uyên mộc bài, mong rằng chư quân cẩn trọng.”
Trường Canh xem xong không kích động gì, không hề bất ngờ nghĩ: “Quả nhiên.”
Bằng sự hiểu biết của y với Lâm Uyên các nhiều năm qua, cuối cùng làm chủ không phải ba người thì là năm người, khả năng năm người lớn hơn, trong Lâm Uyên các có rất nhiều hỏa cơ cương giáp độc đáo và cực kỳ tinh xảo, bởi vậy tất có người của Linh Xu viện, Trần gia năm đó trị liệu tai và mắt cho Cố Quân là lấy danh nghĩa Lâm Uyên các, Cố Quân không thể nào tín nhiệm họ vô điều kiện, bên trong tất có cựu bộ của lão Hầu gia giới thiệu, bởi vậy nhất định còn có đại biểu bên quân đội, Liễu Nhiên hòa thượng vẫn đảm nhận vai trò liên lạc tứ phương, có thể cũng tính là một, đại diện cho Hộ Quốc tự, như vậy còn lại hai rất có thể một phương nắm giữ “tài”, một phương khác chính là Trần gia phủ Thái Nguyên.
Trong năm người, chỉ có Liễu Nhiên và Linh Xu viện y nắm chắc hơn một chút, ba phương khác đều chưa quyết.
Trên đời ngoại trừ chính Trường Canh, chỉ có Trần cô nương hiểu rõ nhất chỗ đáng sợ của Ô Nhĩ Cốt, nàng xưa nay xét việc không xét người, không thể vì tình cảm cá nhân mà ủng hộ y. Mà người nắm “tài” trong tay thường dễ chịu gánh nặng gia nghiệp, trong tình huống như vậy rất có thể sẽ lui lại. Đại diện cho quân đội… nếu quả thật là Chung lão tướng quân như Trường Canh phỏng đoán, thật sự Chung Thiền không nhất định sẽ nói giúp y, người của hai phương sau đều có cách của mình, y rất khó tiếp xúc, chỉ có Trần Khinh Nhứ tùy quân Tây Bắc, đến lúc đó tất lấy chim gỗ truyền thư, có thể cho y thừa cơ.
Trường Canh bỏ tờ giấy Hải Văn đã xem xong vào chậu than đốt đi, ánh lửa nhỏ chiếu sáng khuôn mặt trẻ trung tuấn mỹ, khiến y thoạt nhìn lại có một chút không chân thật.
“Đại ca…” Cát Thần ấp úng gọi một tiếng, tên mặt tròn nhỏ này luôn trung thành với Nhạn thân vương của hắn, nhưng không ngốc, hắn có thể đoán ra đại khái chim gỗ mã hóa của Trần Khinh Nhứ khả năng liên quan đến quyết sách cuối cùng của Lâm Uyên các, mặc dù theo Trường Canh nhờ vả trộm đổi giấy, song trong lòng vẫn liên tục nghi ngờ – Trường Canh luôn luôn thẳng thắn vô tư, thoải mái thông suốt, chưa bao giờ làm chuyện mờ ám như thế, lần này vì Lâm Uyên các mà làm vậy… là vì quyền lực sao?
“Không phải là ta nhất định cần có Lâm Uyên các.” Trường Canh hình như biết hắn đang nghĩ gì, thần sắc thản nhiên giải thích, “Nhưng thời gian ta ở trong triều quá ngắn, tuy tạm thời có chỗ dựa là Hoàng thượng, thêm Giang đại nhân và một đoàn tân nhuệ đi theo, dù sao căn cơ còn yếu, rất nhiều chuyện không thi triển được. Việc khác có thể chờ, song tử lưu kim và bạc trên tiền tuyến chờ không nổi, thời điểm thế này ta chỉ có thể lui để cầu lấy thế lực Lâm Uyên các, nếu có thời gian, tất cả vấn đề đều có thể quang minh chính đại chậm rãi giải quyết, chỉ sợ người Tây Dương không cho chúng ta thời gian thôi.”
Cát Thần nghe vậy ưỡn thẳng lưng, nghi ngờ trong lòng tức khắc tan thành mây khói, ngược lại hơi xấu hổ: “Việc này ta và Tiểu Tào đều hiểu, ừm… đại ca, huynh cũng chú ý bảo trọng mình nhiều hơn, nếu không đợi đến khi Hầu gia khải hoàn về triều, huynh lại ngã bệnh, chẳng phải y sẽ kiếm chuyện với ta?”
Nói xong, hắn giống như tưởng tượng ra quá trình cụ thể Hầu gia tìm hắn gây chuyện, tự sợ tới rùng mình.
Thần sắc trên mặt Trường Canh nhu hòa hơn: “Ta chỉ quản đến khi qua nguy cục này, chờ thiên hạ thái bình rồi còn ai muốn làm việc mệt mỏi mà chẳng lợi ích này? Chúng ta cũng không thể làm việc miễn phí cho họ, đến lúc đó phải bảo Hoàng thượng ban cho ta một ngọn núi ở nơi phong cảnh đẹp nhất, trồng một rừng hoa đào trên núi, mùa xuân ngắm hoa, mùa hè ăn đào, dưới chân núi còn phải có ôn tuyền, ta định thả ít gà vịt, đẻ trứng thì ném thẳng vào ôn tuyền luộc luôn…”
Bụng Cát Thần “Ục” một tiếng, Trường Canh ngớ ra, lập tức hai người đồng thời phá lên cười, Trường Canh nhảy lên: “Muộn quá rồi, đừng kinh động bọn Vương bá, hai ta tự gói ít sủi cảo mà ăn.”
Cát Thần hơi ngượng ngùng nói: “Không, không được đâu, đại ca, sao có thể để Thân vương điện hạ tự tay giã nhân nặn vỏ… việc này thực là…”
Trường Canh liếc hắn một cái: “Có ăn không?”
Cát Thần đáp như đinh đóng cột: “Ăn!”
Thế là hai người giữa cảnh tối lửa tắt đèn lẻn vào nhà bếp hầu phủ, xua lão trù nương gật gà gật gù về ngủ, binh binh chát chát hì hục một lúc, nghe tiếng điểm canh, một người cầm vung, một người cầm vợt, hết sức tùy tiện ngồi luôn dưới bếp chia nhau ăn hơn sáu mươi cái sủi cảo, Cát Thần nóng quá ré lên, dường như lại quay về thời thiếu niên “nhấp nhô” ở nông thôn.
Thời gian tốt đẹp đều ở đêm hôm khuya khoắt, ban ngày vẫn là nguy hiểm trùng trùng.
Một tháng sau, phong hỏa phiếu vẫn chưa xong, ngay cả Hoàng đế Lý Phong cũng bị ồn ào đến phiền vô cùng, một cuộc thanh tẩy trong im lặng từng bước bắt đầu.
Thoạt tiên Đốc sát viện dâng liền ba bản tấu tố Nhạn thân vương một tay che trời, Sở quân cơ tự ý giữ lại tấu chương của quan viên trong triều, khiến tiếng oán thán dậy lên khắp nơi, cái gọi là phong hỏa phiếu hoàn toàn là làm bừa, là ném thể diện triều đình xuống đất mà giẫm, hại nước hại dân.
Nhạn thân vương sai người đem toàn bộ ghi chép về tấu chương từ trước tới nay Sở quân cơ trình lên và trả về bày hết trên triều đường, tất cả tấu chương trả lại đều ghi vào hồ sơ, khi nào, vì sao mà trả, cũng có hết trên báo cáo vắn tắt tấu lên Tây noãn các, không một bản nào sai khác, đương đình khiến người ta á khẩu; ngay lập tức Nhạn thân vương lấy “tài sơ học thiển, khó mà phục chúng” làm lý do, xin Hoàng đế Long An thu hết chức vụ lại, Lý Phong theo lệ không chuẩn, vị Thân vương điện hạ mới tròn hai mươi này tuổi trẻ khí thịnh, lập tức cáo ốm từ triều, chạy về hầu phủ đóng cửa không ra.
Lão hồ ly tinh gặp người nói tiếng người gặp quỷ nói tiếng quỷ cả triều, thật sự còn chưa từng có ai cáu kỉnh lộ liễu như vậy, Lý Phong nhất thời dở khóc dở cười, chưa đợi hắn cải trang xuất cung đến dỗ dành, Nhạn thân vương vừa đi thì trong triều lập tức xảy ra chuyện.
Thoạt đầu Sở quân cơ quần long vô thủ loạn cào cào, tấu mỗi ngày đệ trình lên bàn Lý Phong hệt như tuyết rơi, các nơi đều đòi tiền đòi tử lưu kim, làm hắn sứt đầu mẻ trán, lập tức hai Thượng thư Hộ bộ Binh bộ cơ hồ phải choảng nhau trên triều đường, Lý Phong trong cơn thịnh nộ truy cứu, phát hiện tới nông nỗi này rồi mà vẫn có kẻ ăn bớt tham ô quân phí, lập tức nổi giận, truy tra ra đại án chấn kinh triều dã, từ đường đường quan lớn nhị phẩm cho tới tiểu quan thất phẩm, hàng loạt người bị liên lụy, ngay cả đám lắm điều Đốc sát viện cũng tự dưng ngã một nửa.
Một cơn mưa thu tháng Chín gột rửa kinh thành xơ xác tiêu điều, Giang Sung tự mình đến hầu phủ truyền chỉ mời Nhạn thân vương về triều, đến lúc này, kẻ để ý phảng phất hiểu được điều gì, Nhạn thân vương lại lần nữa nhắc tới phong hỏa phiếu, cơ hồ thi hành ngay không gặp lực cản.
Mới đầu có kẻ lo đợt phong hỏa phiếu đầu tiên phát hành không ra, nào ngờ vừa xuất hiện thì lập tức có Đỗ Vạn Toàn giàu nhất Giang Nam liên lạc một đám nghĩa thương dân gian dốc sức tương trợ, chưa đến ba ngày, đợt phong hỏa phiếu đầu tiên lại bị tranh mua sạch.
Vàng thật bạc xịn đổ vào quốc khố, đến đây thì không ai lắm miệng nữa.
Cuối năm Long An thứ bảy, nơi tiền tuyến Giang Nam hai quân vẫn giằng co, An Định hầu dọc đường liên hợp trú quân Trung Nguyên trị bạo dân tạo phản, cuối cùng trở lại Gia Dự quan, hôm sau liên quân Tây Vực hãm thành liền lui ba mươi dặm mà dè chừng.
Cuối năm này, Cố Quân trước sau viết mười bốn phong thư tay, lần lượt “chúc Tết” Quốc vương chư quốc Tây Vực, đồng thời mài đao soàn soạt, chuẩn bị sẽ khai sát giới ngay khi triều đình vừa đưa tới đợt quân bị tiếp theo.
Năm nay, ngoài Gia Dự quan không giăng đèn kết hoa, chiến hỏa hết sức căng thẳng – triều đình rốt cuộc đưa tới quân lương và chiến bị chờ đợi mỏi mòn.
Chỉ là người áp tải có thân phận đặc biệt.
Cố Quân vừa dẫn một tốp khinh kỵ đi tuần phòng trở về, chưa xuống ngựa đã nghe nói Nhạn vương đến, lập tức sững ra một chút, khinh cừu cũng chẳng màng cởi, ném dây cương chiến mã rồi chạy luôn.
—
Nguyên văn Tam thu quế tử, thập lý hà hoa, trích trong bài Vọng hải triều của Liễu Vĩnh.
|
Chương 72: U mộng
Cố Quân chạy một mạch về nơi đóng quân, đám thân binh đằng sau không biết chuyện gì, đành phải chạy theo như huấn luyện trong rừng. Huyền Thiết khinh kỵ không chỉnh đội không thay ca, co giò chạy như điên, khiến thủ vệ nơi đóng quân như lâm đại địch, còn cho là lại có một toán ngoại địch, nhao nhao giơ thiên lý nhãn trông chừng tứ phía.
Trong trú địa Gia Dự quan của Huyền Thiết doanh, xa giá đến từ kinh thành đã xếp thành một hàng, quản lý quân nhu đang bận tối mày tối mặt, Cố Quân lại thình lình dừng bước.
Chúng thân binh cũng vội vàng dừng lại theo, ngơ ngác nhìn nhau.
Cố Quân mù tịt quay đầu lại nhìn họ: “Các ngươi hớt hải chạy đi đâu thế?”
Chúng thân binh: “…”
Cố Quân ho một tiếng, phủi bụi đất không tồn tại trên Huyền Thiết khinh cừu, mới chỉnh lại phong thái, quay mặt đi lại không hề gặp chướng ngại mà thay bằng điệu bộ thong dong dạo bước sân vắng, chắp tay sau lưng, lắc lư đi vào soái trướng.
Ngoại trừ người đang trực, tuần phòng chưa về, mấy vị đại tướng dưới tay Cố Quân đều ở bên trong hầu chuyện, vây một người vào giữa. Người nọ vận triều phục gấm vóc chính trang, dưới hồ cừu trắng tinh như tuyết lộ một đoạn tay áo rộng, chính là Nhạn thân vương tân quý trong triều. Nghe tiếng động, y quay đầu lại, ánh mắt bất ngờ đụng phải Cố đại soái đang ngả nghiêng dựa cửa.
Nhạn vương tựa hồ giật mình, đôi mắt lập tức sáng rỡ, gió bụi dọc đường đều bị gột sạch, y khó lòng kiềm chế giơ tay lên, hắng giọng, tiếng ho vậy mà hơi lạc điệu.
Sau tiếng ho này, mọi người đều nhìn ra cửa, nhao nhao đứng dậy chào: “Đại soái.”
Có những cuộc tụ tan như chớp mắt, lại có những cuộc tụ tan như cách cả một đời vậy.
Chính giữa cách lửa giận và chiến tranh lạnh đan xen, loại đó chính là chớp mắt.
Chính giữa cách trùng trùng chân tướng xếp không ra đếm không rõ, tình cảm ám muội cầm không được buông không xong, loại đó tựa như cách một đời.
Dù sao thì Cố Quân là trăm mối cảm xúc ngổn ngang ùa hết lên ngực, làm tắc ***g ngực rộng như sông đổ ra biển của y, cát sỏi chặn kín.
… Rất lâu, mới run rẩy rỉ ra một chút nước nóng sáng rực bức người, kéo dài không dứt mà tan vào tứ chi bách hài – lòng bàn tay Cố Quân chắp sau lưng lại hơi rịn mồ hôi.
Y giống như một con sói, đưa tay dằn xuống, ý bảo mọi người không cần đa lễ, thong thả đi vào: “Biên quan hiện tại không ổn định, sao còn đích thân đến đây?”
Trường Canh nói: “Sắp đến Tết rồi, con tới tặng các huynh đệ ít đồ Tết.”
Cố Quân nghe thế làm bộ làm tịch “À” một tiếng, thần sắc thản nhiên hỏi: “Làm phiền ngươi rồi, hơn nửa năm nay mọi người sống không tốt lắm, triều đình xoay ít thức ăn thật sự không dễ dàng gì – Hoàng thượng có ý chỉ gì chưa?”
Y nói thế, Trường Canh đành phải tuyên chỉ trước, thánh chỉ gây mất hứng vừa lộ diện, các tướng quân hai bên lập tức rào rào quỳ hết xuống, Cố Quân đang định quỳ xuống tiếp chỉ, liền bị Trường Canh ngăn cản.
Trường Canh đỡ hờ y một chút: “Hoàng thượng có khẩu dụ, hoàng thúc gặp thánh chỉ nghe là được, không cần hành lễ.”
Không biết là cố ý hay vô tình, lúc Trường Canh nói đến hai chữ “hoàng thúc”, giọng hơi hạ thấp.
Lý Phong cả ngày “hoàng thúc nọ hoàng thúc kia”, khiến Cố Quân vừa nghe thấy hai chữ hoàng thúc là đầu to như cái đấu, nhưng lúc này bỗng nhiên bị Trường Canh gọi như vậy, lại như có một cái móc câu nhỏ móc y một phát, bốn chữ “lễ không thể phế” chạy ra đến môi lại không tìm được thứ tự.
Mùa đông tháng Chạp, Tây Bắc lạnh vô cùng, mà lãnh giáp cơ hồ phải làm Cố Quân nóng vã mồ hôi… Ngay cả thánh chỉ cũng nghe câu được câu không.
May mà chính sự của Lý Phong bình thường đều nói trong trả lời quân báo, viết trong thánh chỉ đều là những lời vô nghĩa khao quân, nghe hay không đều được.
Cho đến khi các tướng quân xung quanh nhất tề tạ thiên ân, bình thân đứng dậy, Cố Quân cũng chưa kịp định thần lại.
Thông thường mà nói, trường hợp này nên do người cấp bậc cao nhất tiến lên, thay mặt mọi người dựa theo thánh chỉ nói vài câu hào ngôn tráng ngữ đền đáp quốc gia, thánh chỉ này mới tính là truyền xong, mọi người có thể đi làm việc mình.
Nhưng Cố Quân đột nhiên im lặng một cách quỷ dị như vậy, mọi người đành phải im lặng theo, các tướng quân Huyền Thiết doanh tập thể trố mắt nhìn nhau, không biết An Định hầu có ý kiến gì với thánh chỉ phần nào rỗng tuếch này.
Xung quanh yên tĩnh như vậy, lúc này Cố Quân mới ý thức được mình làm chuyện mất mặt, y điềm nhiên trưng khuôn mặt cao thâm khó lường, hỉ nộ khó phân mà nói: “A, Hoàng thượng nói quá lời rồi, đều là việc trong phận sự thôi. Lão Hà, kêu người đi chuẩn bị một chút, tẩy trần cho Nhạn vương điện hạ… Đừng làm phức tạp như thế, đều là người nhà cả. Mọi người nhanh nhẹn lên, kiểm kê xong quân nhu và chiến bị trước khi trời tối – nhìn cái gì, còn chưa chịu giải tán, không có việc gì làm à?”
Các tướng quân cảm thấy kính nể Cố soái sủng nhục bất kinh, nối đuôi nhau mà ra. Huyền Thiết doanh ai có việc nấy, hiệu suất cực cao, chớp mắt mọi người đã đi sạch.
Soái trướng mới nãy còn huyên náo thoáng cái lặng ngắt như tờ. Cố Quân khẽ thở phào, cảm thấy ánh mắt Trường Canh vẫn dính trên người mình, dính đến mức y cơ hồ phải dùng hết toàn lực mới có thể nghiêng đầu đi.
Chẳng biết có phải do hồ cừu không, y cứ cảm thấy hình như Trường Canh hơi gầy đi.
Trên đường đến Tây Bắc, lời Hỏa Long và Trần cô nương luân phiên lướt qua lòng y, Cố Quân từ thuở chào đời lần đầu tiên đối mặt với một người mà không biết phải nói từ đâu, trong lòng muôn vàn cảm xúc, trên mặt không biết nên có biểu cảm gì, ngược lại có vẻ vừa lãnh đạm vừa trấn định.
Y giống như vừa rời khỏi nhà hôm qua mà nói với Trường Canh: “Lại đây, ta xem nào.”
Trường Canh nhất thời không rõ y có thái độ gì, tạm thời thu tầm mắt táo tợn lại, bỗng nhiên thấp thỏm.
Y nửa năm qua gây ra động tĩnh lớn, không biết biên quan nghe nói bao nhiêu, càng không biết nếu Cố Quân hay được sẽ có thái độ gì. Khi Cố Quân rời kinh, quan hệ của hai người lại thường thường như vậy, bên trong cách thời gian dài, như một vò rượu chưa kịp bỏ nguyên liệu xong đã vội vàng chôn xuống đất trước…
Ngắn ngủi vài bước, trong lòng Trường Canh như đèn kéo quân, mùi vị khỏi phải nói.
Ai ngờ lúc này, Cố Quân lại đột nhiên giơ tay kéo y tới.
Khinh cừu giáp huyền thiết bao kín từ đầu vai đến đốt thứ hai năm ngón tay, khiến vòng tay Cố Quân có vẻ rất cứng, một đoạn ngắn ngón tay hơi lộ ra, bị gió lạnh Gia Dự quan thổi giá ngắt như khinh cừu giáp, hơi lạnh phảng phất trong khoảnh khắc đã xuyên thủng hồ cừu trên người Nhạn vương, y rùng mình, chớp mắt thụ sủng nhược kinh mà luống cuống chân tay.
Cố Quân hơi nhắm mắt lại, hai tay từ từ siết chặt, cổ áo lông mềm mại lướt qua mặt, mùi an thần tán như bóng với hình, chẳng biết biết có phải là ảo giác không, y cứ cảm thấy thứ mùi ấy còn nồng hơn trước kia.
Ô Nhĩ Cốt hơn hai mươi năm như một cái giũa, mài xương điêu thịt ra một người như vậy, Cố Quân đau lòng vô cùng, nhưng một chữ cũng không dám nhắc, trong xương cốt Trường Canh có sự cố chấp không thỏa hiệp trước bất kỳ ai, bắt đầu từ nhỏ, mỗi đêm thà mở mắt đợi đến hừng đông, cũng không chịu mảy may lộ ra với y.
Nếu một người bưng kín vết thương không để ai nhìn thấy, người khác không thể dùng sức mạnh bẻ tay y ra, đó không phải là quan tâm, mà là đâm y thêm một nhát.
“Tử Hi,” Trường Canh không biết y lên cơn điên gì, đành phải phần nào mất tự nhiên mà thấp giọng nói, “Ngươi còn ôm ta như vậy, ta sẽ…”
Cố Quân miễn cưỡng dằn cảm xúc, nuốt xuống nỗi xót xa, mặt không biểu cảm nhíu mày nhìn y: “Hửm?”
Trường Canh: “…”
Vậy nhưng không dám nói.
Nhạn vương giỏi tài ăn nói hiếm khi á khẩu, Cố Quân nhìn y phá lên cười, kéo hồ cừu kín lại cho y: “Đi, ta dẫn ngươi ra ngoài đi dạo.”
Hai người sóng vai ra khỏi soái trướng, sóc phong quan ngoại cứng như đao kích, lá cờ phần phật tựa đại bàng sải cánh trên không trung, trời cao đất rộng, xa gần không gợn mây, đoàn xe áp tải quân nhu không nhìn thấy cuối, từ khi chiến tranh tứ cảnh bùng nổ tới nay, ở đâu cũng giật gấu vá vai, không biết bao lâu rồi chưa tái hiện cảnh gần như phồn hoa thế này. (Sóc phong chỉ gió mùa đông hay gió Tây Bắc)
Cố Quân nghỉ chân nhìn một lúc, thầm than: “Cục diện hỗn loạn như thế, phải mất bao nhiêu tâm huyết mới có thể thu dọn cho êm?”
“Đưa tới chừng này trước, những thứ khác ta lại nghĩ cách khác,” Trường Canh nói, “Hiện tại chưởng lệnh pháp đã hủy, bên phía Linh Xu viện tháng này lại thêm mấy viện cương giáp trực thuộc, đang chiêu hiền nạp sĩ từ trường tý sư thiên hạ về mặt cương giáp hỏa cơ đặc biệt có kiến thụ, bất luận xuất thân, đều có cơ hội vào Linh Xu viện, Phụng Hàm công thề thốt nói hải quái của hải quân Tây Dương cũng không có gì đáng sợ, chỉ cần cho ông thời gian, thì ông cũng làm được.”
“Phụng Hàm công đời này chưa từng ăn một bữa cơm no, đây là muốn ăn một bát đổ một bát sao?” Cố Quân cười cười, “Hải quái kia ngoại trừ trông đáng sợ và tốn của thì còn tác dụng gì, không có tiền cũng không sao, cho dù dùng khinh kỵ, sớm muộn gì ta cũng tống cổ cái đám dám tới địa bàn nhà người ta giương oai đó về quê, ngươi…”
Y vốn định nói “ngươi đừng ép mình quá”, nhưng hơi nghiêng người, bàn tay bọc một nửa cương giáp vừa vặn đụng vào lòng bàn tay Trường Canh, Trường Canh vô thức nắm lấy bàn tay lạnh đến phát đau của y, động tác này lập tức bị triều phục rộng thùng thình che lại, trong tay áo đượm độ ấm của con người.
Không phải Trường Canh không thể kiềm chế, chỉ là cái ôm bất ngờ của Cố Quân vừa nãy thật sự như một ngọn minh hỏa, thoáng cái đốt bùng hết những chờ mong khó tin trong lòng y.
Y nhìn Cố Quân chằm chằm, một ngữ hai ý nghĩa hỏi: “Cái gì?”
Cố Quân trong một ngày lần thứ hai quên từ.
Trong mắt người ngoài, hai người hệt như bị bệnh mà nhìn nhau giây lát, Cố Quân đứng bất động hồi lâu không có phản ứng, thần sắc Trường Canh dần dần tối đi, tự giễu nghĩ bụng: “Quả nhiên vẫn là ảo giác của ta.”
Ngay khi y định lui ra, đồng tử Trường Canh chợt hơi co lại, bởi vì dưới tay áo dài thấp thoáng, Cố Quân vậy mà nắm lại tay y, ngón tay lạnh ngắt gượng gạo mang theo lực độ của cương giáp, không mảy may trốn tránh do dự.
Cố Quân khẽ thở dài, trong lòng biết, ban nãy y nửa là kích động nửa là không đành lòng mà tiến một bước như vậy, về sau không bao giờ có thể quay đầu lại nữa – Trường Canh bị Ô Nhĩ Cốt giày vò nhiều năm không chịu nổi, hơn nữa thất thường cũng thật sự chẳng ra gì. Không phải y chưa từng gặp dịp thì chơi mà nói lời ngon tiếng ngọt, quá chén cũng tùy tiện hứa hẹn lung tung, nhưng cả đời đến bây giờ mới biết cái gọi là thề non hẹn biển lại nặng nề đến khó lòng nói ra, ra tới môi cũng chỉ còn một câu: “Ta nói ngươi bảo trọng nhiều hơn, giữ được non xanh thì không sợ thiếu củi đốt, không cần dốc lòng dốc sức như vậy, đã có ta đây.”
Trường Canh hơi đần ra, câu nói của Cố Quân vào tai trái, lại từ tai phải tập thể rút lui nguyên xi, một chữ cũng chưa nghe lọt.
Cố Quân bị y nhìn đăm đăm hơi xấu hổ: “Đi thôi, đám chân đất mắt toét kia đều chờ chiêm ngưỡng phong thái của Nhạn vương đấy, đứng đần ra đây ăn không khí là thế nào?”
Trên địa bàn của Huyền Thiết doanh, không thể mở tiệc “bồ đào mỹ tửu”, “mỹ nhân ca múa”, thời chiến trong quân nghiêm lệnh cấm rượu, dám uống trộm một giọt nhất loạt xử trí theo quân pháp, tuyệt không nuông chiều. Mà Trần cô nương người duy nhất dính dáng chút xíu đến “mỹ nhân” ở nơi đây sau khi Cố Quân tháo thép tấm cũng tự mình lĩnh chức quân y, bận tối mày tối mặt ở Sở thương binh trong Gia Dự quan, mười ngày nửa tháng không xuất hiện, trước mắt chỉ còn lại một “đóa hoa Tây Bắc”, tuy không biết múa, nhưng cũng may có thể ngắm thoải mái, không mất tiền.
Gọi là tẩy trần cho Nhạn thân vương, cũng chẳng qua là làm thêm vài món, mấy vị tướng quân tạm thời không phụ trách bố phòng đến tiếp mà thôi – còn không thể tiếp đến quá muộn, bởi vì phải lần lượt thay ca, một chút thời gian nghỉ ngơi vô cùng quý giá, họ không dám thả lỏng giây lát, còn chưa vào đêm thì đã giải tán hết.
Chỉ còn lại một Cố Quân dẫn Nhạn vương thủy chung hơi ngơ ngác đi thu xếp.
“Bên này rất buồn chán nhỉ? Ăn không ngon, uống không tốt, từ sáng đến tối hạng mục giải trí cao nhất chính là mấy người xúm lại bẻ cổ tay đấu vật, thắng thua còn không được tiền,” Cố Quân quay đầu lại nói, “Có phải hồi nhỏ ngươi còn vì ta không chịu dẫn theo mà từng giận hay không?”
Trường Canh mặc dù không dính một giọt rượu, bước chân vẫn hơi lâng lâng, luôn cảm thấy mình đang nằm mơ, nói mê: “Buồn chán chỗ nào?”
Cố Quân nghĩ một chút, lấy cây sáo nhỏ bạch ngọc cất trong lòng: “Ta thổi một khúc tái ngoại mới học cho ngươi nghe được không?”
Ánh mắt Trường Canh nhìn chăm chú cây sáo nhỏ đặc biệt sâu thẳm, cảm thấy giấc mơ này y không tỉnh lại được nữa.
Chính lúc này, Thẩm Dịch chỉnh đốn phòng ngự trở về, từ rất xa đã nghe nói Nhạn vương điện hạ đích thân tới, vốn định ôm tâm tình phức tạp đến ôn chuyện, nào ngờ còn cách khoảng trăm mét đã tinh mắt nhác thấy Cố Quân rút cây sáo bảo bối ra, Thẩm Dịch tức khắc như lâm đại địch xoay chân quay đầu bỏ chạy.
Nhạc khí trong tay Cố Quân từ sáo trúc đổi thành sáo ngọc, lại ở biên quan khổ hàn vô thú tu hành hơn nửa năm, nhưng tài nghệ như kỳ tích chớ hề tiến bộ, công lực làm người ta vãi đái còn thắng năm đó, tiểu khúc tái ngoại khiến người ta nứt hết gan mật, không xa đó một thớt chiến mã đang chờ trọng trang hệt như bị cả đàn sói hoang bao vây, hí lên thảm thiết, thám báo huyền ưng từ trên trời đáp xuống, lảo đảo một bước không đứng vững, trực tiếp ngã lăn xuống đất, như đang xin tiền mừng tuổi vậy.
Trường Canh: “…”
Y cuối cùng đã tìm được một chút căn cứ cho thấy mình không nằm mơ – động tĩnh này đã vượt qua trí tưởng tượng hạn hẹp của y.
Một khúc kết thúc, Cố Quân tự cho là phong hoa tuyết nguyệt một phen khá chờ mong hỏi: “Hay không?”
“…” Trường Canh chần chừ rất lâu, đành phải trung thực nói, “Thanh tâm tỉnh thần, có à… khả năng lui địch.”
Cố Quân giơ tay dùng cây sáo gõ đầu y một phát, không hề đỏ mặt vì tài nghệ khủng bố của mình: “Chính là để ngươi tỉnh táo lại đấy, mấy ngày này ngủ với ta hay kêu người dọn lều Thân vương cho ngươi?”
Nhạn vương mới hơi tỉnh táo gặp chòng ghẹo bất thình lình nhất thời sững sờ tại chỗ.
Cố Quân chứng kiến Trường Canh từ tai ửng đỏ lan thẳng lên trên mặt, không khỏi nhớ tới dáng vẻ không được tự nhiên của y năm đó khi mình sốt, y thay quần áo giúp, lúc ấy chỉ cảm thấy bất đắc dĩ, lúc này lòng lại ngứa ngáy, nghĩ: “Cái lần nhân lúc ta gãy cả mớ xương chỉ có thể nằm như xác chết mà lợi dụng, sao không nghĩ đến có hôm nay?”
Cố Quân nói: “Sao lại không nói gì nữa?”
“Không cần phiền phức…” Trường Canh đấu tranh cả buổi, cắn răng hạ quyết tâm, “Ta… Ta vừa vặn muốn xem thương thế của ngươi.”
Cố Quân không nhịn được tiếp tục ghẹo y: “Chỉ xem thương?”
Trường Canh: “…”
|
Chương 73: Trận đầu
Xương sống và xương cổ Cố Quân đều có vấn đề, Trường Canh không cần tra kĩ, tháo giáp cách quần áo sờ là biết.
Y gạt hết những suy nghĩ lung tung, nhíu mày hỏi: “Tử Hi, bao lâu rồi ngươi không cởi khinh cừu?”
“Từ lúc tháo tấm thép thì vẫn mặc suốt…” Cố Quân nói đến đây đột nhiên cảm thấy có gì đó không đúng, dừng một chút, lại vội vã bổ sung, “A, lúc tắm rửa đương nhiên vẫn cởi, ta đâu phải là con lừa trọc thích ở bẩn Liễu Nhiên kia.”
Trường Canh đưa tay đè y nằm sấp xuống: “Đừng nhúc nhích – ngươi còn có tâm tư bêu xấu người khác cơ đấy.”
Các tướng quân này thời trẻ nhung mã vội vã, uy phong vô cùng, nếu may mắn sống đến già, phần lớn đều thương bệnh đầy người, xương sống xương cổ lệch vị thật tình không thể bình thường hơn. Khinh cừu tuy nhẹ nhưng trực tiếp mặc trên người, không như trọng giáp tự có chống đỡ, Cố Quân gối giáo chờ sáng, ngủ cũng không cởi, dần dà xương và cơ bắp đều không được nghỉ ngơi, Trường Canh thoáng dùng sức nhấn một cái, có thể nghe thấy gân cốt toàn thân kêu “rắc rắc”.
“Ngươi hiện giờ chưa cảm thấy gì, là vì cơ ở lưng còn có thể chống đỡ, tương lai lớn tuổi phải làm thế nào?” Trường Canh dùng hai tay vuốt mạnh qua xương bả vai sau lưng y, xoa bóp bả vai cứng ngắc.
Thẩm Dịch mỗi khi lắm lời một câu đều bị y khinh thường, nhưng lời tương tự đổi thành Trường Canh nói, Cố Quân không mảy may mất vui, uể oải híp mắt nghe. Trong quân hết thảy giản lược, dù là An Định hầu cũng không có đặc quyền gì, trong trướng chỉ có một cái giường xếp, một ngọn đèn măng-sông treo ở đầu giường, ánh đèn tù mù, nửa che nửa đậy mà phủ lên hai người.
Trường Canh: “Đau không?”
Cố Quân lắc đầu, chậm chạp thấp giọng nói: “Ngươi đưa tới số đồ này, phong thanh tất nhiên đã truyền ra, đám ô hợp liên quân Tây Vực vốn có rắp tâm riêng, mỗi kẻ đều đang có tính toán riêng, trước mắt người Tây Dương đã không thể tiếp tục cung cấp hỏa cơ cương giáp vô điều kiện cho họ, chẳng mấy hôm nữa, chắc chắn có kẻ thất tín bội nghĩa lén quy hàng ta… Phụt, ngươi từ từ thôi.”
Lúc bóp vai Cố Quân không phản ứng, nhưng ngón tay Trường Canh mới vừa xuôi theo cột sống vuốt đến cạnh sườn, Cố Quân đột nhiên căng cứng cả người, bật cười: “Nhột.”
“…” Trường Canh tăng sức ngón tay, cơ hồ ấn vào xương y, dừng lâu một lúc khéo phải bầm tím, bất đắc dĩ nói, “Sức tay mạnh thế mà cũng có thể nhột, ngươi phân biệt được đau với nhột không đấy?”
“Rõ ràng là tay nghề ngươi kém mà,” Cố Quân nói, “Nhưng họ quy hàng sẽ không chân thành lắm đâu. Đám tôn tử này chuyện hai mặt làm nhiều quá rồi, không đánh phục thì lần tới sẽ còn khiến nội bộ chúng ta mâu thuẫn, ta định đêm Trừ tịch xuất binh, đánh một trận trước làm cơm tất niên rồi nói sau.”
Trường Canh một tay đè vai Cố Quân lại, tay kia thì dựng thẳng, dùng khuỷu tay ấn dọc theo cột sống: “Binh lực Huyền Thiết doanh ở Gia Dự quan có đủ không?”
“Không đủ cũng phải…” Cố Quân cong lưng lên, “Ha ha ha, đừng ấn nữa đừng ấn nữa.”
Trường Canh không nghe y, dùng khuỷu tay đè y, vuốt hai lần từ đầu đến cuối hai bên xương sống mới hơi dừng lại.
Cố Quân cười đến đau bụng, tưởng rơi cả nước mắt, chẳng dễ dàng gì thở hổn hển vài hơi đỡ hơn, mới tiếp tục: “Cũng tàm tạm. Hồi âm cho kẻ thăm dò quy hàng, trước đó hẹn sẵn, chỉ cần họ cút xa một chút, chúng ta sẽ không động thủ, rồi đến lúc ấy đánh lén trước, sau đó trọng giáp áp lên, thanh thế lớn vào, lấy hù dọa làm chính, dọa chạy kẻ nào hay kẻ nấy, còn lại lần lượt trị hết.”
Trường Canh hoạt động ngón tay một chút, cười hỏi: “Không sợ người ta nói ngươi không giữ lời, thất tín bội nghĩa à?”
Cố Quân thờ ơ nói: “Một đám quốc gia phụ thuộc tiến cống tạo phản, con đánh cha, sao không thấy thủ ân nghĩa gì… A! Ngươi… đại phu chân đất này!”
Trường Canh ấn huyệt vị bên hông y, Cố Quân gào toáng lên, bật dậy như con cá sống, đập cái cốp xuống giường.
Trường Canh hết cách, đành phải lấy tay về: “Cố nhịn một chút, quân y trong doanh chưa từng ấn cho ngươi à?”
Cố Quân: “A, để ta nhớ xem…”
“Đừng nhớ nữa, không ai ấn được ngươi đâu.” Trường Canh đứng dậy, đổi ngón tay thành bàn tay, một chân quỳ bên cạnh y, “Thế để ta nhẹ hơn xem.”
Lần này y đổi ngón thành bàn, bàn tay tăng lực dần từng chút, lòng bàn tay dán cạnh huyệt vị, mạnh dần lên. Cố Quân không biết phối hợp chút nào, sức tay Trường Canh càng mạnh thì cơ ở vùng bụng y càng căng lên như đọ sức, đường thắt lưng dưới đơn y rất rõ nét, Trường Canh chớp mắt hơi thất thần, có ảo giác dùng hai tay mình là có thể ôm được hông y, trái tim vốn không có tà niệm gì đột nhiên run rẩy, không hề báo trước mà bắt đầu đập điên cuồng, động tác trên tay không tự chủ được nhẹ đi, thay một cách nhột khác cho Cố Quân.
Lần này chưa đến mức làm y bắn lên, lại có một tầng nói không rõ theo tay Trường Canh chảy lên, Cố Quân vạn phần xấu hổ quay người túm tay Trường Canh: “Được rồi.”
Trường Canh giật mình, máu trong tim chảy hết lên trên, cổ đỏ bừng.
Cố Quân ho một tiếng, hỏi: “Ngươi thì sao? Khi nào về kinh?”
Trường Canh chăm chú nhìn y không dời mắt: “… Ta định qua ngày mười sáu rồi lại đi.”
Cố Quân: “…”
Câu này nghe quá uất ức.
Cố Quân hơi thất thần, thấp giọng nói: “Ngươi đừng nên nán lại nơi này lâu như vậy.”
Trường Canh nhìn đi chỗ khác, hơi xấu hổ nói: “Ừm, chỉ tùy tiện nói vậy thôi, tuy phong hỏa phiếu đã giúp quốc khố đỡ hơn, trong triều còn không ít việc chưa quyết, ta nên…”
“Ngươi ở nơi này quá tiêu mòn chí khí.” Cố Quân nghiêm túc ngắt lời y, “Chí khí của bản soái.”
Trường Canh: “…”
Cố Quân giơ tay kéo y xuống, Trường Canh quỳ một gối bên giường, nhất thời không đề phòng bị lôi xuống, suýt nữa đập vào ngực Cố Quân.
Cố Quân luồn tay vào tóc y, giữ gáy y, đột nhiên nói: “Chuyện phong hỏa phiếu của ngươi ta đã nghe nói rồi.”
Đồng tử Trường Canh hơi co lại, nhưng Cố Quân sau khi dừng một chút, không nhắc một chữ đến đại án y bố trí để bài trừ phe dị kỷ, chỉ dặn dò: “Về nhà tìm thử kẽ cửa gầm giường, xem còn có thể tìm ra mấy lượng bạc không, cũng mua y một chút, tương lai hoàng huynh ngươi không cần trả tiền, thưởng một thôn trang dưỡng lão là được rồi.”
Trường Canh cảm xúc nhấp nhô một phen, không nhịn được buột miệng hỏi: “Cần thôn trang làm gì?”
“Chờ đuổi hết bọn Tây Dương đi, thiên hạ thái bình thì ta sẽ không đánh nữa,” Cố Quân nhẹ nhàng cuốn ngọn tóc y, thấp giọng nói, “Một thời gian trước ta đã nghĩ kỹ rồi, đến lúc đó chia Huyền Thiết doanh làm ba, ưng, giáp, kỵ mỗi đội giữ một phần ba soái ấn, về sau có thể vừa phối hợp vừa kiềm chế nhau… Huyền Thiết hổ phù nên trả về Binh bộ, sau trận chiến này, không riêng gì Đại Lương, ngoại bang ngoài tứ cảnh cũng phải lột một lớp da, thay một lứa người mới, an ổn ba năm mười năm tóm lại là không thành vấn đề, dù sao hoàng huynh ngươi nhìn ta cũng khó chịu, ta cũng chẳng hầu hạ y nữa, chuyện mai sau, để hậu nhân sầu lo, tìm một thôn trang non xanh nước biếc làm… ừm, sính lễ.”
Trường Canh nghe xong một lúc lâu không nói gì, đôi mắt dưới đèn măng-sông dường như ngấn lệ: “Lần trước ngươi không nói như vậy.”
Cố Quân: “Hở?”
Trường Canh: “Lần trước ngươi bảo ta đừng sợ, theo ngươi rồi, về sau ngươi tốt với ta… cũng giữ lời chứ?”
Cố Quân phủ nhận luôn: “Ta có bao giờ nói chuyện khốn nạn như thế?”
Trường Canh không hề lưu tình nhắc lại chuyện cũ: “Tháng Giêng năm ngoái ở hầu phủ, trong phòng ngươi, khi ngươi cởi quần áo ta.”
Cố Quân xấu hổ muốn độn thổ: “Ta đó là… ta…”
Trường Canh rốt cuộc không nhịn được, cúi đầu chặn miệng y lại.
“Tướng quân của ta,” Trong lòng y vừa ngọt ngào vừa bi thương nghĩ, “Các đời danh tướng mấy ai có thể an ổn giải giáp quy điền? Lời này không phải đâm vào tim ta sao?”
Trường Canh quả thật kích động quá mức, lúng túng không biết làm gì, có vẻ vừa câu nệ vừa nôn nóng, mau chóng bị Cố Quân đã kịp định thần lại đảo khách thành chủ.
Cố Quân vùng dậy đè y trong lòng, đột nhiên phát hiện khó trách cổ nhân đều nói ôn nhu hương là mộ anh hùng – mùa đông rét mướt ôm một người tri kỷ như vậy, cũng không cần ở hầu phủ hay hành cung gì, chỉ cần ở trong tiểu viện nhà tầm thường, có một gian phòng ngủ nhỏ bằng bàn tay, đốt một chút địa long có thể hâm rượu là đủ, xương cốt đều mềm ra, đừng nói đánh giặc, quả thực ngay cả triều y cũng chẳng muốn vào.
Lần này tựa hồ lại bất đồng với nụ hôn sinh ly tử biệt trên tường thành năm đó, không có sự quyết liệt tuyệt vọng như vậy, trong lòng Cố Quân bỗng nhiên có một góc sụp xuống, dọn ra một nơi mềm nhất, nghĩ: “Từ nay về sau chính là người của ta rồi.”
Rất lâu, hơi thở hai người đều có chút bất ổn, Cố Quân giơ tay vặn đèn măng-sông tối đi, sờ mặt Trường Canh nói: “Ngươi dọc đường đến đây đã quá mệt rồi, hôm nay đừng ghẹo ta nữa, ngoan ngoãn ngủ một giấc, nhé?”
Trường Canh bắt lấy tay đối phương.
Cố Quân hôn mặt y, trêu đùa: “Về sau có cả đống cơ hội trị ngươi, ngủ đi.”
Trường Canh: “…”
Việc này hình như hơi khác với dự đoán – nhưng y quả thật cũng mệt rã rời, ngày này tâm tình lên xuống thất thường lại quá hao tâm tổn sức, chưa được một lúc đã mơ màng đi.
Cố Quân chỉ chợp mắt một chút, vừa qua canh bốn liền khoác áo dậy – nếu không phải có Trường Canh đến, mấy ngày nay y cơ bản cũng làm liên tục không nghỉ ngơi.
Tình hình kiểm kê quân nhu trong kinh thành, bạc triều đình phân phối, tử lưu kim còn bao nhiêu, phân bố binh lực thế nào và đánh làm sao… đủ các loại an bài đều cần chủ soái xem qua. Đừng thấy y nói kế “ly gián” đơn giản rõ ràng mà lầm, chân công phu còn ở chỗ chi tiết, trước trận chuẩn bị thêm một phần thì thêm một phần chiến thắng – tuy rằng lực sát thương trong tiếng sáo của Cố đại soái cực mạnh, nhưng vây thành thiên quân vạn mã, nếu chỉ trông vào hai chiêu đóa hoa Tây Bắc lau mặt và “ma âm xuyên tai” đuổi địch, thủ đoạn không khỏi quá đơn nhất.
Cố Quân cúi đầu nhìn Trường Canh đã ngủ say một cái, nhận ra y quả nhiên như Trần cô nương nói, ngủ không hề yên bình.
Người khác là ngày nghĩ đêm mới mơ, Trường Canh lại là vô luận trước khi ngủ có bao nhiêu chuyện vui vẻ, nhắm mắt lại đều không có mộng đẹp chờ đợi. Vùng chân mày y đã cau hết lại, dưới tuyết nguyệt quan ngoại sắc mặt có vẻ trắng bệch, ngón tay vô thức nắm chặt, bấu chặt một góc áo Cố Quân như níu phao cứu mạng vậy.
Ô Nhĩ Cốt là một loại độc cực kỳ hao tổn thần trí, lúc tỉnh còn có thể dựa vào ý chí kìm nén một phần, sau khi ngủ lại sẽ cắn trả táo tợn hơn, Cố Quân luôn ngủ không đủ chỉ tưởng tượng một chút đã cảm thấy sởn gai ốc.
Y thử rút góc áo mình ra, nhưng không được. Trường Canh lại giống như bị y kinh động, nắm chặt hơn, trên mặt thậm chí thoáng qua một chút lệ sắc không nói thành lời.
Quân doanh trọng địa, Cố Quân không tiện đoạn tụ ra ngoài thương nghị quân tình với thủ hạ, đành phải thở dài, tháo hà bao trên ngoại y của Trường Canh, lấy cái chén bên cạnh, đổ một ít an thần tán vào, ép chặt rồi đốt.
An thần hương nồng nặc lập tức lan ra khắp lều, Cố Quân để chén bên gối, cúi người nhẹ nhàng đặt một nụ hôn lên trán Trường Canh. Trường Canh có thể là tỉnh rồi, lại chưa hoàn toàn tỉnh táo, trong lúc mơ mơ màng màng tựa hồ cũng biết là ai ở bên cạnh, thần sắc thống khổ rốt cuộc hơi giảm đi, cuối cùng buông tay ra.
Cố Quân hơi sầu lo nhìn y một cái, đội bóng đêm mà ra ngoài.
Tết này thê lương cực kỳ, đêm Trừ tịch, trong quan vẳng ra tiếng pháo tịch liêu, gió lạnh quét qua, chỉ thấy những mảnh giấy đỏ theo gió bay múa như bươm bướm, xa gần lại không thấy lũ trẻ nghịch ngợm đốt pháo.
Ngay cả chốn kinh thành, Khởi Diên lâu đã sập một nửa, hồng đầu diên đám đạt quan quý nhân tiêu tiền như rác những năm trước tranh đoạt cũng chẳng thấy bóng dáng.
Rất nhiều lưu dân qua sông mà đến, chết cóng một loạt, lại chết đói một loạt, chuyện đổi con mà ăn(1) thỉnh thoảng vẫn xảy ra.
Chính quyền các nơi ban đầu không chịu mở kho phát lương, năm trước Trường Canh từng đích thân lĩnh chức khâm sai, một mặt chạy đôn chạy đáo giữa các đại thương hội vì chuyện phong hỏa phiếu, một mặt lại mượn Chung lão tướng quân một đội binh lực, ven đường xử một đám gian thương và nịnh thần giữ lương không phát, dùng thủ đoạn lôi đình giết gà dọa khỉ, bấy giờ mới cho lưu dân chật ních từ đầu đường tới cuối ngõ có một nơi để nhận cháo loãng.
Bất kể là nhà trung lưu hay nông dân bần khổ, mấy trăm năm, mấy thế hệ không nỡ ăn không nỡ mặc tích góp được tí chút của cải, vậy mà chẳng qua một năm nửa năm, đều hủy trong một sớm.
Có lẽ nhân thế tang thương nhấp nhô như mưa sa gió giật, vật ngoài thân rốt cuộc sống không ôm được, chết chẳng mang theo, lo lắng hết lòng, nguyên cũng đều là hư vọng tận nhân sự thính thiên mệnh.
Huyền Thiết doanh ở Gia Dự quan theo thường lệ chuẩn bị ba xe pháo hoa, dự bị thêm chút điềm tốt cho năm Long An thứ tám sắp đến; đêm Trừ tịch, trên cổng thành treo đèn ***g, thủ vệ cũng có vẻ đặc biệt chẳng thèm để tâm.
Một thám báo Tây Vực thậm thà thậm thụt trùm cỏ khô, lẻn đến bên ngoài Gia Dự quan, dùng thiên lý nhãn theo dõi cả ngày. Chỉ thấy thủ vệ thành quan Huyền Thiết doanh hôm nay đều có vẻ hết sức lỏng lẻo, vệ binh trạm gác bình nhật đứng thẳng như giáo thiếu một nửa, có người vò đầu gãi tai không thôi, có người nhìn ngó xung quanh, còn có kẻ không ngừng quay đầu lại, như đều đang chờ mong gì… Một lát sau sự lơ đãng này đã được giải thích, thì ra là một loạt thư nhà từ trạm dịch gần nhất đưa tới, xuyên qua thiên lý nhãn, thám báo Tây Vực nhìn thấy lính truyền lệnh trực tiếp đi lên cổng thành, rất nhiều người nhận được thư liền xé ra ngay tại chỗ.
Khinh kỵ tuần phòng mỗi ngày đều chỉ xuất hiện một lần, dạo qua một vòng không xa không gần cho có lệ rồi trở về.
Từ khi có sứ Đại Lương từ kinh thành tới, liên quân cả Tây Vực đều căng thẳng hẳn, ngày đêm phái người dõi chặt trú địa Gia Dự quan. Đợi mãi tới khi trên thành lâu Gia Dự quan bắn pháo hoa, tiếng pháo của bách tính Trung Nguyên loáng thoáng vang lên, xem chừng muốn đón một năm yên bình, thám báo trực hôm nay mới cẩn thận xác định Huyền Thiết doanh quả thật không có động tĩnh, im ắng triệu tập thủ hạ rút về.
Ngay khi họ vừa rời khỏi, một tảng “đá to” trên một sườn núi nhỏ không xa đó đột nhiên rung một phát, tách làm đôi từ chính giữa – đó lại là một bộ huyền ưng giáp.
Hai cánh huyền ưng bị tô thành màu xám như đá, thậm chí còn tỉ mỉ cẩn thận vẽ văn lộ, thoạt nhìn quả thực có thể lấy giả tráo thật. Hắn chờ tới khi thám báo Tây Vực ẩn nấp kia chạy xa, mới im ắng bay thẳng lên không trung, như một lưỡi đao sương trắng mỏng manh xẹt qua bầu trời đêm, phút chốc không thấy bóng dáng.
Ban đêm, ở chỗ pháo hoa thấp thoáng, Huyền Thiết doanh nơi Gia Dự quan chia làm ba đường, hòa vào bóng đêm.
Đèn ***g trên tường thành treo cao giữa bầu trời đêm, rõ ràng là cảnh náo nhiệt tưng bừng, ánh đèn dài thượt chiếu rọi trên tường cổ thành ngàn năm, lại có sự cao ngạo thê lương không nói nên lời.
Kinh thành sự vụ chồng chất như núi, Trường Canh chỉ kịp vội vã hàn huyên vài câu với Cố Quân, còn là năm cũ mà đã không thể không bắt đầu khởi hành quay về. Đêm Trừ tịch y vừa vặn đến Sở thương binh trong quan, Trần Khinh Nhứ sớm nhận được tin tức, tay cầm chim gỗ, chờ y ở cửa Sở thương bệnh.
Cách nửa năm gặp lại, giữa hai người không có một chút lúng túng, giống như Trần Khinh Nhứ chưa từng phản đối Trường Canh tiếp quản Lâm Uyên mộc bài, Trường Canh cũng chưa hề lén thay tờ giấy của nàng. Lâm Uyên mộc bài đã giao ra, dù nàng có ý kiến với sự lựa chọn của đồng bạn, lúc này cũng cần phục tòng mộc bài điều động.
“Điện hạ không nên đi vào trong nữa,” Một thị vệ đi theo nhỏ giọng nói, “Chẳng được mấy người đủ tay đủ chân, nhìn thấy tâm tình sẽ không tốt đâu.”
“Ngươi chỉ nhìn người ta một cái cũng cảm thấy tâm tình không tốt, thế những người què tay cụt chân đó thì sao?” Trường Canh liếc hắn, thị vệ kia xấu hổ đến đỏ bừng mặt.
“Ta đến chúc Tết các huynh đệ vì nước vì dân,” Trường Canh quay đầu lại nói với Trần Khinh Nhứ, “Triều đình nhất tịnh phát phong thưởng lẫn tiền trợ cấp xuống, coi như quà Tết… vừa vặn ở đây chờ một lúc.”
Trần Khinh Nhứ: “Chờ cái gì?”
“Tin chiến thắng.” Trường Canh nói, “Tin chiến thắng đầu tiên, vừa vặn ta tiện đường đem về, để Sở quân cơ thảo luận bước tiếp theo trong chính sách phân tách đàn áp chư quốc Tây Vực.”
—
Dịch tử nhi thực: đổi con mà ăn, xuất xứ từ Công Dương truyện – Tuyên Công thập ngũ niên. Thời Xuân Thu, Sở Trang Vương do Tống quốc giết sứ thần Sở quốc mà xuất binh tấn công Tống, bao vây kinh đô Tống quốc hơn nửa năm, cũng chuẩn bị vây lâu dài, người Tống rất lo sợ, Tống vương phái chấp chính Hoa Nguyên một mình lẻn vào phòng ngủ của Tử Phản Nguyên soái Sở quốc, bắt Tử Phản mà nói người Tống cho dù dịch tử nhi thực, tích hài nhi xuy cũng không đầu hàng.
Ngoài ra còn một cách giải thích khác là thời Xuân Thu nước Tống bị vây, trong thành cạn lương, bách tính không nỡ ăn con cái chết đói, phải đổi con cho nhau để ăn.
|
Chương 74: Chiến thắng đầu
Trần Khinh Nhứ ngắm nghía cẩn thận sắc mặt Trường Canh, nói: “Ta nghe nói điện hạ dọc đường mã bất đình đề, trước là Nam hạ đến Giang Bắc chấn chỉnh ác quan gian thương ven bờ kênh đào, sau lại về kinh điều phối Hộ bộ và Linh Xu viện, bất chấp giá nào mà chạy đến Tây Bắc vào dịp cuối năm, bôn ba liên tục, đến nay chưa được nghỉ ngơi, nhưng hình như khí sắc không tệ đâu?”
Việc này rất ly kỳ, lúc nàng rời kinh, Ô Nhĩ Cốt trên người Trường Canh cơ hồ đến nông nỗi không cách nào cứu vãn, vốn cho rằng hơn nửa năm qua y vừa lao thần vừa phí lực, chẳng biết đã đến tình trạng nào, khi nhận được Lâm Uyên mộc điểu, trong lòng Trần Khinh Nhứ cơ hồ thấp thỏm, chỉ sợ nhìn thấy hồng quang không tốt từ trong mắt y.
Ai ngờ sắc mặt Trường Canh so với nàng tưởng tượng còn khá hơn nhiều, trạng thái “trời sập đất lún ta tự yên tĩnh” tựa hồ đã trở lại trên người Nhạn thân vương.
Không khác lắm với mấy năm lang bạt giang hồ khi y đi theo Chung lão tướng quân lưỡng tụ thanh phong.
Nhưng tựa hồ lại có một chút bất đồng, y phảng phất không nhẽo nhạt đến hết sức khắc ý như trước kia, cũng không thiếu mùi khói lửa.
“Chạy chân vài chuyến mà thôi, không đến nỗi nào,” Trường Canh dửng dưng nói, “Đều nói vạn sự khởi đầu nan, kỳ thực ta lại cảm thấy mở đầu vị tất là khó khăn nhất. Cô xem hiện giờ trong triều trên dưới đều đến nông nỗi phải đập nồi dìm thuyền, dù ta làm kém hơn, cùng lắm cũng là lại bị binh Tây Dương bao vây kinh thành lần nữa, không thể tệ hơn được – Việc mất nước là trước lạ sau quen, chư công trong triều chắc cũng quen rồi, sẽ không trách ta lắm đâu.”
“… Lòng điện hạ đúng thật là gần đèn thì rạng, được vài phần chân truyền của Hầu gia rồi.” Trần Khinh Nhứ khó hiểu lôi Cố Quân mọi sự không để tâm ra tiên thi một lần, tiên thi xong, nàng cẩn thận ngẫm nghĩ một chút, lại cảm thấy cũng khá có lý, cho nên lại nói, “Không sai, đôi khi so với trùng chỉnh non sông, đường trượt dốc của suy bại sau khi cực thịnh quả thật càng khó chấp nhận hơn.”
“Điều đó không ảnh hưởng đến việc của ta.” Trường Canh thái độ khá tùy ý nói, “Tử Hi khi còn nhỏ nền tảng thân thể không tốt, cần phải mau chóng điều dưỡng, nếu không đánh giặc, y cũng chẳng nán lại Huyền Thiết doanh mấy năm nữa, nếu y đi, ta sẽ đi theo.”
Trần Khinh Nhứ: “…”
Mất một lúc lâu nàng mới phản ứng được “Tử Hi” này là ai, như binh hoang mã loạn, tức khắc bừng tỉnh đại ngộ – che hết ngàn dặm gió bụi trên mặt Nhạn vương điện hạ hóa ra không phải khí sắc, mà là xuân sắc!
Nhất thời Trần cô nương hoàn toàn không biết nên nói gì cho phải – nếu tình cảm khó bề tưởng tượng như vậy cũng có thể nở hoa, thế một đại cô nương cũng chẳng xấu xí hơn ai như nàng cả ngày ở giữa một đám nam nhân, sao không ai dám bày tỏ tí xíu ý tứ chứ?
Rốt cuộc là khuôn mặt lạnh trời sinh kia có sức sát thương quá mạnh?
… Hay là Cố đại soái thượng lương tuy bất chính, hạ lương vậy mà cũng không méo, sự nghiêm khắc trong trị quân khiến người ta phải thán phục?
Song một câu như không chút để tâm của Trường Canh, tuy gợi lên cho Trần cô nương một chút xót xa không nói ra được, nhưng cũng không thể nghi ngờ là tương đương với cho nàng uống một viên thuốc an thần.
Dù biên cảnh Tây Bắc trời cao Hoàng đế xa, song vẫn có thể nghe nói qua về thủ đoạn phiên vân phúc vũ của Nhạn vương điện hạ ở trong triều.
Ngoài cảm phục, Trần Khinh Nhứ cũng không thể không sinh ra vài phần sầu lo tương lai y sẽ bị quyền thế vướng chân – Không phải nàng không tin nhân phẩm của Trường Canh, nhưng Ô Nhĩ Cốt thủy chung như một đám mây đen xua không tan, ba năm năm năm, y còn có thể giữ vững bản tâm, tám năm mười năm thì sao? Quyền lực và độc liệu có tăng tốc ăn mòn thần trí y? Đến lúc đó y nắm giữ Lâm Uyên mộc bài, quyền thế ngập trời, còn ai có thể ngăn cản y?
Mãi khi nghe đến đây, nàng mới hơi yên lòng – vô luận thế nào, chỉ cần An Định hầu mạnh khỏe, trên đời này sẽ luôn có người có thể kiềm chế y, kéo y lại.
Nghĩ thế, Trần Khinh Nhứ âm thầm hơi lấy làm may mắn, may là Lâm Uyên mộc bài không bị một phiếu phản đối của nàng ảnh hưởng, sau cùng vẫn giao vào tay Trường Canh, nếu không Đại Lương thật sự chưa chắc có thể nghỉ một hơi trong nửa năm ngắn ngủi.
Một hơi này vào đêm Trừ tịch rốt cuộc chậm rãi tích thành khí thế nuốt sơn hà – Huyền Thiết doanh chia binh ba đường, đánh úp trú địa của liên quân Tây Vực.
Liên quân Tây Vực giằng co rất lâu với Gia Dự quan, một thời gian dài không nhận được tiếp viện từ người Tây Dương, kỹ thuật của mình không tốt, cương giáp chiến xa bị hỏng căn bản không biết sửa, nhìn xung quanh, thì minh hữu toàn là đám ngu xuẩn một lời khó nói hết, hoàn toàn chẳng trông cậy được, đều có ý muốn rút từ lâu.
Liên quân mười sáu nước hôm ấy nhận được thám báo, nói Huyền Thiết doanh không hề có động tĩnh, bởi vậy yên lòng.
Thủ vệ đều đi lang thang, Thống soái các quốc đang không hề chuẩn bị mà tụ lại chuyên tâm cãi nhau, cả trú địa tối om om, quạ đen thình lình xuất hiện quả thực như từ trên trời giáng xuống vậy.
Rất nhiều người chỉ hận không thể quần cũng chưa mặc đã hốt hoảng ứng chiến, bị Huyền Thiết doanh thế tới rào rạt như cuồng phong cuốn lá rụng đánh tơi bời.
Có một tiểu quốc cách khá xa thấy tình thế không tốt, mau chóng tính toán sơ qua về quốc lực nghèo rớt mồng tơi, Quốc vương và Thống soái quyết đoán kịp thời, dẫn người chạy trước tiên.
Họ bỏ chạy hệt như phát ra tín hiệu gì, liên quân lập tức náo động, đang không thể cứu vãn, thì huyền ưng từ trên trời ném xuống hàng đống thư tín phục chế, rải khắp nơi như giấy tiền vàng bạc – trước đó có mấy tiểu quốc Tây Vực toan tính âm thầm cấu kết với Cố Quân, viết mấy phong thư tay mờ ám, lúc này bị An Định hầu trở mặt dập bản in hàng loạt, rải từ trên không xuống, phối hợp với một đám tiên phong chạy trốn sớm nhất, có vẻ đặc biệt có sức dao động.
Không chờ mấy tiểu quốc Tây Vực hai mặt kia hổn hển thề thốt với minh hữu, trên trời liền truyền đến động tĩnh như biển động của đồng hống Đại Lương.
Có một huyền ưng khéo ăn nói trước sau dùng tiếng phổ thông Đại Lương và ngôn ngữ thông dụng của các quốc gia Tây Vực lớn tiếng chỉ ra mấy tiểu quốc gia làm phản, tiếp đó ngang nhiên tuyên bố: “Các ngươi đã thần phục, thì hãy tự động tước vũ khí lui sang một bên, nếu đao kiếm không có mắt ngộ thương hữu quân, Huyền Thiết doanh không chịu trách nhiệm đâu!”
Liên quân Tây Vực xôn xao lên, vào lúc này ai rảnh dừng lại cẩn thận đọc và phân tích thị phi khúc chiết trên giấy? Vội vàng xem qua mở đầu kết cục, thấy xưng hô buồn nôn thái độ nhún nhường kia, lập tức cho là chứng cứ xác thực đáng tin đến tám chín phần.
Đội ngũ các quốc gia Tây Vực đều rối loạn, ngoại có cường địch nội có phản đồ, đụng trúng ai cũng không giống người tốt, lập tức bất phân địch ta lao vào đánh nhau.
Đó là ngày mùng một năm Long An thứ tám, chào cái cũ đón cái mới.
Huyền Thiết doanh ngủ đông lui thủ sau khi chủ soái trở về rốt cuộc nhe răng nanh kiềm chế hơn nửa năm, thiết kiếm rít gào lao về hướng Tây, quét qua trú địa của liên quân Tây Vực như thái rau.
Liên quân đại bại, nhất thời bỏ chạy tứ tán, chỉ trong một đêm, họ được thấy sức chiến đấu chân chính của Huyền Thiết doanh năm ấy khi ba mươi thiết kỵ có thể càn quét mười tám bộ lạc.
Mùng hai, chúng tàn binh bại tướng Tây Vực vừa đánh vừa lui, huyền ưng bắt sống Quốc vương Khâu Từ đứng đầu liên quân mười sáu nước.
Cùng lúc đó, tin chiến thắng truyền đến Sở thương binh trong quan.
Đây là tin chiến thắng chân chính trên ý nghĩa đầu tiên của Đại Lương từ sau khi nửa giang sơn bị chiếm đóng, cả Sở thương binh sôi sùng sục, vô luận là chúng thương binh Tây Bắc thiếu tay cụt chân, hay chúng tùy thị Nhạn thân vương vẻ vang, tất cả tuy hai mà một ôm nhau gào khóc.
Trường Canh nặng nề thở phào, vốn định mở miệng phân phó hạ nhân lập tức chuẩn bị về kinh, ai ngờ kêu một tiếng mà không ai thèm để ý đến y, bất đắc dĩ lắc đầu, lấy khăn tay đưa cho Trần Khinh Nhứ đang im lặng rơi nước mắt ở bên cạnh.
Họ đợi ngày này lâu lắm rồi, tòa lâu đài giữa mưa gió bấp bênh lắc lư chực đổ, song chỉ cần bàn thạch lương trụ còn chưa sập, Huyền Thiết quân uy phong chưa mất, chung quy sẽ có một ngày chỉnh đốn non sông điêu tàn này.
Mùng bốn, liên quân Tây Vực tháo chạy đến cổng con đường tơ lụa, tin tức hành tung bị nô lệ người Hán mà họ bắt tiết lộ, gặp người Lâu Lan phục kích – khi xâm chiếm Đại Lương, liên quân Tây Vực từng nhất cử chiếm lĩnh Lâu Lan, giết lão Quốc vương, tửu quỷ vương tử trẻ tuổi bị ép phải lưu vong tha hương, lúc này rốt cuộc có cơ hội báo đại thù, quả thực giết đỏ cả mắt.
Đến đây, liên quân lại bị thiệt hại nặng nề, tan tác không thành quân.
Ngay ngày khai trương đầu năm, Huyền Thiết doanh nhuệ bất khả đương giành lại hai mươi bảy quan ải trên con đường tơ lụa, trực tiếp xuất binh đánh vào trú địa vạn quốc ngày xưa, cầm tù toàn bộ đám người Tây Dương còn chưa kịp bỏ chạy.
Thẩm Dịch chạy vào doanh trướng đưa tin: “Đại soái, đám rùa con Tây Vực đã rụt đầu, đệ thư đàm hòa, sợ không ăn nói nổi với đám cha mẹ Tây Dương, muốn dùng số người Hán lúc trước họ bắt để trao đổi tù binh, ngươi xem…”
Cố Quân đồng ý luôn: “Đổi!”
Lời này vừa nói ra, trong soái trướng ồ lên, đua nhau khuyên “Đại soái hãy nghĩ kỹ”.
Thẩm Dịch lấy làm kinh hãi: “Đại soái, chiến báo chưa truyền lên triều đình, trong nhóm tù binh này không thiếu nhân vật quan trọng của phiên bang, tự mình xử lý… có thỏa đáng không?”
Cố Quân giơ một tay ngắt lời y: “Nếu lúc ấy Huyền Thiết doanh chưa từng rút đi, số bách tính này giờ đây nên còn trong quốc cảnh, dù trở thành lưu dân, chí ít còn có thể xếp hàng nhận bát cháo mà húp, sẽ không vô duyên vô cớ bị bắt đi làm nhục như súc sinh… Ta không hề có ý chỉ trích chư vị, lúc ấy lệnh rút quân cũng là Nhạn… là ta cho người truyền tới. Huyền Thiết doanh có thể bảo tồn, mới có chiến thắng hiện giờ, đồng bào bị bắt bị làm nhục còn đang chờ ta, coi nhẹ ai cũng không thể coi nhẹ công thần được.”
Lời này vừa ra, trong trướng lặng ngắt như tờ, không ai đưa ra dị nghị nữa – nhưng họ nhanh chóng phát hiện, thì ra Cố Quân cũng không định “tự tiện” xử trí tù binh.
Song phương trao đổi tù binh ở nơi ước định vào thời gian ước định, nhưng ngay khi liên quân Tây Vực định cụp đuôi rời đi, một khinh cừu huyền kỵ đột nhiên cầm một mũi tên gỗ không đầu nhọn, đâm nhẹ ngực người bên cạnh, ngực người kia sớm gắn thêm bịch máu gà, vừa đâm liền vỡ, nhìn từ xa “máu tươi giàn giụa” như trúng một tên vậy.
Vị “trúng tên” kia hết sức chuyên nghiệp, loạng choạng quay một vòng tại chỗ, mới an tâm tiến vào phân cảnh giả chết đến cùng.
Đối mặt với địch nhân há hốc mồm, Cố Quân lãnh khốc vô tình ra lệnh một tiếng: “Đám không bằng heo chó này thất tín bội nghĩa thành nghiện, dám mượn danh đổi con tin, dùng ám tiễn bắn lén quân ta, bắt lấy chúng!”
Khinh kỵ đứng phía trước phút chốc tản ra, mấy chục trọng giáp vượt đám đông bước ra, Cố Quân chưa dứt lời thì trọng pháo đã nổ.
Cố Quân thời thiếu niên bình phản loạn Tây Vực còn là chim non mỏ trắng, chưa vô sỉ như vậy, sau đó con đường tơ lụa khai thông, song phương quan hệ hữu hảo, An Định hầu vẫn giữ phong độ đại quốc, ước thúc thuộc hạ, với bên ngoài luôn là nhất phái phong độ nho tướng “nhân nghĩa lễ trí tín”.
Ai biết y có thể giáp mặt chỉ hươu bảo ngựa, đổi trắng thay đen, nói dối không chớp mắt!
Liên quân Tây Vực nói rõ đến trao đổi tù binh và tù binh vạn quốc cùng ngây ra, còn chưa kịp phẫn nộ phản kháng, huyền ưng mai phục liền từ trên trời giáng xuống, cắt đứt đường lui, từ trên không bắn xuống một tên, làm đạn tín hiệu phóng lên giữa chừng tắt ngóm, thoáng cái đã dọn sạch họ.
Cố Quân lúc này mới quay đầu lại nói với Thẩm Dịch: “Ta mượn tù binh làm mồi câu cá, cũng không thể tính là ‘tự tiện xử trí’ chứ?”
Thẩm Dịch: “…”
Phần lớn tù binh Trung Nguyên bị liên quân Tây Vực bắt là thương nhân ngàn dặm xa xôi đến kiếm ăn, lúc trước một ý nghĩ sai mà hỏng hết, không rút đi cùng Đỗ tài thần, thế nên rơi vào cảnh ngộ này.
Trong số này có kẻ tự buôn bán nhỏ, cũng có kẻ đi theo thương đội kiếm ăn, nam nữ già trẻ cộng lại, tổng cộng còn hơn ba mươi người – số khác đều đã chết trong tay người Tây Vực.
Đêm cùng ngày, những người Trung Nguyên bị làm nhục đủ đường, làm trâu làm ngựa này dưới sự hộ tống của Huyền Thiết doanh rốt cuộc dìu nhau về quốc cảnh. Cách quan khẩu con đường tơ lụa còn hơn mười trượng, chưa kịp đi qua, cũng không biết là ai quỳ xuống trước tiên, đập đầu xuống đất, gào khóc không thôi, lối vào con đường tơ lụa vang tiếng than khóc, nhạn lẻ qua lại không đành lòng nghe.
Cố Quân khoát tay, lệnh cho tướng sĩ hộ tống dừng lại không được thúc giục, im lặng ở bên chờ đợi.
Trong những tù binh này, chỉ có một người không khóc. Nam nhân nọ trạc ngoài ba mươi, dáng vẻ hào hoa phong nhã, trông như một người đọc sách, dẫn một thiếu niên mười sáu mười bảy tuổi, đi thẳng tới trước mặt Cố Quân, cũng không vượt giới hạn, cách một toán thân binh, đứng lại đằng xa.
Một thân binh rỉ tai Cố Quân: “Đại soái, trên đường tôi nghe người ta nói, hình như chính là thư sinh này tụ các nạn dân bị Tây Vực bắt, bảo toàn nhiều người, còn bày kế tiết lộ hành tung của cẩu tặc Tây Vực, để vương tử Lâu Lan có cơ hội đánh lén.”
Cố Quân thoạt đầu sửng sốt, không đợi y nghĩ kỹ, đã thấy thư sinh nọ dẫn thiếu niên bên cạnh quỳ xuống.
Cố Quân với bên ngoài tuy vừa giở trò lưu manh xong, với những người này lại không dám có một chút khinh mạn, vội nói: “Tiên sinh không cần như vậy, mời mau đứng dậy, phải xưng hô thế nào đây?”
Thư sinh nọ cự tuyệt y đỡ dậy, trầm giọng nói: “Đại soái, thảo dân họ Bạch tên Sơ, là một thư sinh nghèo thi mãi không đỗ, chẳng có tiền đồ gì, do phụ mẫu chết sớm, gia cảnh bần hàn, liền tuyệt tâm khoa cử, năm ngoái dẫn ấu đệ đến con đường tơ lụa viết viết tính tính cho người ta để kiếm ăn, nào ngờ gặp đại nạn. Bạch mỗ tuy bất tài, cũng là môn hạ thánh nhân, biết đạo lý ‘bất nhục tiên, bất nhục thân, bất nhục lý sắc từ lệnh nãi sĩ chi tiết(1)’, song tình thế bức bách, rơi vào tay địch, để bảo toàn tính mạng, bị đám cẩu tặc đó tùy ý vũ nhục, thi dùng cung hình…”
Cố Quân lấy làm kinh hãi, nhất thời không biết nên nói gì cho phải, đích thân vượt đám đông bước tới trước mặt hai huynh đệ nọ, trầm giọng nói: “Là chúng ta đến muộn.”
Bạch Sơ nói: “Kéo dài hơi tàn đến bây giờ, chẳng qua là muốn chính mắt nhìn thấy vương sư thu hồi đất đai bị mất.”
Cố Quân nghiêm nghị chắp tay: “Tiên sinh công lao hiển hách, ta nhất định sẽ báo lên triều đình.”
Bạch Sơ khẽ cười cười: “Thân tàn sao dám kể công, chỉ là thảo dân có một yêu cầu quá đáng.”
Cố Quân: “Mời nói.”
Bạch Sơ nói: “Ta có một ấu đệ tên Chính, tuổi vừa mười sáu, chưa kịp đội mũ thành nhân, may mà trời sinh còn có sức lực, lục nghệ của quân tử tuy phần nhiều không giỏi, nhưng thuật kỵ xạ còn tàm tạm. Thảo dân biết Huyền Thiết doanh là lợi khí quốc gia, các tướng sĩ mỗi người đều là tinh nhuệ, với tư chất của nó vốn không xứng, chỉ cầu có thể cho nó làm một tiểu tư sai vặt hầu hạ, đi theo Đại soái làm tùy tùng dạy dỗ vài năm, ngày sau cao đường ở trên trời có linh, để nó thành một nam tử hán đội trời đạp đất.”
Cố Quân thoáng nhìn thiếu niên nọ, thấy gã hổ đầu hổ não, cũng không nói leo, còn đỏ hoe mắt lau lệ, liền than thầm một tiếng: “Mời tiên sinh mau mau đứng lên, đây đều là việc nhỏ…”
Bạch Sơ ấn đầu thiếu niên kia tiến lên vài bước, bắt gã quỳ trước mặt Cố Quân: “Mau dập đầu với Đại soái.”
Bạch Chính đại khái là một đứa trẻ rất thành thật, bảo dập đầu liền ra sức dập đầu, không hề giả dối chút nào, gạch dưới chân bị gã đập rung lên, Cố Quân bất đắc dĩ, đành phải khom lưng nâng dậy, song y vừa đụng tới hai vai thiếu niên kia liền ngẩn ra, chỉ cảm thấy hai vai đứa trẻ không ngừng run rẩy, không như kích động, trái lại như là… sợ hãi.
Mấy ý nghĩ đột nhiên lướt qua trong lòng Cố Quân-
Liên quân Tây Vực ở chỗ con đường tơ lụa do hành tung tiết lộ mà bị tập kích, tổn thất nặng nề, sao không tức giận?
Vậy đứng mũi chịu sào, họ sẽ khai đao với những tù binh Trung Nguyên hiềm nghi rất nặng này, người khác tạm bỏ qua một bên trước, nhưng đầu lĩnh vô luận có liên quan đến việc này hay không, tuyệt đối không thể thiếu bị liên lụy, địch nhân còn khuya mới quan tâm trong đây phải chăng có oan tình, căn bản cũng không cần chứng cứ, chỉ cần một chút hoài nghi là sẽ không giữ lại tính mạng hắn.
Lần này trao đổi tù binh, thả một số người già yếu thì thôi, sao lại thả cả Bạch Sơ này?
Ban nãy y đã mơ hồ cảm thấy bất thường, nhưng thấy cảnh Bạch Sơ và mười mấy người khóc sướt mướt nói ra một phen như vậy, trong lòng y nhất thời vừa kích động vừa hổ thẹn, thành thử không nghĩ sâu!
Cố Quân vừa cảnh giác, liền lập tức lui về sau, đúng lúc này, chỉ nghe một tiếng rống to, “Bạch Sơ” kia cả người căng lên, khuôn mặt gầy gò tròn lên, da nứt nẻ từng tấc – trên mặt hắn lại rớt xuống một tấm mặt nạ da người nứt toác.
“Đại soái!”
Một Huyền Thiết trọng giáp không chút do dự lao tới, ôm lấy Cố Quân, quay người dùng ba tầng thép tấm sau lưng làm khiên bảo vệ y-
“Uỳnh” một tiếng, “Bạch Sơ” kia nổ tung, sóng nhiệt khổng lồ cuốn sạch tứ phương, thiếu niên phủ phục dưới đất đương trường đầu mình hai ngả, trong tai Cố Quân “Ong” một tiếng, một cơn đau đớn dữ dội kéo tới, lưng đập mạnh xuống đất, trước mắt tối sầm.
—
Không làm nhục tổ tiên, bản thân, không làm nhục thể diện, ứng xử, ấy là khí tiết của kẻ sĩ. Nguyên gốc: Thái thượng bất nhục tiên, kỳ thứ bất nhục thân, kỳ thứ bất nhục lý sắc, kỳ thứ bất nhục từ lệnh. Xuất xứ: Văn tuyển – Tư Mã Thiên.
|