Sát Phá Lang
|
|
Chương 75: Thư tình
Thẩm Dịch phụng mệnh đoạn hậu nghe thấy tiếng nổ quay đầu nhìn lại, sợ muốn phun cả phổi ra, lập tức theo bản năng muốn chạy tới.
Nhưng Thẩm tướng quân chìm nổi nhiều năm ở biên cương, đã không còn là thư sinh đầy khí thế trong Linh Xu viện ngày trước, trong cơn giật mình thần tuấn dưới chân mới lắc đầu một cái thì Thẩm Dịch đã định thần lại, túm chặt dây cương, lập tức huýt sáo một tiếng dài: “Huyền kỵ không được loạn, huyền ưng đi thăm dò dị động của quân địch, truyền lệnh của ta…”
Song y còn chưa nói xong, một thám báo huyền ưng phút chốc đáp xuống trước mặt: “Báo! Đại soái!”
“Từ từ, Đại soái đang bận lắm,” Thẩm Dịch ngăn hắn lại, “Có chuyện gì xảy ra? Nói với ta trước là được.”
Thám báo huyền ưng kia nhanh chóng nói: “Thẩm tướng quân, mười sáu quốc gia Tây Vực sau khi rút về nước đã chấn chỉnh cờ trống, tụ tập chiến xa còn giữ lại trong các nước tổng cộng mười tám cỗ, đang đi về phía trú địa bên ta, sợ là muốn phản công…”
Thẩm Dịch trầm giọng hỏi: “Bao nhiêu người?”
“Nếu không tính xa, nhìn từ trên trời, giáp và kỵ binh chí ít có hai ba vạn…”
“Thẩm tướng quân!”
Một thân vệ của Cố Quân sấp ngửa chạy tới, Thẩm Dịch quay đầu lại nhanh suýt giãn gân cổ, da đầu ngứa ran từng cơn, y quả thực không dám tưởng tượng, nếu Cố Quân thật sự có gì bất trắc, họ làm sao bảo vệ được hai mươi bảy quan ải lối vào con đường tơ lụa?
Chẳng lẽ lại rút lui một lần nữa?
Thân binh nọ thở hồng hộc: “Đại soái lệnh cho ngài lập tức trảm Quốc vương Khâu Từ quốc trước trận hai quân, treo đầu lên cột cờ, đập nồi dìm thuyền, Huyền Thiết doanh không lưu một binh một tốt thủ thành, trực tiếp xuất binh nghênh địch!”
Thẩm Dịch mới nghe nửa câu đầu, trái tim vọt lên cổ sắp văng ra liền rơi bịch về bụng, thậm chí nửa câu sau cơ hồ không nghe rõ, phá lệ bảo thân binh thần kinh căng thẳng kia lặp lại lần nữa, lúc này mới lên giọng quát: “Phản… khụ, phản quân là nỏ mạnh hết đà, châu chấu sau mùa thu hoạch liều mạng lần cuối, tất cả nghe ta hiệu lệnh, chuẩn bị chiến đấu!”
Chớp mắt khi vụ nổ xảy ra, Cố Quân được một trọng giáp bên cạnh lấy thân bảo vệ.
Tướng sĩ huyền giáp nọ đương trường đầu mình hai ngả, Cố Quân tạm thời ngất đi, phun ra một búng máu, một tai lập tức điếc hẳn.
Sau khi tỉnh lại Cố Quân chẳng để ý gì khác, phản ứng đầu tiên chính là địch nhân muốn nhân cơ hội này để phản công – các quốc gia Tây Vực hai lần phản loạn, thâm thù đại hận với Đại Lương trong một hai đời là không giải được, trước mắt bị Huyền Thiết doanh phát triển nhanh chóng chấn nhiếp, rốt cuộc biết sợ rồi, có lẽ đây sẽ là một kích cuối cùng của họ.
Hà Vinh Huy sợ vỡ mật lôi Cố Quân từ dưới trọng giáp ra, Cố Quân máu đẫm nửa người, có của chính y, cũng có của người khác. Chỉ tích tắc, tiềm lực toàn thân y bùng nổ, trong lòng nhấp nhô vô số ý nghĩ, túm tay Hà Vinh Huy, truyền mệnh lệnh chém tù binh nghênh chiến, sau đó y tựa hồ đã đốt sạch chút hơi sức cuối cùng, đứt quãng nói: “Quân vụ liên quan hiện giờ do Thẩm… Quý Bình tạm thay bản soái, không thể lộ ra…”
Hà Vinh Huy suýt nữa bật khóc.
Trong tai Cố Quân kêu ong ong, nhất thời chẳng nghe rõ được gì, dĩ nhiên cũng không phát hiện bi thanh của người khác, chỉ lẩm bẩm: “Phong tỏa tin tức… việc hôm nay, cả gan tiết lộ một… một chữ, xử trí theo quân pháp… đến Sở thương binh mời Trần cô nương tới… a…”
Cố Quân nói đến đây thì ngực đau nhói – vết thương cũ hiển nhiên còn chưa kịp khỏi hẳn, mà lần này lại thêm thương mới, trước mắt hóa đen từng cơn, nhưng miệng vẫn không nhàn rỗi: “Chậm, chậm đã! Bảo lính truyền lệnh nhất định phải xác định xa giá Nhạn vương đã rời khỏi, mới đi gọi Trần cô nương, khoan hãy cho nàng ta biết nơi này xảy ra chuyện gì, bí mật mời đến, cần phải…”
Y không nói tiếp được nữa, cánh tay đang túm Hà Vinh Huy nhất thời vô lực buông xuống, dọa Hà Vinh Huy sợ gần chết, run rẩy giơ tay thử hơi thở – thấy hơi thở tuy mỏng manh nhưng tốt xấu gì vẫn còn, Hà Vinh Huy bấy giờ mới thở hổn hển vài hơi, khom lưng bế Cố Quân ngất xỉu lên.
Thẩm Dịch từ xa cùng Hà Vinh Huy đỏ hoe mắt nhìn nhau một cái, huýt sáo một tiếng, giận dữ quát: “Chém Quốc vương Khâu Từ, các huynh đệ, theo ta dẹp sạch phản tặc!”
Liên quân Tây Vực tự biết không địch lại Huyền Thiết doanh, trên đường hốt hoảng rút lui liền bày ra một độc kế, an bài tử sĩ Tây Vực tinh thông dịch dung ám toán Cố Quân, lúc này nghe thấy tiếng nổ, còn cho là đắc thủ, tinh thần phấn chấn, đang định nhất cử đánh hạ con đường tơ lụa, ai ngờ còn chưa đuổi tới đại quan thì đã chính diện đụng phải Huyền Thiết doanh dốc tổ mà ra.
Một tiếng nổ ấy tựa hồ triệt để chọc giận đoàn thiết chiến thần đông nghìn nghịt này, Thống soái Khâu Từ quốc vốn tưởng rằng bức lui Huyền Thiết doanh là có thể đón Quốc vương về, nào ngờ vừa ngẩng đầu lên liền thấy đầu Quốc vương treo cao trên cột cờ, tung bay theo cờ quạt, hệt như một túm tua cờ khó coi bị thắt nút. Thống soái Khâu Từ “A” một tiếng ngã lăn xuống ngựa.
Huyền Thiết tướng quân cầm đầu đeo mặt nạ sắt bảo hộ, dưới Huyền Thiết khinh trọng giáp đông nghìn nghịt căn bản không phân biệt nổi ai là ai. Giống như sợ quân địch không thấy rõ trên cờ treo cái gì, trong gió mạnh phần phật, tướng quân kia khoát tay, một khinh kỵ cuốn cát phong nhận thành một đóa hoa, cắt đứt một sợi dây thừng trên cột cờ, đầu Quốc vương Khâu Từ rơi long lóc xuống đất, Thống soái Khâu Từ quốc lộn nhào lao tới, ôm lấy đầu Quốc vương, cùng cái đầu trọc lóc kia thô lố mắt nhìn nhau chốc lát, rốt cuộc không nhịn được gào khóc ầm lên ngay trước trận của hai quân.
Tiếng khóc này như tù và của Huyền Thiết doanh, ngay sau đó, toàn thể trọng giáp cùng hành động, chủ soái mặc khinh cừu, ngồi ngay ngắn trên lưng ngựa, tay giơ cát phong nhận, thoải mái chém xuống, hai vạn quạ đen vừa nãy lặng ngắt như tờ người và ngựa cùng cất bước, tiếng bước chân ầm ầm nhấn chìm tiếng la hét.
Quan binh Tây Vực hoảng hốt, trừ Cố Quân ra, trong Huyền Thiết doanh tướng lĩnh nào dám làm chủ tiền trảm hậu tấu, trực tiếp giết Quốc vương Khâu Từ?
Chẳng lẽ Cố Quân lại chưa chết?
Xem dáng điệu này, họ chẳng những không thể nổ chết Cố Quân, ngược lại đã chọc giận Huyền Thiết doanh.
Đêm ấy, biển cát nhuộm máu, Huyền Thiết trọng giáp đánh với chiến xa Tây Vực, ép địch lui hai mươi dặm ngoài con đường tơ lụa, liên quân Tây Vực phản kích không thành, lại lần nữa tan tác, Huyền Thiết doanh cùng hung cực ác đuổi giết tới cảnh nội chư quốc Tây Vực, chém đầu gần vạn quân địch, diệt sạch quý tộc Khâu Từ.
Trần Khinh Nhứ vừa tiễn xa đội của Nhạn vương mang tin chiến thắng về kinh, còn chưa kịp thoát khỏi sự kích động mừng phát khóc, hai huyền ưng đã bay thẳng đến Sở thương binh Tây Bắc: “Trần cô nương, Đại soái mời cô đi một chuyến.”
Cố Quân tỉnh lại lần nữa, là vào lúc có người muốn bẻ miệng y ra đổ thuốc.
Xung quanh lộn xộn chẳng nghe rõ được gì, Cố Quân khẽ thở dốc một hơi, cảm giác đau nhức như tim phổi bị cháy, đau đến suýt chảy nước mắt, y còn chưa hoàn toàn tỉnh táo lại, mơ mơ màng màng nghĩ: “Sắp chết rồi ư?”
Ý nghĩ này vừa sinh ra, Cố Quân liền cắn mạnh răng.
“Không được,” Y nghĩ thầm, “Gia Lai Huỳnh Hoặc còn sống, Giang Nam còn nằm trong tay giặc, ta chết không nhắm mắt.”
Ý nghĩ này như một liều máu gà tiêm thẳng vào ngực y, Cố Quân giật mình, phút chốc tỉnh lại.
Thẩm Dịch đút thuốc cho y vã hết mồ hôi lạnh mà không bẻ được khớp hàm, lúc này đột nhiên cảm thấy khớp hàm Cố Quân buông lỏng, có thể tự nuốt, lập tức mừng vui khôn xiết, luôn miệng gọi: “Tử Hi! Tử Hi ngươi mở mắt nhìn ta này!”
Trần Khinh Nhứ vội nói: “Tỉnh lại có thể uống thuốc là không sao rồi, Thẩm tướng quân, ngài đừng run, làm y sặc đấy, để ta!”
Cố Quân không bị tử sĩ Tây Vực nổ chết, ai ngờ lại cửu tử nhất sinh vì một bát thuốc của họ Thẩm, không biết tìm đâu ra chút sức, giãy giụa muốn đẩy mầm họa kia ra. Y vừa cử động, cả soái trướng liền sục sôi, một đám hán tử cao lớn thô kệch gào khóc om sòm, đều ba chân bốn cẳng muốn đến giúp.
Trần Khinh Nhứ không nhịn được nữa: “Đủ rồi! Ra ngoài hết cho ta!”
Cố Quân nhạy bén ngửi được một thứ mùi riêng biệt của nữ tử, biết là Trần Khinh Nhứ đã đến, hơi nghiêng đầu, tránh bát thuốc đưa đến môi, cố gắng mở mắt ra.
Trần Khinh Nhứ biết y đang lo lắng điều gì, vội viết từng chữ vào lòng bàn tay y: “Nhạn vương đã về kinh rồi, y không biết đâu.”
Cố Quân hơi cong khóe môi nhợt nhạt, dường như là cười, miễn cưỡng uống hết thuốc, tinh thần lại rã rời.
Cố Quân bị chấn thương phế phủ, lại thêm cựu thương tái phát, sốt tái sốt hồi hết một đêm. Bốn chữ “chết không nhắm mắt” như bàn thạch chống đỡ y, ngày hôm sau y liền bò dậy, khiến người ta phải thán phục, uống thuốc như uống nước, ngay sau đó liền gọi tất cả các tướng quân thủ hạ tới, nghe hết một lần chiến báo.
Chờ bên này tan họp, Trần Khinh Nhứ bưng một bát thuốc đến, Cố Quân nhận lấy uống một hơi cạn sạch. Không biết lần này là va đập bị thương đầu hay nổ bị thương tai, mà cái tai vốn đã dựa vào dược vật duy trì cứ kêu ong ong.
Buông cái bát sạch trơn, câu đầu tiên Cố Quân hỏi ngay: “Nhạn vương đi lúc nào?”
Trần Khinh Nhứ tiếc chữ như vàng: “Một sớm đầu tháng Ba.”
Cố Quân thở phào nhẹ nhõm – tuyến Tây Vực đều nằm trong tay y, chỉ cần Trường Canh đã đi rồi, thì việc này sẽ tuyệt đối không truyền một chữ vào kinh thành.
Đến đây, công tư hai việc y đều yên lòng, liền tự động coi việc này chỉ là sợ bóng sợ gió, cười nói với Trần Khinh Nhứ: “Gần đây ta hơi đắc ý quá, nhất thời không tra, mất mặt, để cô chê cười rồi.”
Trần Khinh Nhứ không cười, ngược lại kéo ghế tới ngồi, xem chừng muốn bàn lâu: “Hầu gia, ta có mấy câu phải nói rõ với ngài.”
Cố Quân sửng sốt.
Có một số đại phu là kiểu ưa làm lớn chuyện, hễ bệnh nhân có bất cứ một điểm nào không phối hợp, đều giậm chân cằn nhằn một phen, còn có một số đại phu là loại chăn dê – ngươi tìm đến thì ta chữa, không muốn chữa thì dẹp, khỏi miễn cưỡng, thích chết thì tùy.
Trần Khinh Nhứ chắc chắn thuộc về loại sau, vô luận Cố Quân nẹp thép tấm ra tiền tuyến, hay nhiều lần khư khư cố chấp tăng lượng thuốc, nàng đều chưa từng nói gì, cực hiếm khi sắc mặt nghiêm nghị như vậy.
Cố Quân: “Mời Trần cô nương.”
Trần Khinh Nhứ: “Bất cứ một chỗ nào trên cơ thể người đều không phải là đơn đả độc đấu, tai mắt đều liền với nội tạng, hậu hoạn độc thương của Hầu gia lúc nhỏ kéo dài mãi đến nay, mà chiến dịch này lại liên tiếp thương gân động cốt, khiến phế phủ bị chấn động, ngũ tạng bất an – loạn Tây Vực đã áp chế, theo ta thấy, tốt nhất là Đại soái nhân cơ hội áp giải tù binh mà về kinh nghỉ ngơi ít hôm, bằng không…”
Cố Quân: “Rồi có một ngày, linh đan diệu dược gì cũng không chữa được cho ta nữa, đúng không?”
Trên mặt Trần Khinh Nhứ không có dị sắc gì, gật đầu nói: “Thân thể của chính mình, chắc hẳn trong lòng Hầu gia nắm được.”
Cố Quân “À” một tiếng, một lúc lâu không nói gì.
Hồi hai ba mươi tuổi, người ta rất khó cảm giác được “lão” và “bệnh” mà năm tháng trôi qua mang đến, thỉnh thoảng khó chịu, thường cũng không nghĩ đến hướng nghiêm trọng, không có cảm thụ thiết thực, dặn dò “trân trọng” và “bảo trọng” nọ kia của người ngoài đại để là gió thoảng qua tai – có rất nhiều thứ xếp trước thân xác thối này, danh và lợi, trung và nghĩa, gia quốc và chức trách… thậm chí phong hoa tuyết nguyệt, yêu ghét tình thù.
Cố Quân cũng không thể ngoại lệ.
Mãi đến giờ khắc này.
Y vốn dĩ luôn cảm thấy kết cục của mình chính là vùi xương nơi biên cương, chết vì non sông. Y coi mình là một trái pháo hoa, bắn xong rồi, cũng xem như giữ vẹn thanh danh Cố gia cả nhà trung liệt.
Nhưng hiện giờ tự dưng chui ra một Trường Canh, đẩy quỹ tích định trước khỏi hướng ban đầu, khiến y không nhịn được sinh ra vọng niệm, muốn cầu nhiều hơn – thí dụ như sau khi xã tắc hao mòn, còn lại một ít năm tháng không tàn không bệnh, để lại cho Trường Canh chẳng hạn.
Nếu mình chết sớm, Trường Canh một mình gánh nguyền rủa ác độc của nữ nhân Bắc man kia, về sau phải làm thế nào đây? Vạn nhất có một ngày Ô Nhĩ Cốt phát tác, mình thật sự… thì ai trông nom y? Ai sẽ quan tâm y?
Trần Khinh Nhứ không giỏi ăn nói, vốn lo mình nói năng vụng về không thuyết phục được Cố Quân, ai ngờ không đợi nàng nghĩ kỹ, Cố Quân bỗng nhiên nói: “Ta biết rồi, đa tạ, về sau còn nhờ Trần cô nương nhọc lòng nhiều hơn, hiện tại thế cục này, tĩnh dưỡng vị tất có thể, nhưng chỉ cần ta không nhập cung diện thánh, biên quan không có quân tình khẩn cấp, thuốc kia có thể không dùng thì cố hết sức không dùng, được không?”
Trần Khinh Nhứ ngớ ra, đột nhiên phát hiện hình như Cố Quân đã thay đổi rồi.
Huyền Thiết doanh ba đời truyền đến tay Cố Quân, bền chắc như thép, một câu của y chính là lệnh hành cấm chỉ, quyền uy tuyệt đối. Dưới sự phong tỏa tin tức của Cố Quân, kinh thành chỉ nhận được tin Tây cương đại thắng.
Phụng Hàm công trên triều đường vừa nghe vừa khóc, cả nước sục sôi – ngay cả Cố Quân sau đó dâng tấu thỉnh tội, nói chuyện mình trước trận tự tiện giết Quốc vương Khâu Từ cũng có vẻ như rất nhỏ nhặt. Dù sao con lừa sống Cố Quân kia thủ đoạn trước trận cứng rắn không phải mới một hai ngày, đến cả Lý Phong cũng cảm thấy đây rất giống việc y có thể làm.
Chỉ có Trường Canh nhíu mày trước bản tấu thỉnh tội truyền đến Sở quân cơ – tuy không rõ là vì sao, y cứ cảm thấy bên trong có ẩn tình.
Đáng tiếc không đợi y nghĩ kỹ, đặc sứ huyền ưng truyền tin lại lấy ra một phong thư khác: “Vương gia, đây là thư nhà Hầu gia gửi ngài.”
Cố Quân lần trước viết thư nhà cho y, là từ hai năm trước khi mới đến chỗ con đường tơ lụa, còn có một phong do Thẩm Dịch viết thay.
Trường Canh tu thân dưỡng tính nhất lưu, bình tĩnh nhận thư cảm ơn, lời hình thức vừa chân thành vừa quan tâm mở miệng là ra, khiến đặc sứ huyền ưng chưa trải đời nước mắt lưng tròng, hận không thể dập đầu thề đền đáp gia quốc, choáng váng bị đuổi đi.
Đặc sứ vừa đi, Trường Canh lập tức cho tiểu thái giám hầu hạ hai bên lui hết, gấp gáp mở ra. Y vốn khéo tay, mở lại cực kỳ cẩn thận, phong thư không rách chút nào, lấy ra còn có thể dùng lại.
Vừa mở, bên trong liền rơi ra một cành ngắn hoa hạnh ép khô.
Cố Quân hệt như bị Thẩm Dịch ám, chuyện lớn chuyện bé đều viết hết. Y vốn ác mồm ác miệng, miêu tả vẻ hèn nhát của liên quân Tây Vực càng không tiếc lời, cảnh quân địch tè ra quần quả thực sống động trước mắt. Nếu còn người ở Sở quân cơ, chắc sẽ phải sợ hết hồn, ai từng thấy Nhạn thân vương thong dong ở sau bàn công văn chất thành núi cười một mình đến thoải mái như vậy?
Kết thư, Cố Quân lại viết rằng: “Quan khẩu có vài gốc hạnh, bị chiến hỏa liên lụy, thân cây đã cháy sém hơn một nửa, sâu kiến cũng chẳng sống nổi, vốn tưởng rằng sớm chết hẳn rồi, mà một ngày tuần doanh trở về, lại thấy cây khô gặp xuân, trong tro tàn lại nhú nụ hoa, một đêm nở bung, vừa đáng thương vừa đáng yêu. Trong quân ngũ rặt một đám gây mất hứng, nói chuyện xót hoa yêu hoa cũng là đàn gảy tai trâu, chẳng bằng tiên hạ thủ vi cường, hái một cành đi chơi với ngươi…”
Sau chữ Khải có thể truyền lại cho đời của An Định hầu viết một câu, Trường Canh lờ mờ nhận ra đó là “Mong đầu xuân sang năm có thể cắt mấy cành mai hầu phủ”, sau đó chắc là cảm thấy thảo luận tương lai không may mắn, lại bôi đi, tiêu sái ký tên. Không biết là cố ý hay trùng hợp, chỗ chữ ký mờ mờ để lại dấu cành mai, vắt ngang qua chữ “Cố”, nhìn chữ đè dấu hoa ấy là có thể cảm giác được mùi hoa mai hất vào mặt, phong nhã vô song không nói nên lời.
Trường Canh ngoài mặt bình tĩnh mà trong lòng điên cuồng.
Đám thế gia công tử ca này vô luận bình thường thoạt nhìn là thô là lỗ hay không để tâm, mấy thủ đoạn nhỏ ngâm gió ngợi trăng mỗi người đều biết, ai cũng có mấy chiêu lận lưng.
Trường Canh không khỏi nhớ tới cái lần nằm giữa phong lưu và hạ lưu khi Cố Quân quá chén. Y chưa đến mức vì những chuyện phong lưu có lẽ có đó mà ghen tuông, ngược lại cảm thấy Cố Quân như vậy rất đáng yêu.
Trường Canh với một bát trà nguội, chậm rãi xem ba bốn lần từ đầu đến cuối phong thư nhà của Cố Quân, chỉ hận không thể dập mỗi một chữ vào đầu, nhắm mắt viết cũng có thể mô phỏng ra một phong giống như đúc, bấy giờ mới cất lá thư và hoa khô vào hà bao đeo cẩn thận bên người.
Sau đó y viết hai chữ “thế gia” trên tờ giấy bên cạnh, hơi nhắm mắt lại.
Ba chữ “Nhạn thân vương” vừa ra khỏi miệng chính là đại diện cho hoàng tộc, gặp lúc này quốc nạn ập xuống, lợi ích giữa thế gia và hoàng tộc nhất trí hơn bao giờ hết, chỉ cần y không quá đáng, thì không có kẻ nào mắt mù nhảy ra cản trở, rất nhiều thế gia tài chính dư dả thậm chí ủng hộ mạnh phong hỏa phiếu, lần này ít nhiều đều bỏ ra chút bạc…
Như vậy bước tiếp theo thì sao?
Biên quan một khi động thủ sẽ là khoản quân phí lớn, lưu dân còn đang không ngừng đổ qua sông, cảnh nội Đại Lương lòng người hoảng sợ, không sản xuất gì, chút bạc từ phong hỏa phiếu dùng tạm khi khẩn cấp sẽ nhanh chóng thấy đáy, triều đình chung quy không thể dựa vào vay tiền mà sống.
Cải cách chế độ ruộng đất, thuế má, dân thương vân vân đều là lửa sém lông mày, tùy tiện động chỗ nào cũng phải thương gân động cốt.
Đến lúc đó, thế gia quyền quý cả triều đều là địch nhân của y.
Biểu cảm vừa nãy còn đượm nét cười ấm áp của Trường Canh lạnh lại, bút lông sói gạch khẽ, đánh một dấu chéo lên hai chữ “thế gia”.
Thân vương trẻ tuổi dưới đèn tuấn tú cực kỳ, cũng lãnh khốc cực kỳ.
Phụng Hàm công cũng vậy, Cát Bàn Tiểu cũng vậy, Trần cô nương… thậm chí Cố Quân, họ dường như đều cảm thấy người gánh đại lương khi tòa lâu đài hoàn thành, có thể nhẹ nhàng bỏ nó xuống, phất áo mà đi. (Đại lương ở đây ngoài tên riêng của quốc gia còn có nghĩa là một cây xà lớn, cá nhân mình nghĩ xà cho lâu đài sẽ hợp hơn tên riêng)
Nhưng điều đó làm sao có thể?
Hai chữ “quyền thế”, vào thời khắc nguy vong, xưa nay đều là con đường một mất một còn không thể quay đầu.
|
Chương 76: Ly tâm
Mấy ngày sau, tin tức chư quốc Tây Vực cầu hòa truyền vào kinh thành, Sở quân cơ sau khi tấu thỉnh Hoàng đế Long An, khẩn cấp bàn bạc một ngày, phúc đáp An Định hầu, cần bảo đảm hai việc: Thứ nhất, khiến phản tặc trong dăm ba năm không còn sức cựa mình, tránh để lúc đối phó người Tây Dương bên này lại mâu thuẫn nội bộ; thứ hai, đòi tử lưu kim, càng nhiều càng tốt, nỗi nguy của quốc khố tạm tháo gỡ, song tử lưu kim Đại Lương vẫn chưa bớt gay go, vòng vây tứ cảnh sở dĩ ra tay từ phía Tây, Huyền Thiết doanh ở đây là một mặt, mặt khác cũng là để giải quyết vấn đề tử lưu kim bằng tốc độ nhanh nhất.
Sự vụ lớn nhỏ khác do An Định hầu tự mình xem xét làm chủ.
Sau đó Nhạn thân vương liền tiến cung gặp thánh, báo cáo ngắn gọn chiến sự giai đoạn này và thành quả của phong hỏa phiếu cho Lý Phong.
Lý Phong bấm tay tính toán, cơ hồ chấn kinh vì hiệu quả của phong hỏa phiếu, không nhịn được hỏi: “Sao lại nhiều như vậy?”
“Cũng không có gì lạ cả, các đại nhân trong triều lo nỗi lo của Thánh thượng, vô số người nguyện ý hiến hết gia sản, thời khắc sống còn há có đạo lý bo bo giữ mình? Ít nhiều đều dốc chút sức.” Trường Canh trước tiên thong thả nịnh nọt, lại nói, “Về phần dân gian – có câu thương nhân hạ tắc tư bì, đông tắc tư hi, hạn tắc tư châu, thủy tắc tư xa, dĩ đãi phạp dã’, kẻ có thể thành cự cổ một phương, đại để đều không phải tiểu thương chỉ biết mưu cầu khoản lợi tí tẹo trước mắt.” (Thương nhân mùa hạ mua da, mùa đông mua tơ lụa, ngày hạn mua thuyền, lụt thì mua xe, để chờ lúc thiếu còn bán ra kiếm lời)
Lý Phong trầm ngâm chốc lát, hỏi: “Thế theo ý ngươi, họ định mưu cầu gì từ chỗ trẫm?”
Trường Canh không cần nghĩ ngợi chậm rãi nói: “Thương nhân gia tài bạc triệu, nhưng cũng cần dãi nắng dầm mưa, xét từ mức độ nào đó, thì chẳng hơn gì nông gia xem sắc mặt ông trời mà kiếm ăn – đôi khi triều đình hạ một pháp lệnh, có thể khiến gia tài bạc triệu táng gia bại sản, hoặc là trên đường hành thương gặp phải cường đạo, tính mạng bản thân lẫn gia đình đều khó giữ – hiện giờ quốc nạn ập xuống, chúng cự cổ thương hội do Đỗ Vạn Toàn giàu nhất Giang Nam làm đầu đứng ra, một mặt vì báo quốc, mặt khác, chẳng phải muốn tìm hoàng huynh làm chỗ dựa sao?”
Lý Phong nghe nhiều lời xu nịnh rồi, không dễ dàng bị lay chuyển như vậy, thần sắc thản nhiên nhìn Nhạn thân vương thoại lý hữu thoại.
Trường Canh cũng không làm trò nhiều, lại rèn sắt nhân khi còn nóng: “Trước mắt chính là lúc cần tiền, triều đình còn định phát hành đợt phong hỏa phiếu thứ hai, hoàng huynh xem… phải chăng nên cho những người đầu lĩnh thương hội này chút lợi thích đáng, hòng cổ vũ càng nhiều người dốc túi tương trợ?”
Lý Phong không lên tiếng, dùng ánh mắt khác thường ngắm nghía Trường Canh.
Đôi khi thứ “chân tâm thật ý” này là có tác dụng trong thời gian hạn định, quá hạn không chờ, thí dụ như khi kinh thành bị bao vây, Hoàng đế Long An đầy bầu bi phẫn và áy náy, hận không thể đâm đầu chết ở lăng tiên đế, quyết định truyền ngôi cho Trường Canh là chân tâm thật ý. Hoặc như trước mắt thế cục dần ổn, góc độ hắn nhìn Trường Canh theo thời gian chậm rãi lệch đi, cũng lệch hết sức chân tâm thật ý.
Nhạn vương Lý Mân mới ngoài hai mươi, ở gia đình bình thường, chẳng qua là một mao đầu tiểu tử vừa bắt đầu học cáng đáng việc nhà, mà y trong nửa năm ngắn ngủi một tay làm dịu nguy cục của Đại Lương, lúc này đứng trong Tây noãn các, chi lan ngọc thụ, trầm ổn hữu độ, khiến người ta… đố kỵ không tả được.
Thử nghĩ một cửu ngũ chi tôn, mới đăng cơ vài năm, đã trước sau gặp hai cuộc phản loạn, còn gây ra kỳ văn dị sự “Bắc đại doanh nổi loạn” trò cười lớn nhất thiên hạ này, thậm chí cuối cùng bị gót sắt ngoại tộc chấm mút non sông, dân chúng trôi giạt khắp nơi… Mà hết thảy sau khi đi qua điểm thấp nhất, bắt đầu từ khi Nhạn thân vương vào triều nắm giữ Sở quân cơ đều từ từ tốt hơn – trong lòng Lý Phong sẽ có cảm giác thế nào?
Trăm năm sau sử gia nên đánh giá đoạn lịch sử này như thế nào?
Lý Phong thật sự không muốn biết chút nào.
Quan trọng nhất là, hắn còn trẻ như vậy.
Trong lòng Lý Phong vắt ngang sự phiền muộn, thái độ cũng lãnh đạm theo, không nhẹ không nặng nói: “Trong thiên hạ ở đâu không phải vương thổ, họ đã là con dân Đại Lương, vì nước vì dân, dù táng gia bại sản, chẳng lẽ không phải việc thuộc bổn phận? Muốn trẫm cho lợi ích gì – chẳng thành mua quan bán tước à? Còn ra thể thống gì nữa!”
Trường Canh cực giỏi sát ngôn quan sắc, hơi tiếp xúc với ánh mắt Lý Phong, lập tức biết sự lạnh nhạt không lý do này của Hoàng đế là vì điều gì, tuy trong lòng cười khẩy, trên mặt lại lộ ra vẻ kinh hãi và khó hiểu không giống giả vờ: “Hoàng…”
Lý Phong bực bội ngắt lời: “Được rồi! Việc ngợi khen thương nhân dân gian thâm minh đại nghĩa, lát nữa bảo Hộ bộ và Lễ bộ cùng tìm ra chừng mực, một vừa hai phải là được, không thể vinh sủng quá mức.”
Trường Canh bày ra sắc mặt “rầu rĩ không vui”, một lúc lâu mới “Vâng” một cách không tình nguyện.
Lý Phong nhìn y một cái, đột nhiên như cố ý như vô tình nhắc tới: “Lại bộ Thượng thư Vệ Sơ tuổi tác đã cao, đêm qua vừa vặn trời mưa, sáng nay vội vã vào triều, bất cẩn vấp ngã ngay trong nhà, bị gãy chân, trẫm đã phái Thái y tới khám, xem chừng sợ là không ổn, Vệ gia đã trình bản tấu cáo lão lên trẫm… Cứ như vậy, chức Lại bộ Thượng thư e là phải để trống, A Mân ngươi thống lĩnh Sở quân cơ, có ai để tiến cử không?”
Đây là một câu thử không mấy cao minh, nhưng không cao minh không có nghĩa là không hiệu quả.
Đối với người trời sinh đa nghi như Lý Phong mà nói, vô luận Trường Canh thuận nước đẩy thuyền kéo người phe mình thượng vị, hay đáp quá cẩn thận, đều không phải là điều Lý Phong hi vọng nhìn thấy, cách trước chứng minh y có dã tâm quá lớn, cách sau chứng minh y toan tính quá nhiều.
Trường Canh thoạt đầu sửng sốt, sau đó theo bản năng buột miệng hỏi: “Cái gì? Vệ đại nhân đã xảy ra chuyện?”
Dáng vẻ ấy lại như là thật sự hoàn toàn không hay biết gì.
Buột miệng nói xong câu này, Trường Canh dường như “mới định thần lại”, phát giác mình đáp một nẻo, liền nhíu mày suy tư rất lâu, sứt đầu mẻ trán thở dài nói với Hoàng đế Long An: “Việc này… Hoàng huynh thứ tội, gần đây thần mỗi ngày chạy quanh chút bạc này, thật sự cũng chẳng còn thời gian để ý việc khác, tấu của Lại bộ có thể còn chưa kịp xem. Việc này… Chức Thượng thư rất quan trọng, thần nhất thời cũng chưa nghĩ ra ai…”
Lý Phong hoài nghi y đang thoái thác: “Không sao, ngươi cứ việc nói.”
Trường Canh đưa tay nhấn nhấn ấn đường nhíu lại, dừng một chút, đáp: “Như vậy, chi bằng hoàng huynh công khai khảo bình trong triều, tìm người có tài?”
Lý Phong: “…”
Đáp án này thật sự bất ngờ, Lý Phong giật nảy mình với cách làm khác hẳn lẽ thường của Nhạn vương, cơ hồ bị y dẫn đi, buột miệng hỏi: “Khảo như thế nào?”
“Thí dụ như lý lịch làm quan, có chính tích gì, nhiều năm qua công lao bao nhiêu vân vân, đều có ghi chép lại,” Trường Canh hơi dừng, lại đổi giọng tiếp tục, “Còn có thể thêm tiêu chuẩn như người này có đảm đương, biết đại nghĩa hay không, tỷ như phải chăng từng mua phong hỏa phiếu – nói đến đây, thần đệ lại nhớ ra việc này, để về sau phong hỏa phiếu thi hành được thuận lợi, hoàng huynh có đưa nắm giữ bao nhiêu phong hỏa phiếu vào tiêu chuẩn khảo bình không? Như thế không tính là mua quan bán tước chứ?”
Lý Phong: “…”
Nói cả buổi lại bị tiểu tử này kéo về đây, Lý Phong cảm thấy nếu lúc này nạy cái đầu tuấn tú của Nhạn vương ra, óc bên trong chắc hẳn đều kết thành hình nguyên bảo rồi.
Hoàng đế Long An dở khóc dở cười: “Ngươi… nói chuyện thật vô liêm sỉ!”
Trường Canh lần này lại không thuận thế tiếp tục, thấp giọng cáo tội, mặt mày có chút sầu lo không che được.
Sau dăm ba câu đối thoại râu ông nọ cắm cằm bà kia, nghi ngờ phiền muộn trong lòng Lý Phong trái lại tan quá nửa, cũng nhận ra tâm tư Nhạn thân vương thực sự không ở Lại bộ.
“Vô luận thế nào,” Lý Phong nghĩ, “Hắn cũng coi như đã cúc cung tận tụy.”
Vừa nghĩ thế, thần sắc Lý Phong hơi dịu đi, phất tay bảo Trường Canh: “Thôi, ngươi đi về trước đi, để trẫm nghĩ thêm.”
Trường Canh đáp một tiếng, hành lễ cáo lui, trong lòng biết cửa này xem như đã qua.
Song ngay khi y sắp sửa rời khỏi Tây noãn các, Lý Phong bỗng gọi giật lại.
“Từ từ đã A Mân, còn một việc,” Lý Phong vẻ mặt ôn hòa dùng ngữ khí nói chuyện trong nhà mà bảo, “Hiện giờ ngươi cũng không còn nhỏ nữa, luôn một mình độc lai độc vãng cũng thật khó coi, chung quy nên thành gia lập nghiệp rồi.”
Tim Trường Canh đập thót.
Lý Phong thân thiết nói: “Đích tôn nữ của Phương đại học sĩ tuổi vừa mười bảy, đang chờ trong khuê phòng, ta nghe nói nàng này sớm có hiền danh, cô nương dòng dõi thư hương, giáo dưỡng chắc hẳn cũng tốt, xuất thân cũng không làm nhục ngươi, có thể nói là giai ngẫu. Đại tẩu ngươi nghe chuyện, rất muốn giúp ngươi lo liệu một chút, ta lắm miệng hỏi một câu, nếu ngươi vừa ý, hoàng huynh làm chủ cho ngươi, thấy thế nào?”
Cuộc hôn nhân này chẳng những tốt, còn là quá tốt – đại học sĩ Phương Hồng tuy đã trí sĩ nhiều năm, nhưng cốt cán trong triều có quá nửa muốn bái ông ta làm sư, dưới gối có ba con trai, đều rất có tiền đồ, còn có một vị vừa tiếp nhiệm Hộ bộ Thượng thư, từ thời Nguyên Hòa, thế gia môn phiệt đã ẩn ẩn lấy Phương gia làm đầu.
Nhưng sắc mặt Trường Canh nháy mắt trở nên rất khó coi.
Lý Phong nhướng mày, hỏi: “Sao thế?”
Trường Canh vén vạt áo quỳ xuống, mặt căng thẳng, nhưng không lên tiếng.
Lý Phong ngạc nhiên hỏi: “Ngươi làm gì thế?”
Trường Canh không nói một lời, chỉ im lặng quỳ.
Lý Phong dù thân thiết thế nào cũng là Hoàng đế, thấy y như vậy, sắc mặt cũng xấu đi: “Không ưa thì cứ nói, ngươi đường đường là Thân vương, còn ai có thể bức hôn ngươi hay sao? Trưng cái vẻ đó cho ai coi hả?”
“Thần đệ không muốn,” Trường Canh hành đại lễ, giọng cũng khác đi, “Trưởng tẩu như mẹ, hoàng hậu nương nương có lòng yêu quý bị thần đệ cô phụ, hoàng huynh cứ trị tội thần đi.”
Lý Phong nhíu mày: “Vì sao? Ngươi nghe nói cô nương kia có gì không tốt, hay trong lòng có người khác rồi? Ở đây không có người ngoài, không cần kiêng dè ai, cứ việc nói thẳng đi.”
Trường Canh liếc một vòng Tây noãn các, cố chấp không chịu lên tiếng, vành mắt hơi đỏ.
Lý Phong dĩ nhiên không phải vì tìm một đám tốt cho Nhạn vương, hắn cũng sẽ tuyệt đối không nhìn Phương gia và Nhạn vương thành một nhà, hư tình giả ý nhắc tới, kỳ thực là ban nãy vẫn chưa thử xong, không ngờ sẽ kích khởi cảm xúc mạnh như vậy của Nhạn vương, lập tức sinh ra vài phần tò mò, phất tay kêu nội thị lui ra ngoài điện chờ chỉ.
Trong Tây noãn các chỉ còn lại hai huynh đệ, Lý Phong nói: “Giờ đã nói được chưa?”
Trường Canh thi lễ mọp xuống, không lên tiếng, lại chậm rãi cởi cổ triều phục trước.
Lý Phong giật mình đứng bật dậy: “Đây…”
Trên ngực Nhạn vương trẻ tuổi chi chít những vết sẹo lâu năm, ghê người nhất chính là một chỗ bị phỏng, rất gần cổ họng, một đường nhỏ như là bị que cời lửa quất vậy.
“Xin hoàng huynh thứ cho thần đệ tội thất nghi.” Trường Canh thấp giọng nói, hơi run rẩy không dễ phát hiện.
Lý Phong sau sự kinh hãi lập tức ngộ ra, ngây người một lúc lâu, mới hạ giọng mềm mỏng hỏi: “Là nữ nhân man tộc năm đó sao?”
Trường Canh sắc mặt tái nhợt, chậm rãi gom quần áo lại.
Ngón tay kéo cung ở trên thành một mũi tên bắn chết tặc thủ Đông Doanh run rẩy dữ dội, y hạ mắt thấp giọng nói: “Tuy do lỗi một người mà ghét hết thiên hạ là hành vi của hạng nhu nhược, nhưng…”
Y cắn răng, không tự chủ được dừng lại, vái sát đất: “Phương gia cô nương lan tâm huệ chất, nên có một chỗ dựa suốt đời, thần đệ tính tình cổ quái, thật sự không thích người khác tới gần, hôn sự gì đó… sau này xin hoàng huynh đừng nhắc lại.”
Lý Phong ngạc nhiên: “Nói gì thế, đường đường Thân vương, há có đạo lý cả đời không thành thân?”
Trường Canh mặt không biểu cảm nói: “Vậy không bằng Hoàng thượng cứ lấy lại vương tước của thần, cho thần lang bạt giang hồ với những dã tăng nhân kia đi?”
Lý Phong: “…”
Nhạn vương thoạt nhìn là trời quang trăng sáng, có tri thức hiểu lễ nghĩa, thực tế cũng hay giận dỗi, hơn nữa lên cơn cũng không nổi giận đùng đùng đập bát đập đĩa, chỉ một câu “ta ném gánh không làm nữa, thích tìm ai thì tìm”.
Lý Phong chán nản, chẳng có cách nào với y, lập tức phát hỏa một trận, đuổi Nhạn vương cút đi, Nhạn vương không nói hai lời cút luôn.
Nội thị tinh ý chạy chậm đuổi theo, hấp tấp hỏi: “Vương gia, quay về Sở quân cơ ạ?”
Nhạn vương mươi bữa nửa tháng chưa chắc về nhà một chuyến, cơ hồ ở ngay Sở quân cơ.
Nhưng Trường Canh dừng một chút, ánh mắt hơi mờ mịt rời rạc, đứng ngây ra tại chỗ, nội thị không dám quấy rầy, đành phải đứng bên cạnh không hó hé gì.
“… Không,” Trường Canh thấp giọng nói, “Về nhà.”
Những vết thương xưa cũ trên người Trường Canh, ngay cả Cố Quân cũng chưa từng thấy, y vẫn cho rằng đó sẽ như một đoạn tháng năm không thể chạm vào, nhưng không ngờ giờ này ngày này, lại thành công cụ để y kéo dài với Lý Phong.
Xe ngựa lộc cộc đi qua con đường đá rộng lớn trống trải chốn kinh thành, Trường Canh nhắm mắt nghỉ ngơi đột nhiên mở mắt ra.
Có một ngày những điều này đều sẽ trở nên không thể vãn hồi.
Có một ngày y sẽ không từ thủ đoạn hơn cả hiện giờ.
Thế nhưng y luôn cảm thấy trong lòng mình không hề khó chịu, bởi vì mỗi một bước đều do y tự mình đi, đã sớm nghĩ kỹ rồi, không có gì để hối hận cả.
Đi một mạch về phủ An Định hầu vắng tanh, y không kinh động đến ai, chẳng ăn cái gì, đi thẳng tới gian phòng ngủ vô cùng sạch sẽ đơn giản của Cố Quân mà nằm xuống, nhắm mắt lại, giống như trên chăn cũng còn mùi thuốc thoang thoảng.
Hơn nửa tháng sau, sau vô số cãi vã tranh luận trên triều đường, Hoàng đế Long An cuối cùng bác bỏ đề nghị hoang đường của Nhạn vương về việc “bách tính mua phong hỏa phiếu theo kim ngạch lớn nhỏ mà gia quan tiến tước”, chỉ hứa hẹn với thương hội, tương lai chờ thế cục ổn định, sẽ mở thương lộ do quân đội hộ vệ, để họ khỏi bị đạo tặc phỉ đồ quấy nhiễu, lúc này người từng mua phong hỏa phiếu có thể trực tiếp bằng phiếu này đạt được tư cách nhập hội, không cần nộp bất cứ phí dụng gì.
Lại hơn một tháng nữa, một pháp lệnh chấn kinh triều dã được thực thi từ trên xuống dưới – coi phong hỏa phiếu là chỉ tiêu trọng yếu trong việc khảo hạch văn thần lại trị.
Một lưỡi đao lúc này mọi người đều chưa nhìn thấy, chậm rãi lộ ra hình dáng.
Pháp lệnh này vừa ban ra, thế gian đều giật mình – triều đình Đại Lương không hề bạc đãi quan lại, bổng lộc không thấp, nhưng qua lại xã giao trên quan trường, tiêu tốn cũng nhiều, đặc biệt vào thời tiên đế Nguyên Hòa, quốc lực dưới sự khuếch trương thiết huyết của Vũ Hoàng đế từng có vài năm cường thịnh hơn bao giờ hết, xa mỹ phô trương đã loáng thoáng có vẻ thành phong trào, lúc này lại cổ vũ quan viên vì tiền đồ mà mua phong hỏa phiếu, dựa vào bổng lộc quốc gia thì được mấy đồng?
Tương lai há chẳng phải là cổ vũ tham ô lừa đảo?
Chẳng qua mấy hôm, biên cương cũng nghe thấy phong thanh.
“Tử Hi!” Thẩm Dịch ném dây cương cho thân binh, xông thẳng vào soái trướng, đang định nói chuyện, lại thấy Cố Quân đeo kính lưu ly bạch kim trên mũi, liền biết y lại không uống thuốc, đành phải nuốt đoạn sau vào – gần đây không biết Cố Quân bị làm sao, mà chỉ cần không gặp người ngoài, thì ngày càng không chịu uống thuốc, giống như định làm một kẻ mắt mù tai điếc cõi lòng bình thản vậy.
Thẩm Dịch vừa giơ tay lên.
Cố Quân liền nói: “Không cần, ngươi cứ nói đi, ta cũng muốn luyện thần ngữ.”
Thẩm Dịch thở dài: “… Có nghe chuyện cải cách lại trị chưa?”
Cố Quân biết đọc thần ngữ, song mấy năm nay vẫn ỷ lại dược vật, người bên cạnh lại đều vì quan tâm y mà dùng thủ ngữ, khiến y không thạo lắm, cần từ từ quen dần, phải mất một lúc y mới hiểu Thẩm Dịch đang chỉ chuyện gì, từ từ nhíu mày, chậm rãi gật đầu.
“Nhạn vương điện hạ rốt cuộc muốn làm gì? Làm thế không sợ sau này người ta nói y là hạng tham quan nịnh thần à? Cho dù có thể giải mối nguy nhất thời, về sau làm thế nào? Danh môn vọng tộc có của cải thì thôi, hàn môn sĩ tử thiên hạ không chọc nát cột sống y sao? Ngươi nói y độc chưởng Sở quân cơ, vốn đã cây to đón gió dễ bị đố kỵ, ta thật là…”
Thẩm Dịch rất đỗi sầu lo, vừa sầu lo thì mồm mép thành gà con mổ gạo, nói liến thoắng, làm Cố Quân hoa cả mắt – quá nửa không “nghe” hiểu, song câu cuối cùng thì hiểu.
Thẩm Dịch: “Tương lai y định kết thúc như thế nào?”
Cố Quân trầm mặc.
Thẩm Dịch: “Tử Hi, nói gì đi chứ!”
“Không thể đánh nữa.” Cố Quân hỏi một đằng đáp một nẻo.
Thẩm Dịch: “…”
Y nặng nề thở dài một hơi, hoài nghi Cố Quân vừa rồi căn bản không “nghe” thấy y lải nhải những gì, nghĩ bụng: “Luyện thần ngữ, luyện cái rắm, luyện da miệng ta thì có.”
Thẩm Dịch đang định đổi cách nói chuyện, Cố Quân đã tiếp tục: “Lúc trước ta có phần quá nôn nóng tiến bừa, bị người ta nổ một phát cũng là đáng đời, may mà bên này hữu kinh vô hiểm; song mấy hôm nay ta suy nghĩ rất nhiều… Gia Lai Huỳnh Hoặc không phải đám bỏ đi phía Tây, bên ấy chỉ sợ phải đánh mấy trận ác liệt, chúng ta hiện tại chỉ sợ không có của cải để một tiếng trống làm tinh thần hăng hái thêm – cần bàn bạc kỹ hơn.”
Thẩm Dịch sửng sốt: “Ngươi định…”
“Bên phía ta liên lụy triều đình quay mòng mòng,” Cố Quân thấp giọng nói, “Nên nghỉ ngơi dưỡng sức rồi.”
|
Chương 77: Ác mộng
Đầu hạ năm Long An thứ tám, chư quốc Tây Vực thật sự chống cự không nổi, túm tụm tàn binh, mở biên giới, liên danh dâng tấu thỉnh tội đầu hàng lên mẫu quốc.
Ở lối vào con đường tơ lụa, chư quốc Tây Vực lần thứ hai cùng đại biểu Đại Lương ngồi vào bàn, bị ép nghị hòa.
Với bại tướng, Cố Quân căn bản lười ra mặt, chỉ phái Thẩm Dịch toàn quyền đại diện.
Thẩm Dịch đến mang theo yêu cầu hà khắc của Đại Lương – trước tiên phải đòi một khoản vàng bạc khổng lồ, tiếp đó phải xây Sở trú binh Đại Lương ở Tây Vực các quốc, giám sát nước phụ thuộc, từ đây về sau, ngoại trừ Lâu Lan là minh hữu, các nước phụ thuộc còn lại đều không được có một món hỏa cơ cương giáp, kể cả khinh cừu, tiêu hủy toàn bộ, cuối cùng, Đại Lương yêu cầu, nước phụ thuộc cần tiến cống hơn bảy phần tử lưu kim khai thác mỗi năm cho Đại Lương.
Khoản này chính Thẩm Dịch đọc một lần cũng cảm thấy đau răng, quả thực là cạo xương ba phân, đại biểu chư quốc lập tức cũng kêu cha gọi mẹ um sùm.
Lần đầu đàm phán không thành, hôm sau Cố Quân liền dẫn ba trăm trọng giáp nửa đêm tập kích doanh tàn binh Tây Vực đã đầu hàng, trên trời dưới đất đỏ bừng, để thay họ hoàn thành nội dung chủ yếu của điều thứ hai trong hiệp ước, cũng công nhiên tuyên bố, hai điều khác không đồng ý không sao, y lập tức dẫn người đồ thành.
Việc đồ thành ảnh hưởng thiên hòa, bình thường chỉ có Bắc man mới làm như vậy, trong quân Đại Lương rất ít có thói quen này, nhưng người Tây Vực lo lắng Cố Quân căm hận mối thù vụ nổ, hoài nghi chuyện gì y cũng làm được, mới đầu còn gắng gượng, chờ tới khi Cố Quân ra lệnh đập mở cổng thành, đại biểu liên quân trên bàn đàm phán rốt cuộc hoảng sợ.
Sau nhiều lần cò kè mặc cả không kết quả, ba ngày sau, “Lâu Lan tân ước” được ký kết, dưới sự uy hiếp của Cố Quân trọng binh, các quốc gia lập tức thanh tiễu chiến bị trong nước bằng tốc độ nhanh nhất, sau đó lại không ngừng kêu khổ mà gom góp ra tử lưu kim khai thác trong một năm còn chưa kịp dùng.
Cuối tháng Năm, Cố Quân và Thẩm Dịch từ Tây Vực bí mật áp tải tử lưu kim về kinh.
Một trận mưa to gột sạch đầu đường cuối ngõ kinh thành, hoa hòe li ti rụng đầy phố.
Phong thanh việc cải cách lại trị bị mưa to làm giảm nhỏ, loạn cục mọi người nghĩ rằng sẽ đến như kỳ tích không hề xuất hiện.
Đầu tiên thế gia môn phiệt đều không ngu, cho dù bất mãn với việc Nhạn vương nghĩ cách moi bạc từ túi mình, trong lòng cũng hiểu, so với mình thì đám hàn lâm nghèo xuất thân khoa cử vét hết người chẳng được mấy lượng bạc đó mới là hận chính sách này nhất, không đáng làm chim đầu đàn thay người ta, cho nên thoạt tiên, nhóm người này trốn hết đi chuẩn bị xem trò cười.
Không ngờ việc này cũng thực tà môn, ngoại trừ mấy lão nho nghèo hồ đồ đứng ra nói vài câu “thể thống” với không “thể thống” vớ vẩn, trong triều ngay đến bọt nước cũng chưa bắn lên.
Trường Canh trước tiên dâng tấu lên Hoàng đế, trình suy nghĩ lâu dài hơn với phong hỏa phiếu cho Lý Phong, đầu đuôi viết rõ ràng, giấu giếm phóng đại có kỹ xảo, cuối cùng vẽ ra một cái bánh to – giả như theo thời gian, phong hỏa phiếu phổ biến từ trên xuống dưới, có thể thu hết vàng bạc dân gian thiên hạ về quốc khố, dân gian mua bán toàn bằng phiếu, định mức phiếu bao nhiêu thì do triều đình xem xét quyết định, sẽ không còn xuất hiện cục diện vàng bạc dân gian tích bụi, khi quốc gia nguy nan quốc khố không có tiền dùng.
Lý Phong lúc trước cảm thấy Nhạn vương có một số ý nghĩ quá ly kinh phản đạo, không ra thể thống gì, lúc này mới phát hiện, không phải tên này không ra thể thống gì, mà quả thực là muốn giẫm hai chữ “thể thống” dưới chân.
Ngày xưa có Thủy Hoàng đế thu binh khí thiên hạ để đúc tượng đồng, ngày nay liền xuất hiện một Nhạn thân vương hạn chế nhân tài thiên hạ.
Thế nhưng ý tưởng này thật sự quá mê người, Lý Phong sau khi hiểu qua về khái niệm “dùng mấy tờ giấy mua bán thay vàng bạc”, một mặt trong lòng mơ hồ bất an, một mặt lại thật sự không cách nào kháng cự sức hấp dẫn của nó, giữ bản tấu lại ba ngày. Sau nhiều lần cân nhắc, rốt cuộc hắn vẫn nghĩa vô phản cố ăn cái bánh này, ra lệnh cho Trường Canh bắt tay vào lo liệu, nhưng liên tục cảnh cáo, thủ đoạn không thể quá mạnh, đặc biệt là với những nhân tài lứa mới xuất thân hàn môn, phải “từ từ mà làm”.
Hoàng đế Lý Phong không biết là, từ lúc Nhạn vương dâng tấu yêu cầu sửa lại trị, người giàu nhất Giang Nam cùng cự cổ các nơi mười ba người vào kinh, mời khách trong tửu lâu nhỏ năm đó Lâm Uyên mộc bài chọn chủ.
Tửu lâu nhỏ vốn đổ nát, chẳng ai biết đến, mấy năm trước bị hào quang của Khởi Diên lâu che lấp, như đom đóm dưới ánh trăng, mắt không tốt căn bản tìm không ra, lần này lại vô cùng may mắn còn tồn tại trong kinh thành khắp chốn hoang tàn, đầu năm lại nghỉ ngơi một phen, chính thức mở cửa đón khách lần nữa. Trên tiểu lâu hai tầng ban đầu cất thêm hai tầng, gạch nát ngói vụn dọn dẹp rất sạch sẽ, thay tên “Vọng Nam lâu”, tự dưng gợi lên nỗi bi ai khi nửa giang sơn rơi vào tay giặc, cực kỳ hợp cảnh – ít ai biết, tửu lâu vốn ngắc ngoải này chính là sản nghiệp của Đỗ Vạn Toàn.
Khi song phương lần đầu hiệp đàm từng hết sức không thuận, người đọc sách tự giữ thanh quý, lại đều chìm nổi nhiều năm chốn quan trường, quả thật không muốn tiếp xúc với những kẻ toàn mùi tiền này, phần lớn là tới xã giao cho có thôi.
Ai ngờ tiếp xúc rồi mới biết Đỗ Vạn Toàn này không đơn giản.
Đỗ Vạn Toàn từng tự mình dong thuyền về Tây Dương, thấy qua cảnh đời chân chính, tính tình cách nói năng, suy nghĩ trong lòng đều một trời một vực với thương nhân bình thường, cái lưỡi không xương có thể nói người chết thành sống, lại thêm Giang Sung bình tĩnh hòa giải, nhanh chóng có rất nhiều người tâm tư dao động.
Và khi pháp lệnh cải cách lại trị âm thầm thấm vào các nơi, đám người Đỗ Vạn Toàn lại thuê một gian phòng lớn nhất Vọng Nam lâu, lần thứ hai mở tiệc chiêu đãi trọng thần trong triều lấy Giang Sung làm đầu gồm tám người.
Tất cả đều là ở trong triều không chỗ dựa dẫm, khoa cử làm quan, tay trắng dựng nghiệp.
Mật đàm lần này giằng co hơn bốn canh giờ, cho đến khi trăng treo đầu cành, thủ tọa Giang Sung mới nâng chén kết cuộc.
Giang Sung nghiêm nghị đứng dậy, nhìn xung quanh, không ít người ly qua chén lại đã ngà ngà say.
“Hôm nay cơm no rượu say, mọi người cũng đều mệt rồi, ta không làm mất hứng, cầm một chén, chúng ta uống nốt rồi giải tán.” Giang Sung nói, “Chỉ cần trận này chúng ta còn phải đánh tiếp, thúc đẩy phong hỏa phiếu là thế phải làm, chư công một lòng vì nước…”
Giang Sung nói đến đây tự dưng dừng lại, đều ở trong một nụ cười, im lặng uống một hơi cạn rượu trong chén.
Một lòng vì nước, cũng xin nghĩ cho đường ra của mình.
Cự cổ nhiều năm hoàn toàn không thể xen miệng vào thời cuộc triều chính, bức thiết hi vọng có người phát ngôn của mình, tương phùng đám văn quan thanh liêm không quyền không thế, lưỡng tụ thanh phong, chính thức kết minh.
Sau khi lần lượt tiễn hết văn quan thương nhân, Đỗ Vạn Toàn một mình về Vọng Nam lâu, đi thẳng tới phòng sát vách gian ban nãy, bên trong đó không một tôi tớ, đèn cũng chẳng đốt, chỉ có một ngọn đèn măng-sông tù mù treo trên đầu, trên bàn có hai lạng rượu vàng, một bát cháo trắng và một đĩa thức nhắm, cháo húp nửa bát, còn ba phần, thức nhắm chỉ động đũa qua, mà người cạnh bàn đã bỏ đũa.
Đỗ Vạn Toàn không còn sự khéo léo ban nãy, kính cẩn tiến lên chào: “Nhạn vương gia.”
Trường Canh khách khí gật đầu: “Đỗ công.”
Đỗ Vạn Toàn nhìn qua cháo loãng và thức ăn trên bàn, vội nói: “Vương gia thường ngày tiết kiệm, thật làm mọi người cảm phục, nhưng mà Vọng Nam lâu này là sản nghiệp của chính chúng ta, sao ngài không gọi vài món ngon miệng? Sắp vào hạ rồi, để ta bảo họ chuẩn bị ít thanh tâm dưỡng sinh…”
“Không cần, ta ăn món này là được rồi,” Trường Canh khoát tay, nói, “Việc hôm nay toàn bộ nhờ Đỗ công, làm phiền ngài rồi.”
Đỗ Vạn Toàn vội luôn miệng nói không dám, thấy y đứng dậy muốn đi, ân cần cầm chiếc ô bên cạnh lên: “Hậu viện đã chuẩn bị xe, mời Vương gia đi bên này.”
Ban đầu khi Liễu Nhiên hòa thượng triệu tập Lâm Uyên mộc bài, người không cam tâm không tình nguyện nhất chắc chắn là Đỗ Vạn Toàn – năm xưa hắn làm giàu quả thật dựa vào lực lượng dân gian của Lâm Uyên các không ít. Song trong việc gầy dựng gia nghiệp này, Đỗ Vạn Toàn không thể thừa nhận có bao nhiêu trợ lực của Lâm Uyên các, lúc này muốn hắn vì một người chưa bao giờ tiếp xúc mà dốc hết tâm huyết suốt đời, chẳng ai chịu làm vậy.
Nhưng sau hơn nửa năm tiếp xúc với Nhạn vương, trước mắt muốn đi theo làm tùy tùng cho Nhạn vương nhất lại cũng là Đỗ Vạn Toàn.
Đỗ tài thần nhiều năm qua vào nam ra bắc, kiến thức lịch duyệt đều cao hơn người ta, mơ hồ cảm thấy Trường Canh quả thật đang cứu quốc gia khỏi nguy nan, nhưng càng nhiều hơn là đang trải cái gì. Đỗ Vạn Toàn có cảm giác hưng phấn khó tả – con đường mưa gió bấp bênh của Đại Lương từ Vũ đế mà hưng, Nguyên Hòa đế mà thịnh cực chuyển suy, Long An đế mà cùng đồ mạt lộ – trước mắt quả thật đã đến một bước ngoặt thời đại mới.
Hắn lại chỉ dựa vào một tấm mộc bài mà lên được con thuyền lớn này.
Trường Canh vừa đi tới cửa, bỗng nhiên vô tình sờ hông mình, liền dừng bước.
Đỗ Vạn Toàn tinh mắt liếc thấy, vội hỏi: “Vương gia đang tìm cái gì thế?”
“Không có gì,” Trường Canh dừng một chút, tựa hồ hơi lơ đãng nói, “Hương dùng hết rồi.”
Mấy ngày nay y phải chú ý mọi mặt, an thần tán dùng quá nhanh, nhất thời vẫn chưa có thời gian phối, Trường Canh thở dài, cười nói với Đỗ Vạn Toàn: “Không sao, Đỗ công dừng bước, không cần tiễn – hãy chuyển cáo Phụng Hàm công, chuyện ông ấy vẫn mong mãi, sẽ có ngày được thực hiện.”
Tửu lượng y không tốt – nhưng có thân phận Thân vương ở đó, bình thường bất kể trường hợp nào, chẳng tên ngốc nào cả gan đến chuốc y, mặc dù do trời sinh tự kiềm chế, Trường Canh chưa từng uống say mèm, song suy đoán từ khả năng hai ba chén liền đau đầu, có thể tửu lượng y quả thật không được cao.
Bình thường Trường Canh cơ bản một giọt rượu cũng không uống, chỉ là hôm nay nghe lén hơn bốn canh giờ liền thật sự quá mệt mỏi, mới kêu người ta mang hai lạng rượu lên kích thích một chút. Ai ngờ chút men này chẳng những không trợ miên, đêm về còn khiến y khó ngủ.
Trường Canh trằn trọc trên giường rất lâu, sắp đến canh bốn mới mơ màng một lúc. Trong khi nửa ngủ nửa tỉnh dường như nghe thấy có người vào cửa, y cựa mình tỉnh dậy, giơ tay vặn ngọn đèn măng-sông nhỏ treo ở đầu giường, kết quả chẳng biết do kinh thành mưa nhiều ẩm ướt, hay phòng này nhiều ngày không ai ở, đèn chỉ lóe lên rồi lại tắt phụt.
Người tới quen thuộc ngồi trên cái sập nhỏ bên kia, cười nói: “Ngươi nằm trên giường ta làm gì thế?”
Trường Canh giật mình, mắt đã quen với bóng tối, nhờ chút ánh sáng le lói nhìn thấy vậy mà là Cố Quân về, vội hỏi: “Không phải nói còn hai ngày mới đến kinh thành à, sao về nhanh vậy?”
Cố Quân không chút để ý mà vươn vai, lưng dựa bên cạnh: “Nhớ ngươi, ta một mình ra roi thúc ngựa chạy về trước.”
Lần trước từ biệt còn là cuối năm, chớp mắt đông qua xuân đến, hiện giờ đã vào hạ, nửa năm rồi không gặp nhau, mặc dù Cố Quân thường xuyên kẹp trộm “hàng lậu” trong chiến báo, cách một thời gian lại gửi thư về, nhưng làm sao so được với người thật trước mắt?
Trường Canh nhớ y vô cùng, lập tức muốn lao tới ôm y.
Cố Quân lại ngửa ra sau, nhẹ nhàng né tránh, thân như tờ giấy, hạ xuống trước cửa sổ, bên ngoài mưa đã tạnh, ánh trăng lặng lẽ từ trên vũng nước uốn lượn hắt vào phòng, Cố Quân đứng khuất sáng, Trường Canh nhìn thấy y mặc khinh cừu giáp vạn năm không cởi.
“Làm gì vừa gặp mặt đã động tay động chân?” Cố Quân nói, “Ta chỉ đến thăm ngươi thôi.”
Trường Canh nghe nửa câu đầu đang dở khóc dở cười, bụng nghĩ y trái lại ác nhân cáo trạng trước, cũng không biết ai thích động tay động chân hơn. Cho đến khi nghe nửa câu sau, nụ cười chợt tắt ngấm, mơ hồ cảm thấy hơi khác thường: “Tử Hi, ngươi sao thế?”
Cố Quân không lên tiếng, chỉ nhìn y.
Hai người một ngồi một đứng, nhìn nhau hồi lâu không nói gì, lại như là quyết biệt vậy.
Tim Trường Canh tự dưng đập như điên, khiến ngực y cơ hồ chẳng chứa được thứ gì khác, thở cũng không nổi. Y không nhịn được nữa, trở dậy đi đến chỗ Cố Quân, từ giường đến cửa sổ, chẳng qua bốn năm bước, mà y phảng phất không sao đi hết nổi.
Y đi tới một chút, Cố Quân liền muốn lui một chút.
Trường Canh chẳng ngó ngàng gì mà quay người chụp cây đèn măng-sông treo ở đầu giường, vặn điên cuồng, đèn phát ra vài tiếng nổ, đột nhiên sáng choang, trong phòng sáng rực, Trường Canh không để ý ngọn đèn chói mắt, hoảng loạn quay sang Cố Quân, lại thấy người đứng ở bên cửa sổ mặt trắng như tờ giấy, xám ngoét không giống người sống, hai dòng máu xuôi khóe môi và nốt ruồi chu sa nơi khóe mắt chảy xuống.
Đèn măng-sông “Phụt” một tiếng lại tắt ngấm.
Cố Quân khẽ thở dài: “Ta không thể ra sáng, ngươi đốt nó làm gì… Trường Canh, ta đi đây.”
“Không thể ra sáng” là ý gì? Trường Canh suýt nữa đương trường phát điên, bất chấp tất cả mà lao tới, liều mạng chộp lấy, lại chỉ nắm được huyền giáp lạnh thấu xương.
Trường Canh thét lên: “Ngươi đứng lại, ngươi muốn đi đâu! Cố Tử Hi!”
“Đi nơi nên đi.” Trong giọng nói của Cố Quân có chút lạnh lùng, “Ngươi hiện giờ vây cánh đã đủ, lừa được Lâm Uyên các, cướp được giang sơn Lý gia, thiên hạ phong vân tế hội đều nằm trong tay, thủ đoạn cao cỡ nào? Lý Phong không phải chết trên tay ngươi à? Ta ở lâu cũng vô ích, đặc biệt đến cáo từ.”
Trường Canh hoảng loạn nói: “Không, chờ đã, ta không có…”
Y theo trực giác muốn phản bác mình không có làm, nhưng ra đến môi lại chẳng nói nên lời, trong lòng hồ đồ, cảm thấy chuyện Cố Quân nói hình như quả thật là do mình làm.
Cố Quân lạnh lùng nói: “Ta được tiên đế ủy thác, đón ngươi từ Nhạn Hồi tiểu trấn về, chăm sóc tới tận khi ngươi thành nhân, mong ngươi cho dù không phải rường cột kinh thiên vĩ địa, ít nhất là một người tốt nhân phẩm đàng hoàng, tấm lòng rộng mở, nhưng ngươi đã làm gì?”
Đêm đầu hạ, Trường Canh đột nhiên cảm thấy lạnh hơn bao giờ hết.
“Ta theo ý chỉ của tiên đế trông nom đến khi ngươi trưởng thành, nhưng không ngờ lại nuôi ra một con sói Trung Sơn(1).” Cố Quân khẽ thở dài một hơi, “Đại Lương từ Thái Tổ khai quốc đến nay, đã hai trăm năm rồi, vốn tưởng rằng có thể ngàn thu muôn đời, ai ngờ ngọc tỷ truyền quốc hủy trên tay lứa chúng ta…”
Trường Canh muốn túm chặt lấy y, hoặc là gào khóc một phen, song cả người như bị ghim tại chỗ, chỉ có thể đờ đẫn nhìn Cố Quân nhẹ nhàng quay lưng đi, bỏ lại một câu: “Cố mỗ xuống cửu tuyền thỉnh tội, không cần gặp lại.”
Sau đó y lại xuyên qua tường, tan biến vào hư không, cửa sổ mở rộng trống vắng, Trường Canh nhất thời ngũ tạng bốc cháy, quát to một tiếng choàng tỉnh dậy, tim đập như sấm, mất một lúc mới định thần lại, chậm rãi thở ra một hơi tích tụ trong ***g ngực, muộn màng nhận ra – đó chỉ là một cơn ác mộng như thật.
Không biết là do uống rượu hay do cái gì, đầu y đau thắt từng cơn, tứ chi mỏi nhừ, ngủ một đêm còn mệt hơn không ngủ.
Trường Canh âm thầm tự bình tĩnh giây lát, đang định dậy uống ngụm nước, lại nhắm mắt nghỉ ngơi một hồi, ai ngờ vừa nhổm dậy, bất ngờ nhìn thấy trên chiếc ghế bên cửa sổ có một bóng đen, người ấy hít thở cực nhẹ nhàng chậm rãi, hiển nhiên là một cao thủ, đến mức Trường Canh vừa rồi do trống ngực, nhất thời lại không phát hiện ra.
Y quát lên theo bản năng: “Ai?”
Người nọ khẽ cười nói: “Ngươi nằm trên giường ta làm gì thế?”
Không còn gì đáng sợ hơn điều này, Trường Canh vốn còn chưa hoàn hồn thoát khỏi cơn ác mộng, lập tức khuỷu tay mềm nhũn, trực tiếp ngã lại xuống giường, cái giường cũ rích của Cố Quân từ ván giường đến gối không đâu không cứng, đụng một phát nào phải chuyện đùa, Nhạn thân vương kỹ càng bình tĩnh suýt nữa bị một cái gối đập ngất xỉu.
Cố Quân giật nảy mình, vội nhảy đến bên giường đỡ Trường Canh dậy.
Y bỏ Thẩm Dịch và đám thân binh lại sau lưng, tự mình chạy về sớm hai ngày, vốn định nghỉ ngơi một đêm sáng mai đi dọa Trường Canh giật nảy mình, ai ngờ vừa vào cửa liền phát hiện giường bị ai đó chiếm mất. Từ chỗ Trần cô nương, y biết Trường Canh ngủ không ngon, vốn đã khó ngủ, ngủ rồi cũng rất dễ bị kinh động, liền không nỡ đánh thức.
“Đụng trúng đâu? Ôi, để ta xem nào,” Cố Quân mù tịt, nói, “Hành vi cưu chiếm thước sào của ngươi tuy thật quá đáng, nhưng ta còn chưa nói gì mà, làm gì mà như gặp ma thế… khai mau, làm chuyện tốt gì sau lưng ta rồi?”
Trường Canh run rẩy túm tay y, lần này bắt được là nhiệt độ cơ thể người ấm áp, chút hơi ấm này mới giúp y đỡ hơn.
Cố Quân phát hiện cảm xúc của Trường Canh hơi bất ổn, muốn tán dóc vài câu làm dịu bầu không khí, thế là nói: “Sao không hỏi ta vì sao vội vàng về sớm hai ngày?”
Trường Canh lập tức biến sắc.
Cố Quân miệng quạ đen tiếp tục: “Nhớ ngươi, ta một mình ra roi thúc ngựa…”
Trường Canh quát to: “Đừng nói nữa!”
Giọng y thật sự quá thảm thiết, Cố Quân khựng lại, lập tức dè dặt hỏi: “Trường Canh, sao vậy?”
Vừa nói, y vừa thuận tay mò tìm cây đèn măng-sông ở đầu giường.
Nhưng chỉ vừa vặn nhẹ, đèn kia bập bùng một chút, sau đó “Phụt” một tiếng rồi không còn động tĩnh, ấy vậy mà đã hỏng.
Trong chớp mắt, hiện thực và ác mộng chồng lên nhau bằng một sự trùng hợp khó tin, Trường Canh khàn khàn và thấp giọng kêu một tiếng thảm thương, đau nhức âm ỉ ở tứ chi như thủy triều ùa vào lòng, hóa thành mười vạn tám ngàn loại ảo giác đáng sợ, ngoác cái miệng dữ tợn, một hơi nuốt trộng y.
—
Thời Xuân Thu, Tấn quốc đại phu Triệu Giản Tử đi săn ở Trung Sơn, đuổi theo một con sói. Sói chạy trốn gặp Đông Quách tiên sinh đi ngang qua liền nói: “Tiên sinh có thể cho mượn túi để tôi trốn một lúc, tránh tai họa này không, tôi sẽ báo đáp đại ân của ngài.” Đông Quách tiên sinh thương tình giúp nó, trốn được Triệu Giản Tử, sau khi an toàn nó lại lao tới muốn ăn thịt ân nhân.
|
Chương 78: Âu lo
Kỳ thực Cố Quân từng thấy Ô Nhĩ Cốt phát tác, chỉ là khi đó y còn chưa hay biết gì, vừa vặn Trường Canh cũng không bị nghiêm trọng lắm, liền nhầm là tẩu hỏa nhập ma, vẫn chưa bao giờ gặp tình cảnh này.
Trường Canh cuộn tròn người lại, cơ toàn thân căng lên cứng như sắt, không bao lâu liền run rẩy dữ dội, giống như chịu đựng đau đớn tột cùng, hơn nữa sức mạnh kinh người, Cố Quân vậy mà tuột tay không đè được y.
Trường Canh vùng thoát khỏi tay Cố Quân, mười ngón như ưng trảo, tự cào cấu mình, Cố Quân dĩ nhiên không thể nhìn y tự hại mình, dùng tay ngăn tay y, quát khẽ: “Trường Canh!”
Tiếng Cố Quân tựa hồ mang đến cho Trường Canh một chút tỉnh táo, song cũng chỉ làm y tạm dừng chốc lát mà thôi.
Cây đèn măng-sông treo ở đầu giường bị hỏng ngay thời khắc mấu chốt sau khi kêu “cót két” rốt cuộc lại chậm rãi sáng lên, ánh sáng mờ nhạt mà bất ổn, chợt sáng chợt tối chiếu rọi đôi mắt như máu của Trường Canh.
Cố Quân giật nảy mình – chỉ thấy sắc mặt và môi Trường Canh đều trắng bệch, giống như huyết sắc toàn thân đều bị nhốt vào đôi mắt ấy, mà trong đôi mắt vốn bình thường lại mơ hồ hiện ra trùng đồng. (Trùng đồng tức mắt có hai đồng tử)
Thật giống một pho tượng tà thần trong truyền thuyết.
Lúc nghe từ miệng Trần cô nương về “Ô Nhĩ Cốt”, Cố Quân chỉ cảm thấy đau lòng, một số chỗ không thể tưởng tượng kỳ thực cũng không tin lắm, tận đến lúc này, một cơn ớn lạnh mới từ từ bò lên cột sống, đôi mắt vô bi vô hỉ, huyết khí cuồn cuộn của Trường Canh lại khiến tướng quân thân kinh bách chiến này đột nhiên lạnh hết cả người.
Hai người nhìn nhau, Cố Quân đột nhiên có ảo giác như đụng trúng dã thú ngoài đồng hoang. Y nhất thời không dám dời tầm mắt, chậm rãi xòe bàn tay trống không, thử giơ tới Trường Canh, Trường Canh không tránh, thậm chí chớp mắt bàn tay ấm áp ấy dán lên má còn hơi cúi đầu, thần sắc hờ hững cọ tay Cố Quân.
Cố Quân kinh hồn táng đảm hỏi nhỏ: “Còn biết ta là ai không?”
Trường Canh hạ hàng mi dày hơn người Trung Nguyên, gọi khẽ một tiếng: “… Tử Hi.”
Còn nhận ra người quen thì tốt rồi. Cố Quân không lưu ý sự khác thường trong giọng nói ấy, thở phào nhẹ nhõm, nhưng y yên tâm quá sớm, không đợi y thở phào xong, đột nhiên Trường Canh bất ngờ giơ một tay muốn bóp cổ y: “Không cho ngươi đi!”
Cố Quân: “…”
Yết hầu là yếu hại của cơ thể, Cố Quân ngửa ra sau theo bản năng, đè lên bàn tay lạnh lẽo ấy, Trường Canh thuận thế nắm cổ tay đối phương mà vặn mạnh, Cố Quân đành phải búng vào gân tê ở khuỷu tay y, trong không gian cực hẹp, hai người giao thủ mấy chiêu, kẻ điên kia vốn võ nghệ cao cường, lúc này sức mạnh vô cùng như có tà thần phụ thể, làm ẩu làm càn, Cố Quân lại sợ ném chuột vỡ đồ, sợ không cẩn thận làm y bị thương, toát hết mồ hôi hột, hổn hển mắng: “Con mẹ nó ta vừa mới trở về, chạy đi đâu hả?”
Trường Canh phút chốc khựng lại, tay Cố Quân ở cạnh gáy y theo đó dừng lại, mu bàn tay vỗ nhẹ cằm y: “Tỉnh lại!”
Có thể là cái vỗ nhẹ này không đủ sức, chẳng những không đánh thức người, Trường Canh bỗng nheo đôi mắt như nhỏ máu, như một chú báo con bị chọc giận, quay đầu lại cắn tay Cố Quân một phát.
Cố Quân: “…”
Sớm biết vậy đã tát cho một phát rồi!
Cố Quân hét khẽ một tiếng, khóe mắt giật mạnh. Y đời này từng bị chém, bị nổ, nhưng bị người ta hận không thể ăn sống nuốt tươi mà cắn một phát thì vẫn là lần đầu tiên, thật muốn vung tay vả rụng mấy cái răng của tên điên đó cho rồi.
Song tay y khựng lại đó rất lâu, cuối cùng vẫn không hạ thủ được. Giây lát sau, Cố Quân chậm rãi thả lỏng cơ trên tay, bóp nhẹ gáy Trường Canh, vừa rùng mình vừa thấp giọng nói: “Lột da rút gân ăn thịt – hai ta thù sâu cỡ nào, ngươi hận ta đến vậy sao?”
Câu này không biết đụng trúng dây thần kinh nào của Trường Canh, y khẽ chớp mắt, sau đó hai hàng lệ chợt rơi xuống.
Trường Canh cũng chẳng lên tiếng, chỉ vừa ngậm tay Cố Quân, vừa im lặng rơi lệ, những giọt lệ ấy tựa hồ hòa tan huyết quang đáng sợ trong mắt y, rất lâu, khớp hàm Trường Canh vậy mà hơi lỏng ra, Cố Quân thử rút cánh tay đầm đìa máu tươi của mình, nhìn thoáng qua, thấp giọng mắng: “Đồ khốn cầm tinh con chó!”
Nhưng mắng thì mắng, y vẫn kéo người ta vào lòng, dùng tay lau dòng lệ nơi khóe mắt Trường Canh, vỗ về nhè nhẹ tấm lưng ấy.
Trường Canh nằm trên ngực y, qua non nửa canh giờ nữa, mới từ từ khôi phục thần trí, thoát khỏi sự hỗn độn một cách khó khăn, cả người như vừa thức tỉnh khỏi một giấc mộng dài, mù mờ một lúc lâu, những ký ức lộn xộn đó mới dần dần quay về.
Nhớ ra mình vừa làm gì, lông tơ Trường Canh dựng hết lên, y vốn nhũn như một vũng bùn, đột nhiên lại cứng đờ, Cố Quân liền biết y đã bình thường lại rồi.
“Tỉnh rồi?” Cố Quân ra vẻ bình tĩnh nâng vai y lên, cựa nhẹ bả vai cứng đờ, giơ tay hỏi, “Mấy đây?”
Trường Canh lòng như tơ vò, căn bản chẳng dám nhìn y, cúi đầu thấy tay Cố Quân đã tự kết vảy, sắc mặt càng khó coi hơn, hai tay nâng lên, môi run rẩy không nói nên lời.
“À, chó cắn thôi.” Cố Quân chẳng hề để ý mà nhìn thoáng qua, sau đó lại sỉ nhục, “Răng con chó này đều ghê.”
Trường Canh hơi lảo đảo bò dậy, tìm mảnh lụa và nước sạch, cúi đầu chà lau vết thương cho y, cả người như vừa bị giày vò, ba hồn bảy phách bay mất, thê thảm không tả nổi.
Song với loại nam nhân trời sinh ham muốn bảo vệ quá thừa như Cố Quân, nếu không luận tình cảm, chỉ xét từ những gì mắt nhìn thấy, đại khái “yếu ớt” là có thể lay động y nhất, sắc đẹp còn phải xếp sau, ánh mắt y lập tức dịu hẳn, năm ngón tay dịu dàng vuốt lại mái tóc ban nãy bị Trường Canh lăn xù lên.
“Mùa thu năm ngoái, ta và Quý Bình đi đến Trung Nguyên, trên đường gặp một bọn thổ phỉ thừa nước đục thả câu lấy ‘khởi nghĩa’ làm danh,” Cố Quân dùng ngữ khí còn dịu dàng hơn động tác trên tay, chậm rãi nói, “Chúng ta liên hợp Thái lão dẹp đám gây họa này, bắt phỉ thủ. Phỉ thủ kia tự xưng là ‘Hỏa Long’, người chồng chất sẹo, còn từng bị lửa thiêu. Trong quá trình thẩm vấn, chúng ta lục soát được một thanh đao của nữ nhân man tộc trên người hắn… Là của Hồ Cách Nhĩ.”
Trường Canh run tay, mảnh lụa rơi xuống, thần sắc đờ đẫn cúi đầu nhặt, lại bị Cố Quân nắm lấy tay.
Cố Quân: “Ngươi nhỏ như thế mà cũng có thể nhớ được sao?”
Tay Trường Canh lạnh ngắt như người chết vậy.
Cố Quân thở dài: “Kỳ thực Trần cô nương đã nói hết với ta, về cái…”
Trường Canh ngắt lời: “Đừng nói nữa!”
Cố Quân nghe lời ngậm miệng không nói nữa, im lặng ở bên cạnh nhìn y.
Trường Canh ngồi đờ ra chốc lát, động tác trong tay đột nhiên lưu loát hẳn, thuần thục xử lý vết cắn này, sau đó bất ngờ đứng dậy, đưa lưng lại Cố Quân mà nói: “Phủ Nhạn vương xây xong đã nhiều năm mà vẫn không có ai quản, không nên lắm. Ta… Ta sáng sớm mai sẽ quay về Sở quân cơ, chờ đợt này bận rộn xong sẽ dọn sang…”
Sắc mặt Cố Quân sầm xuống.
Trường Canh không đầu không đuôi nói đến đây, đột nhiên dừng lại. Y không khỏi nhớ tới thái độ khiến y thụ sủng nhược kinh của Cố Quân đợt cuối năm khi đi Tây Bắc khao quân – Tức là Cố Quân chỉ là biết chân tướng về Ô Nhĩ Cốt? Chỉ là thương hại y thôi?
Nói đến tựa hồ bất chấp lý lẽ, Trường Canh có thể không kiêng dè gì mà bày vết thương cũ ra trước mặt Lý Phong, song ngay cả một tẹo manh mối cũng che kín không muốn để Cố Quân nhìn thấy. Ai ngờ y tự cho là bịt kín như bưng, phong thanh lại vẫn luồn qua kẽ tay, Trường Canh cắn chặt răng, cảm thấy trong miệng vẫn còn huyết khí khi nổi điên.
Tanh mà ngọt.
Từ sau khi nhận được bản tấu Cố Quân chuẩn bị về kinh báo cáo, mấy hôm nay y ngày đêm đều đang chờ đợi, mỗi thời mỗi khắc đều ngóng thời gian trôi, song vất vả lắm mới chờ được người về, Trường Canh lại hận không thể lập tức chạy khỏi tầm mắt Cố Quân.
Trong đầu y hò hét om sòm, y vô thức muốn chạy trốn, quay lưng muốn lao ra ngoài.
Cố Quân: “Đứng lại, ngươi muốn đi đâu?”
Trường Canh ngây ngây ngơ ngơ, không để ý đến y.
Cố Quân chợt quát khẽ một tiếng: “Lý Mân!”
Từ nhỏ đến lớn, Cố Quân chưa từng nặng lời với y, càng hiếm khi nổi giận. Song Cố Quân ở trong quân trước nay nói một không hai, quyền uy cực cao, một tiếng quát hỏi hơi nén giận như vậy, mơ hồ có tiếng kim thạch sát phạt uy nghiêm, Trường Canh giật mình, dừng chân theo bản năng.
Cố Quân mặt trầm như nước ngồi bên giường: “Lăn về đây cho ta.”
Trường Canh ngỡ ngàng nói: “Ta…”
“Hôm nay nếu ngươi ra khỏi cánh cửa này,” Cố Quân lạnh lùng nói, “Thì ta đánh gãy chân ngươi, Hoàng thượng cũng không thể cứu nổi ngươi, quay lại, đừng để ta nói đến lần thứ ba!”
Trường Canh: “…”
Đây là người đầu tiên dám nói muốn đánh gãy chân y từ sau khi Nhạn vương thống lĩnh Sở quân cơ, Trường Canh sững ra vì cơn giận bất thình lình này, nhất thời thực sự không dám đi ra ngoài, lấy hết dũng khí quay đầu lại nhìn Cố Quân một cái, bao nhiêu tủi hờn và thống khổ khó mà nói ra miệng toàn bộ trào lên ngực.
… Chỉ là nước mắt trên mặt còn đó, song người đã quá tỉnh táo, thật sự khóc không nổi nữa.
Cố Quân quả tình không chịu nổi ánh mắt kiểu này, đành phải như thỏa hiệp mà đứng dậy, bước tới ôm Trường Canh từ sau lưng, nửa bắt buộc mà ném y lên giường, kéo tấm chăn đã lạnh đắp cho y: “Tại sao ngần ấy năm qua chưa từng nói với ta?”
Trường Canh hít một hơi thật sâu, khẽ đáp: “… Sợ.”
Sợ cái gì?
Cố Quân hơi sửng sốt, lập tức một tay nâng mặt Trường Canh lên: “Sợ ai? Ta à?”
Trường Canh nhìn thật sâu vào mắt y, ánh nhìn này làm Cố Quân hiểu được thế nào là “do yêu mà sợ”.
Cố Quân vốn muốn hỏi “Sợ gì ta? Sợ ta ghét ngươi? Nghi ngờ ngươi à?”, nhưng lời ra đến môi lại nuốt xuống, nhất thời chẳng biết nói gì, liền ra tay luôn, túm cổ áo Trường Canh lên mà hôn ngấu nghiến, hô hấp của Trường Canh đột nhiên nặng nề hẳn.
Cố Quân chống tay cạnh tai y, hơi nhướng mày: “Bây giờ còn sợ không?”
Trường Canh: “…”
Cố Quân từ trên cao nhìn xuống y, trong lòng bỗng nhiên nóng lên, liếm môi, định dứt khoát lưu manh đến cùng, thò tay vào vạt áo xộc xệch của Trường Canh.
Nào ngờ đúng lúc này, bên ngoài đột nhiên vang lên tiếng đập cửa gây mất hứng, một tên đáng ghét họ Hoắc không biết tốt xấu gọi: “Vương gia, sắp đến giờ rồi, phải chuẩn bị vào triều thôi, có cần thay quần áo không ạ?”
Cố Quân: “…”
Thì ra là giày vò một phen, bất giác trời đã tờ mờ sáng rồi.
Hoắc Đan gõ cửa một lúc chẳng thấy ai đáp, cho rằng Trường Canh mệt quá không nghe thấy, đang định gõ tiếp thì cửa lại bỗng nhiên mở ra từ bên trong. Hoắc thống lĩnh nhìn thấy người đi ra thì giật nảy mình, kinh hãi nói: “Hầu, Hầu gia!”
Cố soái hành vi ngày càng kỳ quỷ nhà họ trở về từ khi nào? Một gia tướng cũng chưa kinh động, y vào bằng cách nào vậy?
Nhảy qua tường à?!
Trường Canh trong phòng hơi xấu hổ, vừa chỉnh lại dáng vẻ thê thảm vừa đáp: “Giờ ta sẽ…”
Cố Quân không thèm phân bua ngắt lời: “Đi cáo ốm cho Vương gia, hôm nay y không đi đâu.”
Hoắc Đan lấy làm kinh hãi, vội hỏi: “Thế… có truyền Thái y không ạ?”
“Thái y? Thái y rặt một lũ thùng cơm.” Cố Quân tức giận ném lại một câu như vậy, quay người vào cửa, phân phó, “Không có việc gì thì đừng đến quấy rầy, mau đi đi.”
Hoắc Đan: “…”
Trường Canh bị cấm túc bất đắc dĩ nhìn Cố Quân tự chủ trương: “Ta không bệnh.”
“Ngươi không bệnh, chẳng lẽ ta bệnh?” Cố Quân lục ra một ít an thần hương, bỏ vào hương án bên kia mà đốt lên, chuyện đến bây giờ, cũng không cần che che giấu giấu cái gì nữa, “Đây là Trần cô nương nhờ ta mang về cho ngươi.”
Một mùi thơm thấm vào ruột gan lan ra khắp phòng, Trường Canh khẽ ngửi một chút: “Trần cô nương đổi phương thuốc rồi?”
Cố Quân xoa xoa dấu răng trên tay: “Chuyên trị tên nhóc điên cắn người.”
An thần hương mau chóng có tác dụng, tràn vào phế phủ, làm toàn thân uể oải, chẳng còn tẹo lực khí và lệ khí nào, Trường Canh kiệt sức dựa đầu giường, thả mặc tầm mắt, ngơ ngác nhìn Cố Quân. Y thần sắc tiều tụy, tóc tai bù xù, ánh mắt mơ màng luôn đảo quanh mình, có chút ốm đau bệnh tật, chẳng mảy may nhận ra có “răng sắt lợi đồng”.
Trường Canh lẩm bẩm: “Tử Hi, ta ôm ngươi một cái được không?”
Cố Quân bụng nghĩ: “Bám thấy sợ.”
Sau đó vẫn đi tới ngồi bên, mặc cho y không chịu bỏ qua mà dựa sát lại, ôm thắt lưng mình.
“Cáo ốm đi.” Một lúc lâu, Cố Quân đột nhiên nói, “Không phải đã có Sở quân cơ rồi à? Giang Hàn Thạch cũng coi như có khả năng, chỉ là trước kia thiếu vài phần kỳ ngộ, lần này bất ngờ được đề bạt, chắc hẳn có thể thi thố một phen. Tử lưu kim Tây Vực tiến cống cũng đã gần đến kinh, chúng ta có thể thoải mái nghỉ ngơi dưỡng sức một hai năm. Người man không làm việc, chúng ta kéo dài được, Gia Lai Huỳnh Hoặc thì không thể, chiến cục phương Bắc thời gian dài tất có biến hóa, chỉ còn lại vùng Giang Nam… Người Tây Dương dù sao cũng ngàn vạn dặm vượt biển mà đến, hao tốn rất nhiều của cải, cường long cũng không áp được địa đầu xà, chúng ta chung quy có ưu thế hơn họ chứ?”
Trường Canh nằm trong lòng y, hơi hé mắt, cảm giác ngón tay đầy những nốt chai của Cố Quân vô thức qua lại chỗ cổ y, khiến da đầu y vừa ngứa ngáy vừa tê dại từng cơn.
“Cải cách lại trị mới bắt đầu,” Cố Quân thấp giọng nói, “Việc này tuy do một tay ngươi khởi xướng, nhưng ta thấy quần thần không phản đối lắm, cơ bản đều là thái độ ngầm đồng ý, nếu lúc này ngươi rút lui, về sau được hay phế, công hay tội đều ở trên đầu người khác, chúng ta không tranh công, cũng vị tất có lỗi… Mặc kệ những việc đó, thoải mái về nhà tĩnh dưỡng vài năm, được không?”
Thiên ngôn vạn ngữ của Thẩm Dịch, chỉ có câu “Tương lai làm sao kết thúc” kia là Cố Quân nghe lọt.
Cố gia nhiều thế hệ phong hầu, lại là hoàng thân quốc thích, quyền quý lên xuống, quan trường chìm nổi y thấy rất nhiều rồi, kết cục của quyền thần hãn tướng trong lòng y nắm rõ, dù là thiên hoàng quý trụ, quá nổi bật, có thể tránh né người đương quyền và xuân thu bút ngày sau tính nợ không?
“Rút không được nữa,” Một lúc lâu, Trường Canh mới nói nhỏ, “Đao thứ nhất trong việc cải cách lại trị đã ra, tương đương với cạo xương trừ độc cho người ta, da thịt đã rạch rồi… lúc này nửa đường bỏ cuộc, là để y da tróc thịt bong mà đợi, hay khâu lại lần nữa?”
Cải cách lại trị chỉ là bước đầu tiên, nếu chỉ coi nó là thủ đoạn để thúc đẩy phong hỏa phiếu, mới tới bước này đã dừng lại, tương lai hậu chiến… thậm chí không kịp đợi đến hậu chiến, trong triều tất sinh ra cục diện người người tranh đoạt phong hỏa phiếu, đến lúc đó chẳng những tham hủ sẽ thành phong trào, giả như không có người minh bạch coi chừng, e rằng phong hỏa phiếu cuối cùng cũng rơi vào kết cục không đáng một đồng, Đại Lương sợ là chết nhanh hơn.
Cố Quân siết chặt vòng tay ôm y, khi Trường Canh mở mắt lần nữa, huyết sắc và trùng đồng trong mắt đã rút đi, y đột nhiên nghiêng người, hơi vụng về đè người ngày nhớ đêm mong trên tấm chăn gấm mềm và mỏng: “Tử Hi, ngươi có biết Ô Nhĩ Cốt là gì không?”
Cố Quân thoáng sững ra.
“Ô Nhĩ Cốt là một loại tà thần, cũng là một loại nguyền rủa cổ xưa nhất của người man, khi cả tộc họ bị diệt, sẽ lưu lại một đôi hài tử, luyện thành Ô Nhĩ Cốt, người luyện chế như vậy có sức mạnh cử thế vô song, tất mang đến tinh phong huyết vũ, cừu nhân mạnh cỡ nào cũng có thể kết liễu.” Trường Canh nằm trên người y, trong lúc nói chuyện ngực hơi rung nhẹ, mà giọng vẫn ôn hòa y nguyên, chỉ là có chút khàn khàn khó nói ra, “Hồ Cách Nhĩ trước khi chết rủa rằng, ‘tận đến cuối cuộc đời, trong lòng ta đều chỉ có căm hận, bạo ngược, hoài nghi, nhất định phải tàn ác hiếu sát, nơi đi qua phủ kín tinh phong huyết vũ, định trước là sẽ kéo theo mọi người cùng không được chết yên lành, không ai yêu ta, cũng không ai thật lòng với ta.”
Cố Quân hơi rùng mình, trước kia y luôn cảm thấy Trường Canh thời thiếu niên suy nghĩ quá nhiều quá nặng, bên trong che giấu vô số quanh quanh co co, không tài nào hiểu nổi, lại không biết rằng sau vô số quanh co, vậy mà đè một câu nói tru tâm như thế.
“Nhưng có người yêu ta, cũng có người thật lòng với ta… phải không? Vừa rồi là ngươi gọi ta về.” Trường Canh thì thào, “Bà ta chưa một ngày nào cho ta sự dịu dàng, ta cũng sẽ tuyệt đối không như ý bà ta, ngươi tin ta chứ? Tử Hi, chỉ cần ngươi nói một chữ, núi đao biển lửa ta cũng có thể xông pha.”
|
Chương 79: Giao tâm
Y là Nhạn thân vương cao quý, thống lĩnh Sở quân cơ, song mỗi khi giật mình thoát khỏi cơn ác mộng Tú Nương gieo vào cốt tủy, trong lòng có thể nhớ mong, có thể tin cậy, lại thủy chung chỉ có một Cố Quân.
Một người có phân lượng quá nặng, đôi khi đè trĩu khiến y khó mà gánh nổi.
Có một lần Liễu Nhiên đại sư từng bảo y, “Nỗi khổ của con người, ở cầm không ở buông, cầm càng nhiều, hai tay càng đầy, thì càng khó bước đi hơn,” Trường Canh rất có sở cảm, thừa nhận hắn nói đúng, nhưng một Cố Quân với y mà nói, đã nặng như ngàn cân, y lại không thể nào buông được – bởi vì buông người này xuống, thì tay y sẽ trống không.
Một người nếu sống hoàn toàn không có niệm tưởng, thế chẳng phải sẽ biến thành một lá cờ rách đu đưa mặc gió thổi sao?
Cố Quân giơ tay ôm lấy vai y, gõ nhẹ lên cổ y, Trường Canh bị đau, lại vẫn nhìn thẳng đối phương không tránh không né.
Cố Quân: “Tại sao ta phải bắt ngươi xông pha núi đao biển lửa?”
“Ta muốn một ngày kia quốc gia hưng thịnh, bách tính có việc để làm, bốn biển yên ổn, tướng quân của ta không cần tử thủ biên quan nữa, muốn như Phụng Hàm công liên tục đấu tranh, tháo gỡ bế tắc giữa hoàng quyền và tử lưu kim, muốn để những hỏa cơ chạy trên mặt đất đó đều ở dưới ruộng đồng, trong trường diên bay trên trời ngồi đầy lữ nhân bình thường dắt díu gia đình về quê hương thăm người thân… Mỗi người đều có thể sống có tôn nghiêm.” Trường Canh nắm chặt tay y, đan năm ngón vào kẽ tay y, thân mật quấn lấy nhau.
Cố Quân nghệt ra, đây là lần đầu tiên Trường Canh thổ lộ suy nghĩ trong lòng với y, khiến y cũng có phần khó kiềm chế nhiệt huyết.
Đáng tiếc nghĩ kỹ lại mới thấy, vô luận loại nào, nghe đều như là không thể đạt thành.
“Ta có thể làm được, Tử Hi, ngươi để ta thử xem.” Trường Canh thấp giọng nói.
Y đã mang trên người sức của “tà thần”, chẳng lẽ không thể thử gạt thế đạo huyết sắc, mở ra một con đường phàm nhân chưa từng có bao giờ?
Năm ấy ở Nhạn Hồi trấn, thiếu niên mười ba mười bốn tuổi cũng từng thổ lộ với tướng quân trẻ tuổi chẳng qua mới nhược quán nguyện cảnh không uổng kiếp này, lúc đó Cố Quân còn khinh cuồng hắt cho y một chậu nước lạnh, hờ hững bảo rằng “anh hùng đều không có kết cục tốt”. Mà hiện giờ, cát vàng đại mạc mấy chuyến, vào ra cung khuyết thiên lao, bản thân Cố tướng quân thực sự đã cảm nhận được thế nào là “anh hùng đều không có kết cục tốt”, nhưng y chẳng cách nào nói thế với Trường Canh nữa.
Lấy mình đo người, nếu lúc này có ai chỉ mũi y mà bảo: “Cố Quân, ngươi mau mau cút về hầu phủ dưỡng lão đi, sống đến bây giờ đã là vận khí tốt rồi, còn chưa chịu rút đi thì sớm muộn cũng có một ngày ngươi phải chết không có chỗ chôn.”
Mình sẽ nghĩ thế nào đây?
Thế đạo hiện giờ, một chân nước lạnh một chân bùn lầy, người ở trong đó không tránh khỏi khó cất bước, đi thời gian dài, từ trong ra ngoài đều lạnh ngắt, có trái tim còn chảy nhiệt huyết ra bên ngoài, kiên trì một con đường biết rõ không thể đi, là không hề dễ dàng, nếu người khác… đặc biệt là chí thân cũng đến tạt nước lạnh làm vật cản, chẳng phải là quá đáng thương?
Y hồi lâu không nói gì, Trường Canh đang có chút căng thẳng không dễ phát hiện, thì Cố Quân bỗng nhiên mở miệng: “Hôn cũng hôn rồi, ôm cũng ôm rồi, ngươi còn muốn ta nói gì? Nam nhân nói quá nhiều sẽ không có thời gian làm việc khác, đạo lý này ngươi có hiểu không?”
Trường Canh sửng sốt, lại thấy Cố Quân đạn chỉ, ngọn đèn măng-sông ngắc ngoải ở đầu giường lập tức tắt phụt. Trời còn chưa mờ sáng, trong phòng thoáng cái tối om, màn giường bình thường luôn treo lên rơi xuống như phủ kín trời đất, bị một chút gió lạnh buổi sớm lùa qua cửa sổ thổi hơi đong đưa, Trường Canh chưa kịp phản ứng, hông chợt lỏng ra, đai lưng chẳng biết bị rút mất từ lúc nào, y còn chưa định thần lại khỏi lời thề “núi đao biển lửa”, mặt thoắt cái đỏ bừng.
“Tử, Tử Hi…”
Cố Quân không chút để ý mà đáp một tiếng, sốt ruột hất bay mảnh lụa trên tay, lười nhác dựa lên đống chăn gấm mềm mại, đầu ngón tay lướt qua vạt áo Trường Canh: “Năm đó lúc ở biệt viện ôn tuyền, ngươi nói ngươi từng nghĩ tới ta… Nghĩ như thế nào vậy?”
Trường Canh: “…”
“Không phải rất giỏi ăn nói à?” Cố Quân cười nhẹ bảo, “Nói nghe xem nào.”
Trường Canh chưa từng gặp kiểu tán tỉnh vừa trêu chọc vừa chòng ghẹo như thế, lưỡi lập tức líu lại: “Ta… ta…”
“Trên việc này, chỉ biết nghĩ thôi là không thể được.” Cố Quân cách quần áo mơn trớn thắt lưng Trường Canh, sờ soạng đùi y một phen không nhẹ không mạnh, Trường Canh suýt nữa bật dậy, thở cũng không nổi, đỡ trái hở phải mà bắt lấy bàn tay tác quái khắp nơi của Cố Quân, một ngọn lửa đốt từ bụng tới tận cổ, cảm thấy mình sắp cháy thành tro bụi.
Cố Quân đã đẩy vạt áo y ra.
Ngực chợt lạnh, Trường Canh mới đột nhiên nhận ra điều gì, vội đè tay Cố Quân lại, song đã không còn kịp – những vết sẹo lớn nhỏ ở ngực và dưới cổ bất ngờ lộ hết ra, bị ngón tay hơi chai ấy chạm vào, mùi vị quả thực không cần đề cập. Trường Canh một mặt không nhịn được tránh né, một mặt miệng lưỡi khô khốc, hai tai hơi ù, không biết nên tiến hay lùi.
Cố Quân đi gấp mấy ngày liền, lại chờ một đêm ở bên giường, chút dược hiệu trên người khéo thế nào lại mất đúng vào lúc này, bắt đầu không thấy rõ, song bầu không khí đang tuyệt, y cũng không tiện lấy kính lưu ly ra đeo – đeo thứ đó thật sự chẳng khác nào trường tý sư chuẩn bị tháo cương giáp cả, mất hết cả hứng.
Lúc này y toàn bằng xúc cảm đôi tay, lướt qua các vết sẹo lồi lõm trên người Trường Canh, so với chính mắt nhìn thấy còn đau lòng hơn.
Cố Quân: “Có đau không?”
Trường Canh cúi đầu, nhìn sâu vào mắt y, đáp một nẻo: “Kết vảy lâu rồi.”
Trong lòng Cố Quân nhất thời trỗi lên đủ mọi mùi vị, ngay cả sắc tâm sục sôi cũng giảm bớt, y híp đôi mắt dần mơ hồ, cẩn thận vuốt ve những vết sẹo ấy, Trường Canh thật sự không chịu nổi, không nhịn được khẽ nức nở một tiếng, túm cổ tay Cố Quân.
“Đừng sợ,” Cố Quân dỗ dành, “Ta thương ngươi.”
Nếu tên mù dở này thấy được biểu cảm của Trường Canh hiện giờ, có lẽ sẽ không nói hai chữ “đừng sợ” đâu.
Trường Canh cúi xuống hôn y, Cố Quân bị hôn đến bốc hỏa trong lòng, đang muốn vùng lên xử người này ngay tại chỗ, đột nhiên Trường Canh không biết bị bệnh gì, mà buột miệng gọi một tiếng: “Nghĩa phụ…”
Cố Quân: “…”
Y lập tức nhũn ra vì câu này của Trường Canh, *** mạnh hơn cũng tắt ngấm, bị vo thành một cục nhét vào ***g sắt.
Cố Quân hít sâu mấy hơi liền, muốn quát vào mặt Trường Canh một tiếng “trong trường hợp này gọi linh tinh gì thế”, song nghĩ lại thì – người ta quả thật cũng chẳng gọi sai.
Nghe nói một số nam nhân lúc riêng tư đặc biệt thích cảm giác cấm kỵ bội đức này, rất thích để bạn tình ở trên giường gọi lung tung, đáng tiếc Cố Quân tuyệt đối không có sở thích này, hơn nữa hoàn toàn không lý giải nổi, trong một năm nửa năm này, y vất vả lắm mới quen với việc Trường Canh gọi thẳng tên tự, dần dần không coi người ta là con nuôi nữa, ai ngờ thời điểm mấu chốt này chợt đụng phải hai chữ “nghĩa phụ”, thật sự váng hết cả đầu.
Trường Canh hình như hoàn toàn không nhận thấy sự khó chịu của y, khó lòng kiềm chế gọi mấy tiếng liền, hôn môi y không hề có trình tự, trong thân mật lại có chút thành kính khiến lão lưu manh như ngồi trên chông, phối hợp với cách xưng hô “nghĩa phụ” này, hiệu quả thật tuyệt hảo.
Cố Quân như bị kiến bò khắp người, rốt cuộc không nhịn được nghiêng đầu: “Đừng gọi như vậy.”
Trường Canh dừng lại, lặng lẽ nhìn chăm chú y một lát, bỗng nhiên phục xuống bên tai y nói: “Nghĩa phụ, không thấy rõ thì nhắm mắt lại, được không?”
Cố Quân dù điếc lòi cũng nghe ra y cố ý, huống chi còn chưa kịp điếc hẳn: “… Ngươi gan lắm rồi?”
Đôi mắt Trường Canh bên trong màn giường tối đen sáng đến kinh tâm động phách, không nghe theo mà hạ giọng vừa thấp vừa dịu dàng, rủ rỉ như làm nũng: “Nghĩa phụ, năm đó người từng nói ‘cho dù đến kinh thành rồi, cũng có người che chở con’, còn nhớ chứ?”
Sắc mặt Cố Quân thay đổi vài lần, thật sự không thể nào chống cự chiêu mới lấy mình ra tiêu khiển này, đành phải lập kế hoạch rút lui theo tính chiến lược, đẩy Trường Canh nói: “Được rồi, đừng có mà không biết xấu hổ, nên làm gì thì làm… A!”
“Con nên làm gì?” Trường Canh nhờ sự thuận tiện của tư thế vừa rồi đè y lại, tay đã thò ra sau lưng Cố Quân, lúc ở Gia Dự quan bó xương cho ai đó đã sờ ráo hết rồi, lúc này đột nhiên ra tay với sự ổn chuẩn ác của đại phu. Cố Quân run bắn lên, theo bản năng muốn cuộn mình lại, bị Trường Canh ấn liền mấy huyệt vị, nửa người tê rần, bấy giờ Trường Canh mới thủng thỉnh nói nốt nửa câu sau, “Không phải nghĩa phụ mới cáo ốm thay con, muốn thương con à?”
Cố Quân: “…”
Y phát hiện mình năm nay chỉ sợ là không được may mắn, hơi phạm Thái Tuế, liên tiếp lật thuyền trong mương.
Chớp mắt mà thái dương đã treo cao giữa trời, nắng rọi khắp nơi.
Ánh dương đầu hạ rạng rỡ chẳng thèm phân bua xuyên qua màn giường, rọi vào từng luồng, đôi mắt Trường Canh còn xán lạn hơn mặt trời, chân chính hiểu được thế nào là “nhiều năm si tâm vọng tưởng, một sớm tẩu hỏa nhập ma”. Ác mộng đáng sợ hơn hiện thực, hiện thực khiến người ta điên cuồng hơn nhiều mộng xuân.
Sau cơn điên cuồng lại không cảm thấy trống rỗng chút nào, trong lòng y rất vững, từ thuở chào đời chưa từng vững như vậy, hai tay quanh quẩn mãi trên người Cố Quân không chịu thôi, không ngừng gọi bên tai Cố Quân, chính mình cũng cảm thấy mình hơi phiền, nhưng cứ không cách nào tự khống chế, không dừng lại được.
Y lúc thì “nghĩa phụ” lúc lại “Tử Hi”, gọi lung tung một hồi, dán sát vào tai, làm kẻ điếc sau khi dược hiệu hết cũng bị bắt phải nghe. Cố Quân còn cảm giác được hơi nóng không dứt bên tai, ban nãy sai một ý nghĩ mà lỡ mất tiên cơ, bị tiểu tử kia giày vò đủ, lúc này vừa mệt vừa buồn ngủ còn không cho ngủ, quả thực chẳng có chỗ nào để nói phải trái, tức giận hất y ra: “Đừng ồn ào!”
Trường Canh liếc thấy vẻ mệt mỏi trên mặt y, ngoan ngoãn ngậm miệng, nhẹ nhàng ấn thắt lưng y, lực đạo vừa đúng không yếu không mạnh, vừa đỡ mệt vừa không chạm đến chỗ ngứa đầy ma tính khắp người Cố Quân.
Cố Quân: “…”
Tức là trước kia y toàn cố ý thôi!
Họ Trần dạy y rốt cuộc là trị bệnh cứu người hay là tà ma ngoại đạo!
Cố Quân đang định nổi cơn tam bành, đột nhiên, Trường Canh chau mày, bàn tay ấn nhẹ vài cái trên xương ở vùng ngực bụng Cố Quân, sau đó nắm mạch môn cổ tay.
Cố Quân cả giận nói: “Ngươi có thôi…”
Trường Canh: “Vết thương mới có từ khi nào?”
Cố Quân: “…”
Toi rồi, ngoại trừ tà ma ngoại đạo hình như họ Trần còn thật sự dạy y một chút chân tài thực học, cái này cũng sờ ra được!
Trong lúc nguy cấp, Cố Quân đành phải giở trò “ta điếc, ta chả nghe thấy gì đâu”, vẻ mặt vô tội mà trở mình, đưa lưng lại Trường Canh không nhúc nhích nữa, ra vẻ mình đã ngủ rồi, kẻ không phận sự có thể quỳ an.
Trường Canh kiểm tra y từ đầu đến chân, nhưng vết thương do vụ nổ đáng sợ lần đó dù sao cũng qua một thời gian rồi, thứ nhất y thuật của Trường Canh không thần như Trần Khinh Nhứ, thứ hai thương của Cố Quân đã khỏi bảy tám phần, không tra được gì, vậy là hai người cứ thế lừa gạt đối phương.
Nhạn vương điện hạ cả ngày cáo ốm không lộ diện, trong cung và Sở quân cơ với một đám trọng thần nhao nhao phái người tới thăm hỏi, đều bị Hoắc Đan đuổi đi. Hoắc Đan xuất thân quân ngũ, chủ soái có lệnh tất nhiên nói một là một, nói không cho quấy rầy là không dám quấy rầy, im lặng đứng ngoài cổng làm môn thần, đồng thời còn đang nghĩ hoài không tài nào hiểu nổi chuyện “Đại soái vào bằng cách nào”, rảnh quá bèn chỉnh đốn lại gia tướng phòng ngự lơ là của hầu phủ.
Cố Quân chạy về sớm hai ngày như vội đi đầu thai, lại một đêm không ngủ, vất vả lắm mới được ăn một bữa mặn còn không đúng tư thế, xém nữa nghẹn chết, quả thực tâm thần đều mệt lử, ngủ một giấc đến buổi chiều, sau khi dậy cảm thụ trên thể xác và tinh thần vẫn hết sức kì quỷ, cũng không biết ai mới là người nghỉ ốm đây.
Y muốn nổi giận một phen, lại cảm thấy vì việc nhỏ nhặt này mà nổi giận không khỏi có vẻ hẹp hòi, đành phải bấm bụng nhịn, nghĩ: “Lần tới nhất định phải khâu miệng y lại.”
Cố Quân sau khi dậy lần mò tìm kính lưu ly khắp nơi, nhưng vật be bé kia chẳng biết đi đâu mất tiêu, tìm cả buổi cũng không thấy, lại bị một bàn tay ấm áp nắm lấy.
Trường Canh dán sát vào tai y nói: “Bọn Thẩm tướng quân còn chưa tới, hôm nay ngươi không cần ra ngoài, không dùng thuốc được không? Để ta trông nom ngươi.”
Cố Quân vốn cũng không hay dùng, có hay không đều được, bèn gật đầu: “Không cần trông nom, ta quen rồi, không tìm thấy kính, đi lấy cái mới cho ta đi.”
Trường Canh ôm y nói: “Kính lưu ly là ta lấy đấy.”
Quan hệ giữa hai người tựa hồ đã xảy ra biến hóa vi diệu, không nói rõ được.
Kỳ thực từ nhỏ – lúc còn là cha con nuôi, quan hệ của hai người đã hết sức thân mật, cho đến trong chiến tranh tâm ý của Trường Canh bộc lộ không kiêng dè gì, Cố Quân thoạt tiên mềm lòng thỏa hiệp, thậm chí hãm sâu trong đó, thư nhà và chiến báo luôn đi cùng nhau, liên tiếp không ngừng, tình ý không thể nói là không sâu đậm… Song lại đều không tiêu hồn như lúc này, tựa hồ cho dù ngoại địch vây kinh lần nữa cũng có thể ném ra sau đầu, thiên địa đều tan trong tấc lòng, không màng đến cái gì khác.
Cố Quân sửng sốt hỏi: “Ngươi lấy kính lưu ly của ta làm gì?”
Trường Canh cười nói: “Thích.”
Nói đoạn, y cẩn thận giúp Cố Quân mặc quần áo, lại khom lưng đi giày hộ, rất tận tâm tận lực, cẩn thận chu đáo.
Nhạn vương điện hạ từ sáng đến tối áo trắng cấm dục như hòa thượng, ai không biết còn tưởng y chính nhân quân tử cỡ nào, song qua vụ này, Cố Quân xem như đã lĩnh giáo, dưới cái vẻ đạo mạo ấy, trong lòng người này có một đống “tình thú” không thể tưởng tượng, người bình thường chẳng tài nào lý giải nổi.
Thích cái gì? Thích y mù hả?
Trường Canh không nói lớn tiếng lắm, để Cố Quân nghe thấy, liền luôn rủ rỉ bên tai, nói mấy câu kiểu “cẩn thận bậc cửa” cũng như vành tai tóc mai chạm nhau, đi tới cạnh cửa, Cố mù dở đưa tay vịn khung cửa theo bản năng, bị y ôn nhu mà không phân bua gì chặn ngang, Trường Canh tùy hứng nói: “Đừng chạm vào thứ gì khác, ngươi cứ vịn ta là được.”
Cảm giác hoàn toàn nắm giữ trong tay trước nay chưa từng có sắp làm Trường Canh say mê phát điên, giây lát cũng không muốn buông tay, nói hai câu liền sấn lại muốn hôn một cái, không biết chán, chưa được một lúc đã làm Cố Quân nổi hết da gà.
Có đánh chết Cố Quân cũng chẳng tài nào hiểu nổi, một người vốn vừa xa cách vừa khắc chế, thay quần áo cho y cũng phải phi lễ chớ nhìn, rốt cuộc làm sao mà lên giường một lần liền biến thành dáng vẻ điên dại như hiện tại?
Cố Quân: “Dù không nhìn thấy thì ta cũng chưa tàn phế, ngươi không cần đỡ hoài – không phải cả ngày bận đến tối mày tối mặt à?”
Trường Canh: “Vậy ngươi theo ta đến thư phòng đi.”
Sau khi Cố Quân đi, thư phòng của y cơ bản là địa bàn của Trường Canh, Cố Quân thường niên ở biên quan nhất thời cũng thấy hơi xa lạ. Trường Canh đỡ y ngồi xuống, ánh dương từ một góc độ hết sức quen thuộc rọi lên mặt người trong thư phòng, Cố Quân bỗng nhiên có sở cảm, duỗi chân, quả nhiên đụng phải một cái ghế đẩu dưới gầm bàn: “Thứ này vậy mà vẫn còn.”
Trường Canh cúi người nhặt cái ghế lên, chỉ thấy trên ghế vẽ mấy con rùa nhỏ sống động như thật, cắn đuôi nhau làm thành một vòng, bên cạnh nét chữ trẻ con vụng về khắc “Thần quy tuy thọ, thập tắc vi chi(1)”.
… Râu ông nọ cắm cằm bà kia.
Trường Canh cười một lúc lâu, kéo tay Cố Quân lại đặt trên vết khắc kia, hỏi: “Ngươi khắc à?”
“Đừng cười, hồi nhỏ ta cũng chẳng nghiêm túc đọc sách được mấy hôm đâu,” Cố Quân hơi cong khóe mắt, “Sách đều là ở trong cung đọc cùng bọn Hoàng thượng và Ngụy vương. Bản thân lão Hầu gia học vấn lơ là bình thường, cũng chỉ có binh thư là xem hơi nhiều, bèn tìm một lão hủ nho hủ phát khiếp tới đọc kinh cho ta nghe, nghe chưa được một giờ ba khắc đã ngủ gục, vậy nên ta chỉ có thể tự tìm trò vui cho mình – À, ngươi bận thì cứ làm việc đi, hình như lâu lắm rồi ta không về nhà, để ta đi dạo một chút.”
“Đừng,” Trường Canh vội nói, “Ta thích nghe ngươi kể, sau đó thì sao?”
Cố Quân vẻ mặt khó xử – đây thật sự không phải chuyện gì đẹp mặt, chỉ là Trường Canh hiếm khi mở lòng, Cố Quân coi như để y vui, liền tiếp tục: “Ta khi đó chuyên môn gây chuyện, tiên sinh cũng bị ta hành hạ, không dám quản giáo trước mặt, chạy đi mách lão Hầu gia, lão Hầu gia không phải đánh thì là phạt ta trung bình tấn trên ghế, run một cái là té, mẹ nó thực không giống cha ruột chút nào… Sau đó ta cảm thấy lão râu dê đó suốt ngày mách lẻo, khốn nạn quá thể, hợp kế với Thẩm Quý Bình, trộm ít thuốc xổ bỏ vào trà của tiên sinh.”
“Thuốc xổ vốn cũng chẳng có gì, chỉ là hai ta đều còn nhỏ, không biết nặng nhẹ, tiên sinh lại tuổi cao sức yếu, uống vào suýt nữa mất mạng. Cố gia hai trăm năm chưa từng có bại gia tử điên khùng như vậy, lão Hầu gia nổi cơn tam bành, muốn đánh chết ta, may mà công chúa ngăn cản… Ừm, mẹ ta sau đó thừa nhận, lúc ấy không phải là bà không muốn đánh ta, mà là vì bản thân bà thể hàn không dễ đẻ, sợ đánh chết ta làm Cố gia tuyệt tự.”
Trường Canh tưởng tượng một chút, cảm thấy mình mà có thằng con giặc cỏ như vậy thì cũng phải đập chết nó, song lập tức nhớ tới đứa trẻ lì lợm ấy là Cố Quân, lại cảm thấy nếu mình là lão Hầu gia, cho dù người này thực sự làm chết người, chắc mình cũng chỉ đành đến nhà đền mạng, chứ tuyệt đối không nỡ đụng vào một sợi lông.
Y phì cười một lúc lâu, hỏi: “Sau đó thì sao?”
Cố Quân dừng lại, nụ cười trên mặt thật sự có phần không duy trì nổi nữa, thần sắc hơi thu lại, trầm mặc chốc lát mới nói: “Sau đó hai người họ cảm thấy tiếp tục như vậy thì ta phải vô pháp vô thiên, bèn dẫn cả ta đến trú địa Huyền Thiết doanh ở Bắc cương.”
Thời thơ ấu chó khinh mèo ghét của y cứ thế bất ngờ dừng lại.
—
“Thập tắc vi chi, ngũ tắc công chi, bội tắc chiến chi, địch tắc năng phân chi.” Tức là trong tác chiến thực tế, nếu ta gấp mười địch, thì bao vây tiêu diệt, gấp năm lần thì tiến công, gấp đôi thì cố gắng chiến thắng, lực lượng tương đương thì nghĩ cách tiêu diệt từng bộ phận – xuất xứ từ Binh pháp Tôn Tử.
|