Sát Phá Lang
|
|
Chương 60: Lửa đạn
Trường Canh nhận chiến báo, Cố Quân hỏi: “Thủy quân Giang Nam còn lại bao nhiêu?”
“Khó mà nói,” Trường Canh đọc lướt qua nhanh như gió, “Trường giao chưa từng ra biển, càng chưa từng đánh hải chiến, Triệu Hữu Phương chết làm tất cả hoảng sợ, bỏ chạy tứ tán – nghĩa phụ, người nhớ năm đó Ngụy vương làm loạn chứ?”
Cố Quân bóp mũi, hiểu y muốn nói gì.
Năm đó Ngụy vương mua Đề đốc thủy lục Giang Nam cùng một nửa thủy quân, tụ binh ở tiểu đảo Đông Doanh dòm ngó kinh thành, nào ngờ còn chưa chuẩn bị sẵn sàng, đã bị Cố Quân và Lâm Uyên các liên thủ phá rối.
Nói là “Cố Quân và Lâm Uyên các liên thủ”, kỳ thực lúc ấy bên cạnh Cố Quân chỉ có hai ba huyền ưng và mấy đứa trẻ choai choai, Lâm Uyên các cũng chẳng qua phái hơn ba mươi người giang hồ, còn phải tính cả Liễu Nhiên hòa thượng loại phế vật mặc trọng giáp không biết cởi này.
Cố Quân ở trong quân tích uy rất nặng, y đột nhiên xuất hiện dọa đám phản quân có tật giật mình sợ hết hồn là một nguyên nhân, nhưng mặt khác cũng chứng minh hải quân Đại Lương quả thật là một cái chân què.
Ngay cả tạo phản cũng chẳng xong.
Nếu việc này xảy ra dưới thời tiên đế Nguyên Hòa, có lẽ Cố Quân còn có cơ hội như năm đó chỉnh đốn thành phòng Bắc cương, nhúng tay vào hải quân, đáng tiếc Lý Phong không phải hạng bạc nhược giết một người cũng do dự không dám quyết như tiên đế, dưới thời Long An, chuyện đó không thể xảy ra.
Cố Quân: “Diêu Trọng Trạch thì sao? Cũng chết rồi à?”
Trường Canh: “Không đề cập, vì người chết quá nhiều.”
Cố Quân thở dài: “Với cả ‘hải quái’ là thứ gì?”
Trường Canh: “Nghe nói giống một con bạch tuộc khổng lồ, có thể ẩn nấp dưới nước, trồi lên như một ngọn núi, che khuất cả bầu trời, so với nó thì cự diên chỉ như một con bồ câu đậu trên vai tráng hán, trên thân còn có vô số thiết trảo, dính chi chít ngàn vạn tiểu hải giao, đỉnh xòe ra có thể thả hàng đàn ưng giáp…”
Đoạn Trường Canh dừng một chút, ngón tay thuôn dài điểm nhẹ rìa chiến báo: “Nếu thực sự có thứ như vậy, một ngày chí ít phải đốt hết bốn năm trăm cân tử lưu kim.”
Cố Quân nhìn y một cái, Trường Canh khẽ lắc đầu, chỉ nói đến đây là thôi, ẩn nửa câu sau đi – người Tây Dương bỏ ra nhiều như vậy, chỉ e không phải đến đánh lâu dài.
“Giải quyết trú quân Giang Nam rồi, trên biển không còn nỗi lo gì, thủy quân cảng Đại Cô không phải là đối thủ, bước tiếp theo là bức thẳng về kinh thành,” Cố Quân tháo bản đồ trên tường xuống, “Lão Đàm, trong kinh còn bao nhiêu binh lực có thể điều phối?”
Đàm Hồng Phi liếm đôi môi khô khốc: “Bắc đại doanh có hai ngàn trọng giáp, một vạn sáu khinh kỵ, còn có hai ngàn xa mã binh, chiến xa tổng cộng tám mươi chiếc, trên mỗi chiếc có ba đôi bạch hồng, đầu đuôi lắp trường đoản hỏa pháo.”
Chút binh lực này cũng chỉ xấp xỉ bức vua thoái vị, chọi với một kích dốc sức của người Tây Dương ủ mưu nhiều năm chỉ như muối bỏ biển, Cố Quân nhíu mày: “Ngự lâm quân thì sao?”
“Ngự lâm quân không được, tổng cộng chưa đến sáu ngàn người, hầu hết là lính thiếu gia chỉ được mã ngoài, chưa từng thấy máu.” Đàm Hồng Phi dừng lại, đột nhiên nhớ tới cái gì, lấy từ trong lòng ra một thứ, trịnh trọng dùng hai tay trình cho Cố Quân, “Đúng rồi, đây là Hoàng thượng bảo ta mang đến cho Đại soái.”
Thứ ấy dùng lụa cung đình mỏng bao lại, ai không biết còn tưởng bên trong là minh châu bảo ngọc gì, mở ra lại là Huyền Thiết hổ phù dữ tợn.
Cố Quân nhận lấy nhìn qua một cái, ngoài cười trong không cười mà nhếch môi: “Lúc này trả lại cho ta làm gì, hoa vàng cũng héo queo rồi còn đâu.”
Đàm Hồng Phi không biết nên nói gì cho phải.
Cố Quân tùy tay ném Huyền Thiết hổ phù cho Đàm Hồng Phi: “Được rồi, đã là chủ ý của Hoàng thượng, thì ngươi theo ý ngài cầm đi viết lệnh điều động đi, triệu trú quân địa phương hai vùng Sơn Đông và Trực Lệ hồi phòng, giải vây cho kinh thành, lại cho Thái Phân bớt một tay lĩnh binh tăng viện… À, cứ điều trước, điều không đến tính sau.”
Đàm Hồng Phi: “…”
Trương Phụng Hàm tuổi già sức yếu bên cạnh không có lòng dạ cứng rắn như đám trâu bò này, vốn đang kinh hồn táng đảm, chợt nghe ra ý tại ngôn ngoại của Cố Quân, sắc mặt lão linh xu lập tức trắng bệch, không nhịn được hỏi: “Ý Đại soái chẳng lẽ là… Quân cần vương có thể không điều được?”
Trường Canh trả lời: “Nếu tin tức trên chiến báo không sai, người Tây Dương không thể tùy thân mang quá nhiều đồ quân nhu – họ cũng đánh không nổi, nếu muốn một kích tất sát, đổ bộ từ Giang Nam, tất nhiên chia hai đường, một đường từ trên biển bức về kinh thành, một đường từ trên lục địa cắt đứt thông đạo kinh thành đến tứ phương, vây khốn chúng ta… lệnh điều động e là không truyền được nữa.”
Phụng Hàm công suýt nữa ngất tại trận, ngồi phịch xuống bên cạnh, không ngừng hít sâu.
Trường Canh không liệu được ông có phản ứng mạnh như vậy, vội rót chén nước bưng đến trước mặt Phụng Hàm công, thủ pháp thành thạo vỗ nhẹ mấy huyệt vị ở hậu tâm: “Ngài bình tĩnh nào, người có tuổi cố gắng đừng đại hỉ đại bi, kẻo dễ trúng gió…”
Trương Phụng Hàm túm tay y, thiếu chút nữa giàn giụa nước mắt: “Điện hạ ơi, ngài trời sinh không biết sốt ruột là gì à?”
“Phụng Hàm công hãy cứ an tâm, ta còn chưa nói xong,” Trường Canh vội nói, “Lúc trước nghĩa phụ bị hạ ngục, ta lo lắng biên cảnh có biến, đã liên hệ một số bằng hữu rồi.”
Nói đoạn y lấy một con chim gỗ từ trong tay áo ra.
“Loại chim gỗ này cần một loại nam châm đặc biệt dẫn đường, có thể truyền tin giữa những người giữ nam châm, họ trước đó nhận được thư của ta, trước mắt hẳn đã xuất phát đến các vùng trú quân lớn, chỉ mong tới kịp – nếu kinh thành thật sự bị bao vây, ta có thể dùng chim gỗ truyền tin, để họ truyền đạt thay, có Huyền Thiết hổ phù và tư ấn của nghĩa phụ ta, hẳn đã đủ lấy được lòng tin.”
Khi Trường Canh ý thức được rời khỏi huyền ưng, thông tín lâu lắc giữa các nơi sẽ làm lỡ chiến sự, liền bắt đầu lợi dụng Lâm Uyên các, bố trí mạng lưới thư từ khổng lồ để phòng sẵn.
Đàm Hồng Phi và Trương Phụng Hàm há hốc mồm nhìn Trường Canh.
“Đều là chút tài mọn, gấp gáp quá ta nhất thời cũng không nghĩ được biện pháp khác.” Trường Canh nói, “Mới đầu khi thần không biết quỷ không hay có thể dùng tạm cho nhu cầu khẩn cấp, lâu dài thì không được, một khi địch nhân phát hiện, thứ này sẽ không an toàn nữa, tùy tiện một hòn đá nhỏ là bắn rơi được nó.”
Trong lòng Cố Quân nhất thời không rõ là mùi vị gì, lúc ở trong lao, không phải y chưa từng lo lắng về Trường Canh, trước mắt xem ra, dù lúc ấy do bản thân y điều động, cũng chưa chắc làm tốt hơn Trường Canh.
Không chỉ giữ lại nửa Huyền Thiết doanh, còn để lại một bước thuận lợi như vậy.
Ngoài sụt sịt cảm kích vui mừng, y lại cảm thấy người thiếu niên năm đó ở trước mặt khôi lỗi hầu kiếm chỉ biết nhắm mắt tránh né không nên trưởng thành nhanh như vậy, là do y không trông nom tốt.
Song trước mặt người ngoài, Cố Quân không tiện cảm khái gì, chỉ nhàn nhạt một câu: “Điện hạ suy tính chu toàn.”
“Đi thôi, Lão Đàm, theo ta đến Bắc đại doanh.” Cố Quân lấy một bầu rượu treo sau cửa, thoáng nhìn sắc trời, ngay cả giáp trụ cũng không mặc, lấy một tấm áo tơi rồi sải bước đi.
Trường Canh cũng đứng dậy: “Nghĩa phụ đi trước một bước, con theo Phụng Hàm công về Linh Xu viện, kiểm kê đồ quân nhu áp tải đến.”
Sự chăm sóc và mờ ám ngắn ngủi tan thành tro bụi, hai người vội vàng đi hai ngả.
Cố Quân và Đàm Hồng Phi dẫn theo một đội vệ binh, nhanh chóng ra khỏi thành, đi về hướng Bắc đại doanh.
Cố Quân mang áo tơi là quá đúng, mới đi đến giữa đường, sấm rền ù ù không ngừng nơi chân trời đột nhiên hóa thành một tia chớp sáng như tuyết, lạnh lẽo đánh xuống bầu không, bầu trời âm u theo đó toác ra, một cơn mưa to hiếm thấy trước Cốc vũ ập xuống.
Nhất thời ào ào trút nước, mưa gió mịt mù.
Mưa làm Đàm Hồng Phi sặc thở không nổi, hắn quệt mạnh bọt nước trên mặt, nhớ tới ban nãy khi ở hầu phủ thông báo, Hoắc Đan nói là Hầu gia đang bị bệnh, lập tức không nhịn được thúc ngựa chạy đến bên cạnh Cố Quân, nói lớn: “Mưa quá to, Đại soái, ngài bị phong hàn chưa khỏi, chi bằng tìm nơi trú trước, đợi mưa tạnh rồi đi cũng chưa muộn…”
Cố Quân quát: “Ngươi xem mây kìa, ai biết tới ngày tháng năm nào nó mới tạnh, đừng nói nhảm nữa!”
Có lẽ là cơn mưa rào bất thình lình quá mau quá không hợp lẽ thường, trong lòng Cố Quân bỗng có dự cảm xấu.
Huyền Thiết doanh bị người phiên bang gọi là “quạ đen”, là đầu lĩnh của quạ đen, Cố Quân quả nhiên có cái miệng quạ đen có một không hai, cơ hồ tất cả dự cảm xấu đều trở thành sự thật, bách phát bách trúng, chưa từng thất thủ.
Đàm Hồng Phi đoán quân Tây Dương sẽ Bắc thượng trong vòng ba ngày – hắn đã quá lạc quan.
Ban đêm, trên một tháp theo dõi của cảng Đại Cô.
Trước ống đồng thiên lý nhãn có hai thanh gạt bụi bằng bàn tay, đang trầy trật lên xuống trong mưa, không bao lâu liền bị gió dập mưa vùi đến cúi đầu.
Lão tháp binh trong ca trực đành phải thò tay ra ngoài cửa sổ, mò tìm tay cầm loang lổ rỉ sét – hỏa cơ trong đó đã hỏng lâu rồi, mãi chẳng ai sửa, chỉ có thể dùng tay lật. Hắn vẩy nước mưa trên tay, chửi bới vặn tay cầm, bánh răng rụng răng ngắc ngoải rên kẽo kẹt, một chiếc ô nhỏ bằng kim loại như chưa ăn no từ từ xòe lên, giữa gió thảm mưa sầu che khuất kính trước của thiên lý nhãn.
Lão tháp binh lau hơi nước trên mặt kính thiên lý nhãn, than phiền với đồng đội: “Đều là đi lính, mà người ta bay trên trời, sất trá phong vân, uy phong muốn chết, chúng ta thì ngược lại, mỗi ngày ở trên tháp không quét dọn thì đánh bài, mẹ nó so với hòa thượng còn yên tĩnh hơn, một chút béo bở cũng chẳng kiếm được, suốt ngày việc chó má gì cũng không có, còn phải thường niên ở đây, vợ cũng sắp nhận không ra… Ôi, thật tà môn, sao mưa to thế, ở đâu có đại oan tình đây?”
Đồng đội quét dọn không buồn ngẩng đầu lên: “Ngươi hãy trông không có việc gì đi. Không nghe đội trưởng nói phong hỏa lệnh cũng truyền tới rồi sao, vạn nhất người Tây Dương đánh tới, thì ngươi có việc làm rồi.”
“Đừng nghe đội trưởng nói bậy, hắn tháng nào chẳng lải nhải vài ngày nữa người Tây Dương sẽ đánh tới?” Tháp binh nói, “An Định hầu không phải còn tọa trấn ngay sát kinh thành đó à.”
“An Định hầu cũng vào thiên lao rồi.”
“Ơ, không phải lại thả rồi à…” Lão tháp binh nói đến đây, tựa hồ nghĩ ra điều gì, đột nhiên nói, “Đúng, việc này kể cũng rất cổ quái, không phải đều đồn An Định hầu tạo phản à, sao thả nhanh vậy, chẳng lẽ…”
“Suỵt,” Đồng đội chợt ngẩng đầu lên, “Đừng nói huyên thuyên, ngươi nghe xem!”
Một tràng “uỳnh uỳnh” như sấm mơ hồ từ trong gió truyền đến, tháp theo dõi phảng phất cảm nhận được điều gì, bắt đầu run rẩy.
Sấm nổ sao?
Không đúng, tiếng sấm đều là từng đợt, chứ đâu có kéo dài không dứt như vậy?
Lão tháp binh chần chừ khom lưng ghé vào trước thiên lý nhãn, chậm rãi xoay ống kính.
Ngay sau đó, đôi mắt hơi mờ của hắn xuyên qua màn mưa đen như mực, bất ngờ gặp phải cái bóng khổng lồ trên biển.
Trong ác mộng cũng chẳng có quái vật giương nanh múa vuốt như vậy, bách trảo giơ lên trời, nó phẫn nộ gầm gừ khẽ.
Lão tháp binh cho là mình hoa mắt, ra sức mà dụi, nhìn lại mới thấy “hải quái” kia đi như bay, mới còn là một cái bóng mơ hồ, chớp mắt không biết đã đi bao xa, đủ để thiên lý nhãn thấy rõ.
Đàn hải giao đông nghìn nghịt sát ý lẫm liệt trong đêm tối đen ngòm lướt tới, chiến kỳ phần phật trong mưa gió như một tấm phướn chiêu hồn xui xẻo, bóng ma trùm lên cả đại dương mênh mông.
“Địch tập…” Lão tháp binh khó khăn mở miệng.
“Cái gì?”
Lão tháp binh quay ngoắt lại, quát lên: “Địch tập! Bọn Tây Dương đánh tới rồi, kéo chuông đánh trống! Thất thần làm gì, nhanh đi-“
Tiếng trống dồn dập xuyên qua màn mưa, ngọn đèn vốn xoay không nhanh không chậm trên tháp theo dõi chợt tăng tốc, xoay tròn điên cuồng, một truyền mười mười truyền trăm, chẳng qua mấy hơi thở, tất cả tháp theo dõi trên cảng Đại Cô đã gióng lên tiếng trống.
Bắc Hải Đề đốc thủy lục Liên Nguy tim đập như nổi trống, kể từ khi nhận được tin Giang Nam binh bại thì hắn chưa từng dám chợp mắt, giật lấy thiên lý nhãn trong tay thân vệ.
Vừa nhìn, hắn liền rên thầm một tiếng “Trời ơi”, lạnh từ trước ngực đến sau lưng.
“Làm thế nào đây tướng quân?”
“Tất cả…” Cổ Liên Nguy nhấp nhô, “Trường giao đi trước, không cần chào hỏi, trọng pháo bắn… khoan đã, thêm xích sắt, đúng rồi, tất cả trường giao đi song song, buộc thêm xích sắt! Tạo thành hàng rào sắt ngoài cảng!”
“Dựng bạch hồng-“
“Báo cho thuyền đánh cá và thương thuyền ở cảng lập tức rút lui!”
Liên Nguy cúi đầu nhìn qua “phong hỏa lệnh” còn chưa kịp cất đi trong lòng mình – đó là cảnh cáo chuẩn bị chiến đấu cấp cao nhất của Đại Lương, một khi nhận được “phong hỏa lệnh”, cho thấy toàn cảnh đã tiến vào trạng thái chuẩn bị chiến tranh bất cứ lúc nào.
Phong hỏa lệnh ký một chữ “Cố”, đó là An Định hầu đích thân ký.
Năm ấy Huyền Thiết doanh bị tập kích ở Bắc cương, mười mấy vị tướng lĩnh lớn nhỏ hàm oan cởi Huyền Thiết hắc giáp, buông cát phong nhận, rải rác các nơi, lớp ẩn lui, lớp dưỡng lão – Liên Nguy vốn cho là mình sẽ bị nhốt cả đời trên bến tàu con con, mỗi ngày ăn không ngồi rồi dẫn người đi một vòng trên bến, thi thoảng quản ba cái chuyện vặt vãnh như ngư dân tụ tập ẩu đả… Thậm chí nghe tin Bắc đại doanh vì việc năm đó mà nổi dậy, hắn cũng không có dũng khí đứng ra đòi lại công bằng như Đàm Hồng Phi.
“Truyền tin đến Bắc đại doanh,” Liên Nguy siết chặt giáp trụ quanh thân, hít một hơi thật sâu, gắng sức hóp cái bụng to ra, “Báo An Định hầu, cảng Đại Cô bị hải quân Tây Dương đánh lén, nhanh đi!”
Liên Nguy đang toan đi thì chợt nhớ điều gì, xách cát phong nhận bỏ xó bị bụi phủ nhiều năm, nhẹ nhàng vuốt ve một chút, quay người vác trên lưng.
Cát phong nhận xưa kia chém cát vàng sớm đã rỉ đến mức ngay cả rãnh chứa tử lưu kim cũng chẳng mở nổi, thành một cây thiết côn màu đen nặng nề, ngoại trừ nửa đêm canh ba cướp đường dùng làm gậy đánh nhau, chắc hẳn chẳng còn công dụng nào khác.
Song khi vác nó lên lần nữa, hắn bỗng tìm về cảm giác huyền giáp trên người, bễ nghễ vô song năm đó.
Nhiều năm đắm chìm và tích mỡ, tuyết đao và cương giáp khảm vào xương thịt mang máng còn đó.
Hàng rào sắt tạo thành từ trường giao và hải quái hung hăng chính diện đối đầu, đánh giáp lá cà, trong mưa gió chiến thuyền Tây Dương hệt như quỷ mị, gió mạnh trên biển cũng không theo kịp chúng, ba đào điên cuồng dấy lên tựa hồ có thể nuốt chửng sóng lớn của đại lục, lửa đạn nổ mấy ngày liền, vô số chiến thuyền chớp mắt tan tành, chìm xuống đại dương sóng gió ngập trời.
“Tướng quân, hàng rào sắt e là ngăn không được!”
“Tướng quân, thuyền bên cánh trái chìm quá nhiều, xích sắt…”
“Tháp theo dõi – cẩn thận!”
Một phát đại bác từ xa bắn tới như hỏa long, ngay cả màn mưa cũng không cản nổi ngọn lửa hừng hực, “Uỳnh” một tiếng trúng ngay một tòa tháp theo dõi, tháp cao ngả nghiêng, từ từ gãy gập ngay chính giữa.
Trên đỉnh tháp một ngọn phong đăng đi trong mưa gió chợt tắt phụt.
Liên Nguy đẩy thân vệ ra, bước lên sàn chiến thuyền, gầm lên: “Trọng pháo không được ngừng, lắp xuy hỏa tiễn lên bạch hồng!”
“Liên tướng quân, cảng Đại Cô không thể…”
“Tránh ra!” Liên Nguy đẩy tiểu binh ở chỗ bạch hồng tiễn ra, quát to một tiếng vác xuy hỏa tiễn trên dưới trăm cân nện lên bạch hồng cung, hắn lau mạnh nước mưa trên mặt, hai tay chỉnh bạch hồng.
Mũi xuy hỏa tiễn đầu tiên bị bạch hồng cung bắn vọt lên trời, lớp vỏ sắt ở đuôi tuột ra, ánh tử lưu kim tựa như minh hỏa đao thương bất nhập, tăng tốc xuy hỏa tiễn, lao vút qua như sao băng, chiến kỳ trên hải quái rơi xuống biển.
Chiến kỳ phấp phới của tòa thánh bị lực xung kích khổng lồ xé thành một nắm tã ngay trên không, tứ tán trong gió, mà xuy hỏa tiễn thế đi không giảm, trúng ngay một hải giao Tây Dương nghênh ngang, nổ ra một đóa pháo hoa rực rỡ trên biển.
Liên Nguy buông tiếng thét dài, râu tóc dựng ngược vì phẫn nộ.
Không có lệnh của chủ soái, Huyền Thiết doanh nửa bước cũng không dám lui.
Khi tin tức cảng Đại Cô bị tập kích đưa đến ngay trong đêm, Cố Quân đang ở trong soái trướng cùng Đàm Hồng Phi và Hàn Kỳ Thống soái Ngự lâm quân chỉnh lại phòng ngự kinh thành lần cuối.
Nghe tin, Hàn Kỳ cơ hồ nhảy dựng lên, thất thanh nói: “Sao lại nhanh như vậy!”
Cố Quân mặt trầm như nước: “Đề đốc thủy lục Bắc Hải là ai?”
“Liên Nguy,” Đàm Hồng Phi đỏ hoe vành mắt, giây lát sau, lại không nhịn được bổ sung, “Là phó thủ của mạt tướng năm xưa.”
Khóe mắt Cố Quân hơi giật nhẹ: “Hàn thống lĩnh.”
Hàn Kỳ hiểu ý: “Vâng, mạt tướng lập tức về kinh, Đại soái yên tâm, Ngự lâm quân cho dù là lính thiếu gia, cũng chỉ có một nơi táng thân là dưới móng hoàng thành.”
Cố Quân nhìn hắn một cái thâm sâu, chợt xốc soái trướng lên: “Đám lão già Linh Xu viện kia có thể nhanh hơn không?”
Lời còn chưa dứt, một binh truyền lệnh chạy tới: “Đại soái, Nhạn Bắc vương đến!”
Cố Quân vừa quay đầu lại thì Trường Canh đã phóng ngựa đến trước mắt, ghìm cương: “Đại soái, Linh Xu viện đã tu chỉnh xong một ngàn Huyền Thiết trọng giáp, năm trăm ưng giáp, khinh cừu tách ra không thành bộ, oản khấu trường tí ba ngàn đôi, thiết tất phi túc bốn ngàn cặp, kiên khôi còn một chồng, sẽ sớm đưa đến-” (Kiên khôi là giáp ở vai, thiết tất phi túc là nẹp đầu gối và chân, oản khấu trường tí thì là cổ tay và cánh tay)
|
Chương 61: Tin thắng trận
Đàm Hồng Phi theo Cố Quân ra khỏi soái trướng nghe thế sững người, dù nằm mơ cũng không ngờ một ngày kia mình có thể mặc lại huyền giáp; đột nhiên, một bụng ưu sầu không còn sót lại chút gì, chỉ cảm thấy qua trận này, dẫu máu chảy đầu rơi cũng đáng.
Đàm Hồng Phi tiến lên một bước, cao giọng nói: “Thuộc hạ nguyện tiên phong cho Đại soái!”
“Không thể thiếu ngươi, bạch hồng chiến xa mở đường, khinh kỵ và huyền ưng đi theo ta, trọng giáp áp trận,” Cố Quân, “Lấy cho ta một thanh cát phong nhận, yêu ma quỷ quái gì, gặp thử mới biết.”
Trường Canh tháo trường cung sau lưng, thanh này còn là xin Cố Quân lúc tiễu phỉ ở Tây Nam, nó dường như là tác phẩm ngon nghẻ cuối cùng của Linh Xu viện từ sau khi Hoàng đế Long An bắt đầu cắt giảm binh quyền, bởi vì thiết cung không hề màu mè kia thật sự cực nặng, không phải cao thủ chân chính thì căn bản không dùng được, nên trong cả quân đội chỉ có một thanh dùng thử.
Mà nó vốn có thể phổ biến trong quân sau khi qua cải tiến…
Trường Canh vuốt ve thiết cung lạnh ngắt, hỏi: “Nghĩa phụ, con có thể đi theo không?”
Cố Quân khựng lại, không muốn dẫn Trường Canh theo lắm – không phải vì điều gì khác, mà là qua trận này, trong lòng y sinh ra nhiều mong đợi hơn với tiểu hoàng tử mới ra đời này, bản thân y có lẽ có thể thủ vững đến bước cuối cùng, vậy về sau thì sao?
Ai đi chỉnh đốn non sông tan hoang này, ai có thể tìm một lối thoát cho lê dân chúng sinh trong loạn cục này?
Trường Canh đối nhân xử thế khôn khéo chu toàn hơn y lúc trẻ nhiều, có lẽ sẽ không gây với Hoàng thượng đến tình trạng không thể vãn hồi như y bây giờ…
Trường Canh hình như biết trong lòng y đang nghĩ gì: “Dưới ổ lật nào có trứng lành, hiện giờ kinh thành thế này, chờ đợi trong cung và theo lên tiền tuyến chẳng khác gì nhau, vạn nhất thành phá, không phải khác biệt là chết sớm và chết muộn sao?”
Cố Quân chưa kịp nói gì, Đàm Hồng Phi đã cười to nói: “Điện hạ nói đúng lắm! Đâu đâu cũng toàn hủ nho, chỉ có điện hạ là chân nam nhi!”
Cố Quân vô kế khả thi, đành phải khoát tay: “Chuyện cũng để ngươi nói rồi, muốn thì đi đi.”
Sau đó y trừng Đàm Hồng Phi một cái, nhìn vết roi chưa lành trên mặt Đàm tướng quân, muốn quất nốt mặt bên kia cho sưng lên, biến ai đó thành một cái đầu heo đối xứng.
Bên ngoài kinh thành, huyền thiết đông nghìn nghịt nối liền thành dải, đảo mắt nhìn qua, thoáng như về bên suối Nguyệt Nha.
Từ trên ngựa quay đầu lại, Khởi Diên lâu giữa mưa to tầm tã đèn đóm vẫn chưa yếu đi, chỉ phảng phất trùm lên một tầng ánh sáng êm dịu mỏng manh như đồi mồi, cùng hoàng thành nguy nga xa xa nhìn nhau, hai mươi cỗ hồng đầu diên chỉ đêm Trừ tịch mới bay lên ngoại lệ treo cao giữa trời, tựa những ánh mắt buồn bã tiễn đưa.
Cố Quân dùng tay ra hiệu, quân tiên phong của Bắc đại doanh đã uy nghiêm lên đường, không bi ca cũng không khẳng khái từ, họ đi trong mưa, dưới mặt nạ bảo hộ và mũ giáp không đường dòm ngó, hệt như một đám thiết khôi lỗi vô cảm vậy.
Mưa to làm kinh thành nổi trên mặt nước, đá tảng bạn cũ làm vật chứng giám.
Đêm này, hải quân Tây Dương tiến về phương Bắc tập kích cảng Đại Cô, Liên Nguy Đề đốc thủy lục Bắc Hải suất lĩnh ba trăm trường giao và một ngàn đoản hạm thủ vững, trước lấy xích sắt nối liền trường giao, song song ngoài cảng thành lưới sắt, thủ tới giờ Tý canh ba ngày kế, toàn bộ trường giao táng thân dưới lửa đạn của hải quái Tây Dương, không một cỗ may mắn thoát khỏi.
Trong thủy quân Bắc Hải dự trữ tổng cộng ba vạn sáu ngàn mũi xuy hỏa tiễn, trường hồng thiết tiễn mười vạn phát, mà một mũi cũng chẳng còn sót, tất cả đều chìm dưới sóng dữ và biển sâu.
Sau đó đạn tận lương tuyệt, Đề đốc Liên Nguy lệnh cho tất cả đoản hạm chạy đủ tốc độ, lấy hạm làm xuy hỏa, lấy thân làm bạch hồng, lao vào trận địa địch.
Liệt hỏa trôi nổi trên biển, trung hồn tan xương nát thịt.
Thủy quân Bắc Hải tổng cộng đâm chìm, đánh nát, nổ hủy gần ba ngàn chiến hạm hải giao như hổ sa của kẻ xâm lược, cuối cùng ép hải quái Tây Dương không thể không bất chấp mưa bão mở thiết xúc tu, thả ưng giáp che giấu ra, hốt hoảng chật vật lên bờ từ đường không trung, bấy giờ mới phát hiện, trên cảng Đại Cô cơ hồ đã không còn ai.
Giờ Dần một khắc, người Tây Dương lên bờ chán nản vô cùng, nóng lòng bù lại tổn thất trong trận chiến này, chưa chịu dừng lại, tiến thẳng về kinh sư, trên đường cùng Huyền Thiết doanh – Huyền Thiết doanh hôm ấy một đêm tổ kiến lên – gặp nhau ở ngoài thành Đông An.
Hải quân Tây Dương còn chưa định thần lại từ cuộc đổ bộ tổn thất nặng nề, không kịp đề phòng, vừa đối mặt liền bị tám mươi chiến xa mở đường chặn đầu, sau đó Huyền Thiết khinh kỵ hoành hành biển cát ra khỏi trùng vây, ưng hành cửu thiên, lệ thanh như kiếm.
Cận vệ của Giáo hoàng thình lình gặp cát phong nhận, suýt nữa đương trường bị khinh kỵ tách ra, hốt hoảng lui thủ ngoài cảng Đại Cô-
Đại Lương đã nhiều năm chưa có đêm nào kinh tâm động phách như vậy, chiến báo và sứ giả ra vào cung cấm như họp chợ, so với điểm canh còn chăm hơn.
Cả kinh thành không ai ngủ yên, cho đến sáng sớm hôm sau, tin chiến thắng và ánh ban mai cùng đến.
Lý Phong đột nhiên được nghe tin tức tốt đầu tiên sau nhiều ngày, cơ hồ không đứng dậy nổi, nhất thời cũng không biết là nên khóc hay nên cười.
Mưa tạnh trời quang, hải hà một đêm dâng cao, không trung nồng nặc một thứ mùi khó tả, pha lẫn mùi thuốc súng và máu tanh, dưới đất đã ấm lại, ẩm ướt lảng vảng chưa đi, một đêm chiến đấu ác liệt, Cố Quân không có hải quân, người Tây Dương thảm hại vô cùng, đành phải tự lui thủ.
Cố Quân ngồi cạnh nòng pháo chưa kịp nguội, mũ giáp huyền thiết ném qua một bên, tóc tai rũ rượi buông xuống một lọn, nhận bát thuốc Trường Canh đưa dốc một hơi cạn sạch.
Trường Canh nói: “Con không mang châm, mà có mang cũng chẳng dám châm cho người.”
Y kéo thiết cung suốt đêm, hai tay hằn một dấu thật sâu, lúc này vẫn còn run nhè nhẹ.
Cố Quân nắm cổ tay y kéo đến trước mặt, thấy y chỉ thoát lực chứ chưa hề bị thương, mới yên tâm khoát tay: “Cứ kệ ta, đi thống kê thương vong đi, Lão Đàm tính không nổi đâu.”
Nói xong dựa luôn lên hỏa pháo, tận dụng chốc lát này để nhắm mắt nghỉ ngơi.
Giây lát sau, Cố Quân bị sứ giả đến từ hoàng thành đánh thức.
Chạy tới truyền lệnh là một Ngự lâm quân còn trẻ, vốn với cấp bậc của gã không hay được nhìn thấy Cố Quân, hiện giờ cuối cùng đã gặp được An Định hầu sống, quả thực kích động đến khó lòng kiếm chế, phi ngựa lao đến, lúc nhảy xuống không biết vấp thứ gì mà ngã sấp mặt, lăn thẳng đến dưới chân Cố Quân: “Hầu gia!”
Cố Quân vội co chân lại: “Ôi trời, làm gì mà hành đại lễ vậy?”
Quan truyền lệnh kia hưng phấn nói: “Hầu gia, bệ hạ lệnh cho ta đến khao thưởng Bắc đại doanh, mang đến… mang đến…”
Giỏi, vừa hưng phấn thì quên luôn phải nói gì.
Khó trách bị Bắc đại doanh đánh tan tác, Cố Quân bất đắc dĩ, đành phải dậy vỗ vỗ đầu gã: “Không cần nói với ta, kêu Đàm tướng quân xem mà làm đi – ngươi trở về bảo với bệ hạ, đừng vui mừng quá sớm, Bắc đại doanh chỉ có vài người, tới khi đánh hết ta cũng chẳng biến ra nổi người mới, đến lúc đó nếu viện quân không tới…”
Quan truyền lệnh sững sờ nhìn y.
Binh pháp nói rằng, “Phàm chiến giả, dĩ chính hợp, dĩ kỳ thắng(1)”, rất nhiều người đại khái chỉ nhớ “dĩ kỳ thắng”, luôn cảm thấy nếu danh tướng có thể tìm đường sống trong chỗ chết, thì có thể lấy sức bản thân cứu vãn tòa lâu đài sắp đổ – nhưng làm sao có thể?
Trừ phi Cố Quân y có thể lấy bùn nặn ra một đám thần binh không ăn không uống còn đao thương bất nhập.
Trận chiến mở màn giành thắng lợi, truyền về kinh thành không biết quần thần phải hân hoan vui mừng thế nào, nhưng bước tiếp theo thì sao? Tạm không thảo luận to tát, không đề cập tới những chuyện lâu dài như so quốc lực, so dự trữ, so tài nguyên, chỉ nói trước mắt, trong tay y chỉ có chút ít binh lực, phải làm thế nào đây?
Cố Quân hiểu rõ, vô luận mở đầu này trông uy phong cỡ nào, cũng không thay đổi được sự thật là y chỉ dựa vào nơi hiểm yếu để chống cự.
Y nở nụ cười như đau răng, bỏ sứ giả của Hoàng đế ở đó, đi đến chỗ Đàm Hồng Phi.
Đàm Hồng Phi cầm thanh cát phong nhận một đầu đã bị đè bẹp, trên một đầu cháy sém còn có thể nhìn ra khắc nửa chữ “Liên”.
Rất nhiều tướng sĩ khắc tên họ mình trên cát phong nhận, như vậy cho dù cầm đi kiểm tu, phát về cũng có thể tìm được ông bạn già sống chết có nhau, nếu chủ nhân chết trên chiến trường không tìm thấy thi thể, đồng bào sẽ mang cát phong nhận của hắn về, đến lúc đó tế một bầu rượu, linh hồn cũng coi như xuống mồ an nghỉ.
Đàm Hồng Phi hai tay nâng thanh cát phong nhận kia, đưa tới trước mặt Cố Quân: “Đại soái.”
Cố Quân nhận lấy, đột nhiên có cảm giác, giống như Huyền Thiết doanh lắm tai nhiều nạn mấy phen tụ tan thủy chung lót dưới xã tắc, tựa một nắm hạt giống rải rác, lưu lạc tứ phương, bất tri bất giác có thể từ đó mọc lên một gốc đại thụ che trời.
Trường Canh đi đến phía sau y: “Đêm qua thiệt hại mười ba cỗ chiến xa, khinh kỵ bỏ mình năm trăm, trọng thương ngót một ngàn, thương nhẹ không tính, không đếm, ưng giáp rơi mười hai, hộp vàng phần lớn nổ trên không trung, người e là…”
Cố Quân gật đầu, cảm thấy số lượng thương vong này có thể chấp nhận: “Công lao của Liên tướng quân.”
Trường Canh thấp giọng nói: “Chỉ sợ sáng sớm hôm nay trên triều hội sẽ bắt đầu có người muốn đàm hòa.”
“Đàm không được đâu,” Cố Quân nói, “Người Tây Dương đêm qua mất mặt như vậy, không mặt mũi nào đến đàm hòa, chưa vây khốn kinh thành đến mức chắp cánh cũng chạy không thoát, thì họ sẽ không đàm hòa với chúng ta.”
… Mà đó chỉ là vấn đề thời gian.
Trường Canh im lặng chốc lát: “Nghe nói vị vua mất nước tiền triều cũng từng bị Bắc man hãm thành, lén chạy ra từ mật đạo, nếu kinh thành thực sự thủ không được…”
“Thủ không được cũng phải thủ.” Cố Quân chợt nói, “Biết Cảnh Hoa viên ở Kinh Tây chứ?”
Trường Canh sửng sốt.
Cố Quân giơ ngón trỏ lên môi, “suỵt” một cái, không nói thêm nữa – Cảnh Hoa viên Kinh Tây chính là hành cung nghỉ mát dưới thời Nguyên Hòa Vũ đế, năm đó tiên đế Nguyên Hòa không chịu được nóng, cứ tới mùa hè là nhất định đến Cảnh Hoa viên, nhưng sau khi Lý Phong đăng cơ, chi phí ăn mặc nhất loạt giảm đi, ngay cả tiền son phấn của hoàng hậu cung phi cũng giảm phân nửa, không có việc thì không làm mấy trò phô trương như đi vây săn, xuất du nọ kia.
Song người tiết kiệm hoàn toàn bất đồng với phụ hoàng như vậy lại giữ nguyên thói quen mỗi mùa hè đến hành cung, mà còn không phải vì hưởng thụ, trong cung chính vụ chồng chất, hắn thường dậy từ tinh mơ chạy tới, trước khi đêm đến còn phải gấp gáp trở về, đi quanh kinh thành một vòng để điểm danh như chó đi rong – đừng nói tránh nắng, chưa bị cảm nắng là tốt lắm rồi.
Lý Phong hành mình như vậy, nếu không phải bị điên, thì chỉ có thể là… Trong Cảnh Hoa viên có thứ quan trọng, khiến hắn phải thường xuyên tuần tra.
Trường Canh nhạy bén cỡ nào, trong lòng lập tức sinh ra một ý nghĩ: Thủ tướng tứ phương đều từng nhúng vào việc buôn lậu tử lưu kim, vậy Hoàng đế thì sao? Do thời gian gấp gáp, y còn chưa kịp kiểm tra sổ sách của Hộ bộ và Binh bộ… Nhưng với tính tình cái gì cũng muốn nắm trong tay của Lý Phong, xây một kho tử lưu kim riêng cũng không ngạc nhiên chút nào.
Cố Quân: “Đại ca ngươi không chịu tin ai, đây cũng chỉ là phỏng đoán của ta, đừng nói với người khác.”
Trường Canh nhíu mày: “Phiền toái rồi… Đến lúc đó Lý Phong sẽ cầu hòa sao?”
Cố Quân bật cười, lắc đầu: “Người khác tới cầu hòa với y thì có, ừm… hẳn y cũng sẽ không chạy.”
Trường Canh chắp tay sau lưng, người dính đầy máu, nước bùn đêm hôm trước bám trên người đã khô, toàn thân có vẻ xanh đỏ lòe loẹt, mà Nhạn Bắc quận vương trẻ tuổi ngay trong sắc màu lòe loẹt thong thả cất bước, giống như xuân đến dạo ngự hoa viên buổi chiều cho tiêu cơm, trầm ngâm chốc lát, đoạn y nhàn nhạt bình luận: “Cũng đúng, Lý Phong không sợ chết, mà sợ cái khác.”
Cố Quân không khỏi nhìn y một cái, phát hiện Phụng Hàm công nói đúng, quả thật Trường Canh lúc nào cũng có vẻ thủng thỉnh, thế là đột nhiên hỏi: “Ngươi rốt cuộc biến thành người tính chậm chạp từ khi nào vậy?”
“Con chậm chạp chỗ nào, rõ ràng đang vội vàng nôn nóng muốn chết mà.” Trường Canh cười nói, “Đây kỳ thực là học từ người, con phát hiện khi trong lòng không thoải mái, nghĩa phụ thường sẽ vờ như rất cao hứng, trên mặt vui mừng rồi, cũng làm lòng dễ chịu hơn rất nhiều, thế nên mỗi lần phát hiện mình đặc biệt nóng nảy, con sẽ tự mình hơi chậm lại, quả thật có thể bình tĩnh theo. À, can hỏa quá vượng không tốt cho dưỡng sinh, dễ…”
“… Ngủ không ngon.” Cố Quân phải nghe y nói không chỉ một lần, đã có thể thuận miệng tiếp lời, “Ngươi rốt cuộc để ý chuyện giấc ngủ tới mức nào? Còn nữa, ta không thoải mái mà miễn cưỡng tươi cười khi nào?”
Trường Canh nhướng mày, đủng đỉnh nhìn y, vẻ mặt “Ngươi nói sao thì là vậy”.
“Chỉnh đội rút quân.” Cố Quân uể oải nói, “Thương bệnh binh đi trước, không bao lâu nữa, người Tây Dương sẽ phản ứng lại, chúng ta đến phục kích trước.”
Đi hai bước, Cố Quân cảm thấy mỏi mệt vô cùng, không tự chủ được nhớ tới bộ tà thuyết không biết học từ tay lang băm nào của Trường Canh vừa nãy, y liền tháo bầu rượu trên hông uống một ngụm, vác cát phong nhận của Liên tướng quân sau lưng, huýt sáo một tiếng.
Chiến mã nghe tiếng chạy chậm đến trước mặt, Cố Quân đổi điệu huýt, thổi một khúc tự biên kỳ quái, ngắt một đóa hoa dại nhỏ vàng rực dưới đất, nhảy lên ngựa: “Các huynh đệ khinh kỵ, lên ngựa đi theo ta!”
Cố Quân cầm đóa hoa dại, vốn định tiện tay cắm lên đầu Trường Canh ở gần y nhất, nào ngờ vừa giơ tay đã gặp ánh mắt Trường Canh, tầm mắt ấy vậy mà vẫn theo sát y không rời một tấc, biểu cảm giống như là “người trùm khăn cô dâu lên đầu con cũng được”.
Cố đại soái run bắn lên, không dám xuống tay, bèn cắm đóa hoa kia lên mũ giáp của Đàm tướng quân đầu to như cái đấu, sâu sắc giải thích cho câu “đóa hoa lài cắm bãi gì đó”.
Chúng lão binh Bắc đại doanh cười ồ lên, huyền giáp khinh kỵ huýt sáo lao theo Cố Quân, từng kẻ học theo, tiếng huýt sáo dở dở ương ương nối nhau vang lên, Cố Quân ở đằng trước phẫn nộ quát: “Ai cho các ngươi học theo ta, sắp vãi đái rồi!”
Náo loạn như vậy đúng thật là rất đỡ mệt.
Lúc này, trên hải quái Tây Dương-
Nhã tiên sinh nhếch nhác đi vào khoang thuyền, đụng ngay phải đoàn trưởng đoàn cận vệ của Giáo hoàng.
“Thế nào rồi?” Nhã tiên sinh hỏi.
Đoàn trưởng: “Tỉnh rồi, đang muốn gọi ngài vào.”
Trong cuộc hải chiến hỗn loạn, chỗ Giáo hoàng ở bị hỏa tiễn quẹt qua, vừa vặn nổ một giàn pháo, lực xung kích mạnh làm ngài đương trường ngất đi, sau đó hải quân Tây Dương vừa gặp Huyền Thiết doanh liền thảm hại vô cùng, cũng có liên quan rất lớn với việc này.
Nhã tiên sinh thở phào nhẹ nhõm, sải bước đi vào, Giáo hoàng thoa thuốc trên trán, mái tóc bạc phơ rũ rượi, lộ ra đốm đồi mồi không rõ lắm ở khóe mắt.
Nhã tiên sinh quỳ xuống đất, uể oải nói: “Bệ hạ, tôi rất xin lỗi…”
Lão nhân trên giường không mở mắt, thì thào mở miệng: “Là Cố Quân.”
“Đúng, là Cố Quân, chúng ta ban đầu lập kế hoạch vây hắn ở chỗ này, kỳ thực đã chuẩn bị sẵn sàng đối mặt ở Bắc Hải, nhưng hôm qua quạ đen đột nhiên xuất hiện,” Nhã tiên sinh dừng một chút, thần sắc hết sức ảo não, “Huyền Thiết doanh bị liên quân Tây Vực giam chân ở Gia Dự quan, tôi vốn nên có tự tin, nhưng vẫn…”
“Nhất thời chưa ổn định trận tuyến.”
Nhã tiên sinh không đáp được gì.
Giáo hoàng cười khẽ: “Mỗi người đều sẽ gặp phải kẻ địch tựa hồ không cách nào chiến thắng trong sinh mệnh mình, một số là tai nạn, một số chỉ là tôi luyện – ngươi biết giữa tai nạn và tôi luyện có gì khác biệt chứ?”
Nhã tiên sinh sửng sốt.
“Khác biệt chính là, tai nạn không thể chiến thắng, mà tôi luyện có thể vượt qua – ta nghĩ việc này cực kỳ dễ phân biệt, người Trung Nguyên đã bị cắt đứt thông tin, một thủ đô con con, nếu thực sự có nhiều quân bị như vậy, lúc trước khi chúng ta bịa đặt chuyện Bắc đại doanh làm phản, sẽ dễ loạn đến thế sao?”
Nhã tiên sinh: “Ý ngài là…”
“Cố tuy trẻ, nhưng hơn một nửa sinh mệnh đều trải qua trên chiến trường, không được để hắn dắt mũi – hắn cho dù là một lang vương ngông cuồng, lúc này cũng đã bị nhổ sạch nanh vuốt mà nhốt trong nhà tù, đi đi.”
Cùng ngày, hải quân Tây Dương một lần nữa chỉnh đội, ngang ngược đổ bộ cảng Đại Cô.
Sau khi lên bờ lại bị đánh lén, lần này giữa ban ngày ban mặt, Nhã tiên sinh nắm chắc, chỉ huy ổn định, thì sẽ nhanh chóng hạ được toàn bộ trọng giáp dựa vào nơi hiểm yếu chống cự này, thắng rất dễ dàng – không ngờ hắn còn chưa kịp đắc ý, lật mặt nạ bảo hộ của “tù binh” lên, mới phát hiện đợt này đánh úp không phải binh giáp Đại Lương, mà là một đám thiết khôi lỗi!
Đám thiết khôi lỗi này hiển nhiên là lâm thời điều động từ nhà đạt quan quý nhân chốn kinh kỳ, trong đó một con dưới mặt nạ bảo hộ còn có mặt nạ ngoan đồng, mặt bánh bao trắng bệch, ngoác cái miệng dữ tợn cười với kẻ đối diện, thực trào phúng không tả nổi.
Một binh lính Tây Dương tức không nhịn nổi đưa tay tháo, Nhã tiên sinh giật mình nói: “Đừng đụng…”
Đáng tiếc nói chậm, dưới mặt nạ bị lôi ra gắn một kíp nổ mảnh, túm nhẹ thì thiết khôi lỗi “uỳnh” một tiếng nổ tung, làm mấy binh lính Tây Dương cùng văng lên trời.
Mặt nạ bay ra rơi dưới chân Nhã tiên sinh, vẫn còn cười đùa cợt nhả.
Bắc đại doanh dùng một chiêu giả, lúc này vậy mà đã rút lui toàn thể, hải quân Tây Dương tức tối giết vào thành, chuẩn bị dùng máu bình ổn sự phẫn nộ của mình, ai ngờ trước mắt lại là một tòa thành trống.
Bắt đầu từ khi tin tức binh biến Giang Nam truyền đến kinh thành, Nhạn Bắc vương đã lập tức liên thủ với Hộ bộ, chia từng nhóm mà rút hết bách tính tiền tuyến – cũng có một số cố chấp không muốn đi, nhưng đêm hôm trước chứng kiến lửa đạn vang trời, lúc này đã bỏ trốn mất dạng từ lâu.
Cố Quân chừa cho họ vườn không nhà trống.
—
Câu này nằm trong Binh pháp Tôn Tử, nghĩa là trong chiến đấu, dùng quân chính quy để đối địch, kỳ binh để thủ thắng.
|
Chương 62: Vây thành
Trong thành trống có sự tĩnh mịch sởn gai ốc, làm lòng phát hoảng, Nhã tiên sinh vung tay lên, thủ hạ lập tức tứ tán soát tìm dân cư trong thành.
Nhà cửa dựng ven sông, quanh quanh co co, kẻ ngoại lai đi tới đi lui trong đây rất dễ lạc hướng, chốc chốc còn gặp một vài tảng đá lớn chặn đường, khiến địa hình vốn khó hiểu càng khó bề phân biệt hơn.
Trong lòng Nhã tiên sinh có dự cảm xấu, bỗng nhiên bắt đầu hối hận vì đã tiến bừa.
Đúng lúc này, một binh sĩ Tây Dương quát to một tiếng, mọi người xung quanh lập tức thành chim sợ cành cong, kẻ rút đao kẻ bạt kiếm, đông đảo cương giáp nhanh chóng làm thành một vòng, khẩu pháo đen ngòm nhắm ngay gốc hòe đại thụ có dị trạng kia.
Chỉ thấy trên cây hòe lủng lẳng một người lính Tây Dương, đã bị nổ bay nửa đầu, không biết là chết trong chiến dịch nào, cái đầu máu thịt bầy nhầy cột cái mặt nạ mặt bánh bao trắng bệch – lần này mặt nạ biến thành mặt khóc!
Một tiếng nổ vang lên, thì ra là một binh giáp Tây Dương nhất thời căng thẳng bắn đoản pháo, thi thể trên cây tức khắc bị nổ thành một đống thịt, rào rào rơi xuống, sau đó, một tràng cười sởn gai ốc vang lên, binh sĩ Tây Dương dưới tàng cây nhao nhao lui lại như lâm đại địch.
Giây lát sau, một con cú mèo mặt tròn từ trong tán cây ló đầu ra, ngạo nghễ đảo mắt nhìn đám thú hai chân bên dưới, đập cánh bay thẳng lên trời, rải tiếng cười quỷ dị ra khắp nơi.
Giữa ban ngày ban mặt, lại dọa người ta vã hết mồ hôi lạnh.
“Jacobsen đại nhân, tiếp tục lục soát chứ?”
Nhã tiên sinh khó khăn nuốt một cái: “Không… Rút đi trước, rời khỏi nơi này, mau!”
Hắn còn chưa dứt lời, đằng xa chợt vang lên tiếng nổ chói tai, sau đó là mấy tiếng kêu thảm thiết, mấy đóa pháo hoa khổng lồ gầm rít bay lên trời, nổ bùng rực rỡ.
Tức khắc có kẻ biến sắc nói: “Chúng ta gặp phục kích rồi!”
“Rút!”
“Rời khỏi đó!”
Tiếng pháo và tiếng tên cùng vang lên, vài tiếng nổ lớn không biết do ai gây nên xô đổ nhà bằng đá vốn đã lắc lư, đá tảng lộn xộn cùng cự thạch chặn đường ban đầu nối liền nhau, thành trống này đã trở thành một mê cung khổng lồ.
Bản đồ trong tay người Tây Dương hoàn toàn thành một tờ giấy vụn, chỗ tai hại của người ngoài không quen thuộc địa hình hiển lộ rõ, một đám trọng giáp và bộ binh nhất thời hãm sâu trong đó, như ruồi nhặng không đầu tìm một lát mà không thấy đường ra!
Nhã tiên sinh rơi vào đường cùng đành phải huýt sáo gọi ưng giáp Tây Dương, bay lên không chỉ huy điều động, tốt xấu gì cũng dẫn được người ra.
Đại quân Tây Dương chưa hết hoảng hồn lui tới cổng thành, không biết ai đụng phải cơ quan gì, mà trên cổng thành đột nhiên truyền đến tiếng bánh răng ghê răng, nhất thời, cung tên toàn bộ kéo căng, vạn tên nhất tề chờ bắn chỉ về hướng thành lâu, bên trên chậm rãi rơi xuống một thứ…
Nhã tiên sinh gạt thị vệ như chim sợ cành cong ra, tiến lại nhìn, suýt nữa tức đến méo mũi, đó lại là một cái mặt nạ màu trắng, lần này là mặt quỷ!
Nhã tiên sinh: “…”
“Đại nhân, chúng ta… chúng ta nên vòng đường đi?”
Nhã tiên sinh giơ tay ngắt lời hắn, sắc mặt âm chí đứng nguyên đó giây lát: “Bệ hạ nói đúng, trong tay Cố Quân không có át chủ bài, chỉ có thể dựa vào những quỷ kế bất nhập lưu này, chẳng lẽ các ngươi bị hắn dùng mấy tấm mặt nạ dọa vỡ mật rồi sao? Đánh phục kích… A!”
Hắn tức quá hóa cười, lạnh lùng nói: “San bằng tòa thành này cho ta, xem chúng phục ở đâu!”
Song hơn một canh giờ sau, Nhã tiên sinh san bằng cả tòa thành trống lục soát phế tích ba lần, rốt cuộc không thể không thừa nhận, cái nơi quỷ quái lãng phí vô số thời gian quý báu và tử lưu kim của hắn, thật sự chỉ là một tòa thành trống, “phục binh” chỉ có hai tấm mặt nạ và một con cú mèo đã sớm bay đi mất!
Nhã tiên sinh suýt nữa cắn đến xuất huyết lợi: “Ưng dò đường đâu? Truy cho ta! Toàn tốc truy kích!”
Lúc này, trên con đường tất qua từ Đông An đến kinh thành, Cố Quân nấp dưới tàng cây nhận thiên lý nhãn Đàm Hồng Phi đưa cho, nhìn theo vài ưng dò đường rít gào bay qua đầu, lao vút đến hướng kinh thành.
Y phun nhánh cỏ đang ngậm trong miệng, vỗ vỗ cát phong nhận của Liên Nguy sau lưng: “Lão Liên, ngươi xem như lập công lớn rồi.”
Đàm Hồng Phi nhỏ giọng hỏi: “Thế nào?”
“Đã nhìn ra chưa?” Cố Quân uể oải nói, “Vị quản sự người Tây Dương kia hiện tại nhất định không chết cũng bị thương, người bây giờ lĩnh binh rõ ràng không quen thuộc vùng kinh thành, nếu không đã chẳng kích phẫn mà tùy tiện phái ưng dò đường bay loạn.”
Trong hoàng thành, kinh kỳ trọng địa xưa nay nghiêm mật, tuyệt không cho phép tùy ý nhìn trộm, ngay cả huyền ưng cũng không dám bay loạn, dù là thời kỳ đặc biệt, huyền ưng cũng chỉ dám dừng chân ở nơi đóng quân của Bắc đại doanh, tháo ưng giáp sau đó cưỡi ngựa vào kinh.
Nhưng tuyệt đại đa số không biết, sở dĩ huyền ưng không dám bay, không phải do Huyền Thiết doanh đặc biệt thủ quy củ, Cố Quân biết, huyền ưng một khi vi phạm bay vào, sẽ rất dễ đụng tới “lưới cấm không”.
Ngoài kinh thành cửu môn có một vòng “lưới cấm không” vô hình, xây dựng trong thời Vũ đế, mất ba mươi năm mới hoàn thành, là kiệt tác của Linh Xu viện, dưới lưới cấm không có vô số cọc ngầm, tổng điều hành ở ngay trên Khởi Diên lâu.
Khởi Diên lâu sở dĩ xây cao như vậy, ngoại trừ cho khách tứ phương ăn uống chơi bời, còn có tác dụng vô cùng quan trọng – nó là cọc chính của mạng lưới cấm không, trên “Trích Tinh lâu” có một “Thiên Viên Địa Phương các”, bình thường khóa kín. Vì Thiên Viên Địa Phương các này, Linh Xu viện không biết đã trọc đầu bao nhiêu đại sư, nó sẽ phát ra một vòng lưới ánh sáng đặc thù ngoài cửu môn, cực kỳ kín kẽ, dù là ban đêm cũng dễ dàng bị trăng sao hoặc ánh lửa che đi, trừ phi thiên phú dị bẩm, nếu không mắt thường cơ hồ không nhìn thấy.
Tầng lưới ánh sáng này cách mặt đất ba mươi trượng, không ảnh hưởng tới người và súc vật dưới đất, nếu có ai dùng ưng giáp bay qua, dưới ba mươi trượng nhất định sẽ bị vệ binh cửu môn phát hiện, có bạch hồng tiễn chờ sẵn, mà một khi độ cao ưng bay vượt qua ba mươi trượng, sẽ đụng vào lưới cấm không.
Lưới ánh sáng bị chạm vào khúc xạ về Thiên Viên Địa Phương các, lại đi qua gương đặc thù chiếu về cọc ngầm dưới đất của lưới cấm không, những cọc ngầm đó sẽ bắn ra theo tín hiệu ánh sáng trên trời, vây chặt vị trí của kẻ xâm phạm, đồng thời bắn tên từ tám phương vị, nếu ưng giáp tránh né, sẽ phát hiện trong phạm vi lưới cấm không, né đến đâu cũng có minh thương ám tiễn của cọc ngầm đi theo như bóng với hình.
Chỉ có ngày Trừ tịch, Thiên Viên Địa Phương các một năm kiểm tu một lần, sẽ tạm thời tắt lưới cấm không, do trạm gác trên hồng đầu diên theo dõi thay.
“Ưng dò đường có đi không về, Thống soái Tây Dương sẽ nhanh chóng nhớ tới lưới cấm không trong truyền thuyết, phong hỏa lệnh hạ, hồng đầu diên toàn bộ lên trời, vị trí lưới cấm không cũng sẽ điều chỉnh thay đổi theo, họ nhất thời không rõ thứ kia đã đổi tới nơi nào, càng bức sát kinh thành, thì càng không dám cho ưng giáp bay quá cao…” Cố Quân rỉ tai Đàm Hồng Phi, “Truyền lệnh xuống, bảo các huynh đệ nghỉ ngơi cho khỏe, đêm đến động thủ, huyền ưng đi trước, từ trên cao ép xuống, khinh kỵ lại tập kích bất ngờ từ hai cánh, tách trận địa địch ra, không được ham chiến, một kích đi luôn, để tránh bị vây, xa binh làm bộ chặn đường lui, nổ hai ba hiệp rồi để họ rút đi, đừng ép đối phương cá chết lưới rách, chúng ta không đủ binh lực đâu.”
Đàm Hồng Phi nhỏ giọng hỏi: “Đại soái, tại sao chúng ta không mai phục trong thành?”
“Ai lại mai phục giữa ban ngày?” Cố Quân trợn mắt, “Não bị nhũn à?”
… Nhã tiên sinh chắc hẳn phải hắt xì hai cái liền.
Đàm Hồng Phi khiêm tốn cân nhắc một hồi, cảm thấy hết sức có lý, vì thế lại hỏi: “Đại soái, vậy làm sao ngài biết ban đêm họ sẽ đến đây?”
Cố Quân: “Nhạn Bắc vương nhà ngươi tính, tính sai thì phạt lương bổng của y, dù sao thì tiền mừng tuổi của y đã bằng nửa năm bổng lộc của ta rồi.”
Trường Canh đang ngồi bên kia sửa tay cầm bằng da của thiết cung, đánh nhau cả đêm, chỗ đó đã bị tróc một chút, không biết y kiếm đâu ra tiểu đao, giũa với mảnh da nhỏ, mười ngón linh hoạt vô cùng, làm người ta hoa cả mắt; chợt bị điểm danh, Trường Canh đầu cũng không ngẩng lên cười nói với Đàm Hồng Phi: “Dù sao thì từ trong ra ngoài đều nằm trên sổ sách của hầu phủ.”
Đàm Hồng Phi là người cẩu thả, “đồng bào với ta đều là thủ túc”, sau khi sóng vai đánh một trận sớm coi Nhạn Bắc vương như người một nhà, cũng chẳng để ý mẹ y là ai. Nghe thế, lập tức không thèm lựa lời trêu ghẹo: “Vương gia và Đại soái tuy hai mà một, nếu là một vị công chúa thì tốt rồi, trong Huyền Thiết doanh ta không chừng có thể thêm một lều công chúa như năm đó.”
Cố Quân: “…”
Y không nhịn được liếm liếm hàm răng ngứa lên.
Trường Canh khựng tay lại, theo lời Đàm thống lĩnh nói: “Tiếc là không có hoa dung nguyệt mạo, Đại soái được ném trái cây đầy xe không thèm đâu.” (Phan An xưa ngồi xe đi trên đường, ngay cả bà cụ cũng mê, dùng trái cây ném đầy cả xe)
Đàm Hồng Phi vô tâm vô phế nói: “Ơ không đúng, Hoàng thượng bình thường gọi Đại soái của chúng ta là ‘hoàng thúc’, kém bối phận rồi!”
Cố Quân: “… Cút đi!”
Đàm thống lĩnh chỉ đùa giỡn cùng Nhạn Bắc vương có ý đồ khác nhìn nhau cười to.
Ban đêm, không xa vẳng đến tiếng đỗ quyên kêu, đây là tín hiệu quân địch đã vào rọ, Đàm Hồng Phi vừa đứng lên liền bị Cố Quân ấn xuống.
“Chờ chút nữa.” Cố Quân thấp giọng nói, “Chờ tới canh tư.”
Mắt y trong đêm tối sáng đến đáng sợ, hệt như một đôi thần binh gặp huyết khai nhận.
Đàm Hồng Phi không nhịn được liếm đôi môi khô khốc: “Vương gia tính toán thế nào, thật là…”
Cố Quân vừa định nói “Lão sư của y là Chung lão tướng quân”, Trường Canh không biết tới gần từ khi nào bỗng nhiên ở sau lưng tiếp lời: “Từ sáng đến tối tính toán tỉ mỉ mà luyện ra.”
Đàm Hồng Phi: “Gì cơ?”
Trường Canh nhìn Cố Quân một cái: “Muốn dành dụm hồi môn đặng còn gả cho Đại tướng quân.”
Cố Quân: “Hai ngươi có thôi đi không?”
Tên ngốc Đàm Hồng Phi kia cười “hề hề”. Cố Quân quả thực rất bất lực với thứ chó chết chuyên môn phụ trách “nói chuyện không nên nói” và “dốc hết sức chèn thêm một cục gạch trong lòng chủ soái” – không biết bắt đầu từ khi nào, tiểu tử Trường Canh ở trước mặt y ngày càng không thèm cố kỵ, lúc ấy ở biệt viện ôn tuyền Cố Quân khuyên “bớt vác gánh nặng”, người ta vậy mà nghe theo, quả nhiên liền “trang bị gọn nhẹ ra trận”.
Trường Canh biết rõ đạo tiến thoái, trêu Cố Quân xong, lập tức bổ sung: “Nghĩa phụ, con đùa thôi, người đừng giận.”
Đàm Hồng Phi: “Đại soái của chúng ta không có ưa cáu kỉnh đâu, ngần ấy năm qua, Lão Đàm ta chỉ từng thấy y phát tác đúng một lần ở trong cung…”
Lời này vừa nói ra, ngay cả Đàm Hồng Phi cũng kịp nhận ra là mình đã nói sai, ngượng ngùng câm miệng.
Vẻ mặt Cố Quân lập tức nhạt đi.
Đàm Hồng Phi không nhịn nổi, lát sau vẫn không kìm được nói: “Đại soái, việc đó…”
Cố Quân ngắt lời hắn: “Bảo huyền ưng chuẩn bị đi!”
Đàm Hồng Phi cắn chặt răng, rốt cuộc không thể nề hà, thở dài.
Trường Canh vỗ vai hắn: “Ta đi đây.”
Đêm dần khuya, ánh trăng yếu ớt, sao Mai mới mọc, chính là thời điểm tranh tối tranh sáng.
Nhã tiên sinh ban ngày hành quân kinh hồn táng đảm, năm lần bảy lượt lo lọt vào phục kích của Cố Quân, vừa kinh vừa nộ, đêm cắm trại cũng không dám thả lỏng, chỉ sợ Cố Quân hù suốt dọc đường đột nhiên thật một lần, cả đêm không dám yên tâm chợp mắt.
Thấy đêm dài sắp qua mà bốn bề vẫn không có động tĩnh, Nhã tiên sinh lúc này mới thật sự không gắng gượng nổi, ngủ gật chốc lát.
Nào ngờ hắn vừa sắp ngủ say, bên ngoài uỳnh một tiếng như nổ doanh trại, Nhã tiên sinh vã hết mồ hôi lạnh, bật dậy lao ra, cả bầu trời đêm bị đốt rực lên.
“Đại nhân tránh ra!”
Một đám tên mang theo ánh lửa từ không trung rơi xuống, Nhã tiên sinh bị một vệ binh đẩy mạnh ra, gió đêm tỏa hơi nóng hầm hập như nướng thịt, sau đó tiếng hò hét vang lên, hai đội huyền kỵ như thể gió xoáy cuốn tới.
“Trọng giáp đứng vững!” Nhã tiên sinh quát, “Đừng hoảng, người Trung Nguyên không có bao nhiêu binh…
Hắn còn chưa nói xong, phía sau đã truyền đến một tiếng nổ lớn, một loạt chiến xa xuất quỷ nhập thần bất ngờ lao ra, nhất thời cát bay đá chạy, hỗn loạn vô cùng.
Nhã tiên sinh là một hảo thủ gây ly gián, liên hoành hợp tung, giỏi âm mưu quỷ kế, song không phải là chỉ huy đắc lực, hắn quá quen suy sâu tính kỹ, một khi kẻ địch vượt ngoài dự tính, hắn sẽ rất dễ phản ứng không kịp thời, mất khống chế với quân đội thuộc hạ.
Đột nhiên, cảm giác ớn lạnh khó tả trườn lên sống lưng, Nhã tiên sinh cảm thấy mình như con ếch bị sát ý của rắn khóa chặt, hắn kinh sợ quay đầu lại, chỉ thấy một mũi tên sắt như lưu tinh truy nguyệt lướt qua bầu trời đêm, bay thẳng tới mặt hắn.
Nhã tiên sinh không kịp tránh né, trong lúc chỉ mành treo chuông, một trọng giáp binh Tây Dương thủ hạ gầm lên một tiếng che trước mặt hắn, tên sắt vậy mà xuyên qua tấm thép dày của trọng giáp, từ sau lưng binh giáp lộ ra mũi nhọn hiểm ác.
Nhã tiên sinh kinh hồn chưa thôi nhìn theo hướng thế tới, thấy một người trẻ tuổi tay cầm trường cung đứng trên lưng huyền ưng.
Trên mũi y đeo một cái kính nhắm của thiên lý nhãn, từ trên cao nhìn… không, liếc hắn một cái, ánh mắt phảng phất mang độc.
Thân binh của Nhã tiên sinh lập tức nhắm trường pháo vào huyền ưng trên không, thanh niên kia dường như thoáng nở nụ cười, dùng biểu cảm chẳng hề hấn gì khi “bia ngắm này không khéo không bắn trúng” mà lắc đầu, tiếp theo thong dong nhảy từ không trung thấp tầm năm sáu trượng xuống, cùng huyền ưng tách ra một trên một dưới, vừa vặn né được một phát pháo nồng nặc khói thuốc súng.
Cố Quân phóng ngựa lên đón Trường Canh nhảy từ trên lưng ưng xuống, cát phong nhận trong tay dưới sự thúc giục của hơi nước hóa thành một lốc xoáy không nhìn thấy mũi đao, vó ngựa tung cao, cát phong nhận quét ngang một vòng, “Vù” một tiếng không dứt bên tai, không biết là huyết châu của ai bắn lên nốt ruồi chu sa ở khóe mắt y, chân thúc bụng ngựa, chiến mã chớp mắt đã nhảy khỏi vòng chiến-
Cố Quân phát mạnh người Trường Canh một cái: “Khốn nạn, chán sống hả?”
Trường Canh vốn định trực tiếp nhảy xuống, lúc sắp hạ đất dùng tấm nẹp của khinh cừu trên chân tăng tốc chĩa xuống đất để giảm lực, không liệu được lại bị Cố Quân chen ngang, nhất thời sững sờ nhìn mặt Cố Quân gần trong gang tấc, ngực chấn động mạnh, suýt nữa ngồi không vững, đành phải túm lãnh thiết giáp trụ trên cổ tay Cố Quân.
Ánh mắt y tích tắc mất đi sự bình tĩnh ngoài mặt, hừng hực như thực thể, Cố Quân tức giận nói: “Nhìn cái gì?”
Trường Canh miễn cưỡng định thần lại, thu ánh mắt như ngọn lửa về dưới mí mắt, ho một tiếng nói: “… Nên tung lưới rồi.”
Cố Quân kéo y tới trước ngực, quay ngựa huýt dài một tiếng, tất cả khinh kỵ lập tức tụ lại, xông tới trận địa địch như cuốn chiếu. Quân Tây Dương bị huyền ưng trên trời nã đạn tơi bời một trận đến lúc này mới đuôi to khó vẫy mà bắt đầu chỉnh đội, Nhã tiên sinh giận dữ quát lên: “Trọng giáp mở đường, xé ra một lỗ hổng ở phía sau!”
Lỗ hổng phía sau không cần xé, chiến tuyến chiến xa Bắc đại doanh cố ý để hết sức bạc nhược, vừa tiếp xúc liền lui ngay như không địch lại, cho đám quân Tây Dương rút lui.
Cố Quân dùng tay ra hiệu cho Đàm Hồng Phi cách đó không xa, Huyền Thiết khinh kỵ lặng lẽ rút đi, như một đám dã lang không chú trọng, cắp đuôi chạy mất, thấy tốt liền nhận luôn.
Bằng không chờ đại quân Tây Dương áp được trận kịp phản ứng lại, chút ít khinh kỵ của họ chắc cũng chỉ làm thức ăn cho người ta – đương nhiên, chờ phản ứng được thì gió xoáy đã thổi qua, biến mất trong bóng đêm mờ mịt, không tìm thấy nữa.
Ngày mười lăm tháng Tư năm Long An thứ bảy, Huyền Thiết doanh nửa đêm tập kích quân Tây Dương ở phía Tây thành Đông An.
Mười bảy tháng Tư, quân Tây Dương đi trước bị Huyền Thiết doanh dắt mũi chạy hai ngày, không chịu nổi quấy nhiễu phải thỉnh cầu tăng viện từ hậu viện trên biển, án binh bất động.
Hai mươi ba tháng Tư, tăng viện của quân Tây Dương đến, Huyền Thiết khinh kỵ bị ép phải lui thủ, quân Tây Dương thừa thắng truy kích, đuổi đến Vũ Thanh, bị Cố Quân dẫn vào bẫy đụng chạm lưới cấm không, ưng giáp Tây Dương tổn thất hơn một nửa, không thể không lui thủ lần nữa.
Hai mươi sáu tháng Tư, thương thế hơi khởi sắc, Giáo hoàng tức khắc thân chinh.
Hai mươi chín tháng Tư, Vũ Thanh thất thủ.
Mùng ba tháng Năm, phủ Đại Hưng bị trọng pháo của quân Tây Dương bắn phá.
Mấy vạn đại quân Tây Dương từng bước áp sát, Cố Quân dẫn một số khinh kỵ và ưng giáp Bắc đại doanh đọ sức gần một tháng, rốt cuộc khó lòng tiếp tục.
Mùng bảy, Cố Quân lui thủ kinh sư, cửu môn đóng chặt, mà viện quân vẫn chưa tới.
Đến đây, ân oán tình thù lui hết ra sau tường thành, kinh thành Đại Lương trong lúc cây xanh rợp bóng đã vào hạ, trên du hồ nhân tạo lại không còn thuyền hoa sênh ca, người Tây Dương rốt cuộc phái sứ giả ra vẻ đạo mạo tới.
|
Chương 63: Thành phá
Vì một sứ giả Tây Dương mà buổi triều sớm ồn ào đến căng cả não, sau khi tan triều, Trường Canh phớt lờ một đám người ôm các tâm sự riêng muốn thăm dò ý của y, đỡ Phụng Hàm công cao tuổi ra khỏi cung.
Trong kinh thành lòng người hoảng sợ, xe ngựa rất thiếu, bình thường Cố Quân đều để Hoắc Đan dẫn ngựa chờ y ở ngoài cung, nhưng hôm nay không biết Hoắc Đan bị chuyện gì níu chân mà vẫn chưa thấy đâu.
Trường Canh mới đầu không để ý, sóng vai đi cùng lão viện trưởng Linh Xu viện, chậm rãi trở về.
Phụng Hàm công từ sáng đến tối cắm mặt trong Linh Xu viện, vành mắt đã hõm vào, cả người như cải củ bị rút khô nước, chỉ còn lại đôi mắt sáng rực, trông đặc biệt dính răng.
“Phiền điện hạ nhẫn nại đi theo đám lão già chân cẳng chậm chạp này,” Phụng Hàm công thở dài nói, “Viện quân đã có tin tức chưa, rốt cuộc khi nào thì có thể đến?”
Trường Canh: “Loạn tứ cảnh đã quẩn chân năm đại quân khu, trú quân địa phương như thế nào thì ngài cũng biết rồi. Mấy năm nay quân phí và tử lưu kim các châu lại nhiều lần cắt giảm, cơ bản cung ứng không nổi mấy trọng binh giáp, dùng toàn là khinh cừu. Khinh cừu cố nhiên hành quân nhanh, linh hoạt dễ điều động, nhưng cũng cực dễ bị ngăn trở, một khi quân địch bố trí trọng giáp hoặc chiến xa chặn dọc đường, nếu chủ tướng hơi thiếu kinh nghiệm, thì sẽ rất dễ để đội ngũ rơi vào trùng vây – quân Tây Dương thậm chí cũng chẳng cần bao nhiêu người.”
“Điện hạ thật sự khiến lão hủ xấu hổ vô cùng, Linh Xu viện đã nhiều năm liền không làm được thứ gì cho ra hồn,” Trương Phụng Hàm tự giễu lắc đầu, “Lão bất tử vô dụng này cũng chỉ ngồi không ăn bám, vốn định sang năm sẽ xin Hoàng thượng cho cáo lão, nào ngờ gặp quốc nạn, sợ là không được chết già.”
Trường Canh ôn hòa nói: “Công của Phụng Hàm công tồn tại ngàn thu, không thể tự coi nhẹ mình.”
“Ngàn thu… Qua ngàn thu có còn Đại Lương không?” Trương Phụng Hàm chép miệng, “Ta vốn tưởng rằng vào Linh Xu viện, là có thể không để ý chuyện bên ngoài, cả đời tiếp xúc với hỏa cơ cương giáp, chuyên tâm làm tốt việc của mình, nhưng thì ra thiên hạ này quá đông đúc, quân tử tiểu nhân dẫu mỗi kẻ một đường, cũng luôn có thể đụng đầu nhau, ngươi càng không muốn xen vào bất cứ chuyện gì, càng muốn xuất sắc hơn người mà làm chút việc, thì càng là cái gì cũng chẳng làm thành – cho dù chỉ muốn làm hạ cửu lưu tay dính đầy dầu máy.”
Trường Canh biết Phụng Hàm công chỉ đang tự cảm khái, chứ không hề muốn nghe y trả lời, liền chỉ cười mà không lên tiếng.
Đại Lương đi đến bước hiện giờ, mâu thuẫn tích tụ hai đời giữa hoàng quyền và quân quyền cố nhiên là mồi lửa, nhưng cũng không phải nguyên do căn bản nhất – cố tật trầm kha tại thời điểm quốc khố mỗi năm một teo đi, đã định trước kết cục thảm đạm này.
Trương Phụng Hàm: “Cọc ngầm của lưới cấm không ở Khởi Diên lâu đang điều chỉnh mỗi ngày, bọn Tây Dương đó hiện giờ chỉ dám đi binh xa, rất nhiều ưng giáp không dám lên, nhưng năng lượng trong cọc ngầm thủy chung có hạn. Ta nghe nói người Tây Dương ngày ngày dùng dây thừng kéo mộc diên ‘thả diều’ ở ngoài thành, chỉ sợ chẳng được mấy hôm, thiết tiễn dự trữ trong cọc ngầm sẽ khó lòng tiếp tục, đến lúc đó phải làm thế nào, Cố soái có kế hoạch chưa?”
Huyền ưng Bắc đại doanh hiện có, tính cả số thiếu tay cụt chân, tổng cộng chưa đến một trăm, một khi lưới cấm không mất đi hiệu lực, chỉ sợ cũng là lúc thành phá.
Trường Canh: “Ừm, y biết, đang nghĩ cách.”
Trương Phụng Hàm lòng đầy sầu lo nghe thế dở khóc dở cười, không biết nên nói Nhạn Bắc vương này là “anh hùng xuất thiếu niên”, hay nên nói y chậm tiêu, giống như dù là trời sập trước mặt, tiểu Vương gia kia cũng chỉ một câu “biết rồi” như không liên quan đến mình vậy.
Trương Phụng Hàm cố ý hạ giọng nói: “Hôm nay vào triều không thấy Hàn thống lĩnh của Ngự lâm quân, Vương gia có nhìn thấy không? Hiện tại trong triều có lời đồn, rằng Hoàng thượng ngoài mặt quở mắng sứ giả Tây Dương, thực tế đã tính toán dời đô rồi.”
Trường Canh cười cười, không hề giật mình: “Hoàng thượng sẽ không làm vậy, chúng ta cũng chưa đến lúc cùng đường, ta thấy xe của Linh Xu viện rồi, để ta đỡ ngài lên… A Hoắc bá đến rồi?”
Hoắc Đan dáng đi vội vàng, vẻ mặt lơ đãng, đi đến trước mặt Trường Canh: “Lão nô hôm nay đến muộn, xin Vương gia thứ tội.”
“Không sao,” Trường Canh khoát tay, “Hoắc bá hôm nay bị chuyện gì níu chân vậy?”
“…” Hoắc Đan cẩn thận liếc trộm thần sắc y, “Hầu gia đêm qua bị tên của người Tây Dương gây thương tích, ta cũng sáng sớm nay mới nghe nói, vừa đi rồi… Ơ, Vương gia!”
Trước sự trợn mắt há mồm của Hoắc Đan và Trương Phụng Hàm, Trường Canh mới thong thả đi bộ đột nhiên biến sắc, nhảy lên ngựa lao vút đi như một trận gió.
Khói thuốc súng trước cửu môn còn chưa tan, đại quân Tây Dương hửng sáng mới ngừng chiến rút đi, Cố Quân cũng được nghỉ ngơi chốc lát.
Kiên giáp huyền thiết lõm vào, mũi tên đã rút ra, hai quân y vây quanh Cố Quân, cầm kìm và kéo, cẩn thận nạy kiên giáp đã biến hình, quần áo bên trong đã dính vào thịt.
Trường Canh vội vàng xông tới, ánh mắt dừng trên người Cố Quân một chút, liền không nhịn được nhìn đi chỗ khác, sắc mặt thực sự còn khó coi hơn vị bị thương.
“A…” Cố Quân rùng mình, “Ta nói hai vị có thể dứt khoát chút không? Thêu hoa à – thế nào?”
Trường Canh không đáp, hít sâu một hơi tiến lên, cho hai quân y lui đi, khom lưng cẩn thận ngắm nghía mảnh giáp không gỡ được trên người Cố Quân một chút, lấy từ trong lòng ra một cái kìm sắt nhỏ chỉ dài bằng đầu ngón tay, ôm chặt vai Cố Quân, cắt xuống từ bên kia. Tay y cực nhanh, cái kìm nhỏ sắc lẻm chém sắt như chém bùn cắt thủng kiên giáp biến dạng, máu lập tức dính đầy tay.
Trường Canh vẻ mặt căng thẳng, nhất thời thở không nổi, thấp giọng nói: “Sao bị thương thế này mà không cho con biết?”
Cố Quân mới còn méo mặt lập tức cố nén đau, nghiến răng nghiến lợi nói: “Việc nhỏ – trên triều hội sứ giả Tây Dương nói thế nào?”
“Có thể nói thế nào, phát ngôn xằng bậy trên kim điện,” Trường Canh hoạt động ngón tay không vững một chút, lột mảnh giáp vụn bị máu dính trên người Cố Quân, “Muốn chúng ta giải trừ ‘bức hại cướp bóc’ cho các quốc gia Tây Vực, lãnh thổ bên ngoài Gia Dự quan làm thương khu vạn quốc, pháp luật trong thương khu dựa theo pháp trị ở nước họ, còn có…”
Kiên giáp biến dạng tháo cả xuống, Trường Canh nhìn chằm chằm vết thương của Cố Quân mà hít sâu một hơi, khó khăn đứng thẳng người nghỉ ngơi giây lát.
“Còn có… cái gì?” Cố Quân rùng mình, mồ hôi lạnh chảy ròng ròng, “Ta nói đại phu này, sao lão nhân gia còn sợ máu hả?”
Trường Canh cả người cứng như thiết bổng: “Con sợ máu của người.”
Y đoạt lấy bầu rượu của Cố Quân, dốc hai ngụm liền, đầu váng mắt hoa chực nôn, cố gắng hít thở chốc lát, mới cầm kéo lên cắt y phục không nhìn ra màu ban đầu.
“Còn có đem ba mươi sáu quận Bắc cương, tuyến Tây Kinh đến Trực Lệ U Châu về phía Bắc vạch hết cho mười tám bộ lạc, kinh thành Đại Lương dời đến Trung Nguyên Đông Đô – lại đưa Hòa Ninh công chúa đến mười tám bộ làm con tin, từ đây triều ta xưng thần với mười tám bộ, hàng năm tiến cống…”
Hòa Ninh là nữ nhi duy nhất của Lý Phong, mới bảy tuổi.
Cố Quân nổi giận: “Cái rắm!”
Y vừa cựa quậy thì máu liền trào ra, Trường Canh không nhịn được nữa quát: “Đừng nhúc nhích!”
Hai người nhìn nhau im lặng một lát, Cố Quân thần sắc không rõ hỉ nộ, một lúc lâu mới nói: “… Ngươi tiếp tục đi.”
“Ngoài ra, họ còn ép Lý Phong hạ lệnh, để Thẩm Dịch rút trú quân Nam Cương đóng ở chư đảo Nam Dương đi, trong ngoài vận hà Đông Hải chia sông mà trị, thủy sư Giang Nam lui vào trong, mé ngoài và tuyến Đông Hải vạch về khu Viễn Đông Tây Dương.” Trường Canh ánh mắt nặng nề, nhưng tay hết sức nhẹ nhàng lau vết thương cho y, dừng một thoáng lại tiếp, “Rồi còn khoản bồi thường chiến tranh…”
Cố Quân im lặng mà căng hết cơ bắp lên.
“Lúc lâm triều Lý Phong muốn chém sứ, được quần thần khuyên can.” Trường Canh nắm vai không bị thương của Cố Quân, “Con phải rửa vết thương, nghĩa phụ, tạm thời phong bế tri giác được chứ?”
Cố Quân lắc đầu.
Trường Canh ôn tồn khuyên nhủ: “Con chỉ dùng một ít thuốc, người có tính kháng dược mạnh, sẽ không ngủ lâu, nếu ngoại thành có biến, con thủ thay người…”
“Rửa thì rửa đi,” Cố Quân ngắt lời, “Đừng nói nhảm.”
Trường Canh nhìn y một cái, ý thức được nói lý lẽ với người này là vô dụng.
Đúng lúc này, Đàm Hồng Phi chạy tới nói: “Đại soái…”
Cố Quân vừa quay đầu lại liền nghe thấy một thứ mùi quỷ dị, không hề phòng bị hít vào một hơi, cả người tức thì mềm nhũn.
An Định hầu anh minh thần võ tuyệt đối không ngờ đến Quận vương điện hạ còn biết thủ đoạn giang hồ “tụ lý càn khôn” bất nhập lưu này, mà còn là dùng với mình!
Cố Quân: “Ngươi…”
Trường Canh mắt cũng không chớp, nhanh chóng đâm châm mảnh vào huyệt đạo của Cố Quân, sau đó đỡ lấy thân thể mất đi tri giác.
Đàm Hồng Phi trơ mắt nhìn chủ soái bị đánh ngã sững sờ ngay cửa, cùng Quận vương điện hạ thô lố mắt nhìn nhau: “…”
Trường Canh mặt không đổi sắc ra hiệu cho hắn im lặng, bế Cố Quân lên đặt ngay ngắn, bắt đầu cẩn thận làm sạch vết thương.
Đàm Hồng Phi trố mắt nhìn: “Đây… kia…”
Trường Canh: “Không sao, để y ngủ một lúc, bớt chịu tội đi.”
Đàm Hồng Phi chớp chớp mắt – Rất lâu trước, hắn vẫn cho rằng Nhạn Bắc vương điện hạ giống một thư sinh hòa hòa khí khí, sau đó phát hiện y đánh giỏi tính hay, rất đỗi bội phục, sinh lòng muốn thân cận… Mãi đến giờ khắc này, Đàm thống lĩnh mới trào lên sự sùng kính hừng hực đối với y.
Đàm Hồng Phi vô thức đưa tay sờ sờ mặt – vết sẹo bị Cố Quân quất vẫn chưa lặn – bụng nghĩ: “Vương gia cũng to gan thật.”
Trường Canh: “Đúng rồi, có chuyện gì thế?”
Đàm Hồng Phi lúc này mới hoàn hồn, vội nói: “Điện hạ, Hoàng thượng tới, xa giá ở ngay phía sau, ngài xem…”
Đang nói thì Lý Phong thần sắc tiều tụy vận thường phục đi tới, bên cạnh chỉ dẫn theo Chúc Chân Nhỏ.
Lý Phong cúi đầu nhìn Cố Quân hôn mê, lại đưa tay sờ thử trán y: “Hoàng thúc không sao chứ?”
“Bị thương da thịt thôi.” Trường Canh băng bó vết thương xong xuôi, khoác ngoại bào tơ mỏng lên người Cố Quân, thu dọn ngân châm: “Chỉ là ta dùng chút thuốc mê cho y, nhất thời chưa tỉnh lại được, hoàng huynh đừng chê trách.”
Đoạn Trường Canh đứng dậy cầm cát phong nhận của Cố Quân, mũ giáp cũng không mặc, quay người đi ra ngoài.
Lý Phong vội hỏi: “Sao thế?”
“Ta thay nghĩa phụ thủ thành một lúc,” Trường Canh nói, “Mặc dù sứ giả đang ở trong kinh, nhưng chỉ sợ là mê trận của người Tây Dương, chưa biết chừng sẽ nhân lúc chúng ta thả lỏng cảnh giác mà công thành, cẩn thận vẫn hơn.”
Lý Phong đứng ngây ra đó giây lát, đột nhiên cầm một thanh bội kiếm đi theo, Chúc Chân Nhỏ giật nảy mình: “Hoàng thượng!”
Lý Phong phớt lờ hắn, lên tường thành.
Nhờ thiên lý nhãn trong tay, Hoàng đế Long An nhìn thấy không xa là doanh trướng của quân Tây Dương, kinh giao ốc thổ, hiện giờ đã chồng chất vết thương. Ngoài kinh thành cửu môn ngày trước ngựa xe như nước nay tiêu điều là thế, tường thành sập một góc được huyền thiết giáp báo hỏng chống đỡ, lắc lư chực đổ, không chịu sửa.
Binh tướng bình thường của Bắc đại doanh đều biết Trường Canh, rối rít tiến lên hành lễ chào hỏi, nhưng không hề biết Lý Phong, chỉ thấy hắn ăn vận cầu kỳ, khí độ bất phàm, liền cho là một quan văn, nhất loạt gọi đại là “đại nhân”.
Hai huynh đệ Lý gia bằng mặt không bằng lòng sóng vai đứng trên tường thành, từ diện mạo đến thân hình không một điểm tương tự, thân duyên mỏng như giấy dán cửa sổ, một ngón tay là chọc thủng.
Lý Phong thình lình nói với Trường Canh: “Chắc chiều nay là Hàn Kỳ có thể trở về, ngươi nhắn lại cho hoàng thúc, bảo y đến lúc đó tìm người tin được tiếp ứng một chút.”
Trường Canh cũng chẳng hỏi dò, tựa hồ không tò mò tí nào, chỉ thuận miệng đáp: “Vâng.”
Lý Phong: “Không hỏi trẫm cho Hàn Kỳ đi đâu à?”
Trường Canh nhìn xuống gạch đá tường thành, im lặng giây lát rồi nói: “Gần đây ta điều phối tử lưu kim và quân nhu của Hộ bộ, phát hiện trong vài năm lượng tử lưu kim xuất nhập của triều đình hơi đáng nghi… Nhưng khả năng là hoàng huynh tự có an bài.”
Hoàng đế Long An vừa nghe liền biết, chút ít tử lưu kim mình cất riêng sớm bị Trường Canh phát hiện rồi.
Lý Phong hơi xấu hổ nói: “À, trong Đức Thắng môn có một mật đạo thông đến Cảnh Hoa viên, trẫm bảo Hàn Kỳ lĩnh binh xuất thành từ chỗ này, mở tư khố của Cảnh Hoa viên, bên trong có… Khụ, mười sáu ngàn cân tử lưu kim trẫm chưa kịp phát xuống – ngươi đừng để lộ ra, trước mắt trong triều lòng người bất ổn, nếu biết chuyện mật đạo, chỉ sợ mọi người sẽ hoang mang.”
Trường Canh gật đầu, không hề ngạc nhiên – đây là Lý Phong vét hết gia sản ra rồi.
Bảo thủ như Hoàng đế Long An, không thể chịu nỗi nhục mất nước mà xưng thần với ai, hắn thà táng thân dưới cửu môn còn hơn.
Y vừa im lặng, thì giữa hai người liền không còn gì để nói – kỳ thực vẫn luôn vậy, ngoại trừ chính vụ trong triều và mấy lời vô nghĩa khách sáo khi thỉnh an, giữa huynh đệ Lý gia quả thật không có chuyện gì để nói.
Lý Phong: “Ngươi quen biết hoàng thúc từ năm bao nhiêu?”
Trường Canh: “… Tuổi mụ là mười hai.”
Lý Phong “À” một tiếng: “Y chưa thành gia, lại lĩnh binh ở Tây Bắc suốt, chắc hẳn không giỏi chăm sóc ngươi nhỉ?”
Tầm mắt Trường Canh hơi dao động: “Không có, y rất biết thương người ta.”
Lý Phong nheo mắt nhìn ánh dương xa vời, nhớ mình và Cố Quân cũng từng có tình cảm cùng nhau lớn lên, hồi nhỏ thỉnh thoảng vẫn ghen tị phụ hoàng mình đối xử với Cố Quân tốt hơn ôn nhu hơn, song đa số tình huống vẫn cảm thấy tiểu hoàng thúc này mặc dù không hay chơi với họ nhưng là người rất tốt.
Hắn cũng từng cho rằng chút tình cảm thiếu niên này có thể kéo dài suốt đời.
Thế nhưng chẳng qua mới mười mấy năm mà đã là tình cảnh thế này.
“A Mân,” Lý Phong mở miệng, “Nếu thành phá, trẫm sẽ truyền ngôi cho ngươi, ngươi dẫn hậu cung cùng bá quan đi theo mật đạo, dời đô đến Lạc Dương… Lại tính từ từ, rồi có một ngày sẽ quay về thôi.”
Trường Canh rốt cuộc nhìn hắn một cái.
“Nếu thực sự có một ngày như vậy,” Lý Phong chăm chú nhìn thẳng về phương xa, tiếp tục, “Ngươi cũng không cần hoàn vị cho Thái tử, cho các cháu ngươi một nơi dung thân là được.”
Trường Canh không trả lời, giây lát sau, y không hề xúc động mà hờ hững nói: “Hoàng huynh nói quá lời rồi, chưa đến bước ấy đâu.”
Lý Phong nhìn ấu đệ, mang máng nhớ những lời hồi nhỏ từng nghe mẫu hậu nói.
Bà nói nữ nhân đến từ Bắc man đều là yêu quái, giỏi nhất là dùng độc vật, mê hoặc lòng người, mai kia đẻ ra cũng là quái vật làm bẩn huyết mạch hoàng thất Đại Lương.
Sau đó An Định hầu đón tứ hoàng tử lưu lạc dân gian nhiều năm về cung, vì di nguyện của tiên đế và cái danh nhân đức của mình, Lý Phong giữ y lại, phủ nội vụ thêm một phần phân lệ mà thôi, chứ bình thường cũng là mắt không thấy lòng không phiền.
Mãi đến giờ khắc này, Hoàng đế Long An mới phát hiện hắn không nhìn thấu người trẻ tuổi này.
Đứng trước quốc nạn và đại địch không biến sắc, cửu ngũ chi tôn cũng khó mà kích động lòng y, quần áo trên người tựa hồ từ năm ngoái, cổ tay áo sờn rồi vẫn chưa thay.
Y còn khó nắm bắt hơn Liễu Si đại sư của Hộ Quốc tự, cái gì cũng không thích, giống như trên thế giới này không gì có thể lung lay được y vậy.
Lý Phong há miệng, lúc này, Chúc Chân Nhỏ bên cạnh thấp giọng nhắc nhở: “Hoàng thượng, nên hồi cung rồi.”
Lý Phong định thần lại, giao bội kiếm cho tướng sĩ bên cạnh, vỗ vai Trường Canh không nói gì, thoáng nhìn bóng lưng cao ráo rắn rỏi của người thanh niên ấy, đoạn quay lưng đi.
Sau khi Lý Phong đi, một hòa thượng mặt xám mày tro lên thành lâu – chính là Liễu Nhiên.
Tăng nhân Hộ Quốc tự đã rút hết vào thành, hắn đi theo trụ trì, ngày ngày niệm kinh cầu quốc vận, buổi tối lén điều tra những người bên cạnh Lý Phong.
Trường Canh nhìn hắn một cái.
Liễu Nhiên lắc đầu, ra dấu: “Ta đã tra một vòng, bên cạnh hoàng thượng lý lịch đều rất minh bạch, năm đó không có ai qua lại mật thiết với vu nữ mười tám bộ và thuộc hạ cả.”
Trường Canh: “Hoàng thượng trời sinh đa nghi, không phải loại người giấu không được, bên phía chúng ta nhiều lần lộ bí mật, nội ứng ấy nhất định là tâm phúc của y – ngươi đã tra Chúc công công chưa?”
Liễu Nhiên thần sắc ngưng trọng lắc đầu – từng tra, không có vấn đề gì.
Trường Canh hơi nhíu mày.
Lúc này, Cố Quân bị Trường Canh dùng thuốc hạ gục rốt cuộc tỉnh lại, y ngủ đến suýt nữa quên cả trời trăng, cho đến khi vết thương trên vai âm ỉ đau, mới muộn màng nhớ đã xảy ra chuyện gì.
Cố Quân bò dậy mặc quần áo, chuẩn bị đi tìm Trường Canh tính sổ.
Ai ngờ vừa ra liền nghe phương xa vọng đến một tiếng nổ, cả kinh thành đều chấn động, Cố Quân vịn tường thành, nghĩ: “Động đất?”
Trường Canh trên thành lâu quay phắt đầu lại, vẻ âm chí thoáng qua vùng chân mày – y vẫn cho rằng nội gian trong hoàng thành là cung nhân bên cạnh Lý Phong, nhưng với sự cẩn thận đa nghi của Lý Phong, sao có thể tiết lộ chuyện Cảnh Hoa viên cho nô tài?
Cố Quân: “Sao vậy?”
“Không biết,” Trường Canh rảo bước xuống, “Lý Phong vừa đến, nói y để Hàn Kỳ xuất phát từ mật đạo, đến Cảnh Hoa viên vận chuyển tử lưu kim… Đó là hướng Tây giao sao?”
Cố Quân giật mình tỉnh hẳn.
Ngày mùng chín tháng Năm, bí mật về Cảnh Hoa viên bị tiết lộ, người Tây Dương đến đàm hòa quả nhiên là ngụy trang, nhưng không phải là muốn thừa cơ công thành, mà là phái binh vòng đến Kinh Tây, nửa đường cướp giết Hàn Kỳ.
Hàn Kỳ vùng vẫy giãy chết, rốt cuộc không địch lại, quyết đoán kịp thời, một mồi lửa đốt sạch mười vạn tử lưu kim, trực tiếp nổ cửa mật đạo, ngọc nát đá tan.
Đại hỏa ấy như lửa cháy lan ra đồng cỏ nuốt chửng cả Tây giao, tử lưu kim đốt không hết như nghiệp hỏa từ dưới lòng đất, đốt sạch Ngự lâm quân áp tải tử lưu kim, người Tây Dương không kịp đề phòng, thậm chí cẩm tú sơn thủy, đình đài lầu các của Cảnh Hoa viên, khói tím đặc biệt như điềm lành chiếu rọi nửa bầu trời, tựa một luồng sáng đậm màu từ chân trời bay thẳng xuống-
Tâm đại địa đang cháy rực, cả kinh hoa đều chấn động.
Hơi nóng kéo dài mấy chục dặm, từ Tây giao chậm rãi đổ vào cửu môn vững như bàn thạch, kinh thành đầu hạ có thể nói là mát mẻ chớp mắt so được với lò lửa Nam Cương.
Mùi tử lưu kim vốn nhạt và khó nhận ra ngược gió đông tràn tới, mọi người rốt cuộc được nếm thứ mùi đặc thù ấy – vậy mà là một loại mùi thơm dịu khó miêu tả.
Như tùng hương pha lẫn vị cỏ cây.
Tất cả trọng giáp còn lại bị Cố Quân điều động hết, dây bạch hồng căng lên.
Mà không ngoài dự tính của y, đại quân Tây Dương lúc này quả nhiên cũng hành động.
Cố Quân không biết đám cháy ấy thiêu đi bao nhiêu quân Tây Dương, cũng không biết Giáo hoàng bị hao tổn nặng nề như thế còn cầm cự được bao lâu. Vây thành nhiều ngày, song phương đều đã đến cực hạn.
Mới qua giờ Mùi, đợt tấn công điên cuồng đầu tiên đã đến, trọng giáp và chiến xa luân phiên đi, lửa đạn và bạch hồng nối đuôi nhau, hỏa lực cực mạnh của song phương cơ hồ không có một chút khe hở.
|
Chương 64: Tuyệt xứ
Bụi bặm và huyên náo khắp nơi, hơi nóng từ vụ cháy tử lưu kim ở Tây giao không ngừng tăng lên, khiến người nhễ nhại mồ hôi, xa xa vẳng đến một tiếng rít đặc biệt khi ưng giáp lên không, lưới cấm không chưa hoàn toàn mất đi hiệu lực, nhưng quân Tây Dương đã chờ không kịp, lại dùng vô số ưng giáp đi lấy thân thử nghiệm.
Nhánh quân Tây Dương này trước là bị Cố Quân kéo chân hơn một tháng, sau lại bị phòng vệ cửu môn và lưới cấm không ngăn trở, tiêu hao mỗi ngày đều vô cùng lớn, mà mỗi một ngày phí công, cũng đang làm mất dần sự kiên nhẫn của quốc nội phương Tây xa xôi đối với lần xuất chinh Viễn Đông dự mưu hơn mười năm này.
Trường Canh túm Liễu Nhiên hòa thượng, mau chóng nói: “Hãy nghe ta nói, kẻ đó không thể là nô tỳ cung nhân được, người bên cạnh Lý Phong chúng ta điều tra đâu chỉ một lần, vả lại tiền triều bại bởi nịnh hạnh, triều ta xưa nay không cho hoạn quan lộng quyền, dù thế nào Hoàng thượng cũng sẽ không hoang đường đến mức giao chuyện Cảnh Hoa viên cho thái giám làm… Càng không thể là trọng thần trong triều – tin Hàn Kỳ rời cung khiến cả triều hoảng sợ, mọi người đều nói Hoàng thượng muốn chạy, Lý Phong lại vẫn bình tĩnh áp xuống, cho đến khi Hàn Kỳ sắp về, y mới tự mình tiết lộ tin tức cho ta, dù là y có ý truyền ngôi cho ta…”
Liễu Nhiên hòa thượng sửng sốt nhìn y.
Trường Canh lẩm bẩm: “Hoàng huynh của ta, khi thái bình không tin võ tướng, khi chiến loạn không tin văn thần. Vậy sẽ là ai? Còn có ai?”
Liễu Nhiên vốn vô thức xoay tràng hạt dừng lại, hắn lập tức rùng mình, sắc mặt vị cao tăng như ưu bát la chuyển thế này chỉ chớp mắt đã khó coi như người chết. (Ưu bát la là một loại hoa sen có hai màu đỏ và trắng, từ dùng trong đạo Phật)
Trường Canh chuyển hướng ánh mắt nặng nề sang hắn, ngắt từng chữ: “Hộ Quốc tự ở ngay Tây giao.”
Đúng lúc này, một viên đạn lạc rơi cạnh hai người, Trường Canh và Liễu Nhiên cùng bị luồng khí ấy hất ngã xuống đất, Trường Canh lảo đảo miễn cưỡng đứng vững, tràng hạt trên cổ hòa thượng lại nứt ra.
Giữa bụi đỏ hỗn độn, châu gỗ cũ kỹ lăn ra khắp nơi.
Trường Canh túm cổ áo xách Liễu Nhiên hòa thượng loạng choạng dậy: “Đứng lên, đi, giết nhầm thì tính là lỗi của ta!”
Liễu Nhiên lắc đầu theo bản năng, hắn vốn cho rằng mình tu hành nhiều năm, đã nhìn thấu nhân thế buồn vui rồi, mãi đến giờ khắc này – ma pháp phùng ma, hắn mới phát hiện, thì ra tứ đại giai không chỉ là ảo giác tự cho là đúng.
Trường Canh đẩy Liễu Nhiên hòa thượng, nhìn thẳng vào ánh mắt kinh sợ của hòa thượng mặt trắng kia: “Ta không sợ nhân quả báo ứng, ta đi xử lý, đại sư, ngươi đừng ngăn cản ta, cũng đừng trách ta.”
Khi còn vô tội, y đã gặp hết tất cả ác báo có thể gặp trên đời này, A Tỳ luyện ngục trên nhân thế, không thể khiến y kính sợ nữa.
Trường Canh: “Ta đi mượn nghĩa phụ mấy người.”
Liễu Nhiên hòa thượng đứng đần ra tại chỗ, thấy Quận vương điện hạ trẻ tuổi làm một thủ thế đặc biệt, y gập ngón cái vào, làm một động tác hơi ép xuống, tay áo rộng trên triều phục Quận vương lướt qua khoảng không, ngân tuyến trên tay áo lóe sáng, như ngân long lấp ánh trên mặt sông – nếu thiên hạ yên vui, chúng ta nguyện ngư tiều canh độc, phiêu bạt giang hồ.
Liễu Nhiên toàn thân run lên, rất lâu, hắn run rẩy chắp tay hành lễ với Trường Canh – nếu thịnh thế sắp đổ, vực sâu ở bên, chúng ta nên vạn chết đương đầu.
Đạo này gọi là “Lâm Uyên”.
Trường Canh khẽ cười một tiếng: “Hòa thượng dỏm.”
Nói xong quay người chạy tới hướng cổng thành.
Liễu Nhiên bỗng nhiên liền nước mắt như mưa.
Không biết đau khổ, không tin thần phật.
Huyền ưng thạc quả cận tồn đã bay lên trời, Cố Quân tập trung hỏa lực cả kinh thành vào một chỗ, bắn xuống dưới thành như đập nồi dìm thuyền, trọng giáp đợi lệnh ở cổng thành.
Trường Canh lần đầu tiên nhìn thấy Cố Quân cởi khinh cừu mặc trọng giáp, trên khuôn mặt không huyết sắc phảng phất bị trọng giáp mạ lên một tầng màu huyền thiết mờ mịt rắn chắc.
Nghe thân vệ báo Nhạn Bắc vương đến, Cố Quân quay ngoắt lại, sắc mặt còn khó coi hơn lúc rút tên, rảo bước tới cách cương giáp túm tay Trường Canh: “Sao ngươi lại trở về?”
“Sao rồi?” Trường Canh hỏi, “Người Tây Dương đã sốt ruột, người định thủ thế nào?”
Cố Quân không đáp, chỉ kéo y xuống dưới thành, đáp án đều ở trong im lặng – còn có thể thế nào? Chỉ có tử thủ.
“Chuyện thống lĩnh Hàn Kỳ tuyệt không phải ngẫu nhiên, bên cạnh Lý Phong tất có kẻ làm phản,” Trường Canh nói, “Nghĩa phụ, cho con một đội thân binh, con đi giải quyết ẩn hoạn trong thành, nếu không họ nội ứng ngoại hợp, thành phá chỉ là vấn đề thời gian…”
“Trường Canh,” Cố Quân thu lại thần sắc luôn không mấy đứng đắn, “Điện hạ, ta phái một đội thân binh hộ tống ngươi rời khỏi, trên đường ngàn vạn bảo trọng, đừng trở lại nữa.”
Không có nội ứng ngoại hợp, thành phá có thể cũng chỉ là vấn đề thời gian.
Đuôi mày Trường Canh giật nhẹ, trực giác thấy “rời khỏi” này không chỉ là đưa y vào thành.
Đúng lúc này, một tiếng nổ vang lên sau lưng, một trọng pháo Tây Dương bắn vào tường thành, cổng thành mấy trăm năm vững như thành đồng run rẩy lắc lư, tường ngoài loang lổ thê thảm bong xuống, lộ ra bánh răng sắt khớp nhau và bộ giàn đúc bằng huyền thiết, như một gương mặt sau khi lột da để lộ máu thịt dữ tợn.
Một huyền ưng đầu mình hai ngả rơi xuống bên cạnh, Cố Quân nhờ trọng giáp, che chở Trường Canh trong lòng, cự thạch bong ra từng mảng ầm ầm rơi xuống phía sau y, cát đá vụn rơi trên huyền thiết, leng keng một trận.
Hai người cực gần nhau, hơi thở cơ hồ đan vào nhau – từ sau khi Trường Canh cố ý tránh gây nghi ngờ, thời khắc thân mật như vậy tựa hồ không còn nữa, hơi thở của Cố Quân nóng hổi, không biết có phải là sốt hay không, ánh mắt lại vẫn sắc bén mà tỉnh táo.
“Hoàng thượng lúc mới đến còn nói gì với ngươi?” Cố Quân nhanh chóng nói vào tai y, “Theo ý của y, đi mau!”
Lúc Lý Phong đến Cố Quân còn đang hôn mê, hai người thậm chí không gặp mặt.
Giữa đôi quân thần này nhiều năm qua dưới sự thái bình cố ý tô vẽ không lúc nào là không ước đoán, nghi kỵ phòng bị lẫn nhau, song vào thời khắc cuối cùng, hai người lại đều hiểu đối phương đang nghĩ gì.
Đồng tử Trường Canh hơi co lại, y đột nhiên kéo cổ Cố Quân đang ở trong trọng giáp xuống, bất chấp tất cả mà hôn lên đôi môi khô khốc kia.
Đây là lần đầu tiên y nếm được mùi vị của Cố Quân khi hai bên đều tỉnh táo, quá nóng… như phải tự bốc cháy vậy, thoảng mùi máu tanh thảm hại vô cùng. Tim Trường Canh đập như sắp vỡ tung, nhưng không phải vì những ngọt ngào giả dối nửa vời trong truyền thuyết phong hoa tuyết nguyệt, trong lòng như bùng lên ngọn lửa rừng phảng phất có thể hủy thiên diệt địa, hừng hực mà bị nhốt trong tứ chi phàm nhân, muốn lao ra thổi quét sáng nay và ngày mai nước mất nhà tan.
Khoảnh khắc này tựa hồ dài như muôn đời muôn kiếp, lại tựa hồ ngay cả một chớp mắt cũng chưa đến.
Cố Quân dùng sức mạnh lôi đối phương khỏi người mình, sức người không thể chống lại sức của Huyền Thiết trọng giáp, nhưng y không hề nổi cơn tam bành với Trường Canh, thậm chí không hề bất phân tốt xấu mà ném Trường Canh ra.
Y chỉ gần như cầm nhẹ đặt khẽ mà buông bàn tay sắt ra, thả Trường Canh xuống cách hai bước.
Ném đi ngàn tầng gông xiềng và nhân luân, thâm tình sáng rực dưới tuyệt cảnh có thể làm lòng dạ sắt đá của y cũng động dung sao?
Nếu như y chuẩn bị sẵn sàng chết trên tường thành, vậy người cuối cùng môi kề môi với y trong cuộc đời này, có thể giúp y khi đứng trước Hoàng Tuyền lộ cảm thấy phía sau mình không hề là một dải trống vắng chứ?
Xem như là an ủi chứ?
Hay là… sẽ khiến y dở khóc dở cười?
Khoảnh khắc ấy, không ai có thể dò ra một chút manh mối nào trên khuôn mặt tuấn tú của Cố Quân.
Trường Canh chăm chú nhìn y, như nước lặng mà nói: “Tử Hi, ta vẫn muốn đi cắt đứt đường của nội ứng trong thành, sẽ không ở đây với ngươi nữa, nếu hôm nay ngươi có gì bất trắc…”
Nói đến đây, y tựa hồ thoáng nở nụ cười, lắc đầu, cảm thấy mấy chữ “ta tuyệt đối không sống một mình” này quá yếu đuối, sẽ bị Cố Quân chê cười; nhưng mà đây cũng không phải là hư ngôn – chẳng lẽ bảo y tham sống sợ chết, sống cả đời với Ô Nhĩ Cốt sao?
Y không có thù oán lớn như vậy với chính mình đâu.
Cố Quân hít sâu một hơi, quát: “Lão Đàm!”
Một huyền ưng từ không trung gầm rú đáp xuống, chính là Đàm Hồng Phi.
Cố Quân: “Điểm một đội khinh kỵ thân binh, hộ tống Vương gia.”
Nói xong, y lên thẳng tường thành, không hề quay đầu lại.
Xuy hỏa tiễn trên bạch hồng nhất tề bay lên trời, thảm thiết va vào ưng giáp Tây Dương đột kích – đây là số xuy hỏa tiễn cuối cùng Linh Xu viện đưa tới.
Quân địch lấy thịt người làm thang, xác chìm làm cầu, kẻ sau tiếp bước kẻ trước, bất chấp tất cả.
Một ưng giáp Tây Dương dùng thi thể đồng đội nổ tung trên không trung làm khiên, ngang nhiên vượt qua tường lửa bạch hồng trên tường thành, thình lình bắn một phát trường pháo vào trong thành, trúng ngay Khởi Diên lâu. Ưng giáp Tây Dương lập tức bị một huyền ưng xô lên, huyền ưng đã hỏng một cánh, sau lưng khói đặc mù mịt, trên người vô đao vô kiếm, chỉ đành túm chết bả vai địch nhân, từ trên không cùng rơi xuống.
Chưa rơi xuống đất, hộp vàng quá tải đã nổ tung, hỏa hoa ngắn ngủi nuốt chửng huyền ưng lẫn ưng giáp Tây Dương kia.
Đồng quy ư tận.
“Trích Tinh đài” trên Khởi Diên lâu theo đó lắc lư hai cái rồi đổ rầm xuống, vào lúc này nơi này, trên Vân Mộng đại quán chắc chỉ có thể nhìn thấy phế tích và xác tàn thôi.
Kinh hoa trăm năm náo nhiệt, và đại mộng ngói vàng tường son ngàn thu muôn đời, theo lưu ly nát cùng rơi xuống đất… thành tro bụi.
Trong Kim Loan điện loạn cào cào, Chúc Chân Nhỏ lảo đảo lao tới dưới chân Lý Phong, khóc lớn nói: “Hoàng thượng, cửu môn sắp phá rồi, Hoàng thượng hãy di giá đi! Nô tỳ đã lệnh cho nghĩa tử chuẩn bị xa giá và thường phục ngoài Bắc môn, đại nội còn một trăm ba mươi thị vệ, liều chết cũng phải hộ tống Hoàng thượng phá vây…”
Lý Phong đạp hắn ngã lăn quay: “Cẩu nô tài dám tự chủ trương, cút! Lấy Thượng phương bảo kiếm đến!”
Vương Quả nghe vậy vội quỳ gối theo: “Xin Hoàng thượng nghĩ lại, chỉ cần ngô hoàng bình yên vô sự, xã tắc sẽ có chỗ gửi gắm, tương lai chưa hẳn…”
Một đại nội thị vệ nâng Thượng phương bảo kiếm đến trước mặt Lý Phong, Lý Phong rút kiếm, đâm xuyên mũ quan của Vương quốc cữu.
Lý Phong sải bước ra ngoài điện.
Chúc Chân Nhỏ sấp ngửa đuổi theo sau Hoàng thượng, lục bộ cửu khanh hoảng loạn tựa như tìm được dê đầu đàn, không tự chủ được theo Lý Phong nối đuôi đi ra, đôi nghĩa tử diện thủ của Chúc Chân Nhỏ ở Bắc môn bị đại nội thị vệ đẩy ra một bên, sốt ruột gọi hắn ta. (Diện thủ tức kỹ nam)
Chúc Chân Nhỏ giọng the thé nói: “Làm càn, lớn mật!”
Hắn dù sao cũng là hồng nhân trước mặt Hoàng thượng, mấy thị vệ hơi do dự, để hai tên diện thủ kia xông vào, đúng lúc này, Liễu Si đại sư của Hộ Quốc tự từ đối diện đi tới, phía sau dẫn theo một đám người như võ tăng, đến trước mặt Lý Phong.
Thần sắc Lý Phong hơi dịu đi, song còn chưa kịp chào hỏi Liễu Si đại sư, thì một đứa con nuôi diện thủ của Chúc Chân Nhỏ đột nhiên ngẩng đầu lên, trên khuôn mặt khúm núm lại tràn đầy sát ý, hắn đi theo bên cạnh Chúc Chân Nhỏ, vừa vặn cách Hoàng đế Long An năm bước, há mồm phun ra một mũi tên.
Không ai liệu được biến cố này, nhất thời mọi người đều kinh hãi.
Trong tích tắc, Chúc Chân Nhỏ quát to một tiếng, thân hình béo phị lăn tới, đập mạnh vào lưng Lý Phong, lấy thân cản thay một kích trí mạng. Lý Phong lảo đảo một bước, suýt ngã vào lòng Liễu Si, kinh nộ lẫn lộn quay đầu lại, thấy Chúc Chân Nhỏ hai mắt trợn to, tựa hồ vẫn không dám tin đứa con nuôi mình ngàn y trăm thuận sẽ biến thành thích khách, thân thể co giật như rối gỗ giật dây, chưa kịp rên một tiếng đã tắt thở.
Lý Phong nhất thời nín thở, đúng lúc này, hắn nghe thấy một tiếng Phật hiệu, Hoàng đế Long An chưa kịp bi ai, đã thấy một bàn tay lạnh băng đè trên cổ – trên tay Liễu Si đại sư giấu trong tay áo đeo thiết trảo, quái thủ có thể dễ dàng bóp nát đá kia bóp cái cổ yếu ớt của hắn, Thượng phương bảo kiếm rơi xuống đất “keng” một tiếng.
Bá quan và thị vệ đều sợ ngây ra, Giang Sung thư sinh văn nhược trói gà không chặt này không biết lá gan từ đâu tới, tiến lên một bước quát hỏi: “Phương trượng, ông điên rồi à?”
Liễu Si lột đi diện mạo sầu khổ mấy chục năm như một ngày mà nhìn hắn, cười nói: “A di đà Phật, bần tăng không điên, Giang đại nhân, năm đó Vũ Hoàng đế cực kì hiếu chiến, lấy láng giềng tứ cảnh để mài Huyền Thiết lợi kiếm, chỉ sợ ngươi còn chưa sinh ra đâu.”
Giang Sung: “Cái…”
Một “võ tăng” đằng sau Liễu Si tiến lên một bước, nói một câu mà Giang Sung không hiểu, sau đó mấy trọng giáp từ bốn phương tám hướng đi ra, đứng phía sau đám hòa thượng ấy.
Hồng lư tự khanh bên cạnh giật mình la lên: “Người Đông Doanh!”
Liễu Si cười nói: “Vũ Hoàng đế hạ một đạo dung kim lệnh, cả nhà ta mười sáu khẩu chết dưới tay quạ đen, còn mình ta tạm bợ, lưu lạc quý bang, nhờ năm ấy Cố lão hầu gia và trưởng công chúa đại hôn đại xá thiên hạ, mới được thân tự do, đoạn thân thế tục, từ đó thanh đăng hoàng quyển làm bạn, khổ tâm cô nghệ bốn mươi sáu năm, cuối cùng đã có hôm nay.”
Lý Phong bị bóp cổ, tiếng đứt quãng: “Ngươi… là con cháu phỉ đạo buôn lậu tử lưu kim tội đáng chết vạn lần năm đó!”
“Phỉ đạo.” Liễu Si ngoài cười trong không cười lặp lại một lần, “Không phải sao, đều do tử lưu kim – Hoàng thượng miệng cứng lòng cũng cứng, không biết xương cốt phải chăng cũng thế. Như vậy xin di giá lên hồng đầu diên, đi theo bần tăng một chuyến.”
Lý Phong: “Trẫm…”
“Hoàng thượng một lòng tin theo ngã Phật,” Liễu Si nói, “Tin ngã Phật chính là tin bần tăng, cũng không khác biệt gì nhau.”
Nói xong, lão trực tiếp đẩy Lý Phong lên một chiếc hồng đầu diên, sai người treo cờ bàn long trên ngự liễn lên đuôi diên.
“Cắt dây thừng, thả hồng đầu diên ra,” Liễu Si nói, “Truyền tin tức, cứ nói Hoàng thượng muốn lái diên bỏ thành đào tẩu!”
Giang Sung: “Cẩu tặc lớn mật!”
Liễu Si cười sằng sặc: “Kẻ nào muốn thí quân có thể xông lên!”
Đúng lúc này, không xa đột nhiên truyền đến một tiếng rống to.
Liễu Si ngẩn ra, quay đầu lại, chỉ thấy Liễu Nhiên không biết đứng trên phế tích Trích Tinh đài từ khi nào.
Họng vị tăng câm bị hư từ nhỏ, dùng hết toàn lực cũng chỉ có thể phát ra tiếng “a a”, bất nhã cỡ nào, người từng gặp Liễu Nhiên đại sư đều chưa từng nghe hắn phát ra tí tẹo âm thanh, hắn phảng phất vĩnh viễn là bộ dáng đi như gió mát, mặt đượm xót thương.
Hắn là đứa trẻ được tiền nhiệm phương trượng nhặt về, từ nhỏ do Liễu Si sư huynh nuôi nấng, dù rằng phóng khoáng không giống người xuất gia, mới mười một mười hai tuổi đã trốn khỏi tự viện, lang bạt giang hồ, thậm chí sau đó gia nhập Lâm Uyên các… Tình nghĩa thời thiếu niên dần phai nhạt, nhưng thủy chung quanh quẩn không đi.
Liễu Nhiên dùng thủ ngữ nói: “Sư huynh, quay đầu là bờ.”
Liễu Si thần sắc phức tạp nhìn chằm chằm sư đệ mình nuôi nấng từ bé, nhất thời cũng không khỏi bị gợi lên tình nghĩa ngày trước, hơi thất thần, kế đó lẩm bẩm: “Sông đã cạn khô, ở đâu ra…”
Chữ “bờ” chưa nói ra, một đoản tiễn dài bằng bàn tay đột nhiên lao vút ra từ một góc độ cực kỳ xảo quyệt, nhân lúc Liễu Si phân tâm, dứt khoát một tên phong hầu.
Mọi người nhất tề kinh hô, chỉ thấy một huyền ưng bay sát đất tới, dây tiểu nỗ trong tay Trường Canh trên lưng ưng còn rung rung, Đàm Hồng Phi cầm cát phong nhận, cánh tay sắt vung lên, chia nhau ngăn hai võ tăng Đông Doanh tập kích.
Giang Sung quát: “Còn đần ra làm gì, hộ giá!”
Đại nội thị vệ ùa hết lên, một đội Huyền Thiết khinh kỵ từ ngõ nhỏ lao ra, Lý Phong đẩy mạnh Liễu Si ra, thi thể cao tăng lăn xuống hồng đầu diên.
Liễu Nhiên quỵ xuống giữa phế tích.
Một gia quốc to lớn, một thiên hạ to lớn, đông tây cách hải, nam bắc vô biên…
Không bỏ xuống được một điện thờ rời xa trần thế.
Võ tăng Đông Doanh và đại nội thị vệ lao vào hỗn chiến, trọng giáp Liễu Si mang đến bắn một phát pháo lên trời, Đàm Hồng Phi rơi thẳng xuống, Trường Canh nhanh nhẹn một gối hạ đất, hai người tách ra, gạch đá ngói vụn bay khắp nơi.
Ánh mắt Trường Canh chạm qua Lý Phong, tháo bạch hồng trường cung phía sau, lưng dùng sức đỡ trường cung trong tay, dây cung sắt kéo căng hết cỡ, giương cung như trăng tròn-
Một tiếng rít ghê răng vang lên, trúng ngay hộp vàng của trọng giáp kia.
Y lập tức lui lại, hộp vàng tức thì nổ tung, sóng nhiệt xô tới làm hồng đầu diên rung không thôi.
Lý Phong vịn lan can hồng đầu diên: “Đàm Hồng Phi, lái thứ này, đưa trẫm lên cổng thành!”
Đàm Hồng Phi lấy làm kinh hãi, chần chừ một chút, nhìn Trường Canh hỏi ý kiến.
Trường Canh mâu sắc nặng nề, xem như đồng ý.
Hồng đầu diên đưa Hoàng đế đến cổng thành, hơn một trăm đại nội thị vệ cùng bá quan trùng trùng điệp điệp đồng hành, con đường đá mười hai dặm từ Khởi Diên lâu đến bên ngoài cổng thành, không ngừng có lưu dân do chiến loạn trốn vào kinh thành và bách tính bản địa từ hai bên đường ùa ra, như sông đổ ra biển.
Lúc này, cổng thành rốt cuộc khó mà tiếp tục đứng vững, lưới cấm không chợt tắt ngấm, xuy hỏa tiễn cũng thấy đáy.
Cố Quân trên thành lại quát một tiếng ra lệnh mở cổng.
Huyền Thiết trọng giáp chờ đợi đã lâu lao khỏi cổng thành, Cố Quân dùng tay ra hiệu cho thương binh trên thành, cổng thành sau trọng giáp trận chậm rãi đóng vào.
Cố Quân tháo mặt nạ bảo hộ bằng sắt, tất cả trọng giáp phía sau đều làm động tác tương tự.
|