Khu Rừng Điên Loạn
|
|
Chương 6: Phiên chợ buôn lậu (1)
Gió Mistral bắt đầu gào thét vào những tuần đầu tháng mười. Thời tiết trở nên ảm đạm trong khi tình hình học tập của tôi, kể cả kiến trúc lẫn pháp thuât, cũng chẳng khá khẩm hơn là mấy. Mỗi ngày, sau buổi học chính tôi phải lặn lội theo Kamui vào vùng ảnh hưởng. Anh nói: "Em sẽ tiến bộ nhanh hơn nếu ở gần Thánh địa." Nhưng dù có ở ngay trong thánh địa, tôi cũng không có hi vọng mình sẽ hiểu được những gì anh dạy. Trong khi gió gào thét, dộng rầm rầm vào cửa sổ của phòng yêu cầu của Rebellion, thì phía trong này Kamui cũng liên tục gầm gừ: "Làm lại!" "Vâng." Tôi rên rỉ đau khổ. Hai bàn tay tôi toát mồ hôi khiến nắm cát trong tay chẳng mấy chốc ướt nhẹt. "Nhìn kĩ đây." - Anh nắm chặt nhúm cát nhỏ trong lòng tay, khép hờ mi mắt. "Em phải cảm nhận được từng hạt cát nhỏ trong lòng bàn tay, hiểu thấu đáo về chúng, kích cỡ, màu sắc, độ lạnh, độ sần sùi, trọng lượng. Rồi từ từ, hình dung rằng cát đang chảy khỏi nắm tay của mình." Và cát tuôn thành dòng qua các kẽ tay của Kamui, ào ạt không ngừng. Nhìn thì đơn giản thế, nhưng trong nhiều ngày, ngoài nắm thêm chút đỉnh lý thuyết tôi vẫn chưa thành công được bài thực hành đầu tiên. Kamui thở dài khi thấy tôi vật lộn với mớ cát: "Thế này thì không kịp cho Tuần Trăng Máu mất." Tuần Trăng Máu là khoảng thời gian đặc biệt mà cứ bảy năm, tính theo thời gian của Allillus, mới xảy ra một lần. Đây là lúc duy nhất mà dòng chảy thời gian của cả bảy thế giới và cả của Thánh Địa khớp với nhau theo tỉ lệ một một. Trong thời điểm này lũ Vô Diện và kể cả Gardien vô cùng bận bịu, chưa kể trận choảng nhau với lũ Fidem vẫn chưa kết thúc, nên Kamui, một cách bất đắc dĩ đã quyết định đưa tôi tới phiên chợ. "Anh thực lòng không muốn đưa em dính dáng sâu với những nơi như thế - anh thở dài - nhưng đó lại là một dịp hiếm hoi để gặp được những pháp sư cao cường có thể giúp em giải trừ Yểm điệp. Nhưng ít ra em cũng phải nắm vững ít pháp thuật phòng vệ vì anh không thể kè kè bên em mãi. Tứ Thuật, bao gồm Huyễn Thuật, Ma Thuật, Bí Thuật và Kiếm Thuật là bốn kĩ thuật phòng vệ tấn công phổ biến ở đây." "Ma thuật thì bỏ qua đi, quá phức tạp. - Kamui phẩy tay - Kiếm thuật chỉ dùng khi xáp lá cà, không mấy phù hợp với vóc dáng của em. Anh chỉ trông mong em nhanh chóng tiếp thu được Huyễn thuật, là nguồn sức mạnh thiên biến vạn hóa. Lí do mà em thất bại, có lẽ vì em chưa nắm được "huyễn" trong Huyễn Thuật." Nói đoạn anh đột nhiên nhìn tôi với ánh mắt sắc lạnh đầy uy lực. Rồi đột nhiên anh vung tay lên đấm xuống mặt bàn, kính cửa sổ đột nhiên vỡ vụn bắn tung tóe về mọi phía. Tôi hoảng sợ che lấy mặt. "Bỏ tay ra đi, nhìn xem, có gì đâu." - Kamui cười cười. "Một giây trước anh vừa làm vỡ cửa sổ mà!" - Tôi thảng thốt kêu lên khi nhìn thấy hai cánh cửa sổ vẫn còn nguyên vẹn. "Đó là đỉnh cao của huyễn hoặc." "Là sao?" "Nghĩa là đánh lừa chính mình và mọi người xung quanh bởi ý niệm của bản thân. Anh chỉ đơn giản là nghĩ đến việc tấn công em bằng vụn kính cửa sổ. Nhưng dưới sự ảnh hưởng bởi sức mạnh tâm linh của Thánh địa, ý niệm này được hiện thực hóa. Tuy nhiên, anh thực lòng không muốn sát thương em nên ý định này không hoàn toàn thành công. Nó chỉ đủ sức tác động lên em như một ảo ảnh." "Vậy nếu anh thực lòng muốn?" "Khi ấy em sẽ bị thương. Em nên nhớ, cốt lõi của Huyễn Thuật là sức mạnh tinh thần. Niềm tin càng mãnh liệt thì độ chân thực càng cao. Em đã thấy Esteille rồi đấy." "Đừng nói với em là nó cũng được tạo ra bởi Huyễn thuật nhé?" Tôi kinh ngạc hỏi lại nhưng thực chất bản thân đã có câu trả lời. Điều đó giải thích rõ ràng cho việc Esteille có thể trở lại ngay cả khi đã trúng tên của Dimitri. "Nó không phải sinh vật sống?" "Cũng không hoàn toàn đúng! - Kamui cười cười - Nó đương nhiên không giống những con ngựa khác nhưng cũng có cơ chế vận hành khá tương tự. Kyo, cô ấy rất có thiên phú về sinh vật học. Mẹ cô có một trang trại ở Hokkaido nên từ bé Kyo đã lớn lên giữa bầy ngựa. Anh không nghĩ có ai am hiểu về chúng hơn cô ấy." "Nhưng em thấy đôi khi anh vẫn dùng Esteille." "Anh đồng sở hữu mà. Kyo cho nó cơ thể, còn anh cũng có tác động tí chút. Em phải hiểu là cả hai việc đó đều không hề dễ. Giống như anh cho em một khối đất sét, tự dùng chính đôi tay mình em cũng khó mà nặn ra được hình thù con ngựa. Huống hồ, chỉ bằng ý niệm Kyo phải tạo ra một con ngựa với tim gan phèo phổi, như một sinh vật sống. Đương nhiên lúc đầu cô ấy cũng chẳng thành công mấy. Tụi anh đã chẳng thể nào nhịn cười khi mà thấy được tác phẩm đầu tiên của Kyo." - Kamui như chợt hình dung lại điều gì rồi phì cười. "Anh thề với em, lúc đầu Esteille chỉ là một con quái thôi. Rồi dần dần nó tiến hóa, trông giống gần như một con lừa. Phải nhiều năm em mới thấy nó được như hôm nay." "Vậy còn anh, anh làm gì?" "À, cái này khó mà giải thích. Em từng thấy vũ khí của anh rồi. Cung, kiếm, nỏ, đều được tạo ra bằng huyễn thuật." "Chúng sáng rực. "Cái này không phải muốn là được. - Mắt Kamui hấp háy tinh ranh - Nó thuộc vào thuộc tính của sức mạnh tinh thần. Của anh thiên về ánh sáng, lôi quang. Anh đã truyền một ít thuộc tính lôi của mình vào trong người Esteille, kích thích cho tim nó đập." "Thật là thần kì!" - Tôi thêm vào với vẻ hâm mộ. Sự vui thích lồ lộ trên khuôn mặt của tôi bị Kamui dập tắt. "Em cứ hãy thực hành với cát đi đã!" Nhưng lúc đó tiếng chuông trên đầu kêu lên coong coong. Giọng của Rebel vang lên bên kia cánh cửa. "Hết một tuần nến rồi!" Ngọn nến mà Kamui mua để canh thời gian sử dụng phòng yêu cầu đã cháy rụi, trơ lại cái khay đen nhẻm. Chúng tôi lục đục dọn đồ. Tôi khoác vào tấm áo chùng có mũ trùm bằng vải dạ đen bóng mà Kamui cho tôi trước khi bước ra ngoài gian chính của chòi. Trên đường về, cả hai chúng tôi đều im lặng. Kamui trông có vẻ hơi mơ màng xa xăm. Tôi có rất nhiều câu hỏi muốn hỏi nhưng lại ngại làm phiền anh, chỉ hơi khụt khịt, mong anh chú ý một chút đến mình. Nhưng lúc chia tay anh chỉ nhẹ nhàng nói: "Mấy hôm nữa anh không thể tới gặp em được." "Anh đi đâu?" - giọng tôi nghe có vẻ rầu rĩ. "Anh sẽ trở lại tìm em trước kì nghỉ lễ Toussaint. Đừng tới những nơi vắng vẻ! Giữ gìn sức khỏe nhé." - Kamui hơi mím môi nhìn tôi, rồi cười buồn buồn rồi quay đi, dáng vẻ cô độc mất hút trong rừng.
Tuần sau đó, giống như Kamui đã dự đoán trước, tôi mắc phải một trận cúm dài. Mới đầu có vẻ như bị nhiễm lạnh, nhưng những cơn ho dai dẳng mãi không dứt. "Bồ đi khám bác sĩ chưa?" - Ananda lo lắng hỏi. "Trông bồ tái quá, hay bồ về trước đi, mình xin phép thầy cho." "Cảm ơn Nadège, mình không sao." - Tôi kết câu bằng một cơn ho. "Không cần, gần hết tiết rồi. Mình đi toa lét chút." Tôi uể oải lết ra khỏi xưởng vẽ, lúc băng ngang qua một gian phòng trống tôi nghe thấy tiếng thút thít nho nhỏ. "Mình biết mà. Mình đã đoan chắc như vậy." "Sophie, bình tĩnh nào." Nghe tới đây tôi không kìm được liếc nhìn qua khe hở của cánh cửa. Sophie đang gục vào ngực Micael khóc. Một cô gái khác ngồi trên bàn quay lưng lại phía tôi. "Marianne, bồ chắc chứ." - Micael hỏi lại với giọng nghi hoặc. "Mình nói dối bồ để làm gì? Bồ nhìn kĩ xem có phải là dây chuyền của Dimitri không?" "Chúa tôi! Ôi Micael. Mình biết là anh ấy bị hại mà." - Sophie nức nở to hơn, nhưng cũng không át được tiếng ho của tôi. Họ giật mình nhìn ra ngoài, tôi bất giác co chân bỏ chạy như bị mẹ phát giác ăn vụng. "Ananda!" - Tôi thở hồng hộc đuổi theo mấy cô bạn đang đi xuống đồi. "Hachi, sao thế?" "Không! Không sao." - Tôi tựa đầu vào vai Ananda, thở đứt quãng. - "Mấy bồ có biết ai tên là Marianne không?" "Marianne nào? Khóa mình có tới hai Marianne lận." "Một Marianne nào đó - tôi cố hình dung lại - tóc đen, quen biết với Sophie, đại diện CVE ấy." Cả mấy cô bạn đồng loạt nhìn tôi lắc đầu. "Tụi mình đâu có thân với Sophie dữ vậy!" - Nadège nháy mắt với tôi. Mấy cô bạn rộ cười. Tôi ậm ừ qua chuyện, tâm trí còn luẩn quẩn rối bời. Chúng tôi đang đi trên con đường bọc men sườn đồi phía nam. Những ráng chiều cuối cùng đang mờ dần, tạo thành những vệt màu nhàn nhạt vắt ngang qua bầu trời, phía trên những rặng núi xa xa, treo lơ lửng một vầng trăng kì lạ. "Ananda, Nadège, mấy bồ có thấy mặt trăng kia có màu cam lạ thường không?" "Đâu? Đâu có? Nó màu vàng mà?" Nhưng tôi biết mình rõ ràng thấy một mặt trăng gần tròn, to lạ thường với màu cam càng lúc càng rực rỡ trên nền trời đang chuyển sang đêm. "Hachi, bồ sao vậy." - Ananda lo lắng lay tôi khi tôi gục trên vai cô, mắt đờ đẫn nhìn ánh trăng. "Bồ ấy sốt rồi. Mau đưa bồ ấy về. Để mình ra lấy xe." Hai cô bạn dìu tôi về đến tận cửa phòng với vẻ lo lắng, khuyên nhủ tôi phải đi khám bác sĩ. Nhưng thâm tâm tôi biết rằng đã gần hai mươi tám ngày kể từ khi tôi bị trúng bùa truy ấn. Dạo này, dù mệt mỏi uể oải, nhưng tôi cảm giác bước chân và cơ thể lại nhẹ đi một cách lạ thường. Tôi xin nghỉ học vào những ngày cuối cùng trước kì nghỉ lễ. Ban ngày tôi ngủ li bì, ban đêm thì không làm gì ngoài nằm bẹp trên giường ngắm trăng. Bây giờ nó đã to gấp hai bình thường và chuyển sang một màu đỏ nhẫn hơi bầm bầm; không lên cao mà chỉ là đà dưới thấp, ẩn hiện sau những cành sồi quằn quại quỷ mị. Thêm hai ngày nữa trôi qua mà Kamui vẫn bặt vô âm tín. Cảm xúc của tôi bắt đầu chuyển hướng tích cực, tức là từ uể oải buồn bã sang tức giận. Cho nên vào khuya đêm tiếp theo, khi những viên cuội nhỏ cứ thi nhau dội vào cửa sổ, tôi lại kéo chăn trùm kín đầu không đếm xỉa gì. Khi những tiếng cuội thưa dần và thay vào đó là những tiếng gừ gừ meo meo nho nhỏ, tôi mới vùng khỏi chăn. Trên bệ cửa sổ là một chú mèo mun con nhỏ nhắn, đang ngước đôi mắt sáng rực màu emeraude nhìn tôi, một chân nó cào cào vào cửa sổ. "Ôi, cưng vào đây nào. Gì đây?" Chú mèo nhả khỏi miệng một mẩu giấy nhỏ với dòng chữ nghiêng nghiêng: Xin lỗi. Tim tôi đánh thót một cái, bỗng mọi tức tối giận dỗi tan biến đi đâu mất. Tôi chồm lên bệ cửa sổ nhìn xuống, phía dưới Kamui đang ngước lên nhìn tôi cười rạng rỡ. Những lọn tóc lòa xòa trước trán óng ánh trong ánh trăng. Tôi im lặng ngoắc ngoắc tay, ý gọi anh lên. Thế mà Kamui nhảy phóc một cú nhẹ nhàng, vượt khỏi sức tưởng tượng của tôi, đáp nhẹ nhàng lên mép cửa sổ. Mùi hương thơm dịu của rừng cây theo cử động này xộc vào phòng khiến tôi choáng váng bối rối. "Em còn giận à?" - Kamui hỏi khi thấy tôi lại trốn vào chăn. "Anh bảo là trước kì nghỉ lễ Toussaint!" - Tôi kéo giọng ngân nga. "Thì anh mới mang quà tới tạ tội đây!" - Kamui bồng chú mèo mun đặt lên người tôi. Nó bới bới chăn ra, khịt khịt tìm mặt tôi. Tôi nhìn nó, có chút xiêu lòng nhưng vẫn im lặng. "Em sốt rồi?" - Kamui sờ trán tôi, bàn tay anh lạnh lẽo như đã chạy hàng giờ liền ngoài rừng. Giờ tôi mới để ý thấy Kamui có vẻ mệt mỏi tả tơi hơn bình thường. Khuôn mặt anh tái nhợt. Lá rừng thì còn vương khắp áo chùng. Ở đâu đó trên bả vai còn có một con nhện đang bị quấn bởi những sợi tơ trắng, nằm quay đơ. "Em sốt lâu rồi. Ốm gần chết rồi đây!" - Tôi vẫn cứng giọng nhưng Kamui lại cười xòa. Hiếm khi tôi thấy anh lại tự nhiên như thế. Anh bồng chú mèo vào lòng nói: "Có nó rồi em chưa chết vội đâu." "Sao cơ?" "Em có biết những câu chuyện về linh miêu khiến những người vừa mới chết lại ngồi bật dậy sống lại không?" Tôi gật đầu lia lịa. "Những chuyện đó có thật ấy, không phải bịa hoàn toàn đâu. Nhưng phải tùy thuộc vào linh lực của con mèo và tình trạng phần vía của cơ thể. Em biết khi năm vía đầu tiên dần tiêu biến thì Giác hồn phần cũng bị giải phóng, người ta sẽ rơi vào trạng thái chết lâm sàng. Nhưng một số linh miêu lại có một khả năng độc đáo. Đó là Phong ấn. Một vài trường hợp hi hữu, khi mà linh miêu nhảy vọt qua tử thi, và phong ấn một cách hoàn toàn vô tình những phần vía chưa kịp tiêu tán hết giúp cho người chết sống lại." "Sao anh biết?" - Tôi nhổm dậy. "Những phù thủy phía đông thung lũng Luna Il Carmiis nói anh biết. Anh phải cực lắm mới xin được con mèo này của mấy bả." - Kamui nhăn mặt cơ hồ như không muốn nhớ lại. "Bây giờ em phải dùng tạm nó trước khi mình tìm ra cách khác. Tuy nhiên em phải luôn mang nó theo mình." "Vì sao?" "Vì thuật phong ấn này tuy hữu hiệu nhưng duy trì không lâu. Đó là lí do vì sao mấy cái xác chỉ bật dậy được một lúc. Đến khi linh miêu rời xa thì lại đâu vào đấy." Tôi bỗng bật cười mỗi lúc một to. Kamui tròn mắt ngạc nhiên. "Sao thế?" "Không có gì." - Tôi nói dối trong khi hình dung đến mình cứ quẩn quanh với một con mèo và cánh tay quấn băng quanh trường. Kamui cũng hơi lơ đãng nghĩ ngợi gì đó, rồi khó chịu nói: "Hachi, ngoài kia đầy rẫy âm mưu và kẻ thù, chúng ta không thể đoán trước được điều gì nên em phải chuẩn bị cho một chuyến đi dài. Và trong mọi trường hợp, tốt nhất là nên giữ kẽ một chút, đừng nên nói hay hỏi những điều không nên." "Em biết mình phải làm gì." - Tôi hơi cáu cẳn đáp lại nhưng thực tâm lại thấy tràn trề hi vọng. Không biết từ lúc nào tôi dần cảm thấy muốn ở bên Kamui nhiều hơn. Con người bí ẩn lạnh lùng này vừa làm tôi sợ vừa làm tôi tò mò nhưng vì một điều gì đó, tôi còn cảm thấy quen thuộc với anh hơn nhiều người bạn khác. Và dù muốn chối bỏ cái sự thật là tôi quan tâm đến anh, và tôi cảm thấy bồn chồn những buổi chiều anh không xuất hiện ở trường, nhưng điều đó vẫn xuất hiện lồ lộ trên mặt tôi. Đoán chừng Kamui cũng nhận thấy được điều ấy nên anh thường lảng tránh. "Ồ. Em chẳng biết mình phải đối mặt với điều gì đâu. Anh chưa từng thấy ai lại thích đâm đầu vào rắc rối như em. Trên hết đây không phải một cuộc phiêu lưu cho một người không nghiêm túc đi khám phá." "Anh nói em đang đùa giỡn?" - Tôi bực tức hỏi lại. "Anh không nói thế. Anh chỉ cảnh báo em thôi." "Anh có nói." - Tôi quả quyết.
|
Chương 6: Phiên chợ buôn lậu (2)
"Anh có nói." - Tôi quả quyết. "Và em cũng nên bỏ cái thói trẻ con của mình luôn thì hay hơn." - Kamui chán nản quay đi, khiến tôi cảm thấy tự ái ghê gớm. Chắc anh cảm thấy tôi ngu ngốc lắm, tôi nghĩ mình là cái gì cơ chứ. Nếu không vì sợi dây chuyền của anh chắc anh chẳng bận tâm Yểm Điệp thịt tôi đâu. Nghĩ đến đấy tôi tủi thân quá, ho lên sù sụ. Kamui vội vớ lấy ly nước trên bàn đưa cho tôi. Hớp được một ngụm thì tôi bình tĩnh lại. "Dù anh nhìn em ra thế nào, thì sự thật em đã nghiêm túc tập luyện để chuẩn bị." Tôi tóm lấy ly nước, rồi không cần một chút cố gắng tôi đã làm cho nước trong ly lục bục sủi bọt dâng nhanh lên và trào ào ạt ra ngoài khiến Kamui vội né qua một bên. "Chà, được lắm - Kamui khích lệ. - rồi từ từ em sẽ tìm được cách sử dụng huyễn thuật thích hợp với mình. Còn bây giờ ..." - Kamui chỉnh lại tư thế ngồi, với lấy con mèo đang bò đi lung tung. "Anh sẽ giúp nó làm nghi thức phong ấn, em xem muốn đặt nó tên gì?" Tôi nhìn vào đôi mắt xanh của nó rồi buột miệng nói: "Emeraude đi!" Kamui một tay giữ con mèo trên ngực tôi, tay còn lại vẽ hờ lên trán con mèo một dấu hiệu bao gồm hình tròn và dấu thập tự lớn lồng vào nhau. Vừa làm anh vừa niệm chú bằng một thứ tiếng kì lạ. Dấu ấn đó hiện rõ lên trán Emeraude, đốt cháy xém vùng lông mà nó hằn lên. "Xong rồi!" Tôi tò mò nhìn quanh người mình. "Em sẽ dần thấy khá hơn. Emeraude!" - Kamui gọi con mèo và thì thầm nho nhỏ bằng thứ tiếng ban nãy. "Anh nói gì thế?" "Anh dặn nó phải phục tùng em bằng chú ngữ vùng Il Carmiis." Nói đoạn Kamui ngước nhìn vầng trăng ngoài cửa sổ và thở dài buồn bã. "Anh những tưởng có thể ngăn em dính líu đến xứ sở này. Bao nhiêu học sinh ở trường vẫn đi lại nhan nhản ra. Thế nên anh chẳng thể nào hiểu nổi sao em mới tới không được bao lâu đã gây chuyện rồi." "Em gây chuyện? - tôi cự lại - Ít ra em chưa có biệt tích luôn trong rừng." - Dường như tôi chọc đúng chỗ hiểm của Kamui. Anh bặm môi nhìn tôi tức giận, khuôn mặt đâm trắng bệch ra. Ý thức được sự khiếm nhã của mình nên tôi vội vã chữa cháy. "Em xin lỗi." Kamui nhìn trừng trừng tôi thêm một lúc rồi dịu lại, chuyển sang một trạng thái thất vọng mơ hồ. Anh thì thào: "Cứ đà này thì chỉ là sớm hay muộn thôi." "Sớm hay muộn làm sao?" - Tôi hỏi lại và cảm giác đầu óc mình trì trệ, không hiểu nổi lấy một phần những gì anh nói và tôi đã chẳng nhận ra sự tuyệt vọng trong lời giải thích của anh: "Trở thành kẻ như anh! Đáng lẽ anh không được đến gần em nhưng em không cho anh cơ hội làm điều đó. Rắc rối của em lớn hơn em nghĩ nhiều, buộc anh phải làm những điều tệ hại để tránh những điều tệ hại hơn." "Kẻ như anh ... thì thế nào?" - Tôi chộp ngay lấy điểm mấu chốt. "Hình như em chỉ nghe những gì em muốn nghe thôi thì phải?" - Anh phì cười, nụ cười vừa có vẻ bất đắc dĩ vừa xen lẫn bực bội. Tôi cũng đã quen với thói lường ương của anh, nên chẳng ngại ngùng mà bồi tới: "Anh cũng chỉ nói những điều mà anh hiểu thôi còn gì? Anh cố ý phải không?" "Ừ." - Kamui bình thản gật đầu, ra vẻ nhận tội. Sự im lặng chùng xuống, bao trùm cả căn phòng. Tôi ngồi im vuốt ve bộ lông Emeraude, chủ yếu để không nhìn vào gương mặt anh, vì vẻ u buồn cô độc phảng phất trong ánh mắt anh thường làm tôi chùn lòng. Trong khi tôi thật tâm muốn hỏi những điều đã thắc mắc bấy lâu: "Sao anh không kể cho em?" "Về điều gì?" - Giọng Kamui ra chiều đề phòng. Không cần nhìn lên tôi cũng có thể cảm giác được anh đang nghiến chặt hai quai hàm. "Về các anh. Về Kyo. Về...." - Tôi ấp úng hỏi nhưng Kamui gạt phắt đi. "Những chuyện đó không liên quan gì đến em cả! Tốt nhất em cứ tự quan tâm đến mình thì hơn." Nói xong Kamui đứng phắt dậy. Tôi bàng hoàng ngẩng dậy, tròn mắt nhìn anh với một vẻ tổn thương ghê gớm nhưng có vẻ điều đó chẳng mảy may làm anh chạnh lòng. Anh hơi khựng lại, nhìn tôi với ánh mắt khó hiểu rồi nhảy phóc lên bệ cửa sổ. "Anh sẽ quay lại đón em vào sáng sớm ngày mốt. Ngủ ngon." Kamui chào tôi cộc lốc, và trước khi tôi kịp thốt ra lời thì anh đã mất hút trong màn đêm, để lại tôi giữa bóng tối bẽ bàng. Nước mắt bỗng ứa ra nơi khóe mắt làm tôi nghẹn ngào. Tôi cảm thấy tức giận với anh và với chính bản thân mình, cảm thấy sao mình ngu ngốc quá. Đáng lẽ tôi chỉ nên lo cho chính mình thôi mới phải. Những suy nghĩ ấy cứ quẩn quanh mãi cho đến buổi sớm hai hôm sau. Kamui như đã hẹn cưỡi Esteille đợi tôi dưới cửa sổ. Vừa thấy khuôn mặt dịu dàng một cách bất thường của anh thì bao nhiêu giận dỗi tựa hồ tan biến. Tôi lóng ngóng trèo lên bệ cửa sổ, không rời mắt khỏi sắc mặt của anh. Có vẻ anh đã quên hẳn sự cố hai hôm trước, cười tươi dang hai tay ra như muốn đỡ tôi. "Nhảy xuống đây!" "Từ đây hả? Lầu hai đó." - Tôi ái ngại. "Cứ xuống đây! Nhanh lên không anh đi trước!" Tôi ngần ngừ không muốn nhảy xuống. Không phải tôi không tin anh, mà thật sự tôi không tin vào chính mình. Không biết mình có hóa điên không mà nhìn thấy một Kamui hòa nhã đến vậy. Lúc đó, Emeraude từ phía sau nhảy thốc lên vai tôi khiến tôi hụt tay chúi xuống dưới. Trong khi cảm thấy bao nhiêu tim gan đang chết lặng thì một cảm giác kì cục bỗng xen vào. Như thể không khí xung quanh hơi khựng lại, bọc quanh người tôi như kén tơ. Chưa kịp hiểu kĩ thì Kamui đã vươn tay ra đón tôi nhẹ nhàng. Thật may thay bóng đêm lại trở thành đồng minh khỏa lấp đi hai má đỏ rần như phát sốt khi tôi nằm gọn trong vòng tay anh. Nếu không tôi chẳng mấy hoài nghi rằng anh sẽ thảy tôi xuống một cách phũ phàng khi thấy bộ dáng này của tôi. Thật là cay đắng nhưng tôi vẫn tự mình thừa nhận. "Chừng này thôi mà đã sợ gì chứ? Sẵn sàng chưa?" - Anh mỉm cười. "Vâng." - Tôi nói gỏn lọn. Kamui liền phóng thẳng vào rừng. Khu kí túc B cũng dần lùi xa, nhanh chóng mất dạng sau những thân cây dày đặc. "Phiên chợ đó rốt cuộc nằm ở đâu?" "Sườn Tây Bắc núi Ager của Eldorado. Con đường tắt men theo khe vực Tử thần Rudor lại dẫn ngang qua Bẫy Quỷ. Phía Đông Bắc thì vướng phải tàn quân của Fidem. Chúng ta buộc bọc vòng hướng Đông Nam qua đèo Woffrin." Chúng tôi chạy miệt mài, chỉ đến khi chúng tôi bắt đầu lên đèo thì Esteille mới chậm lại. Mặt trời từ từ lên cao khiến lớp sương mù dày hạ thấp. Esteille chạy băng qua cánh đồng sương giá, nhẹ nhàng như lướt trên mây dù hai chúng tôi, mỗi người nặng trĩu những suy nghĩ riêng biệt. Kamui cắt đứt sự im lặng ngột ngạt khi thắng cương đột ngột. "Tới rồi!" Chúng tôi dừng trước một cụm rừng cây dày đặc cao lớn đan xen vào nhau. Phía sau những thân gỗ khổng lồ là bụi gai um tùm che kín tầm nhìn. "Đã lâu rồi anh không quay lại đây. Xem nào..." Kamui tiến lại gần xem xét. Rồi anh đưa tay lên gõ gõ lên một thây cây giống như bao thân cây khác. Bỗng những thân gỗ khổng lồ ấy uốn cong mình, nhẹ nhàng như thể làm từ cao su, tạo nên một lối vào hình cổng vòm, đóng lại ngay khi chúng tôi vừa bước qua. Hai bên lối vào là hai chòi canh gác, cũng được tạo thành bởi những thân sồi uốn cong một cách kì dị. Một người to con vạm vỡ thò đầu ra hỏi: "Phiền quý khách trình thẻ bài!" Kamui đặt một thẻ gỗ lên quầy. Gã to con xem xét nó rồi trả lại. "Mừng ngài quay lại thành Laïk!" - rồi gã quay sang nhìn tôi. "Của cô ấy đây." Kamui rút trong áo chùng ra tín vật của Lowell hôm trước. Gã gác cổng chỉ nhìn thoáng qua rồi kính nể lùi lại, không dám động vào thanh đoản kiếm. "Xin mời." Một cổng vòm mới được mở ra, lần này chúng tôi tiến thẳng vào giữa tòa thành. Xung quanh sầm uất như một thị trấn nhỏ. Đường phía dưới chân được lót đá phiến sạch sẽ, từng dãy quầy hàng dọc hai bên đường bán nhiều thứ rất đa dạng, từ vật dụng trong nhà đến những thứ quái đản nhất. Một số hàng quán ăn vô cùng đông đúc. Nhưng thứ duy nhất thu hút tôi là một tháp chuông hình trụ cao, bọc kính trông rất trang nghiêm, nằm xa xa khuất sau nhiều dãy phố. Tôi há hốc khi đi ngang qua quảng trường nhỏ đông nghẹt. "Là phiên đấu giá." - Kamui thì thầm. "Rốt cuộc chỗ này rộng bao nhiêu vậy? Nó đâu giống như một chợ phiên lưu động?" "Đây là thành Laïk, nơi ẩn náu của tộc Ruinne kể từ khi họ di tán khỏi Massilia." - Kamui khẽ thì thào - "Trước khi đi tìm tên bạn cũ của em, chúng ta cần phải đến chỗ này." Chúng tôi vào một tiệm nhỏ, tối tăm hơn những hàng quán ngoài kia. Cô chủ quầy cười tươi dẫn chúng tôi đi qua một hành lang tối tăm thông sang một căn phòng hình trụ lớn hơn nhiều so với gian quán bên ngoài. Trần nó cao như nóc nhà thờ với những thanh xà gỗ khổng lồ thiết tưởng là vô dụng, vì chúng chẳng nâng đỡ gì ngoài một mảnh kiếng tròn nhỏ. Dù thế những dãy kệ đồ sộ xung quanh tường thì khá là tương xứng với căn phòng. Chúng xiêu vẹo khắp mọi hướng nhưng lại có thể vươn cao lên tới tận trần nhà. Cảm tưởng như toàn bộ kết cấu này sẵn sàng ập xuống đầu chúng ta bất kì lúc nào, với tất hàng triệu thứ lỉnh kỉnh mà nó mang trên mình. Chẳng đợi Kamui lên tiếng, cô bán hàng đã bước tới giữa phòng và nhìn hướng lên cái mảnh kiếng trên nóc nhà. Nó xoay tròn và từ từ hạ thấp xuống. Nó dừng ngay lưng chừng trước mặt chúng tôi, vừa đủ tầm cho một cái bàn. “Quý khách cần loại bùa chú gì? Ngôn bùa, khí bùa hay bùa hữu thể chúng tôi đều có, ngay cả những loại bùa cực hiếm. Nhưng chỉ một khi giá trị quy đổi tương ứng." "34A, 2D, 127E, ..." Kamui thốt lên một loạt những dãy số kì lạ. Cô bán hàng cũng tương ứng đó lầm rầm gọi hướng về những hộc tủ cheo leo trên dãy kệ. Một loạt hộc tự mình mở ra rồi những thứ nho nhỏ từ bên trong bay vèo ra ngoài, nhẹ nhàng đáp xuống mặt kính tròn. Cô gái vỗ tay nhẹ một cái khiến mặt gương xoay tròn tách làm hai miếng gương nhỏ lơ lửng. Tấm kính để phần bùa lệch hẳn xuống phía dưới. "Chúng tôi không có đủ những loại anh cần. Đây là tất cả những gì sẵn có. Anh chỉ cần bỏ phần tài sản muốn quy đổi vào mặt cân còn lại cho đến khi hai bên cân bằng." Kamui đặt lên mặt kính còn lại một ít viên ngọc và tiền xu nhưng mặt cân dịch chuyển không đáng kể. Tôi đoán chừng những bùa chú anh mua hẳn là giá trị lắm. Anh quay sang tôi cười: "Này, anh đem bán tín vật của người ta nhé?" "Anh không có tiền à?" - Tôi bối rối thốt lên. Kamui nhìn tôi cười với vẻ ngượng ngùng. Anh cởi tấm áo choàng ra để lên mặt cân khiến nó trôi tuột xuống dưới, mặt cân còn lại hẫng lên cao. Cô bán hàng không khỏi ngạc nhiên thốt lên trầm trồ. “Cái áo này quả là hiếm có." "Phải rồi, nó được dệt bằng ánh trăng thất tán của mùa đông và cất giữ hơi sương của rừng vào tháng tám." "Không, còn có cái gì hơn thế." - Cô bán hành dí mũi vào tấm kính đựng tấm áo chùng. - "Ở đây có ghi là "Được yểm bùa Ẩn giấu của bóng tối vĩnh cửu". Chà, chúng tôi không nghĩ sẽ có thứ gì có giá trị tương tự." "Không sao, tôi cũng chỉ để tạm chỗ cô thôi." Sau khi giao dịch kết thúc, chúng tôi rời khỏi quán và men dọc theo một con phố ít người hơn cho đến khi dừng chân dưới tháp chuông. Những người lính gác cổng nhỏ tiếng hỏi. "Thiệp mời?" Kamui rút ra một cuộn da nhỏ. "Phong ấn trên niêm yết đã được mở đúng cách. Mời ngài." Một người lính lùi lại cho Kamui vào, người còn lại chặn tôi. "Thưa cô?" "Ta được mời bởi Lowell của tộc Godron." - Tôi rút thanh đoản kiếm ra. "Tín vật của lãnh chúa." - họ thốt lên với vẻ nể sợ - "Xin mời cô đợi ở đây, lãnh chúa có lời dặn là sẽ xuống tận nơi đón cô." Người lính chưa kịp dứt lời thì Lowell đã phóng từ cửa sổ tháp chuông ra, nhân điểu của cậu ta từ đâu bay lại, đỡ lấy chủ nhân của mình rồi đáp nhẹ nhàng xuống bên cạnh tôi. "Hachi. Cô đã tới." - Cậu hồ hởi nhảy xổ vào xiết tay tôi với vẻ tự nhiên. "Tôi cứ tưởng mình đã mất toi thanh đoản kiếm chứ? Mọi người cứ rầy la tôi mãi." "Cậu tự tiện làm ấy chứ!" - Tôi đáp với vẻ tự ái. "Nhưng thưa cô, đây là vật tượng trưng cho thân phận của..." "Baron, ổn mà." - Lowell xua tay, đưa trả tôi một hộp nhỏ tinh xảo. "Đồ của cô ở đây. Cầu thang bên trái ấy, thưa ngài." Lowell với theo khi Kamui vừa toan rẽ phải. Anh hơi khựng lại, đổi hướng mà không thèm quay lại nhìn. Chúng tôi bước lên những bậc thang hơi dốc uốn quanh tháp, được rọi sáng bởi những cửa sổ cao vút dạng vòm. "Lowell này, cậu biết anh ta à?" - Tôi lên tiếng khi tà áo Kamui đã khuất phía trước. "Erion ấy hả? Ồ, tiếng tăm anh ấy thì đương nhiên. Nhưng tôi cũng chỉ mới gặp hai lần. Một lần từ rất lâu vào sinh nhật tuổi ba mươi. Còn lần thứ hai là lúc ở thánh địa với cô." "Sinh nhật thứ mấy?" "Ba mươi." - Lowell ngạc nhiên trước phản ứng của tôi. "Vậy giờ cậu mấy tuổi?" "Tôi sắp tròn năm mươi hai. Tôi vừa trải qua lễ trưởng thành chưa bao lâu." Lowell đáp trả tôi với một nụ cười rạng rỡ trong khi tôi há hốc ra. So với chuyện Kamui có tên giả thì điều này còn sốc hơn rất nhiều. "Ồ, tôi cũng vừa mới trưởng thành đấy. Ngày ba tháng mười vừa rồi tôi đã đủ mười tám." - Tôi nói vẻ châm biếm. "Chà, ở chỗ cô người ta khắc nghiệt với trẻ con quá nhỉ?" "Mình tới chưa?" - Tôi đánh trống lảng. "Ngay đây! Mời cô!" Lowell nghiêng mình mở cửa. Trước mặt tôi là một căn phòng chật cứng những người và ... thú.
|
Chương 7: Hội đồng minh Westorkian (1)
Quay xung quanh cái bàn gỗ tròn chiếm hết hai phần ba phòng là vố số những kì nhân quái thú, nhưng tất cả họ lại đang nhìn tôi và Emeraude như những sinh vật dị hợm nhất. Một lão rùa với cái mai cồng kềnh trên lưng và khuôn mặt xanh nhạt trèn trẹt đưa mắt nhìn tôi hỏi: "Cháu bé làm gì ở đây thế?" Tôi toan trả lời thì một loạt người đứng dậy xôn xao. Một cụ già bận tà áo dài màu tím dài chấm gót bước vào sau lưng tôi. Những hoa văn dạng kí tự màu vàng kim tựa hồ một bức tranh trên tà áo cũng trịnh trọng y như phong thái của cụ. Cụ nghiêng nghiêng đầu chào mọi người. Mái tóc của cụ sáng lấp lánh như tơ, dài đến nỗi một phần lớn đuôi tóc đằng sau dù đã thắt bím vẫn có nguy cơ quét đất. Khuôn mặt tuy già nua nhưng cái nhìn hãy còn tinh anh sắc lạnh, cụ đảo một vòng quanh mọi người rồi tiến vào bàn gỗ. Mọi người tự động dạt ra nhường chỗ cho cụ . Lúc này tôi mới thấy phía sau cụ có ba chàng trai, cũng cao lớn. Hai người có mái tóc dài và làn da tím tái, trông hao hao giống cụ, người còn lại thì có nước da rắn khỏe hơn với mái tóc nâu xoăn bồng bềnh. Anh mỉm cười kiểu cách với cả phòng như một ngôi sao đứng trước ống kính, dù thực sự chẳng có ai bận tâm liếc nhìn. Khi mọi người vừa yên vị thì một người đàn ông đứng tuổi mặc áo tay cánh để lộ ra những bắp tay lực lưỡng lên tiếng: "Trưỡng lão Firenze của tộc Sagittarius, ông lại tới trễ như thường lệ." "Người tới trễ thường là người có nhiều thứ để nói phải không? Thành chủ Agor? Ta phải cảm ơn ông đã đứng ra chịu trách nhiệm cho hội nghị. Nhất là khi ngoài kia chó săn của Fidem đang lùng sục khắp khu rừng, thật khó để tìm một nơi yên ổn họp mặt." "Luôn sẵn lòng." - Agor đấm một cái nhẹ vào ngực. Ông có khuôn mặt to bạnh, hàm vuông và một mái tóc ngắn lởm chởm màu đỏ đồng không hợp tẹo nào. Và nếu nhìn kĩ thì bên bả vai trái của ông có một hình xăm cái mỏ neo nho nhỏ. "Cảm ơn. - Firenze hơi cúi xuống, nhìn mọi người với vẻ uy nghiêm - Ngày hôm nay, thật không may là chúng ta phải tổ chức hội nghị Westorkian lần thứ hai, kể từ lần đầu vào khoảng một nghìn năm trăm năm sau ngày mà Eldorado sụp đổ, theo lịch của Allillus. Thật đáng tiếc là những trang sử vẫn chưa khép lại, buộc lớp trẻ phải bắt đầu đứng lên gánh vác lấy trách nhiệm này. - cụ dừng mắt ở Lowell và ở tôi với chút ngạc nhiên - Thế nên có lẽ cụ già này sẽ nhắc lại một số chuyện cũ, mà đôi khi quý vị sẽ trách ta lắm lời lảm nhảm, nhưng đối với một số người thì đây hẳn là những điều cần thiết." Cụ dừng lại, mọi người cũng bật cười. "Mời ngài, trưởng lão." "Vâng. Có lẽ ta nên bắt đầu từ những sự kiện đã đi vào truyền thuyết mà ít người có thể tận mắt chứng thực. Vào đợt chính biến lần thứ hai, Hỏa tộc Fidem cổ, vâng, luôn luôn là chúng, không cam lòng khi bị tách khỏi thánh địa, đã cố gắng truy tìm bảy thánh khóa, thực hiện mộng bá chủ mà chúng ôm ấp bấy lâu. Tất cả mọi người đều biết, vị trí của bảy thánh khóa được thượng đế lưu giữ ghi chép ở duy nhất một nơi, đó là ở trong thành giếng cấm của Allillus. Tất cả tổ tiên của chúng ta đã chung sức với Allillus bảo vệ những thông tin cơ mật này vì mỗi một cuộc tấn công vào giếng cấm đều châm ngòi cho chiến tranh liên thế giới, và việc tìm kiếm thánh khóa, không quan trọng bởi người nào, đều khơi dậy bóng tối hắc ám. Những pháp sư của Massilia đã cống hiến ma thuật của mình. Eyragonia đã trao tặng thần thú dũng mãnh nhất xứ sở của họ còn tộc tiên ở Montblanc thì phong ấn thần thú đó trong vành đai bảo vệ giếng cấm. Mỗi một viên đá xây dựng nên đền thờ bảo vệ giếng cấm ở Allillus đều mang trong mình những pháp thuật hùng mạnh nhất. Và người Allillus, đã ngày đêm canh giữ hòa bình cho chúng ta, cho đến khi Faugustein IX dòng Horkus, lãnh chúa ương ngạnh của miền nam Fidem lật đổ dòng chính thống Haldas lên nắm chính quyền và mở cuộc tấn công đầu tiên nhắm vào Allillus. Những người anh em Massilia, khi ấy còn là hoàng tộc Ruinne, đã đứng ra kêu gọi các chiến binh từ bảy thế giới đứng lên bảo vệ Allillus, và tổ chức hội nghị Westorkian lần thứ nhất. Westorkian, trong ngôn ngữ của người Massilia cổ đại nghĩa là "người đi về phương Tây", ám chỉ đội quân của những người anh em hướng về thế giới ở cửa vào phía Tây Eldorado, Allillus. Chiến tranh đã kéo dài nhiều năm tháng. Chúng ta đông đúc, dũng mãnh, nhưng lũ Fidem lại cuồng loạn bền bỉ. Cho đến khi quá mệt mỏi, cả Fuuga, Eyragonia và Montblanc đều lần lượt rút quân về, bỏ rơi Allillus điêu tàn trong chiến tranh. Chỉ có duy nhất những người lính kiên cường của Massilia ở lại, dù họ vẫn bại trận không lâu sau đó. Chiến tranh lúc ấy bắt đầu rời khỏi phạm vi lãnh thổ của Allillus, mở thông ra thánh địa. Fidem đã gần đạt được những gì chúng cần. Nhưng may mắn thay, chúng không thể tìm ra tòa thánh. Bẫy Quỷ đã giữ chân chúng như giữ chân tổ tiên của chúng ta. Nhưng chúng không bỏ cuộc mà trở nên điên loạn hơn dưới sự ảnh hưởng của Bẫy Quỷ. Cho đến khi chúng ta hầu như thua cuộc..." "Nhưng việc tìm tòa thánh có ý nghĩa gì?" - Cụ rùa bên cạnh tôi lên tiếng làm mọi người cười rộ. "Ôi ông bạn già Kappa của tôi." - Firenze tủm tỉm cười. "Thứ lỗi cho tôi. Tộc Kappa của tôi sống ở những đầm nước xa xôi nhất của Montblanc, cũng là một trong những mảnh đất phì nhiêu hiếm hoi của xứ sở tuyết. Ngưởi Kappa hầu như không rời xa nơi mình ở, cũng ít khi có một ai đến ghé thăm nên trong chúng tôi chưa một ai từng tận mắt thấy chiến tranh. Mùa xuân ở đầm nước cũng là mùa xuân dài nhất trên xứ tuyết. Những rặng liễu đỏ rực trải dài khắp Salix cho tới tận đầm Hát của những nàng tiên cá. Họ ca hát suốt ngày, hòa vào trong tiếng suối róc rách chảy về từ những ngọn núi đang tan tuyết. Còn vào mùa đông, chiếm phần lớn năm, chúng tôi hầu như ngủ suốt. Ông cố tôi, rồi đến ông cố của ông cố tôi, có lẽ cũng chẳng biết đến chiến tranh là gì." Cụ rùa kết thúc bài diễn văn của mình với vẻ mơ màng trong khi nhiều người đang cố tỏ rõ vẻ chán chường của họ. Chỉ riêng có Firenze là thực sự lắng nghe. "Tôi lấy làm biết ơn rằng cụ đã khó nhọc vượt quãng đường gian nan đến đây để đại diện cho Montblanc, cho dù vùng Salix là vùng đất xa xôi nhất, ngay cả khi những người ở vùng đồng bằng Montblanc lại đóng chặt cổng thành Neige và từ chối lời kêu gọi giúp đỡ của những người anh em cũ. - rồi Firenze quay sang mọi người - Cụ ấy sống đã hơn bốn nghìn năm tuổi. Đối với cụ, ngay cả ta cũng chỉ như con chim non vừa chui khỏi vỏ. Mà càng nhỏ lại càng hăng tiết, càng dễ cắn xé lẫn nhau. Chúng ta đừng nên hi vọng rằng Hội đồng minh Westorkian hôm nay sẽ lớn mạnh như Westorkian xưa cũ, chỉ nên cố gắng để mỗi người trong chúng ta trở thành những người anh em chân thành nhất. Nên nhớ mỗi một sự giúp sức đều quý giá." "Firenze - gã Agor trầm giọng lên tiếng - những kẻ chết nhát thì giúp được gì?" Ngay lúc đó cả phòng dậy sóng phẫn nộ. Chàng trai trẻ sau lưng Firenze gào lên. Anh có mái tóc đen bóng dài bằng phân nửa ông, và nét mặt không khác gì chó con hăm he sủa. "Ngươi nói thế là có ý gì?" "Vonga, im miệng." - Firenze nạt nhưng những tiếng xì xầm bất mãn khác vẫn chưa chấm dứt. "Vonga, cháu trai của Firenze, ta không có ám chỉ bất kì ai. - Agor hằm hè đáp trả - Ta chỉ muốn nhắc cho mọi người nhớ vì sao Westorkian I hùng mạnh lại thất bại trước một mình Fidem. Vì tổ tiên của các người đã bỏ chạy. Ta không trách cứ bất kì ai. Ai cũng có quyền lo cho bản thân mình trước. Nhưng vì thế mà hàng ngàn năm nay, chúng ta vẫn không thể nào tin vào sức mạnh tập thể mà các người hứa hão được. Hãy cứ ăn no sống tốt trên lãnh phận của các người. Chúng ta vẫn sẽ canh gác Thánh Địa như chúng ta đã và đang." "Agor, bình tĩnh đã. Ta hiểu những gì cậu muốn nói. Đó đúng là nỗi hổ thẹn chung của chúng ta. Ta đã không ngại kể lại thì cớ sao cậu lại ngại nghe? - rồi ông bình thản quay sang mọi người - Khi các nước đồng minh rời bỏ chiến trường, phe Fidem lại được sức vùng lên, ép Allillus mở thông biên giới vào Eldorado. Những phiến lính Massilia cổ còn trụ lại được bị đuổi dồn vào trung tâm thánh địa. Và theo những ghi chép còn sót lại, họ đã là những người đầu tiên tìm ra Tòa thánh, trước khi lũ Fidem kịp tới. Trong cơn cùng quẫn tuyệt vọng, cùng với lòng anh dũng bất khuất, họ kí khế ước với thế lực hắc ám nhất của bóng đêm, đồng ý trao đi linh hồn và phục dịch vĩnh viễn Tòa thánh như những đầy tôi tận tụy nhất; để đổi lại sức mạnh dẹp tan kẻ thù. Những phiến hỗn quân của Fidem chôn xác mình trong bẫy quỷ, bị đè bẹp bởi những người Massilia bấy giờ đã hư hóa thành Vô Diện. Chính biến nhờ thế mà khép lại, Allillus cũng dần dần gượng dậy, nhưng những tổn thất đối với người Massilia sẽ không bao giờ phục hồi được. Chúng ta giờ đây, trong sự ngu dốt của chính mình luôn luôn đối địch với Gardien và Vô Diện, coi họ như quái vật mà không hiểu được sự hi sinh to lớn của Massilia, cụ thể là hoàng tộc Ruinne. Triều đại của họ bị diệt vong, bị người đời khinh nhạo và buộc phải sống lưu vong ẩn dật, còn tổ tiên của họ vẫn còn bị giam chân mãi trong những cánh rừng đen tối của Bẫy Quỷ." "Firenze, đừng nhiều lời nữa. Điều ta quan tâm bây giờ là lí do ông muốn thành thập Westorkian. Và làm sao mà ta có thể tin tưởng đem giao mạng sống của mình ra nếu như không thể biết chắc là những người anh em đồng minh của ta cũng sẽ hành động tương tự?" "Điều gì khiến ngươi nghĩ chúng ta nhất thiết cần các ngươi làm đồng minh?"- Một người có khuôn mặt gầy guộc, gò má cao mà nước da đen xạm lên tiếng. Agor cười khẩy, trong thái độ của ông có cái gì đó thách thức lẫn chế giễu, ông thậm chí còn không nhìn vào bất cứ ai khi nói. "Vậy chắc để lũ ốm đói như ngươi chắc? Balzo? Ngươi tưởng việc bay trên trời bảnh lắm hử? Nó khiến ngươi nhìn người khác như kiến phải không? Nói ta xem trong các ngươi ai đi qua Thánh Địa mà không phải trốn chui trốn nhủi? Ai trong các ngươi có thể đứng đối diện với Vô Diện mà không tè ra quần? Vậy mà chúng ta sống ngay ở đây đấy!" Firenze lúc này bắt đầu tỏ ra khó chịu, ông nhìn Balzo một cái ẩn ý và điềm đạm nói: "Đừng bất mãn Agor, bạn ta. Ta đồng ý với những gì anh nói. Vì thế mà chúng ta cần các anh hơn bao giờ hết. Nhưng cả anh cũng cần chúng ta nữa. Người Ruine mạnh, nhưng không đông trong khi kẻ thù không chỉ có ở ngoài. Anh nên cẩn thận sau lưng mình nữa." - Ông lớn tiếng gọi - "Đem hắn vào đây!" Những tiếng chân vang vọng từ dưới cầu thang, xem lẫn trong những tiếng gầm gừ kì lạ. Mọi người im lặng hướng về phía cửa. Tùy tùng của Lowell, Agkren cùng hai người khác đang khệ nệ lôi vào phòng một cái cũi gỗ lớn. Bên trong là một con người, hoặc từng là như vậy vì bây giờ trông hắn gớm guốc hơn nhiều. Khuôn mặt hắn hoang dại với ánh mắt hung tợn, những răng năng vàng ố nhọn hoắc, đang không ngừng cắn xé những song gỗ. Lúc bị kéo vào trong phòng, hắn ngừng lại, bất giác lùi về phía sau như đang nhận thức được nỗi sợ hãi rồi khó nhọc thốt lên: "Muốn gì?" "Fawk?" - Tôi nhảy dựng lên. "Cô bé biết hắn?" - Firenze quay sang tôi hỏi. "Hắn tấn công cháu." - Tôi lí rí. "Hắn tấn công cô ấy ở thánh địa. - Lowell lập lại, đồng thời đặt nhẹ tay lên vai tôi. "Vì sao?" Mọi người đồng loạt hỏi. Tôi liếc thấy nắm tay của Kamui phía bên kia bàn đột nhiên nắm chặt. Anh hơi chồm mình tới trước nhìn tôi một cái ẩn ý. Nhưng Lowell đã lên tiếng trước: "Cô ấy chỉ đi ngang đường của hắn thôi." "Đừng nói là cô đi dạo ở thánh địa nhé. Cô thuộc tộc Eyra hay Agonia?" "Cô ấy đến từ Terre Centrale. Là ta mời cô ấy." - Lowell đứng hẳn lên, chắn trước tôi và những cái nhìn xoi mói đầy hiềm khích. "Người Terre Centrale? Ả làm gì ở đây? Ta cứ tưởng ả là tùy tùng của Balzo hay là Godai." "Vonga, cô ta không phải người của chúng tôi."- Những gã ngồi bên cạnh Kamui lên tiếng. Lúc này tôi mới nhận ra họ có những nét tương đồng với người Châu Á ở Terre Central. Người được gọi là Godai có cặp mắt một mí hơi xếch, với băng quấn trên trán và mái tóc búi cao cột đuôi ngựa. Anh nhìn tôi với anh mắt hiếu kì xen lẫn hiềm nghi. "Chưa từng thấy cô ta trước đây. Cô gọi hắn là Fawk? Sao cô biết tên hắn?" "Đồng bọn gọi hắn như vậy." "Hắn có đồng bọn? Ai?" "Một gã đến từ hỏa tộc." - Lowell khẳng khái. "NÓI LÁO!" - Agor gầm lên tức giận. - "Lowell, sao cậu dám nói như vậy?" "Bình tĩnh, Agor!" - Firenze lên tiếng sau một lúc quan sát. "Firenze, làm sao thằng nhãi đó có thể khẳng định đấy là một tên hỏa tộc?" "Nếu anh cứ hấp tấp như vậy thì người khác sẽ hoài nghi tính không minh bạch của sự việc đấy! Nhân tiện tôi nghĩ là không được lịch sự cho lắm nếu cứ gọi lãnh chúa Dãy Sương Mù của Fuuga bằng "thằng nhãi" - rồi ông quay sang tôi - "Cô bé, cháu tên gì?" "Hạ Chi." "Được rồi Hachi, đừng sợ. Hãy kể cho ta nghe một cách trung thực nhất những gì cháu biết về Fawk. Cháu gặp anh ta ở đâu? Vì sao và như thế nào?" Tôi ngây người nhìn ông. Đôi mắt của Firenze có màu xanh lơ trong suốt, như thôi miên người ta. Lowell ngồi xuống bên cạnh khoác tay qua ôm vai tôi, anh thì thầm nho nhỏ: "Hachi, đừng sợ, tôi đang ở đây." Tôi hết liếc nhìn vị "lãnh chúa", rồi đến Kamui, thầm hỏi hai người này nghĩ gì mà đưa tôi đến đây, nhưng Kamui không bận nhìn tôi mà đang để ý cái gì đó ngoài cửa sổ. Những người phía sau Agor đang tức giận. Một số lại hiếu kì. "Vâng, - tôi tằng hắng - Tôi gặp Fawk khi đang đi dạo trong rừng." "Đi dạo? Em đi với ai?" - Một người có mái tóc dài màu bạc nhẹ nhàng hỏi. "Karion, cứ để cô bé tự nhiên." "Không, tôi không đi với ai cả. - tôi nói dối - Cũng không hẳn là đi dạo, thực sự là dạo gần đây tôi thường xuyên bị lạc vào cái nơi mà ... mọi người vẫn gọi là Thánh Địa. Thực sự người Terre Centrale chúng tôi không hề biết đến Eldorado và các thế giới khác. Và trong khi xoay xở tìm đường ra tôi đã đi ngang qua một khe vực." "Khe vực Tử Thần?" "Có thể là thế, tôi không biết. Chỉ nghe thấy đằng xa xa có tiếng đánh nhau và lửa bốc cháy ngùn ngụt khắp nơi. Rồi có một người đi theo sau tôi. Hắn cố gắng tấn công tôi và người đàn ông này đi cùng với hắn". - tôi chỉ vào Fawk. "Xem đây!" - Lowell rút hai mũi tên trong túi tên của mình thảy lên bàn. - "Đây là mũi tên của tộc Fidem. Tôi thề trên danh dự một lãnh chúa, rằng Fawk có một mối quan hệ đáng ngờ với tộc nhân Hỏa Tộc kia."
|
Chương 7: Hội Đồng Minh Westorkian (2)
"Ai biết được là ngươi nhặt được mũi tên này ở đâu? Nó chẳng chứng minh được điều gì." "Tôi chẳng muốn chứng minh điều gì. - Lowell đanh giọng - Điều mà tôi muốn nói là Fawk đã cấu kết với một kẻ ngoại tộc, ít nhất là để hiếp đáp cô bé này. Agor, tôi biết sẽ không mấy dễ chịu khi phát hiện ra thân tín của mình lại làm chuyện mờ ám sau lưng. Nhưng đây là sự thật." "Nhưng vì điều gì? Hắn ta không chỉ tấn công cô ta cho vui chứ hả?" - Agor gằn giọng, trông ông như đã chịu một sự đả kích quá lớn. "Ai biết." - Lowell nhún vai. Anh nói dối. "Thực ra tôi cũng không chắc đây là Fawk nữa! - tôi đột ngột xen vào - Vì khi đấy hắn trông không ghê tởm như vậy." "Đó là lẽ dĩ nhiên. Những gì em thấy là hình hài của Fawk trước khi hư hóa." "Hư hóa? Lowell, ngài vừa nói gì?" - Mọi người xôn xao. "Nếu không nhầm, thì đó chỉ có thể là hư hóa. Chỉ có hư hóa mới khiến cho Fawk biển đổi nhanh đến như vậy kể từ lần cuối tôi chạm mặt hắn ở trong rừng. Mà cũng có thể hắn đã phát điên từ trước. Nếu không điều gì khiến hắn muốn ra tay sát hại một cô bé mười tám tuổi chứ?" "Mười tám tuổi?" - Mọi người kinh ngạc nhìn tôi. Nhưng cụ rùa kappa mới là người sốc nhất, ông thốt lên "Đứa bé của ta!" và định ôm tôi vào lòng. Nhưng tôi đã né kịp và đánh trống lảng. "Hư hóa là gì thế?" "Là một trạng thái biến đổi tiêu cực cả về thể chất và tinh thần dưới sức mạnh tâm linh của Bẫy Quỷ. - cụ Firenze nhìn tôi với ánh mắt dịu dàng - Nhưng hư hóa cũng chia thành nhiều cấp bậc. Cao nhất là Vô Diện, rồi lần lượt đến Gardien, Hamos, Zungos và cuối cùng là Oni. Từ bấy đến nay, nhiều người đã chịu tác động hư hóa của Bẫy Quỷ, nhưng hầu như không có ai có thể hư hóa ở hai cấp bậc đầu tiên, ngoại trừ những phiến quân Massilia cổ. Hư hóa có thể tăng sức mạnh cho bản thân nhưng kể từ cấp Hamos thì cơ thể chịu biến đổi lại không thể ổn định lâu. Như trường hợp của Fawk đây, ta nghĩ anh ta sắp đi đến hết giới hạn của Hamos. Từ đây cả cơ thể lẫn tinh thần anh ta sẽ không ngừng thoái hóa cho đến khi hoàn toàn trở thành một Oni." "Vừa hay, một Oni thì không mấy nguy hại. Chúng hầu như không còn trí khôn nên chẳng thể nào tuân theo lệnh ai nữa." Karion vừa kết lời thì Fawk rú lên. Hắn như hiểu rõ tình cảnh của mình nên ú ớ trong tuyệt vọng. "Đáng kiếp ngươi!" - Agor xông tới định rút gươm ra nhưng tùy tùng của ông cản lại. "Cản ông ta lại." - Firenze vẫy ta ra lệnh trong khi mũi kiếm của Agor đang vung tới. Trong một thoáng, tôi cảm tưởng Agor đã lấy lại được phần nào bình tĩnh, ông hơi khựng lại với sự thương hại ánh lên trong mắt. Nhưng ngay lúc đó thì Fawk thé lên lần nữa, hắn thọc tay ra khỏi cũi tóm lây chân tôi: "Đưa cho ta Thánh kh..." Fawk không bao giờ có thể kết thúc câu nói của mình, vì lưỡi gươm Lowell đã rút ra nhanh như chớp và xuyên qua người hắn. "Ngươi cần gì làm thế?" - Agor ngạc nhiên hỏi nhưng Lowell không trả lời. Anh đưa một tay che mắt tôi và rút kiếm ra. Dù không nghe thấy gì nhưng âm thanh kim loại cứa vào da thịt làm tôi rợn người. "Đưa nó ra khỏi đây. Không có hi vọng khai thác được điều gì từ một thứ hư hóa đâu." Những tiếng chân rầm rập kéo ra khỏi gian phòng để lại một sự im lặng đáng ngại. "Ôi Agor! - Firenze đứng dậy tiến lại gần vị thủ lĩnh đang ngây như phỗng - Tôi thật xin lỗi. Tất cả những điều này không có ý gì ngoài việc muốn cho anh thấy rằng chỉ một mình sức mạnh của tộc Ruinne thì chưa đủ. Anh thấy đấy, dù tốt hay xấu thì đông người vẫn hơn. Ít ra thì ... chết kẻ này còn kẻ khác." - Ông dí dỏm thêm vào dù tôi thấy Agor có vẻ không đánh giá cao điều đó. "Fidem đang thử nghiệm hư hóa! Agor! Chúng đang điên cuồng hơn bao giờ hết!" "Các anh không thể chống trả một mình." Nhưng Agor không trả lời, ông ngồi gục xuống ghế với vẻ mệt mỏi. "Agor, chúng tôi tới đây không phải để gây chiến với anh. Chúng tôi đến vì Fidem sắp gây chiến trên lãnh thổ của chúng ta. Tổ tiên người Ruinne và cà các anh nữa đều đã làm hết sức mình nhưng Fidem ngày càng lớn mạnh và tàn ác. Hơn bao giờ hết chúng ta cần phải chung sức. Hãy một lần nữa tin vào chúng tôi!" "Nhưng bằng cách nào?" - Agor nóng nảy ngắt lời. "Bằng lời nguyền bất khả bội cổ xưa nhất." "Ý ông là gì?" "Erion?" - Firenze nhướng cao chân mày nhìn về phía Kamui, người lúc này đang sóng soài nằm trên bàn. Anh ngẩng dậy một cách khó nhọc với vầng trán lấm tấm mồ hôi. "Vâng.... à..." - Anh gồng lên trả lời. "Anh ta sao thế?" - Tôi lo lắng chồm tới phía trước, thì thầm vừa đủ cho Lowell nghe nhưng cậu ta lắc đầu, giữ một vai tôi lại ý chỉ tôi nên giữ yên lặng. "Vâng, lời nguyền bất khả bội mà trưởng lão đề cập là một trong những câu chuyện kể được viết lại trong bộ Truyền Thuyết "Mặt Trăng Trên Đỉnh Cấm", một trong những quyển sách sử được dạy học ở Sagittarius." "Ngài định nói về những câu chuyện dành cho trẻ con ấy sao?" - Balzo bật cười, không buồn giấu đi vẻ khinh nhạo. Godai hơi nhếch mép còn Karion lại tư lự, ông nói: "Thực ra chuyện này cũng được ghi chép trong một số văn tự cổ của Đền Yogasenki phía bắc dãy Arya của Fuuga, nơi tôi thờ phụng. Nó có nhắc đến pháp thuật cổ liên quan đến... Bàn Tứ Đỉnh. - ông nhíu mày nhớ lại - Tuy nhiên tài liệu đa phần đã hư hại nên không lưu lại gì nhiều." "Chính là nó! - Kamui thều thào với giọng khác lạ - Nó cũng được lưu truyền trong những mẩu chuyện truyền miệng của những phù thùy ở thung lũng ánh trăng Il Carmiis xứ Allillus. Họ kể rằng những quân Massilia cổ đã dùng một pháp thuật mang tên Bàn Tứ Đỉnh để thực hiện giao ước vĩnh viễn với Tòa Thánh." "Vĩnh viễn?" - Mọi người xôn xao ngờ vực tỏ vẻ không hài lòng. "Dầu gì thì đó cũng là những câu chuyện kể, để xác minh tôi đã lặn lội tới cuối dòng Nana của thung thũng ánh trăng Il Carmiis, nơi mà rặng núi Savana chặn lại sự xâm lấn của vùng Đồng Mặn đang chực mở rộng vào bình nguyên Kimirana. Đó cũng là nơi mà những phù thùy già cỗi nhất của xứ sở còn ẩn cư từ hàng nghìn năm trước trong những hang động tối tăm chạy luồn trong lòng núi như những mê cung. Phải mất nhiều thời gian mới tìm được cửa vào nhưng cũng chẳng dễ gì mà họ chịu mở cửa cho người lạ, ngay cả khi tôi dùng danh hiệu Pháp sư Đền Thần Allillus. Cực chẳng đã tôi đành phải tiết lộ rằng Giếng Cấm đã bị tấn công, một lần nữa bởi những kẻ được nghi ngờ là gián điệp của Fidem. Và lần này còn gọn ghẽ hơn khi xưa nhiều, Giao Long thần thú bị trọng thương nhanh chóng một cách bất ngờ, phong ấn bị phá hủy, và nhiều mảnh lớn của Giếng Cấm đã bị đánh cắp; giờ tôi nghi ngờ lũ Fidem đang gấp rút truy lùng Thánh Khóa dựa theo những thông tin được lưu lại trên thành giếng. Một khi những Thánh Khóa bị phát hiện thì cả dế dưới hang, chim trên trời cũng không yên với chúng. Mặc dù khá tức giận vì bị ví với dế nhưng cuối cùng thì những lão ông lão bà cứng đầu đã mở cửa." - ngang tới đó thì cả phòng òa cười ngoại trừ người Eyragonia. Godai cau mày khó chịu: "Sao anh không thông báo với chúng tôi biết rằng thần thú bị thương? Tôi nghĩ chúng tôi có quyền được biết chứ?" - Balzo bên cạnh gật gù đồng ý. "Xin lỗi, tôi bận quá. Mà hơn nữa mọi người đều nghĩ rằng Giao Long thần thú là sinh vật vượt qua tầm hiểu biết của chúng tôi lẫn các anh." "Phải rồi - nhiều người trong phòng tặc lưỡi - Cả nghìn năm nay Eyragonia có nuôi và thuần phục được gì khác ngoài mấy con kì nhông bay đâu!" Mặt những người Eyragonia tím đi vì giận, nhưng họ không bàn luận gì nữa mà ngó lơ. "Tôi đã từng gặp qua những phù thủy xứ Il Carmiis khi còn là một đứa trẻ, quả thật là những con người cứng đầu khó chịu, đầy lòng hồ nghi." - Cụ rùa tộc Kappa phá vỡ sự bối rối im lặng. "Nhưng cũng là những con người nghiêm túc và truyền thống nhất." - Kamui rút ra trong ngực áo một cuộn giấy nhỏ cỡ chừng một ngón tay. Khi anh vừa rút sợi dây buộc bên ngoài thì cuộn giấy bỗng phồng to lên gấp nhiều lần, mở bung ra để lộ phía trong là những văn tự kì quái với hình vẽ minh họa. - "Đây là bản sao chép lại từ những tài liệu của họ. Firenze, ông có thể đọc được cổ ngữ vùng Il Carmiis? Vì họ từ chối giúp chúng ta dịch thuật." "Chà, những con người kín kẽ! May thay cổ ngữ Il Carmiis có cùng nhánh với cổ ngữ Fuuga, mà ta thì ít nhiều có thể nắm được phần nào. Ở đây có nói đại ý là - Firenze rà ngón tay trỏ lẻo khoẻo dài ngoẵng trên cuộn giấy - mọi kí kết ràng buộc giữa nhiều bên sẽ trở nên mạnh mẽ, không thể đơn phương phá vỡ nếu như được thực hiện bằng Bàn Tứ Đỉnh, một hiện thân cao cường của pháp thuật. Nó không chỉ ràng buộc sinh mệnh những người kí kết dưới những điều kiện nhất định, mà còn giúp họ trở nên mạnh mẽ bất thường "trong một khoảng thời gian cho phép tùy thuộc theo giao ước". Và ở đây còn ghi rõ là "sinh mệnh của người này sẽ phụ thuộc vào người kia"!" "Nghĩa là sao?" - mọi người xì xầm. "Nghĩa là mỗi một người kí giao ước đều phải san sẻ phần vía của mình với nhau trong trường hợp có thất hụt phần vía ở bất kì một người nào, nhờ thế mà phép thuật này mới được gọi là "Bất khả bội". Không ai có thể phương hại đến người khác mà không gây tác động ngược đến mình, mỗi một người phải ra sức bảo vệ lẫn nhau. Cụ thể trong trường hợp của người Ruinne, họ đã được miêu tả những con quỷ bất tử. Vì mỗi một nhát đao chém vào một người Ruinne sẽ được san sẻ ra cho tất cả những người Ruinne còn lại, vì thế mà nó hầu như không đáng kể." "Sống thì sống cả, chết thì chết cả. Đúng không?" - Karion lên tiếng. "Phải. Nhưng nếu chúng ta đông, thì khả năng tất cả đều sát thương đến chết thật là hy hữu. Trừ phi kẻ thù quá sức khủng khiếp." "Vậy chúng ta bất tử?" "Ồ không! Ơ đây có đề cập rằng ràng buộc của pháp thuật này không phải vĩnh viễn, nó chỉ có tác dụng đến khi mục đích của việc kí kết được hoàn thành. Nếu không, ái chà - Firenze gật gù - không có gì có thể gỡ bỏ được." "Khoan đã - Godai chen vào - Theo tôi hiểu thì thì Bàn Tứ Đỉnh chỉ thực hiện giữa những người kí kết với nhau để gia tăng sức mạnh, đúng chứ? Vậy nếu người Ruinne cổ cũng sử dụng cùng một pháp thuật thì vai trò của Tòa Thánh trong này là gì? Vì sao họ vẫn còn bất tử tới tận bây giờ nếu họ đã thắng áp đảo kẻ thù? "Godai, - Firenze ngước lên với cái nhìn đầy uy quyền - ta không nghĩ câu chuyện của người Ruinne có thể đơn giản như những gì được ghi chép ở đây trong khi chính bản thân những ghi chép này nhiều khi cũng không hoàn toàn chính xác. Chỉ có ma quỷ mới biết được những đen tối trong lời nguyền mà họ đã kí kết." "Vậy Bàn Tứ Đỉnh thật ra là gì?" - Agor cuối cùng cũng thốt lên, với vẻ quan tâm đặc biệt. "À, nó thì - Firenze chìa cuộn giấy ra trước mặt mọi người - Ở đây có vẽ lên một khuôn bàn hình tam giác được đóng bởi ba khúc gỗ và một ngọn lửa cháy ở giữa. Và ..." - Chỉ nói ngang có thế thì cuộn giấy đã bùng cháy. Trước khi Firenze kịp phản ứng thì nó chỉ còn là một chút tro tàn trên mặt bàn. Ông cũng không một chút bối rối, đan tay vào nhau mỉm cười. "Ta đoán họ không muốn chúng ta biết thêm nữa." "Đó là Tam Mộc, Nhất Hỏa!" - Karion thều thào. "Gì cơ?" "Phải rồi, tôi đã không nghĩ đến điều này. Biểu tượng của Bàn Tứ Đỉnh trên bản sao giống hệt như biểu tượng "Tam mộc, nhất hỏa" được chạm khắc trên bệ thờ của đền Yograsenki..." "Chà, anh quỳ đền mòn gối trước nó mà bây giờ mới nhận ra nhỉ?" - Một giọng nói chen ngang vào khiến mọi người ngạc nhiên. Thì ra là một trong ba người thanh niên tháp tùng Firenze. Ngược lại với giọng nói châm chích, anh có một ánh nhìn xem chiều đơn giản hơn, khuôn mặt bánh mật bảnh trai cương trực của anh lại càng khiến người khác phải lúng túng. Firenze cũng ngạc nhiên nhìn cháu mình. "Ismail? Cháu nói cái gì thế?" "Thưa cậu, cháu chỉ đoán rằng ngay cả Karion, người thờ phụng thần linh cũng không thể tùy tiện xác nhận tính chân thực của những truyền thuyết. Vì nếu người Ruinne đã mất đi nhân tính, và người Fidem cổ lại chết, vậy thì ai là người ghi chép lại những sự việc này?" "Ta những tưởng cháu hiểu rõ về lịch sử thánh địa hơn chứ? Người Fidem cổ tuy đã chết nhưng không hoàn toàn biến mất, họ trở thành những phiến quân ma, và tái sinh vào mỗi kì trăng máu. Có thể chính điều này đã trở thành cái bẫy, khiến cho giao ước của người Ruinne không bao giờ thành toàn, và khế ước mãi mãi không được giải trừ. Đây chỉ là một giả thiết, nhưng nếu ai có ý kiến gì hay hơn thì ta luôn sẵn sàng lắng nghe." - Firenze nhướng mày nhìn quanh. Trong cái nhìn của ông có gì đó vừa nghiêm nghị sắt đá, vừa ôn thuận khiến người khác không thể phản bác. - "Vậy thì Karion, anh tiếp tục đi." "Vâng - Karion tằng hắng - vậy thì tôi cũng muốn nhấn mạnh rằng những gì tôi sắp nói cũng chỉ là một sự suy đoán mà thôi. Nhiều đời trưởng lão phụng sự Yograsenki đã thuật lại cho tôi nghe rằng "Tam Mộc Nhất Hỏa" là tượng trưng cho thánh địa Eldorado. Nếu như "Tứ Đỉnh" ở trong "Bàn Tứ Đỉnh" ám chỉ bốn ngọn núi trấn giữ bốn hướng của Thánh Địa, Đỉnh Puget, Saltus, Silva và Ager; thì "Tam Mộc" ắt hẳn là gỗ cây đến từ ba trong bốn đỉnh, còn "Nhất Hỏa" sẽ là ngọn lửa thiêng Qoya được thờ phụng trên đỉnh Silva." "Vậy thì ta e rằng chúng ta cần đi một chuyến để thu thập đủ Tam Mộc Nhất Hỏa. Anh nghĩ sao Agor? Điều này có đáng để thử không?" Nhưng Agor không trả lời, ông có vẻ hơi choáng váng, ậm ừ lên những tiếng lục khục trong cổ họng. Những người ngồi trong phòng cũng lặng đi. Dường như mỗi người đều theo đuổi một suy nghĩ riêng của mình. Cuối cùng thì một người nhỏ thó đứng trong góc cũng đánh bạo lên tiếng: "Vậy còn Thánh khóa?" "Tất nhiên chúng ta vẫn đang điều tra. Allillus đang cố gắng khôi phục lại Giếng Cấm để ước tính được số thông tin mất mát, tuy nhiên..." - Nói ngang đến đây thì Kamui khựng lại, không kìm nổi biểu cảm đau đớn đang bộc phát trên gương mặt. Mọi người cũng không thể không chú ý đến biểu hiện lạ của anh. "Erion, anh sao thế?" - Firenze hỏi. "Không hay rồi! Agor cho người nhìn ra ngoài xem..." - Kamui thều thào. "Anh thấy gì à?" Agor hỏi lại và đột ngột đứng dậy. Không đợi câu trả lời, ông vội vàng cùng một số thân tín đứng dậy rời khỏi phòng. Những bước chân rầm rập bọc vòng quanh phòng hướng lên đài quan sát ở trên cùng tháp chuông. Mọi người cũng đứng dậy nhìn ra phía ngoài cửa sổ, nhưng hàng cây rậm rập bao phủ lấy thành Laïk cao lớn đồ sộ như một bức tường, che chắn hầu hết tầm nhìn. Tuy vậy ai cũng nhận thấy có cái gì đó mờ mờ như một đám mây đen đang sà xuống thấp trên một đỉnh núi đằng xa xa. Firenze lạnh lùng thốt lên, kìm lại một nỗi tức tối khó diễn tả: "Puget!" Ngay lúc đó một gióng chuông vang lên dồn dập ngay trên đỉnh tòa tháp, cánh cửa mở bung ra và một nhân điểu đổ ngục ngay xuống chân ghế của tôi. Tôi giật thót mình né ra trong khi Lowell nhào tới vực tùy tùng của mình dậy. "Krenik! Krenik!" Krenik trông tả tơi ho khùng khục phun ra từng ngụm máu. "Lũ Fidem đã vượt khỏi tầm kiểm soát của Vô Diện và Gardiens, chúng... đang bắt đầu cho thiêu hủy đỉnh Puget." "FIRENZE - Agor bổ nhào vào phòng gào lên như sấm - NHẤT ĐỊNH LÀ CÓ GIÁN ĐIỆP!" Tình thế trở nên hỗn loạn rối ren hết mức khi mà một đám người nhao nhao ngờ vực lẫn nhau. Thật khó mà hình dung khi trong này Kamui và Karion chỉ vừa mới đoán già đoán non về những thành phần cấu tạo nên Bàn Tứ Đỉnh trong truyền thuyết thì ngoài kia kẻ thù đã bắt đầu tiêu hủy chúng. Agor, với vẻ hung hăng cáu tiết thường trực đảo mắt quanh đám người và luôn miệng chửi thề. Một số khách mời tức tối đáp trả và sẵn sàng choảng nhau, một số thì câm lặng. Cho đến khi Firenze gầm lên chỉ với một cái hé môi rất khẽ. "Dừng lại!" Mọi người đồng loạt dừng việc đang cấu xé lẫn nhau đề ngước nhìn Firenze với sự kính nể. "Chúng ta cần nhanh chóng thu thập Tam Mộc và Nhất Hỏa trước khi chúng chỉ còn là một đám than vụn. Agor, anh có thể nhanh chóng sai người đi đốn về một thân cây cổ thụ mọc cao càng cao trên đỉnh Ager càng tốt!" "Vâng!" - Agor bực bội cáu cẳn trả lời. "Ai trong các bạn sẵn sàng đi đến đỉnh Puget và Silva?" "Firenze, hãy để tôi đi đến Silva!" - Kamui thở dốc với gương mặt như muốn bệnh - "Lửa thiêng Qoya được canh giữ bởi thần núi, và không dễ gì mà ông ta giao ra. Tôi nghĩ ít ra mình có thể thỏa hiệp. Tuy nhiên, - anh liếc nhìn tôi - tôi mong rằng ông sẽ dẫn theo cô bé người Terre Centrale. Lowell đã mời cô ấy, mà tôi lại là người đưa cô ta tới đây. Tôi không thể đưa cô ta theo để vướng chân tôi. Nhưng ở lại thành Laïk hay quay về một mình vào thời điểm này đều không được thích hợp cho lắm." Firenze nhìn tôi như ước chừng rồi nói nhanh, không quan tâm đến việc tôi có đồng ý hay không: "Được rồi. Vậy còn..." "Chúng tôi sẽ tới đỉnh Puget!" - Godai và Balzo lên tiếng. "Vậy chúng ta phải nhanh lên thôi. Sau đó các vị có thể tháp tùng phẩm vật đi về hướng Tây Bắc, chúng tôi sẽ vòng qua Saltus rồi đứng đợi ở cửa vào Fuuga." "Trưởng lão - Krenik đang nằm dưới sàn thều thào - Đừng bọc vòng qua phía Đông Bắc, những phiến quân ma đang ..." - Giọng nói của nhân điểu tắt hẳn đi trong sự hỗn loạn của mọi người. Không một ai để ý đến điều nó cảnh báo trong khi vội vàng đứng dậy ùa ra phía cửa.
|
Chương 8: Phục kích (1)
"Em có muốn đi với anh hơn không?" Kamui đột nhiên hỏi khẽ khi anh băng ngang qua tôi ở lối ra. Và dù có hoang tưởng đến cỡ nào tôi cũng không thể không nhận ra ánh mắt của anh đang nấn ná ở bàn tay Lowell đang đặt trên vai tôi. Bằng một phản xạ vô thức, tôi hẩy nhẹ bàn tay đó ra và ngước nhìn Kamui một cách khó hiểu. Mới lúc nãy anh còn hùng hồn tuyên bố tôi là một kẻ vướng chân vướng tay, mà giờ đây anh lại hỏi han kiểu thương tình tôi lắm vậy. Hay anh thấy tôi vô tích sự đến nỗi ở đâu cũng là một tai họa? "Có lẽ không đi với anh thì tốt hơn." - Tôi châm biếm mà không ngờ rằng Kamui lại dịu dàng trả lời với một vẻ hài lòng không giấu đi đâu được: "Đúng thế thật. Cậu Lowell - anh đột ngột đổi giọng để tương xứng hơn với nét mặt có phần đe dọa - Tôi hi vọng cậu đừng sử dụng bất kì thứ gì không đúng đắn lên cô ấy, cho dù vì bất kì mục đích nào mà không được cô ấy cho phép. Cũng đừng lợi dụng cô ấy thêm một lần nào nữa." - Anh kết thúc câu nói của mình với một khuôn mặt dễ sợ hiếm thấy. Chưa kịp tiêu hóa hết những gì anh vừa nói thì thái độ của Lowell đã giúp tôi giải thích phần nào. Cậu nhe răng cười đau khổ, ngượng ngùng nói: "Tôi biết rồi..." - Lowell ngập ngừng tính nói gì đó, nhưng ánh nhìn của Kamui khiến cậu chùn lại. Anh cũng không dư dả thời gian mà truy cứu, nhét vội vào tay Lowell một túi nhỏ: "Dùng cái này khi cần." Tôi nhận ra ngay những bùa chú anh đã mua ban nãy. Lowell cũng không hỏi han gì thêm. Chúng tôi im lặng nhìn Kamui rời đi trước khi dặn tôi: "Đợi anh ở Fuuga, anh sẽ tới kiếm em trễ một chút. Hãy giữ kĩ sợi dây chuyền nhé". Câu cuối cùng anh thì thầm nhỏ chỉ cho riêng tôi nghe. Cuối cùng, khi nhìn anh bỏ đi trong vẻ giằng xé lo lắng, tôi đã cảm thấy hối hận rằng mình đã không trả lời "có". Dù vậy tôi chẳng có nhiều thời gian mà ủ rũ. Lowell kéo tôi lại nhường chỗ cho mọi người rời khỏi phòng. Cậu với theo cụ rùa Kappa: "Cụ ơi, cụ hãy đi theo Firenze xuống dưới tháp. Baron sẽ xắp xếp ngựa cho cụ." "Eryl, anh hãy giao cái này cho Godai sau khi rời khỏi thành Laïk. Dù có thành công hay không thì mọi người cũng quay lại hướng Tây Bắc nhé." "Zuggyle, ta gửi Krenik lại cho ngươi chăm sóc." "Vâng, thưa ngài." Rồi những người tùy tùng của Agor nhanh chóng khiêng Krenik đi. Chúng tôi là những người cuối cùng rời phòng. Lowell kéo tôi đi đến bục cửa sổ rồi anh nhảy vọt ra ngoải, đáp nhẹ nhàng xuống lưng Agkren đã biến thân, sải cánh chấp chới từ bên ngoài tự lúc nào. "Nhanh lên, Hachi!" Tôi lóng ngóng leo lên cửa sổ, nhắm mắt nhắm mũi nhảy ra ngoài. Lowell đỡ lấy tôi rất chính xác, và chúng tôi bay về phía lối ra vào. Nhìn từ trên cao thành Laïk trông thật hỗn loạn. Binh lính chạy rầm rậm tứ phía mở đường cho những khách mời thoát ra từ nhiều cửa khác nhau. Khi bay gần đến cổng thành Lowell bỗng hét to: "Mở cửa!" Những thân cây lại oằn mình lần nữa, mở ra hai lớp cửa. Agkren bay sà xuống thấp, làm một cú chao mình ngoạn mục giúp chúng tôi lọt ra ngoài thành trong tích tắc. Gió quất vào mặt tôi khi chúng tôi bay vút lên thẳng, gần như vuông góc với mặt đất. Emeraude ở trong ba lô kêu lên những tiếng ngao ngao khó chịu. Lowell thì ép sát người tôi vào mình nhân điểu để giúp tôi giữ thăng bằng dù điều này không hề dễ dàng. Tôi nghĩ là tôi đã vô tình bấu vào Agkren quá chặt, làm muốn rụng túm lông vũ của nó ra. Nhưng nhân điểu không hề kêu ca mà chỉ chăm chú tăng độ cao, cho đến lúc cảnh vật phía dưới bị bỏ xa phía sau. Dù thế, với thị lực mười trên mười tôi vẫn nhìn thấy rõ ràng thành Laïk đang rục rịch di chuyển. Mỗi cái cây bọc quanh thành cục cựa như bị ai đó nhổ khỏi mặt đất. Những cái rễ đang cắm chặt của chúng cứ rút dần lên rồi cử động một cách dễ dàng đều đặn, đồng hướng. Cả tòa thành cứ thế mà chuyển động tương tự như một con bạch tuộc, hay một con nhền nhện còn sống. Rồi bằng một cách thần kì, cả tòa thành khổng lồ không hiểu bằng cách nào đã chen mình vào giữa những khoảng trống hẹp hiếm hoi giữa rừng cây để rồi mất hút không còn dấu vết. "Tệ thật!" - Lowell bỗng bực dọc thốt lên. Tôi cũng nhìn quanh quất Lúc này từ trên cao tôi có thể nhìn toàn cảnh thánh địa hùng vĩ. Những rặng núi nhòa nhạt ẩn hiện sau những dải mây tối màu phía xa xa. Một khu rừng xanh thẫm dày đặc, trông như những búp brocoli xếp kín, trải dài từ dưới chân chúng tôi về mọi phía, mãi xuống dưới thung lũng phía Nam, nơi khe vực Tử Thần vắt ngang qua như một con rắn đang trườn. Một phần của nó khuất sau sườn Tây của đỉnh Ager sừng sững đang nghiêng nghiêng đắm mình trong làn sương mỏng. Phía xa xa, một ngọn khói đen kịt đang lan rộng, phù lên một triền núi xanh bạc. Những ngọn lửa nối tiếp nhau, vây hãm lấy chân núi và đang dần dần lan rộng ra, nuốt chửng lấy những gì nó gặp trên đường đi. Phía trên đám khói ấy có những chấm đen nhỏ xíu chao đảo. Tôi cố nheo mắt nhìn cho ra cái gì nhưng hoàn toàn không thể. "Đỉnh Puget xong rồi!" - Cậu tặc lưỡi và chỉnh lại dây cương. Krenik hơi khép đôi cánh lại và lao đầu xuống đất như một viên đạn. Trước khi cảm giác ruột gan lộn phèo còn chưa dứt hẳn thì chúng tôi đã bay là đà phía trên một đàn người ngựa. Dẫn đầu đoàn là Firenze với đuôi bím tóc bạc phấp phới. Lowell nhanh chóng bắt kịp ông. "Firenze, tôi không nghĩ Godai và Balzo có cơ hội đem Mộc về đâu." "Vậy ta hi vọng họ đủ khôn ngoan nắm giữ tình hình." - Ông điềm tĩnh đáp. Lúc này tôi chợt nhận ra không phải là ông đang cưỡi ngựa, mà là thân mình ông lúc này, kể từ eo trở xuống là mình ngựa, được che phủ lên bởi tà áo dài vốn dài chấm gót "chân" của ông. Phía sau, ba người cháu cũng y hệt, phóng những vó dài mạnh mẽ và hoang dã với vẻ thích thú như đang chạy việt dã. Karion chạy xa hơn, được tháp tùng bởi ba bốn người khác nhưng chính ông lại kè kè bên cụ rùa. Xem chừng Karion không tin tưởng lắm vào tài cưỡi ngựa của cụ. Áp sau cùng là một số binh lính của Fuuga và của thành Laïk, trong đó có Baron. Chạy được một lúc thì anh đột nhiên ngẩng lên và huýt sáo. Một cánh chim chao lượn nhẹ trong không trung đáp xuống tay anh. "Firenze, Agor đã có được Mộc. Giờ anh đã rời thành Laïk hướng về Saltus." "Tốt! Lowell dẫn đường đi, hướng Đông Bắc! Đừng bay cao quá." "Rõ!" Agkren lao vút đi giữa những tán cây nhanh như một mũi tên, trừ việc mũi tên này phóng đi theo hình zíc zắc. Cả rừng cây trở thành những dải xanh mờ trôi tuột về phía sau. Tôi hoảng sợ co rúm người, tì đầu vào ngực Lowell lấy điểm tựa để bớt choáng váng. "Khó chịu cho cô quá hả?" "Chậm lại, chậm lại bớt đi!" Agkren không cần đợi lệnh vội bay chậm lại. Ngay lúc ấy tôi say xẩm đến mức muốn nôn thốc nôn tháo tất cả những gì có trong bụng. "Cái này mà gọi là dẫn đường hả? Làm sao mà họ theo kịp anh?" "Tôi thám thính trước mà. Firenze không bị lạc đâu." - Lowell cười trừ, vỗ vỗ lưng tôi khi tôi chực muốn nôn - "Cô có cần nghỉ chút không?" "Không cần đâu, chỉ cần chậm chậm chút cho tôi nhờ." "Vậy..." "Khoan đã!" - Tôi vội ngăn Lowell giật cương - "Anh có thấy không?" Gương mặt Lowell ngẩng ra không hiểu, nhưng tôi rõ ràng cảm nhận được những điều tôi chưa từng biết đến trong đời. Như thể mỗi sợi lông trên người tôi giống như đài thu phát sóng ra đa, chúng bắt được độ rung của nhiều tầng sóng âm khác nhau. Và trước con mắt nghi hoặc của Lowell, tôi chầm chậm vươn cánh tay mình về phía trước, quờ quạng như đang tìm kiếm một vật vô hình. Tôi cảm nhận được có những làn sóng lan từ đằng xa đến phía tôi. Nó không giống như gió nhưng lại giúp tôi xác định được phương hướng tốc độ và mật độ của vật thể đang di chuyển. Tôi nhìn xoáy về phía trước rồi thì thào "Phía này!" - Tôi chỉ thẳng về phía trước. Lowell thở cái thượt: "Thì chúng ta chẳng nhắm về hướng Đông Bắc nãy giờ sao?" "Không, tin tôi đi, bay nhanh lên nhưng đừng gây tiếng động. Đằng trước hẳn có cái gì đó kì kì!" Lowell nhìn tôi như không tin được, nhưng cậu định thần rất nhanh và vội thúc Agkren lao về phía trước. Lần này nó hạ thấp, ép sát mình xuống để tránh va phải những tán lá rậm rạp. Sau khoảng tầm hai dặm chúng tôi bắt đầu nghe thấy những âm thanh tuy còn nhỏ nhưng hỗn loạn, vọng lại từ xa xa. Tôi đột nhiên hiểu ra và thảng thốt ghìm cương. "Dừng lại, chầm chậm lại Lowell! Có cái gì rất đông đang tiến lại gần, bay lên cao hơn nữa đi mau lên. MAU LÊN" Tôi phải gào lên mới khiến Lowell nhận thức được tình hình. Chúng tôi vượt khỏi tầm che phủ của những tán lá rậm ráp, nhưng vừa đủ cao để sương mù không cản hết tầm nhìn. "Trời ơi!" - Lowell và tôi sững sờ trước cảnh tượng mình nhìn thấy. Cách chỗ chúng tôi đứng không bao xa là tàn tích của những vạt rừng lớn đổ xuống lót đường cho một cuộc chiến thảm khốc. Một bên là Vô Diện đang chiến đấu điên cuồng đằng sau lớp mặt trắng dã, còn phe kia thì ăn mặc kì lạ hơn, trông đen đúa ghê tởm như những cái xác khô biết đi. Đôi mắt của chúng chỉ còn là những cái hố sâu hoắm, còn miệng chúng mỗi lần ngoác ra cứ như là bị ai xé toạc. Nhưng trên hết, là chúng đông đến không thể tin nổi. Vô Diện đang yếu thế và bị đẩy lùi dần về sau dù chúng không dễ dàng mà chấp nhận điều đó. Tiếng gươm giáo, tiếng cháy nổ ì xèo trộn vào nhau trong một mớ hỗn độn khói và bụi, cả một mùi khen khét hôi hám. Đó là lần đầu tiên tôi ngửi thấy mùi xác chết thối rữa, và nó còn ám ảnh tôi đến mãi về sau mỗi khi nhìn thấy lũ chúng. "Đi thôi!" - Lowell thì thầm với gương mặt trắng bệch. Chúng tôi thối lui và tăng tốc tối đa nên chẳng mấy chốc đã gặp được đoàn người của Firenze đang chạy tới. "Firenze! Dừng lại! Những phiến quân ma và lũ Vô Diện đang tiến về phía chúng ta!" "Cái gì?" - Lão ông nhân mã cũng sửng sốt không kém. Ông chồm lên ra hiệu cho mọi người dừng lại và sau đó ông chỉ mất chưa đến mười giây để đưa ra quyết định tiếp theo: "Đổi hướng!" "Chúng ta không lùi lại phía sau được! - Karion gào lên - Fidem đã tràn qua Ager rồi!" "Không! Chúng ta sẽ đi men theo Bẫy Quỷ!" - Firenze nói với giọng quả quyết. Cả đoàn thoáng nhìn ông ái ngại nhưng không có ai phản kháng. Họ đồng loạt phóng theo sau Firenze. "Nhanh nữa lên!!!!" Lowell gào lên thúc những người lính thành Laïk đang bọc hậu và đồng thời lao mình xuyên qua những tán cây. Chúng tôi cố bay lên đủ cao để ẩn mình trong làn sương mù trong khi trận hỗn chiến vừa tràn đến quét sạch màu xanh phía dưới. Lowell bay ngược lên phía bắc chừng một dặm để do thám đường đi nhưng một tiếng vút xẹt ngang chỗ chúng tôi. Một tên Vô Diện đã phát hiện ra đôi cánh rộng lớn của Agkren. "Chết tiệt! Cái lũ Vô Diện này gần chết rồi mà vẫn không quên nhiệm vụ của chúng! Thế cô mới hiểu vì sao cái lũ hậu nhân tộc Ruinne lại thù dai nhớ sâu như vậy!" - Lowell vừa tức tối rủa xả vừa chỉnh cương né một loạt tên khác. Cũng không còn gì để nấn ná thêm khi đoàn người của chúng tôi đã an toàn rút khỏi phạm vi tấn công của kẻ địch. Agkren sải những sải cánh mạnh mẽ lao về hướng Bẫy Quỷ. "Hi vọng chúng ta đuổi kịp trước khi họ bị ép phải vào Bẫy Quỷ." "Agkren bay nhanh hơn ngựa nhiều mà!" "Không phải, Hachi. Bẫy Quỷ không giống những khu rừng khác. Không gian của nó rất hỗn độn. Nếu không đi cùng với nhau thì chưa chắc chúng ta đã có thể tìm ra nhau đâu. Nó đây rồi." Agkren hơi khựng lại, chấp chới trước một khu rừng dày đặc với những thân gỗ khổng lồ, vươn cao lên gần gấp đôi so với khu rừng mà chúng tôi vừa bay qua. Phía trong rừng đen đặc tối om, cho người ta một cảm giác khiếp sợ. Từng dải sương mù sà lên nhau che khuất phần tán lá, vờn quanh những thân cây đen sì rắn như thép như cảnh báo chúng tôi chớ dại mà bước vào. "Hướng đó Lowell!" - Tôi chỉ về phía con đường mòn len giữa hai khu rừng. Lần này Lowell nghe theo tôi mà không cần phải hỏi lại. "Có xa không?" "Tôi không chắc." - Cảm giác của tôi bỗng hơi mờ mịt hơn lúc thường, mặc dầu tôi cũng chưa thực sự quen với khả năng này để mà khẳng định chắc chắn điều gì. Hơn nữa, bóng tối của khu rừng cứ vẩn vơ như làn khói, chực trào ra ngoài này, khiến tôi cảm thấy sợ hãi và phân tâm. "Đừng nhìn nó nữa!" "Gì cơ?" - Tôi giật mình hỏi lại. "Nãy giờ cô cứ thao láo nhìn vào Bẫy Quỷ! Đừng để nó mụ mị cô." "Anh cứ nói như thể nó là người vậy." - Tôi phì cười. "Cũng đại khái như thế. À, họ kia rồi!" Agkren chao mình và đáp xuống đất ngay trước mặt Firenze. "Sao thế?" "Suỵt!" - Firenze ra hiệu im lặng, ông nhắm nghiền mắt lại như đang lắng nghe điều gì. Mọi người trông dáo dác lo lắng. Cuối cùng ông cũng lên tiếng trong sự hồi hộp căng thẳng của cả đoàn - "Ta có thể thấy chúng đang đến ào ạt như nước lũ, dù không chắc chắn được chúng sẽ tràn tới đâu. Ta đang phân vân không biết có nên đi tiếp con đường này không." "Ôi! - Tôi ngước lên nhìn Lowell - Không được đâu!" "Gì thế?" - Firenze đảo mắt nhìn tôi rồi hỏi Lowell với giọng điệu hơi khó chịu. Nhưng Lowell đáp lại bằng một cái nhìn đầy hàm ý, phẩy tay ra hiệu mọi người im lặng rồi nhìn tôi ôn tồn hỏi. "Em thấy gì?" "Chúng đã tràn xuống phía kia, ngược hướng với chúng ta. Nhưng ... - tôi ngập ngừng - tôi cũng có cảm giác không khí đang bắt đầu chuyển động theo hướng khác. Tôi cảm nhận được những dao động ở đầu kia của con đường." - Tôi tha thiết giải thích nhưng chính tôi cũng nghe thấy sự vô lí của mình. Firenze nheo mắt nhìn tôi vừa hồ nghi vừa lưỡng lự. "Cô ấy có thể thấy được! - Lowell quả quyết - Chính cô ấy đã nhìn thấy trận chiến trước và giúp chúng ta khỏi đụng độ với chúng!" "Nhưng." - Firenze gõ vó một cách sốt ruột, nhìn tới nhìn lui Bẫy Quỷ lưỡng lự. "KHÔNG ĐƯỢC! - Baron gầm lên - Đi vào đó cũng không khác gì tự sát!" "Baron, ta chưa ... " - Firenze trầm giọng. "Đừng nghĩ đến việc tôi đưa người của mình qua đó! Các người không hiểu, các người không sống ở đây." "Baron!" - Giọng Firenze đột nhiên khàn đi với vẻ đe dọa dễ sợ nhưng Baron không có vẻ dễ bị khuất phục. Anh còn kích động hơn bình thường khiến khuôn mặt đột nhiên dài ngoẵng, dù bình thường trông nó cũng không ngắn hơn mặt con ngựa anh đang cưỡi là mấy. "Chỉ một lần thôi. Một lần thôi là quá trễ đễ cứu vãn. Ông không thấy Fawk à? Hay đó không phải là người tộc ông nên ông chưa thấy sợ? Chúng tôi ... - anh gằn lên - đã phải nhìn những người anh em của mình lần lượt ra đi..." - Những từ về cuối của anh trở nên nghẹn ngào. "Ôi Baron..." - Giọng của Firenze trở nên dịu hơn. Gương mặt anh dãn ra trước vẻ đau khổ của Baron - "Ta biết đó là bạn anh.." - Lời nói của ông bị chen ngang bởi Karion. "Hình như tôi thấy gì đó!" Mọi người ngước nhìn một làn khói mỏng đang bốc lên sau những rặng sồi trắng ở đầu kia con đường. Cho đến khi những âm thanh vọng lại mỗi ngày một rõ ràng. "Firenze! Quyết định nhanh lên! - Karion giục mọi người với vẻ gấp gáp - Baron, anh gửi gấp thông báo cho Thành Laïk, Agor và Eyragonia. Bảo họ đừng đi vòng qua hướng Silva nữa!" Baron vội vàng quay sang con chim ưng ban nãy. Anh nhổ của nó một túm lông và thì thầm gì đó, đến khi anh tung nó lên trời thì xuất hiện bốn con giống hệt nhau tỏa về mọi hướng. Trong khi đó Firenze vẫn còn phân vân. Mấy đứa cháu của ông thiếu kiên nhẫn hơn, chồm lên bực tức. "Chết tiệt thật! Chúng ta bị kẹt trong thế gọng kìm."
|