Dường Như Dì Đã Nói Yêu Tôi
|
|
CHƯƠNG 55
Mọi thứ đều như tôi dự liệu, trở lại vị trí cũ, ai vào chỗ nấy.
Dì bận bịu sự nghiệp của dì, tôi làm trạch nữ (1) của tôi.
Mấy ngày sau, tôi nhận được điện thoại của Bạch Nhược Lâm. Tôi vốn tưởng sẽ kiếm được thêm khoản thu nhập nào đó, nào ngờ bên Hội tổ chức đi Nhật Bản. Chị hỏi tôi có muốn đi chung không.
Nói thật, tôi vốn rất thích Nhật Bản. Nhưng lúc đó tôi không có đủ tiền, vẫn gặp chút khó khăn, song cũng không tiện mở miệng xin gia đình.
Bạch Nhược Lâm hiểu rõ tâm tư của tôi. Chị nói chị lo tiền, tôi chỉ phụ trách ăn chơi với chị là được rồi.
Tôi nói ‘vậy chẳng khác gì không biết xấu hổ’. Chị lại bảo cho tôi nợ trước, đợi tôi có việc làm rồi trả lại chị sau. Tôi nghĩ vừa đúng lúc nên ra ngoài giải sầu, có thể quên hết chuyện không vui, liền đồng ý.
Chọn tháng ngày bầu trời trong xanh, nhóm chúng tôi thẳng tiến đến Nhật Bản.
Vì đang trong tháng bảy, nên không ngắm được hoa anh đào ở Kyoto, đáng tiếc hết sức.
Phòng ốc ở Kyoto đa số đều là nhà trệt cổ điển. Họ dùng đá để lát đường, ngói đen, tường trắng, cửa gỗ, vừa thấp vừa nhỏ, phía trước đều treo mành. Ấn tượng tương đối sâu sắc chính là lúc tham quan đền thờ Bản Năng, đó là chỗ ở của Oda Nobunaga (2) thời Chiến quốc. Ông nhiều lần tổ chức tiệc trà xã giao, chiếc tách sứ ông từng dùng phát ra ánh sáng tối tăm, như kể lại bước thăng trầm của lịch sử. Nhìn bức vẽ chân dung của ông, tôi chỉ cảm thấy ánh mắt ấy lộ ra hung quang, tuyệt đối không phải người lương thiện. Chết oan vào năm bốn mươi chín tuổi, thiết nghĩ chắc cũng đáng nên như thế.
Đi dọc trên đường phố Kyoto, có thể nhìn thấy người xuất gia ở khắp nơi. Họ mang áo cà sa màu đen, đầu đội mũ có chóp nhọn (như nón lá Việt Nam), che khuất mặt mũi. Họ lẳng lặng đứng sang một bên, đầu hơi cúi, đợi đoàn người chúng tôi đi qua rồi mới chậm rãi đi tiếp đường của họ. Tôi quay đầu lại nhìn, chỉ cảm thấy dáng vẻ của họ có gì đó rất thần bí và thanh tịnh.
Tokyo rất hiện đại, nó đem đến cho tôi cảm giác ‘ngoại trừ sạch sẽ vẫn là sạch sẽ’. Sữa bò ở đây rất ngon, mùi vị khác xa sữa trong nước. Tôi ăn bốn – năm cây kem sữa bò mỗi ngày, Bạch Nhược Lâm cười trêu tôi, “Ăn dã man quá!” .
Dân ở đây rất lễ phép và lịch sự, hay khom lưng theo thói quen. Tuy chúng tôi không nói tiếng Nhật, nhưng hầu như người Nhật Bản nào cũng có thể nói tiếng Anh, giao tiếp cơ bản không thành vấn đề. Điều khiến tôi bất ngờ nhất chính là, Bạch Nhược Lâm nói tiếng anh rất lưu loát.
Thứ làm người ta khó quên nhất ở Tokyo vẫn là công viên Disneyland, thế giới thần tiên tuyệt vời ông mặt trời. Tại nơi đây, dường như giấc mơ tuổi ấu thơ trở thành sự thật vậy. Kiến trúc châu Âu tráng lệ, hình thức trò chơi thám hiểm rất đa dạng, biểu diễn sống động như thật, món ăn có mùi vị thơm ngon vô cùng. Tôi chưa từng nghĩ tới âm thanh điện tử có thể mô phỏng âm nhạc như thật và còn cả nhân vật hoạt hình nữa. Hóa ra thể loại ca múa nhạc đẳng cấp lớn này lại cảm động đến thế, cảnh tượng nào cũng có thần sắc, khiến người ta cảm thấy giống như thật sự đến vương quốc cổ tích. Nói chung vốn từ của tôi hạn hẹp lắm, không thể miêu tả bật lên được nét đẹp ấy đâu.
Chơi ròng rã cả ngày, dĩ nhiên không thấy mệt chút nào, chỉ tiếc thời gian trôi qua quá nhanh.
Mấy người phụ nữ kia đều mua sắm điên cuồng, tiêu tiền là chủ yếu. Hôm đó mọi người đến khu mua sắm lúc mười giờ, ai cũng phân tán như chim muông, còn tôi theo Bạch Nhược Lâm dạo phố. Chỉ thấy chị bị cuốn hút vào quầy mỹ phẩm, quần áo, đồng hồ đeo tay và trang sức.
Vào cuối mỗi ngày, tôi gần như mệt đến thè lưỡi, hai chân cũng bắt đầu run lẩy bẩy. Nhưng bà chị này mang giày cao gót, lại còn vững như núi Thái Sơn, bước đi như bay. Bực bội nhất là chị ấy rất thích trò thử đồ, phỏng chừng hồi nhỏ chơi búp bê chưa đủ phê. Ở khu bán trang phục, chị ép tôi mặc thử rất nhiều quần áo, váy đầm, hơn nữa còn lộ vẻ kinh diễm và thích thú mỗi khi tôi bước ra khỏi phòng thử. Tôi như biến thành cục mồ hôi di động, hơn nữa cô bán hàng cũng rất nhiệt tình. Chị lựa cho tôi không dưới mười mấy bộ quần áo. Tôi nói ‘xin chị đừng xài tiền bậy bạ nữa’, vả lại mấy món đồ siêu đắt này có vẻ MADE IN CHINA. Nhưng chị hoàn toàn ngoảnh mặt làm ngơ, căn bản không để ý cảm thụ của tôi, chỉ lo đưa thẻ thanh toán. Kết quả ngồi xe về khách sạn, cốp sau gần như đóng không được.
(1). Trạch nữ: người Nhật gọi đó là những “cô gái cá khô” trong tiểu thuyết ngôn tình thì họ được gọi là “trạch nữ”. Tóm lại, đó là những cô gái trẻ tương lai rộng mở nhưng lại chỉ thích ru rú trong nhà, ghét chốn đông người và hầu như quên mất việc hẹn hò.
(2). Oda Nobunaga (1534 – 1582) là một lãnh chúa phong kiến trong thời kỳ Chiến Quốc của lịch sử Nhật Bản. Ông là người có công rất lớn trong việc thống nhất Nhật Bản, chấm dứt thời kỳ chiến loạn kéo dài trên khắp cả nước.
Advertisements
|
CHƯƠNG 56
Vừa đến khách sạn, tôi lập tức lo lắng không yên, đống đồ kia tốn bao nhiêu tiền, tôi đã tính qua hết rồi, cũng chẳng biết năm nào tháng nào mới có thể thanh toán xong.
“Chị Bạch, chị bảo em phải làm sao bây giờ?” Tôi ủ rũ nói.
“Coi như chị tặng quà cho em gái đi, có gì đâu nè!?” Chị cảm thấy tôi chuyện bé xé ra to.
“Không có công thì không nhận thưởng, hơn nữa quà này quý quá, em không thể nhận được!”
Chị cười tủm tỉm rồi đảo mắt một vòng, “Như vầy đi, em hứa giúp chị một chuyện, coi như đổi công lấy quà, được chứ?”
“Chuyện gì ạ?” Tôi vẻ mặt như đưa đám hỏi, “Không phải kêu em làm ô sin đấy chứ?”
“Ha ha, sao chị nỡ. Tối nay uống rượu với chị đi.”
“Uống rượu?!” Hai con ngươi tôi như sắp rơi ra ngoài, “Tửu lượng em kém lắm nha!”
“Yên tâm, chị không bắt em uống xỉn quắc cần câu, mà chỉ uống chung chị một chút thôi. Chơi chán thì về, thế nào?”
“Dạ, vậy cũng được.” Vào lúc này, tôi bị người ta nắm dao đằng cán rồi, tôi còn có thể trả giá sao?
Tokyo vào đêm đẹp hơn ban ngày rất nhiều, ánh đèn óng ánh, lập lòe khắp nơi. Quán bar rải đều mọi chỗ, còn có vài người hoá trang xinh đẹp đứng trước khách sạn chào mời khách. Tôi kéo khư khư Bạch Nhược Lâm, chỉ lo chị lại vào mấy cửa hàng kia.
Chị đưa tôi tới một quán ăn thoạt nhìn rất cổ điển. Bên trong khách đã ngồi hết bảy phần mười chỗ, nhưng cũng không ồn ào chút nào. Máy quay đĩa kẽo kẹt phát tin về âm nhạc dân tộc dạo gần đây, có vẻ thanh lịch lại nhàn nhã.
Bà chủ mặc Kimono đã qua năm mươi tuổi, tuy không thể nói là đẹp, nhưng bộ dáng vẫn còn thướt tha lắm.
Ở Nhật Bản, tôi để ý tướng mạo của phụ nữ kỳ thực khá giống nhau, họ đều ăn mặc lịch sự và trang điểm nhàn nhạt. Không có người nào để mặt mộc ra đường cả, rõ ràng họ phải sửa soạn chỉnh chu mới ra ngoài. Mặt khác, khí chất của họ cũng không tệ, từ đồ thường đến trang phục chính thống, đại thể có vẻ rất dịu dàng. Trên đường phố, bạn có thể nhìn thấy mấy cô gái cầm ô, mặc kimono, chân đi guốc gỗ, tựa như nhân vật trong tiểu thuyết của Kawabata Yasunari (1). Cũng gặp hòa thượng mang áo cà sa, vẻ mặt điềm tĩnh, đi lang thang như ẩn sĩ đường phố vậy.
Bạch Nhược Lâm gọi một nồi lẩu thịt bò, cộng thêm một ít cơm cuộn và sashimi. Món ăn thật sự rất ít, cách làm cũng khá tỉ mỉ. Bạch Nhược Lâm gọi thêm chút rượu sake, chị nói đến Nhật Bản mà không uống rượu sake thì chẳng khác nào chưa từng tới.
Tôi dần dần phát hiện, người phụ nữ này cường thế hơn dì Lạc rất nhiều. Khi tôi đi cùng chị, tôi đều phải nghe lời chị. Chị sẽ lấy lý do và phương thức tốt nhất thuyết phục tôi quyết định, cũng không dò hỏi ý kiến của tôi. Cũng may tôi quen nhẫn nại từ bé rồi, huống hồ chị đã có lòng tốt, nên tôi cũng chấp nhận mọi sắp xếp của chị.
Thật ra tôi cần gì phải đem hai người họ ra so sánh đây? Bản thân không phải cán cân thì sao có thể đưa ra đơn vị trọng lượng cơ chứ? Tôi lại cười thầm mình ngốc quá.
Ăn uống xong xuôi, chúng tôi đến một quán rượu có biểu diễn văn nghệ xem ca vũ, rồi lại uống chút rượu đỏ. Thật ra tôi không biết thưởng thức rượu cho lắm, xưa nay cũng chẳng thấy nó có gì ngon. Chẳng hạn như rượu sake, tôi chỉ thấy nó chua chua, ngọt ngọt, không thơm ngon gì mấy. Còn rượu đỏ lại hơi chát chát, làm răng tôi cũng có chút ê buốt. Uống hai loại rượu vào bụng, tôi đã hoàn toàn mơ hồ, chỉ cảm thấy đầu váng mắt hoa, nhìn gì cũng lờ mờ, chỉ muốn nhắm chặt mắt lại thôi, nhưng thật kỳ quái, dòng suy nghĩ của tôi vẫn rất rõ ràng. Tôi cảm nhận được Bạch Nhược Lâm đỡ tôi ngồi vào taxi, rồi ôm đầu tôi vào khuỷu tay. Tôi còn ngửi được mùi thơm dễ chịu quẩn quanh nữa.
Đến khách sạn, chị dìu tôi vào phòng của chị. Lần này chúng tôi ở trọ kiểu home town, mỗi người ngủ một phòng nhỏ. Tôi vừa thấy không phải phòng mình, liền lẩm bẩm nói phải đi về, tránh khỏi nôn bừa lên giường chị. Song chị vẫn kiên định như cũ, đặt đầu tôi lên giường, cởi giày và áo khoác cho tôi, sau đó lại dùng khăn lông nóng lau cổ lau mặt. Tôi bị rượu hành có cảm giác rất nóng, chị lại còn lấy khăn nóng lau làm tôi nhiệt huyết sôi trào. Tôi kêu nóng, xốc chăn ra, ngay cả quần cũng cởi luôn, chỉ chừa lại quần chip nhỏ và áo T-shirt.
Một lát sau, tôi cảm thấy rất khó chịu, có lẽ tại trong nóng ngoài lạnh.
“Em khó chịu quá!” Tôi hét lên.
Bạch Nhược Lâm lập tức đến đỡ tôi ngồi dậy, nửa ôm tôi. Tôi chỉ cảm thấy buồn nôn, “Oẹ” một tiếng liền nôn hết lên người chị.
“Chết rồi… hic!” tôi xấu hổ chết đi được.
Chị đành phải đứng lên cởi quần áo vứt xuống đất, rất nhanh chỉ chừa lại bộ nội y màu đen.
Sau khi nôn xong, tôi thấy thoải mái rất nhiều. Lại nghĩ đến chuyện ngày đó tặng chị nước hoa, không khỏi bật cười.
Chị vừa quay đầu lại phát hiện tôi đang cười, sẵng giọng, “Em ói đầy ra đó, lại còn cười?”
“Chị Bạch, tại em nghĩ đến Marilyn Monroe, giờ nhìn chị y chang bà ấy!”
“Xỉn rồi mà còn trêu chọc người ta.” Chị trực tiếp đi về phía tôi rồi ngồi xuống bên cạnh, sau đó lấy tay cù vào nách tôi. Từ nhỏ tôi đã sợ trò này rồi, nhột không chịu nổi.
“Ai u, tha cho em đi, em không dám nữa.” Tôi liều mạng xin tha.
“Được rồi, thấy em đáng thương quá, tha đó.” Chị nói xong liền ngưng động tác.
Tôi thấy chị vừa mất cảnh giác liền tập kích bất ngờ, ngược lại chị che thân như chim ấp tổ, vừa trốn vừa phản kích lại tôi. Hai người đùa giỡn lôi qua kéo lại —— kéo luôn áo ngực của chị xuống.
Tôi xin thề, tôi không có cố ý!
(1). Kawabata Yasunari: (1899 – 1972) là tiểu thuyết gia người Nhật đầu tiên và người châu Á thứ ba, sau Rabindranath Tagore (Ấn Độ năm 1913) và Shmuel Yosef Agnon (Israel năm 1966), đoạt Giải Nobel Văn học năm 1968, đúng dịp kỷ niệm 100 năm hiện đại hóa văn học Nhật Bản tính từ cuộc Duy Tân của Minh Trị Thiên Hoàng năm 1868. Những sáng tác văn chương, những tiểu luận mỹ học và phê bình văn học của Kawabata Yasunari, qua thời gian vẫn luôn đem lại hấp lực mạnh mẽ đối với nhiều nhà phương Đông học trên khắp các châu lục, có sức lôi cuốn rộng rãi độc giả trên thế giới, phản ảnh nhiều phương diện của văn hóa Nhật cũng như những rung cảm đầy đam mê mà tinh tế của tâm hồn Nhật.
|
CHƯƠNG 57
Tuy đây là lần thứ hai tôi nhìn thấy ‘bảo bối’ của chị, nhưng cảm giác lại hoàn toàn khác lần đầu tiên.
Lần đầu tiên là lúc tôi và chị chưa thân lắm. Còn lần thứ hai là khi chúng tôi đã rất thân rồi. Lần thứ nhất, đầu óc tôi hoàn toàn tỉnh táo. Lần thứ hai, tôi bị hơi men thúc giục —— vậy nên kết quả tuyệt nhiên khác nhau —— Lần thứ nhất, tôi lịch sự xoay người không nhìn chị. Nhưng lần này, tôi lại nhìn rất lâu không chớp mắt.
‘Bảo bối’ đó có hình dáng ra sao? Tôi nên miêu tả thế nào đây? Đều đặn, đối xứng, no đủ, trắng như ngà voi, càng thần kỳ chính là, chúng còn phát ra một vầng sáng lạ thường, giống như ánh sáng của mặt trăng, xinh đẹp đến chấn động lòng người.
Lúc tôi đang âm thầm đánh giá, kỳ quái chính là, chị cũng không xoay người đi, cũng không dùng gì đó che chắn lại. Cuối cùng, lúc tôi ngẩng đầu lên, tình cờ bắt gặp ánh mắt sáng quắc của chị.
“A, thật ngại quá, em… ” Tôi ý thức được sự luống cuống của mình, không biết phải làm sao.
“Em nói xin lỗi là xong rồi sao?” Chị yếu ớt cất lời.
“Chúng quá đẹp, giống như có vầng sáng…” Tôi nói năng lộn xộn vài câu rồi cúi đầu, chợt nhớ tới cái ‘sân bay’ của mình. Nhớ năm đó, lời của dì Lạc đã trở thành một lời tiên tri, quả nhiên đến nay tôi cũng không thể qua nổi cúp A.
Trên mặt chị hiện lên một nụ cười phức tạp, “Em nói vậy… à, người đó cũng nói vậy… “
“Người đó? Ai cơ?”
Nhưng lúc này tôi đã không còn tâm trạng để truy cứu. Ánh mắt của chị trở nên khó hiểu. Chị đưa một tay ra sau gáy tôi, khẽ vuốt nhẹ sợi tóc.
“Thỏ Con, thật ra em biết tâm ý của chị mà!” Chị thở nhè nhẹ, ‘bảo bối’ áp sát vào ngực tôi, mềm mại như chạm chân lên mây trời.
“Em… Chị rất đẹp. . .” Tôi lại bắt đầu nói năng lộn xộn.
“Sau đó thì sao?” Giọng nói của chị đã gần đến hồ mị hoặc.
Não của tôi nhanh chóng vận hành: Chị muốn làm gì? Tôi có muốn hay không? Tôi có thể hay không? Tôi có nên hay không? Tôi có xứng hay không?
“Xin lỗi, em không thể…” Âm thanh của tôi thấp đến mức ngay cả mình cũng nghe không rõ, chỉ cảm thấy tim đập nhanh đến độ như mới vừa chạy xong 100 mét.
Tôi biết mình không phải thánh nhân. Dưới tình trạng như vầy, tôi không thể để sự việc phát sinh ngoài ý muốn được! Đối với chị, đối với tôi, đều không công bằng!
Tôi cầm chiếc khăn bên người, khoác lên vai chị, cuối cùng cũng che khuất. . .
Nhưng chị dường như làm ngơ tất cả. Chị nhẹ nhàng nâng tay tôi lên, vuốt ve thật dịu dàng, tinh tế, rồi lại cúi đầu cẩn thận hôn lên mỗi ngón tay, như chạm vào một món đồ thiêng liêng.
“Ngón tay thật xinh đẹp.” Chị vừa hôn, vừa tự lẩm bẩm, “Thon dài, trơn bóng, trắng nõn. Tay như vậy mới có thể đàn ra bản nhạc tuyệt vời.”
Chị ngẩng đầu nhìn tôi, ánh mắt mê ly mà mờ ảo, giống như cách tôi rất gần, nhưng cũng cách tôi rất xa.
Đêm, vắng lặng.
Chị cứ nắm tay tôi như thế, tựa đầu ở vai tôi, không nói lời nào. Tôi bắt đầu thấy hơi sợ, giống như sa vào một giấc mơ kỳ dị.
Tôi không biết làm thế nào cho đúng, đành bất động.
Qua hồi lâu, chỉ nghe chị thở dài, “Vẫn chưa trả lời chị đấy! Em đã biết ngay từ đầu phải không?”
Tôi cả kinh, lúc này nếu phủ nhận thì có vẻ không hợp lý lắm, nhưng nếu khẳng định, tôi lại cảm thấy thất vọng.
“Ngay từ đầu, em chỉ biết chị để ý em thôi, nhưng…”
“Nhưng không ngờ lại là yêu thích?” Chị tiếp lời tôi, chậm rãi đẩy tôi ra. Lúc chị ngẩng đầu, tôi thấy ánh mắt lấp lánh của chị.
Tôi cúi đầu, gật một cái.
Chị dùng đầu ngón tay nhẹ nhàng nâng cằm tôi lên. Mắt chị hiện lên vẻ phức tạp, thâm tình, tiếc nuối, thê lương.
“Để chị kể chuyện xưa cho em nghe nhé! Chuyện chị vẫn luôn muốn kể cho em nghe.”
“Dạ”
Giọng chị nhẹ nhàng, tinh tế, không quyến rũ như trước nữa, lại làm người khác cảm thấy vắng lặng:
“Khi còn bé, nhà chị rất nghèo, có mấy chị em, đi học cũng rất khó khăn, nhưng họ còn khổ hơn chị nhiều, vì chị biết cơ hội đi học là có hạn, chỉ dành cho người giỏi nhất thôi.”
“Chị nhất định là người giỏi nhất rồi!”
Chị gật đầu, tiếp tục nói, “Chị thi đậu đại học năm mười chín tuổi. Vào buổi tiệc năm hai đại học, có một anh chàng đàn dương cầm rất hay, lại còn rất đẹp trai. Mọi người đều đoán anh ta sẽ mời ai khiêu vũ. Chị có cảm giác anh ta sẽ mời chị, quả nhiên, anh ta lập tức mời chị nhảy, hơn nữa vẫn không đổi người. Xem như là vừa gặp đã yêu đi, tình cảm của bọn chị phát triển rất nhanh. Anh ta đối với chị rất dịu dàng, thường hay dẫn chị đến phòng nhạc, đánh đàn cho chị nghe, còn dạy chị hát nữa. Đó là quãng thời gian hạnh phúc nhất trong cuộc đời chị.” Ánh mắt của chị trở nên mê say, khóe miệng cũng hơi nhếch lên, có vẻ ngây ngô, xúc động.
“Nhất định chị rất thương anh ta.”
Chị khẽ gật đầu một cái, lại tiếp tục nói:
“Năm thứ tư đại học, lúc tốt nghiệp, anh ta dẫn chị đi gặp ba mẹ. Sau đó, anh ta làm giáo viên dạy nhạc, còn chị làm ở công ty. Anh ta vẫn đơn thuần như lúc còn đi học, ngoại trừ sự nghiệp dạy học ra thì không có chí hướng gì to lớn, chỉ muốn cùng chị sống tháng ngày bình yên. Nhưng chị lại có rất nhiều hoài bão lớn, lòng cao hơn trời, chỉ muốn có sự nghiệp vẻ vang. Thông qua vài người bạn giới thiệu, chị bắt đầu làm thương mại. Lúc mới bắt đầu rất thuận lợi, nhưng sau đó thất bại trong một lần đầu tư, nợ người ta tới hai mươi mấy vạn.”
Chị nói đến đây, từ bên giường lấy ra một điếu thuốc trong hộp, nhen lửa, hít hai cái, rồi mới chậm rãi nói tiếp, “Hai người bọn chị mượn tiền đầu này chắp vá đầu kia, làm sao cũng không có đủ số tiền đó. Anh ta có chút tức giận, la chị vài câu. Khi ấy chị rất kiêu căng tự mãn, không chịu thua ai, giận hờn bỏ đi, đến ở cùng một người bạn. Bạn chị làm bất động sản, thông qua nó, chị biết ông chủ Cao. Ông ấy đối với chị rất ân cần, chủ động cho chị mượn tiền. Từ đó, chị dần lạc lối, đánh mất bản thân, bắt đầu qua lại với ông ta…” Giọng chị dần dần thấp xuống.
“Chuyện cũng rất lâu rồi”, sau một lát, chị đột nhiên cười tự giễu, “Chuyện sau đó, chị không nói chắc em cũng có thể đoán được.”
“Mấy năm nay chị có nhớ anh ta không? Có buồn lắm không?” Tôi cẩn thận hỏi chị.
“Cũng không thấy buồn mấy. Có điều rất lạ, sau mười mấy năm, giờ nhớ lại luôn cảm thấy rất mơ hồ, giống như chuyện thường mỗi ngày vậy, không có ấn tượng gì khắc quá sâu. Ông chủ Cao đối với chị cũng không tệ lắm, tận lực giúp đỡ chị. Công ty của chị cũng dần dần có quy mô, giao thương buôn bán thuận buồm xuôi gió, chuyện làm ăn cũng càng làm càng tốt. Có lúc chị nghĩ, nếu lúc trước chị yên phận sống cùng chàng trai Piano, nói không chừng bây giờ con cái cũng đến tiểu học rồi.” Trong giọng của chị có loại cô đơn không thể nói hết.
Một điếu thuốc đã đến phần đầu lọc. Tôi lấy ra một điếu khác, nhen lửa, đưa tới môi chị. Chị mơ màng nhìn tôi, chậm rãi nói, “Ngày ấy, dáng vẻ em ngồi bên cây Piano rất giống anh ta. Chị cũng có chút hoảng sợ, tưởng như được trở về tháng ngày vui vẻ hồn nhiên ấy vậy. Vậy nên chị rất muốn gặp lại em, nhìn thấy em, chị như được lướt qua mười mấy năm sóng gió, trở về quá khứ.”
|
CHƯƠNG 58
Có lẽ thế gian này có quá nhiều phụ nữ cô đơn. Bởi vì phụ nữ bị tình cảm chi phối thân thể, còn đàn ông lại dùng thân thể để chi phối tình cảm —— vậy nên cuộc sống của phụ nữ nhất định sẽ khổ hơn đàn ông!
Một người phụ nữ cô đơn làm bạn với bạn, cũng giống như làm bạn với thú cưng vậy, không biết tôi may mắn hay bất hạnh nữa.
Nói chung, nghe xong chuyện xưa của chị, ngoại trừ bùi ngùi xúc động, cảm giác của tôi chính là như thế.
Tuy trong lòng có hơi mất mát, nhưng tôi cũng hiểu rất rõ. Nếu chị thật sự yêu tôi, bất luận đối với người nào cũng đều không có lợi. Tôi không thể đáp lại chị tình yêu tương ứng, vậy càng không công bằng với chị.
Chẳng qua, tôi thật sự rất không thích bị người khác coi như sản phẩm thay thế, hơn nữa sản phẩm được thay thế lại là một người đàn ông!
Tôi thật muốn lập tức nói với chị: “Em không muốn kiểu tình yêu như vậy!”
Nhưng nhìn thấy dáng vẻ cô đơn ấy, ai có thể nhẫn tâm nói ra khỏi miệng đây?
Có người từng nói: Tình yêu, đôi khi chính là tự yêu bản thân, không hề liên quan đến người kia.
Người nói lời đó ắt hẳn rất cô đơn. Giống như một rạn san hô lẻ loi giữa đại dương, chỉ có thể thương yêu bóng trăng vắng lặng, vĩnh viễn không bao giờ có thể chạm tới phía chân trời xa xôi.
Đời này, tôi gặp phải hai người phụ nữ cô đơn, yêu một người, thương một người, nhưng họ cho tôi lại gì đây?
Tôi, có hay chăng chỉ là một người qua đường vô tình để lại dấu ấn trong cuộc sống của họ, giống như đã từng quen biết? Thậm chí chỉ là một sự an ủi lúc cô đơn? Hay một thứ thuốc đặc trị cô đơn?
A, hóa ra người đáng thương nhất chính là tôi ư?!
Nhớ tới S – bạn cùng phòng của tôi đã từng nói: “Phụ nữ như cậu, dù được gã đàn ông nào thầm yêu thích cũng không dám theo đuổi, trừ khi gã đó thuộc loại ngu đần mất cảm giác. Cậu rất thuần khiết, lạnh lùng, yên lặng, nhưng dường như hiểu rõ hết mọi chuyện. Cùng cậu yêu đương, không bằng nuôi dưỡng một con mèo.” Tôi nghe xong cười ha ha, nhưng cũng không tỏ rõ ý kiến. Mặc kệ cậu ấy khen hay chê, tôi đều thích cách đánh giá này.
Đúng, tôi không có cách nào tự giải thoát chính mình. Loại người như tôi, trời sinh vô duyên với đàn ông, từ nhỏ đã bị phụ nữ hấp dẫn, bị phụ nữ mê hoặc rồi. Nhìn lý tính, thông minh vậy thôi, kì thực ngu không kể xiết. Biết rõ là luyện ngục, là tầng mười tám địa ngục, nhưng cũng không cách nào ngừng khắc cốt ghi tâm, yêu thương sâu sắc.
“Yêu cái gì, sẽ chết vì cái đó”. Nhớ tới Dupree (1) đã dùng cả tính mạng diễn dịch cho đàn Violoncelle (2), là thành tựu của nghệ thuật hoàn mỹ. Còn tôi, chỉ sợ cũng phải dùng tính mạng soạn ra một bài tình ca, dù chỉ có mình tôi khẽ hát trong đêm.
(1) Emile Dupree: Mình google chỉ ra hình này. Chữ Emile Dupree khắc trên bow đàn Cello, nên mình đoán Emile Dupree là người chế tạo ra nó.
(2) Violoncelle: Cello (Xen-lô) hay Violoncelle (Vi-ô-lông-xen), còn được gọi trung hồ cầm, là một loại đàn cùng họ với vĩ cầm. Giống như vĩ cầm, cello được chơi bằng cách dùng một cây vĩ có căng lông đuôi ngựa kéo ngang những dây đàn và làm cho dây đàn rung lên thành âm điệu. Khác với vĩ cầm, cello có kích thước lớn hơn vĩ cầm và thường được chơi bằng một nhạc công ngồi trên ghế kẹp hồ cầm giữa hai chân.
|
CHƯƠNG 59
Hôm sau, tôi bị cơn tê dại nơi cánh tay đánh thức. Bạch Nhược Lâm gối trên tay tôi ngủ như một đứa trẻ.
Chưa có ai ngủ tư thế thân mật như thế cùng tôi, kể cả dì Lạc năm ấy cũng chưa từng.
Tuy không phát sinh chuyện gì. Đúng, tôi xác định điều này, nhưng tóm lại là chúng tôi đã ngủ chung một đêm rồi.
Tôi chỉ nhớ chị nói liên miên chút chuyện, mãi đến khi mất đi tri giác.
Có lẽ tối qua chị mất ngủ trong lúc tôi đang ngủ say. Giờ tôi cũng không muốn đánh thức chị.
Tôi khe khẽ đắp chăn cho chị, rồi lập tức rón rén trở về phòng mình.
Hôm nay nhóm không có hoạt động tập thể gì, nên chị ngủ tới khi nào cũng chẳng có ai quấy rối. Tôi tắm rửa sạch sẽ, thay quần áo mới, liền ra khỏi khách sạn.
Tôi không muốn xem bản đồ, đi lung tung không có mục đích trên con đường xa lạ. Quảng trường không quá náo nhiệt, người đi đường cũng không nhiều, còn mặt đường vẫn luôn sạch sẽ như thế.
Tôi tìm một “canteen”, ăn bát mì udon, mùi vị thơm ngon lạ thường.
Chỉ là xung quanh toàn ngôn ngữ xa lạ, cảm giác lạc lõng bi quan nảy sinh, vẫn không nên ở đây lâu.
Tôi kêu ông chủ gói một phần mì, rồi trở về khách sạn. Tôi gõ cửa phòng chị, nhưng vẫn không nghe động tĩnh gì, đang muốn xoay người rời đi, cửa liền mở ra.
Chị tóc tai bù xù đứng sau cửa, sắc mặt có vẻ hơi tiều tụy.
“Dậy rồi đó hả?”
“Bị em đánh thức đó.”
“Thật ngại quá. Đây, cho chị ăn này!”
Tôi đưa đồ đến trước mặt chị.
Chị liếc mắt nhìn, mỉm cười, “Vào đi.”
Tôi vào phòng, mở hộp mì cho chị ra, đũa cũng đã chuẩn bị xong.
“Xin mời, nữ vương bệ hạ.”
Chị ngồi xuống, vừa nhìn liền cau mày.
“Sao vậy?”
“Nhìn xong hết muốn ăn.”
Tôi ảo thuật lấy ra từ trong túi xách một cái bình nhỏ, đưa tới trước mặt chị.
“Biết chị thích ăn cay nên em bảo ông chủ gói thêm nè.”
“A, coi như em chu đáo, vậy chị bắt đầu ăn đây!” Mấy ngày ở Nhật Bản, chị cũng học theo người Nhật Bản vỗ tay trước khi ăn cơm, sau đó nói một tiếng “bắt đầu”, bộ dáng rất khả ái.
Chờ chị ăn xong thì đã gần trưa. Tôi đứng trước cửa sổ ngắm cảnh, chẳng biết mưa từ lúc nào, gió cũng hơi lớn.
“Hôm nay đi đâu đây?” Tôi quay đầu lại hỏi chị đang đứng bên cạnh.
“Bái thần đi.” Thì ra bà chị này đã sớm có dự định.
Chúng tôi ngồi tàu JR xuống ở ga Harajuku (1) đến Shibuya (2) nổi tiếng. Tokyo tập trung một phần mười dân số Nhật Bản, đường phố lúc nào cũng rộn ràng, nhộn nhịp. Thế mà cũng có chỗ yên tĩnh, chính là đền thờ Minh Trị (3) này đây.
Kỳ thực tôi cảm thấy Nhật Bản có tính dân tộc phân tách rất rõ ràng. Khi thì âm nhu vô cùng tận, lúc thì tráng vĩ vô bờ bến. Ba hồi thanh thản đáng yêu, bốn hồi tối tăm khủng bố. Một mặt là sáng tạo, một mặt là hủy diệt. Phía trước là ánh sáng thiên đường, nhưng sau lưng lại là lửa địa ngục thiêu đốt hừng hực.
Trước khi đi, tôi cho rằng nơi đây cũng tương tự chùa Linh Ẩn, khách hành tụ tập dâng hương, giao thông tắc nghẽn, nhưng đến mới phát hiện không phải như thế.
Có người nói trước lúc Thần Cung được xây dựng, nơi đây là một mảnh đất hoang vu. Sau khi Thiên Hoàng Minh Trị và Hoàng thái hậu Chiêu Hiến qua đời, người Nhật Bản vì kỷ niệm công đức của họ mà thành lập nên. Đó là một khu xanh hóa đặc biệt lớn, trồng mấy trăm loại cây, mười mấy vạn cây, mùa hè mây bay mưa bụi, toả ra mùi hương thơm ngát.
Xe cộ ở đây rất ít. Có rất nhiều người Nhật Bản tự tới chỗ này, mặc phục trang, diễn một vở kịch tôi không biết tên. Một ít du khách rối rít cầm máy quay phim, họ cũng phối hợp tạo vài tư thế.
Dọc theo cửa hàng trưng bày đá cuội trắng xóa, bóng loáng, xinh đẹp. Có người bảo đá cuội có thể loại bỏ yêu tà, khi mọi người đi bộ trên đá, linh hồn sẽ được thanh lọc.
Tôi chẳng biết linh hồn của mình có được thanh lọc không, nhưng lúc đi trên đá, cảm giác quả thực rất tốt, giống như phủi sạch trần thế, quên đi tất cả muộn phiền.
Bạch Nhược Lâm vốn mang giày cao gót, lúc này đã cởi giày xách trong tay, đi chân trần trên đá cuội, còn để tôi chụp rất nhiều ảnh. Không thể phủ nhận chị quả thật rất đẹp, đặc biệt nổi bật dưới phong cảnh mỹ lệ thế này, thoáng như tiên tử lạc trong rừng vậy.
Vào trong cung điện lại có một phong vị khác, là kiến trúc sân vườn điển hình của Nhật. Đối với kiến trúc, tôi một chữ cũng không biết, có điều để lại ấn tượng sâu sắc trong tôi chính là dòng nước trong veo róc rách ở điện. Men theo dòng chảy bình lặng về bể, hoa thủy tiên đã bắt đầu nở rộ, cây xương bồ còn chưa thay lá. Có mấy người phụ nữ mặc kimono thanh nhã đi dưới hành lang, lời nói nhỏ nhẹ, từ xa nhìn lại hệt như trở về thời cổ đại. Có người nói kết hôn ở đây có thể hưởng hạnh phúc trọn đời, đáng tiếc tôi không bao giờ nhìn thấy ngày đó.
“Có muốn vào tham quan không?” Bạch Nhược lâm hỏi tôi.
“Không muốn.”
“Sao thế? Em cũng không tin thần linh à?”
“Người Nhật đã nhiều như vậy, thần phù hộ người nước ngoài chúng ta không có kịp đâu.” Kỳ thực đối với chuyện bái thần này, tôi vẫn có cấm kỵ, như Khổng Tử nói ‘kính quỷ thần mà đi chi xa’.
“Ra thế. Vậy thì thôi.” Chị đại khái cũng không muốn đi vào một mình, nghe tôi nói vậy, cũng chỉ có thể bỏ thôi.
“Chị có nguyện vọng gì hả? Nếu có thì nói em nghe chút đi.” Tôi cố ý trêu ghẹo chị.
Chị nhìn tôi thật lâu, cũng không trả lời.
Tôi đột nhiên cảm thấy trong lòng mơ hồ, cũng không dám suy đoán, lập tức nhìn trái nhìn phải hắng giọng, la hét “Đói bụng quá đi!”, liền kéo chị đi kiếm đồ ăn.
Kỳ thực tôi vẫn còn nhớ rất rõ chuyện tối qua, nhưng tôi thực sự chưa nghĩ ra nếu chị đề cập tới chuyện ấy, tôi nên trả lời thế nào bây giờ.
Nếu chị chỉ là say rượu nói bừa, vậy thì dĩ nhiên không có chuyện gì phát sinh hết, nhưng nếu không phải thì sao đây?
Được một người nói lời “thích” như vậy, người khác có chịu nổi trách nhiệm không đây? Hay vẫn có thể ngoảnh mặt làm ngơ?
Tôi không có kinh nghiệm yêu đương. Thầm mến thôi đã làm tôi mòn mỏi tâm lực cả rồi. Nhưng nếu có một tình yêu chân thành trước mắt, tôi thực sự không biết làm sao cho phải.
Trước mắt đang không biết làm sao cho tốt, hay là nên tiếp tục giả ngu đi.
(1). Harajuku: là tên của một địa điểm quanh Nhà ga Harajuku và tuyến đường ray Yamanote tại khu Shibuya của Tokyo, Nhật Bản. Địa điểm này nổi tiếng thế giới với phong cách và trào lưu thời trang đang rất thịnh hành trong giới trẻ Nhật Bản cũng như giới trẻ châu Á.
(2). Shibuya: là một trong 23 khu đặc biệt của Tokyo, Nhật Bản. Tính đến 2010, vùng này có dân số ước tính 202.880 người và mật độ là 13.430 người/km². Diện tích cả vùng là 15,11 km².
Địa danh “Shibuya” thường được biết đến qua khu thương mại sầm uất chung quanh Nhà ga Shibuya. Đây là một điểm giao thông tấp nập bậc nhất ở Tokyo. Các cửa hiệu ở Shibuya thiên về thời trang giới trẻ nên nghiễm nhiên khu vực này có tiếng là nơi tụ tập đông đảo các dịch vụ may mặc thời trang như thương xá Shibuya 109.
(3). Đền thờ Minh Trị: Meiji-Jingu là một ngôi đền thờ thiên hoàng Minh Trị và Hoàng Thái Hậu Shōken-kōtaigō. Jingu là một ngôi đền được nhiều người biết đến và chủ yếu thờ phụng tổ tiên của hoàng thất, thiên hoàng… , đây là điểm khác với những ngôi đền thông thường (“Jingu” là tên gọi tắt của “Ise-jingu”).
Đền Meiji-Jingu được xây dựng vào năm 1920. Trong các đền thờ, đây là đền thờ được xây dựng gần đây nhất. Vào ngày lễ đầu năm Hatsumode (đi viếng thăm đền vào ngày đầu tiên của năm), mỗi năm người ta đều ghi chép số lượng người viếng thăm và nhận thấy rằng đây là ngôi đền có số lượng người viếng thăm nhiều nhất Nhật Bản. Xung quanh ngôi đền là rừng rậm rộng lớn, toàn bộ những cây trong rừng này đều là cây nhân tạo. Khi xây dựng ngôi đền này, người ta đã tập hợp nhiều cây từ khắp đất nước Nhật Bản. Nơi thu hút khách nổi tiếng là “Kiyomasa no ido”, mỗi ngày có nhiều người sếp hàng ở đây nên nếu muốn đi xem chậm nhất là phải đến trong vòng buổi sáng. Nơi đây có rất nhiều cây xanh khiến cho người ta không nghĩ nó nằm trong thành phố nên có thể tận hưởng ma lực của thiên nhiên bao quanh ngôi đền nhân tạo này. Ở mọi nơi đều treo thơ Haiku mà thiên hoàng Minh Trị đã đọc, chỉ cần tra nghĩa của chúng ta cũng cảm thấy rất thú vị (thơ được Thiên Hoàng ngâm gọi là “Gyosei”, thơ được Hoàng Thái Hậu ngâm gọi là “Kogoheika”).
|