Miếu ông Bổi
Tết qua, có dịp về một làng gần Hà Nội, thăm lại một người bạn đã lâu không gặp. Tại đó phát hiện có ngôi miếu nhỏ nhưng nom kiến trúc cổ kính rêu phong. Bên ngoài miếu đặt một con hổ đá, chứ không phải chó đá như thường gặp các làng Bắc Bộ.Thấy tôi chú ý tới ngôi miếu, bạn tôi mời về một người chưa già, chẳng trẻ. Rượu xuân vui tới nửa đêm, người kia rỉ rả kể thông một mạch mấy chuyện, tôi ghi lại sau. Cũng chả biết hư thực ra sao, nếu ai thấy có sách nào ghi lại việc kể sau, có sai sót gì xin chỉ bảo để hiệu đính sửa chữa.
Làng này xưa tên gọi là Mỗ Tương. Trải qua nhiều thăng trầm, thay tên mới, nay tên cũ không ai nhắc tới.
Thời Tây Sơn, không nhớ năm nào, trong làng có Nguyễn Bổi có tiếng ham học, thấy ai hơn mình đều tìm đến thụ huấn, kết giao. Khi quân Thanh kéo vào xâm chiếm nước ta, Bổi bỏ bút, cầm gươm vào Đàng Trong theo Vua Quang Trung.
Bản ngã không phải sinh ra để cầm gươm múa giáo, nên với các ban võ nghệ giữa đám sĩ tốt, Nguyễn Bổi đều bị xếp thứ bét, bù lại biết kể chuyện cười dân gian, đọc thơ vui, làm quân sĩ thường quên cả nặng nhọc. Có người mách việc ấy với Nguyễn Huệ. Nguyễn Huệ cho gọi lên, hỏi: "Nhà ngươi biết làm cho quân sĩ vui. Có biết làm cho ta vui không?”. Bổi hỏi lại: "Đấng quân vương thấy binh sĩ vui, lòng có vui không?”. Huệ khó chịu, vẫn trả lời: "Vui!. Bổi bèn nói tiếp: Thói thường, vua chúa tìm vui chốn cung nữ, khuê đài, nhã nhạc… Nay bệ hạ ra trận, như các vương giả đời xưa, nên lấy chiến thắng làm nguồn vui lớn. Thần xin có kế nhỏ dâng lên bệ hạ làm nguồn vui nhỏ!”. Nguyễn Huệ là bậc anh hùng kiệt hiệt, trăm trận trăm thắng, lần này đối địch với quân Thanh, biết phải thận trọng, đang bày mưu kế chưa xong, nay thấy giữa đám tốt đen có đứa nói cứng, nghi ngờ lắm, hỏi gấp, kế gì? Bổi vẫn nhẩn nha, hỏi lại, quân Thanh có nhiều hơn quân ta không? Nguyễn Huệ chau mày: "Quân Thanh hai chục vạn”. Bổi hỏi tiếp, quân Thanh có tinh nhuệ không? Nguyễn Huệ trừng mắt. Bổi cúi đầu, mỉm cười: "Bệ hạ đừng vội nóng giận!”. Huệ nghiêm sắc mặt: "Ngươi là dân Bắc Hà ăn nói vòng vo quá. Quân sắp ra trận. Thành bại của tướng là sống chết cả vạn người. Đâu phải chuyện để đùa vui.
Nói ngay, trúng ta thưởng; hồ đồ, chém làm lễ tế thần linh xả xui”. Bổi vẫn bình tĩnh, không tỏ ra run sợ, biết là lúc Nguyễn Huệ lắng nghe mình, bèn nói một hơi không nghỉ:
- Nói về thế, quân Thanh trong đồn luỹ, một người có thể chọi năm, địch mười. Bệ hạ tiến binh ra đất mà đa phần sĩ phu ham vui, nhu nhược, dân chúng rặt vốn tham lợi nhỏ, danh hão, chỉ khi bị nhục thì lập tức trở nên khí phách, can trường, mạng sống chết coi như rơm rác. Xin bệ hạ hãy làm cho nhà nhà biết cái nhục người Nam, khi quân giặc lấy Thăng Long như đi vào chỗ không người, coi người Nam ta như chó ngựa… Lại đem cái lợi sau khi chiến thắng mà tuyên truyền, hẳn muôn người ở Bắc Hà này sẽ liều chết theo bệ hạ. Được vậy, hai chục vạn quân Thanh chắc không đông bằng dân cả nước Nam.
Quân Thanh đã tinh nhuệ, so với tiền quân bên bệ hạ chẳng thua kém gì, lại trong đồn lũy, là thế mèo nằm đợi chuột. Ta tiến vào Thăng Long, thế nào cũng qua Ngọc Hồi. Xin bệ hạ, chọn một ngàn tay đao ngắn, toàn dũng sĩ bấy nay, voi năm trăm thớt. Thần xin có mẹo nhỏ biến họ thành dũng sĩ, không sợ súng to đạn lớn, đồn cao lũy dày của Hứa Thế Hanh.
Quang Trung nghe. Sắc mặt chuyển từ căng thẳng sang bình thường. Thấy Bổi dừng lại, bèn giục, nói tiếp nói tiếp. Nguyễn Bổi bèn tiến sát Quang Trung ghé tai nói thầm chỉ hai người nghe thấy. Kết bằng câu, cứ thế cứ thế.
Nguyễn Huệ nghe xong, cười lớn, nói, được lắm, hợp ý ta!
Từ bữa đó, Nguyễn Huệ giữ Bổi ở bên mình.
Bên Nguyễn Huệ, Bổi tỏ ra người lắm cơ mưu, lại biết lựa lời nói với dân chúng, nên quân sĩ dọc đường ra bắc theo Huệ rất đông. Trận Ngọc Hồi, Bổi sai lính kiếm rặt thứ sẵn ở nơi thôn giã, chặt tre pheo làm xương, lấy rơm rạ, kết bùn ao đắp lên, làm tấm mộc lớn cho quân sĩ; lại kêu gọi dân chúng quanh vùng, bất kể ai, miễn có lòng, trong đêm tối đốt lửa, gõ mõ, thanh la, chiêng, trống. Quân Thanh trong đồn tưởng quân ta có ức vạn. Hứa Thế Hanh tuy là danh tướng, có đạn to, súng lớn, lại ở trong Ngọc Hồi hào sâu, luỹ cao, nhưng thấy quân ta cứ lừ lừ tiến lên nên lòng người hoảng loạn, dũng khí tan biến. Ngọc Hồi nửa đêm bị san phẳng. Ngọc Hồi mất, Thăng Long như ngôi nhà không cửa. Quang Trung đánh mấy trận nữa, toàn thắng.
Sau khi quét sạch quân Thanh, một đêm Bổi dẫn quân sĩ đi tuần, tới đoạn Chương Dương. Bến vắng, sông sâu. Chợt thấy mặt nước vẳng lên tiếng đàn thống thiết như mời gọi. Lắng nghe, tâm dạ chao động, bồn chồn. Bèn sai lính chèo thuyền ra, tịnh không thấy bóng người. Bên bờ có một thuyền câu, bắt lái thuyền lại hỏi, mới hay trước khi đại phá quân Thanh, đây là chỗ có người con gái tên Huyền Cầm vì nước xả thân rồi hoá ở khúc sông này0.
Thất kinh, đêm ấy Bổi sai quân sĩ sắm lễ, tự mình dâng hương rồi cắm thuyền nghỉ tại đó. Nửa đêm vừa chợp mắt, bỗng nghe trong tiếng nước chảy có tiếng đàn thất huyền cầm như đưa đẩy con thuyền. Nhỏm dậy, thấy trong sương bay khói nước có người con gái, tóc mây mượt mà, làn da, khuôn mặt toả sáng, tươi tốt như hoa cỏ mùa xuân, ôm đàn tủm tỉm cười. Bổi hỏi, người từ đâu tới? Cô gái cất tiếng, đất này của người Nam, sông này của nước Nam, hỏi vậy có vô duyên không? Bổi bối rối, tỏ vẻ biết lỗi, lại xin mỹ nhân đàn nữa. Mỹ nhân nâng đàn, tay mềm lả lướt, ngón ngọc nhẩn nháy cung phím, rung vang trên mặt nước theo gió bay khắp thứ âm nhạc Bổi chưa khi nào từng nghe; cung bổng như tia nắng ban mai, cung trầm như sóng biển thì thầm vỗ, xuyên thẳng tâm can, thấm sâu cả vào lục phủ ngũ tạng. Bổi cảm động, muốn nắm tay mỹ nhân. Nhưng cứ đưa tay ra là cô gái biến mất, lẫn vào sương khói. Với mãi, lỡ chân rơi xuống. Không thấy sông đâu, mắt nhìn vực sâu thăm thẳm. Hoảng sợ cố vùng vẫy, chợt tỉnh giấc mà không rõ hư hay thực. Cảm rõ tiếng đàn lưu luyến ở tâm thức, hương xạ mỹ nhân còn vương vấn đâu đây.
Sau đêm ấy, Bổi thấy bồi hồi, chợt nỗi nhớ quê dâng đầy, da diết. Thân xác như nhẹ không, mọi ham muốn đều thấy tầm thường. Vài ngày sau Bổi từ chối thưởng Quang Trung ban cho, nằng nặc xin lui về làng cũ, lại làm thứ dân.
Sau này có người hỏi: "Ông khó nhọc với nhà Tây Sơn, được yêu thế, đến lúc hưởng phú quý, sao lại về?”. Bổi đáp: "Sinh ra ở Mỗ Tương, gốc là nông dân. Người ta, gốc gác nông phu, trong ly loạn, đa phần thường là liều chết hạng nhất, song thời bình nếu có quyền chức, dù to hay nhỏ, đều tìm cái vui thú, hưởng lạc làm đầu. Tìm mọi sự thỏa mãn tới cùng cực mọi dục vọng là bệnh khó chữa mọi thời đại, là không chỉ mình riêng mình mà còn đưa cả quốc gia đứng bên vực thẳm.
Từ khi ta nghe tiếng đàn bên sông, tự giác ngộ, thấy trên đời này, điều khó nhất, không phải là khám phá, chinh phục thiên hạ. Khó nhất, cần thiết nhất là tự khám phá bản thân. Biết vậy tất bao lo lắng, ưu phiền tự tan biến mà vui sống. Việc quan trường vốn cần nhiều sở đoản, thủ đoạn, luôn phải đối phó, ham hố nó, tức tự chuốc lấy bất an. Người ta ở đời cần vui sống và bình an. Việc lớn nhất, nặng nhọc nhất của một đời người, ta đã trả xong rồi, vinh hoa phú quý vốn là phù vân, lại tựa vào kẻ khác, ắt như loài tầm gửi. Tựa người khác mà sống, muốn là mình cũng khó được là mình. Rốt cuộc, cây đổ thì loài sống nhờ tất chết”.
Quả thực Bổi sống như đã định. Vải chọn thứ mộc, ăn thường dùng thức quê mùa, gặp việc gì, dẫu buồn vui thế nào cũng bình thản ứng xử nên khuôn mặt khi nào cũng an nhiên.
Về làng ông mở lớp dạy học. Cũng không nhiều trò. Có điều là, ai tới xin học đều xem tướng rồi mới nhận. Có người tò mò lại hỏi vì sao, Nguyễn Bổi nói: "Ác – thiện đều hiện ra bản mặt, người thiện đọc mười cuốn sách may sáng thêm ra một điều; kẻ ác đọc một cuốn sách làm thêm mười điều xấu”. Khách hỏi: "Sách vở không thay đổi được bản tính người ư?”. Đáp: "Không! Người vô duyên, chữ nghĩa đầy mình càng thâm hiểm sâu ác. Có duyên, tự giác ngộ. Hình tướng sẽ thay đổi, nên nói tướng cao hơn số!”.
Nguyễn Bổi về già vẫn ham trau dồi kiến thức. Ông không chỉ ham đọc mà còn thăm thú nhiều nơi, học nhiều điều hay ở thiên hạ về khuyến dụ cho dân làng. Mỗ Tương biết nghề làm giấy, nay thêm nghề thêu, khảm nên nhiều người no đủ.
Việc dạy trò, cuối đời ông có thuật dùng tay sờ bài của trò mà biết hay hoặc dở. Có khách, xưa nay vẫn mến mộ ông tới, thắc mắc, hỏi, đọc bằng mắt, sao lại dùng tay rờ? Nguyễn Bổi đáp: "Văn người ta, hay dở là từ khí chất nội tâm. Khí tạo độ đậm nhạt của dòng chữ trên mặt giấy. Kẻ tiểu khí, nông cạn, khi viết không làm chủ được mình, buồn vui bất thường, chữ nghĩa lên xuống, gợn cả trong ngón tay ta”. Lại hỏi, thế nào là hay dở? Nguyễn Bổi vuốt râu, thản nhiên: "Văn chương, đọc mãi, viết mãi cũng thành trơn tru. Đấy mới chỉ như vỏ cây, nước sơn bên ngoài”. Khách lại hỏi: "Có trước thì có sau?”. Nguyễn Bổi rót đầy chén rượu cho khách, khen biết vấn đáp. Nói tiếp: "Viết văn giống đóng thuyền. Thuyền phải nổi trên nước, chở được mới là thuyền.
Vậy trước hết cần đạt! Thuyền cũng có dăm bảy loại. Thứ chỉ để chuyên chở vật nặng, thứ chở người, loại chở trâu bò, chó, ngựa… lại phải theo thế nước, lòng sông nên dài ngắn to nhỏ tất đều khác nhau. Thợ giỏi là kẻ đóng được nhiều loại thuyền. Loại ấy hiếm. Đa phần thiên hạ chỉ giỏi sơn phết, văn thơ tràng giang cũng chỉ một bài, khác chi đóng thuyền một kiểu thì không thể đi cùng khắp sông nước”. Khách cãi: "Thăng Long có nữ sĩ dòng Tân kì nhân nức tiếng làm thơ chỉ vài người hiểu. Cao lương mĩ vị đâu có cho kẻ tầm thường?”. Bổi cười: "Ngụy văn thường lộng ngôn. Thứ văn xảo ngôn lộng chữ cũng là dạng quê mùa biến tướng. Cũng là loại "dĩ cùng tắc biến” mà thôi. Bây giờ khối kẻ ở Thăng Long tự nhận là cây văn nhưng mấy kẻ biết, cây văn hình dáng ra sao? Người làm ra văn khác chi người làm ra thóc, gạo, rau cỏ… Văn chương nên lấy gốc vì người, rễ bám vào đất, nước tất có hồn cốt phong hóa; cành lá sum suê, tán rộng, bao dung được nhiều tầng lớp”.
Khách hỏi: "Xin nói rõ hơn đường văn thế nào?”. Bổi đáp: "Đường văn như đường cày trên mặt ruộng. Nông phu làm ra thóc gạo, nuôi dưỡng con người. Người văn là người dùng chữ mà lay động, dung dưỡng tâm can kẻ khác. Đấy là hay. Muốn thế phải biết đau nỗi đau của đời, vui với hạnh phúc của người, giãi bày ngay thẳng tấm lòng tôi mà hạp với ta, san sẻ được với ta. Chữ nghĩa muốn người tin nên bình nhiên, êm ả chảy. Uốn éo tưởng kỳ khu dụng công là hỏng. Xảo ngôn, mưu mẹo chỉ như anh thợ khéo. Lạm dụng đại ngôn là cái thùng rỗng. Văn chương suy cho cùng, không phải là bao nhiêu chữ, biết bao nhiêu việc. Có khi kiệm lời, nói hết được tâm ý của vài người, vài việc đã là tài. Hay phải như gió lớn, sóng cả lay động, dung dưỡng, an ủi, khích động… được tâm can người. Văn bậc thượng thừa cổ kim đều làm hết thảy mọi tầng lớp cảm động!”. Lại nói, văn chương có ba loại, loại nói tới mà không tới là vất, loại nói tới mà tới là đạt, loại không nói tới mà tới là siêu thặng, tuyệt chiêu trong thiên hạ. Đấy không phải là lời ta”.
Khách lại hỏi, sách thiên hạ vô kể, tiên sinh học thế nào? Nguyễn Bổi bảo: "Khách có cuốn gì không?”. Khách đưa ra cuốn sách mới mang từ Trung Hoa về. Nguyễn tiên sinh điềm nhiên đốt, hoà tro vào rượu đầu be uống cạn. Xong, vuốt bụng ba cái, rồi lựa bút viết ngay một bài thơ, khách thấy toàn là đầu chữ của mỗi chương sách mình mang về. Đọc, thấy rõ lời lẽ dung dị, tao nhã thần tiên, ý tứ gói gọn cả bộ sách vạn chữ nói trên mà không thấy bóng dáng của người ở đâu nữa.
Khách phục lắm. Lui ngay. Không hỏi nữa.
Học trò theo Nguyễn Bổi tới khi ông mất cộng lại chỉ chưa đầy trăm người. Ông thường tuỳ theo tính khí từng người mà khuyên nhủ sự tiến thân. Có người học dăm năm đi thi nghe ông ra làm quan, có kẻ nghe ông về cày ruộng, có kẻ vâng lời về đánh xe ngựa. Tuy chức phận khác nhau nhưng ai ai cũng đủ ăn. Và, quan trọng hơn là tất cả, tự họ đều thấy vui sống và bình an.
Sau Nguyễn Bổi mất. Mộ chẳng xây đắp to cao gì, một đêm mối đùn thành gò cao. Thiêng lắm. Ai có việc gì khó khăn tới cầu, ông cũng ứng mộng, chỉ lối thoát. Trong làng, khách văn dần quên ông, nhưng những phường thợ vẫn nhớ, đóng tiền của, lập miếu thờ, gọi nôm na là miếu Ông Bổi. Hàng năm, các phường giấy, thêu, khảm đều có lễ. Lễ to hay nhỏ tuỳ thời, nhưng bao giờ cũng không thiếu sách mới của thiên hạ để dâng. Những bộ sách được dâng, nếu thực hay, sau lễ hội đều đổ sắc thắm vàng như qua lửa, sách dở, ba ngày tự mục, mủn, tan vụn thành cát bụi.
Vote Điểm :12345