Khi
mở mắt, điều đầu tiên tôi nhận ra là toàn bộ cơ thể không tài nào cử
động được: còng sắt nơi cổ tay, dây xích dưới cổ chân và gông mang trên
cổ.
Mùi ẩm mốc xộc vào hai khoang mũi làm tôi định thần nhìn
lên, nheo nheo mắt. Căn phòng ọp ẹp, tối tăm, chỉ le lói thứ ánh sáng
phát ra từ cây đuốc cắm bên ngoài. Những song sắt rỉ sét xếp thành hình
vuông chỉ đủ rộng để một cánh tay thò ra. Lót dưới sàn là thứ rơm rạ tôi
chưa từng thấy bao giờ, phủ đều hai bên góc tường. Một con chuột chạy
ngang qua làm tôi giật bắn.
Nói tóm lại thì tôi đang ở trong ngục!
"Đừng làm loạn nữa, Bảng à!”
Cùng
hoàn cảnh éo le với tôi là năm người đàn ông đang ngồi xếp bằng, một
già, một trung niên, hai thanh niên và một thiếu niên. Họ quần áo bẩn
thỉu, đầy máu me, tóc tai rối xù. Cậu bạn thiếu niên ngồi cạnh tôi ngay
bên trái mắt đỏ hoe, từng giọt lệ rơi xuống, nhỏ tí tách lên thanh gông
gỗ.
Bối rối và hốt hoảng trước cảnh tượng ấy, tôi ngước nhìn
sang cụ ông, người duy nhất đang khoác lên mình khí chất bình thản. Ông
ngồi xếp bằng, dáng vẻ như một ông bụt trong truyện cổ tích, hoặc là vị
đạo sĩ nào đó đang ẩn mình ngồi thiền trên núi với tà áo trắng, râu tóc
bạc phơ và khuôn mặt hiền hậu. Trong sạch và thanh cao, đầu tôi bỗng
hiện lên hai chữ đầy cảm thán, ông không nên thuộc về nơi này!
Nhưng
một khi đã nhìn xuyên qua được cái dáng hình thản nhiên, vô lo vô nghĩa
kia, tôi bỗng chợt nhận ra rằng trong đôi mắt gần như trống rỗng ấy của
ông đầy vẻ cam chịu, phảng phất chút gì đó là sự hối tiếc. Dường như
cảm nhận được ánh nhìn dò hỏi, ông quay qua phía tôi:
"Ta biết
con trách ta, con trai,” ông thở ra, "Ta cũng hối đã không nghe lời của
Hoàng Phúc. Mọi sự đã xảy ra như thế, rằng ý trời đã đoạt. Dòng họ chúng
ta trong sạch hay không, cũng chỉ có ơn trên và tiên đế mới tỏ tường.”
Tôi định đi tới an ủi ông, dù cặp dây xích dưới mắt cá chân không cho phép.
"Đau đớn thay,” ông tiếp tục thì thào, "hàng trăm sinh mạng chỉ vì ta mà liên lụy, lại là máu thịt của ta…”
Lúc
này tôi mới chịu khó lắng tai nghe, quả thật có tiếng khóc của phụ nữ
và trẻ em vang vọng đâu đây. Kèm theo đó là tiếng lính gác mắng chửi.
"Câm họng hết đi! Chết đến nơi rồi mà còn to mồm!”.
Đây
là đâu? Vào cái thời đại nào thế này? Tôi muốn hét lên. Sao lại có thể
đối xử tàn nhẫn với con người như vậy? Công lý trong thùng rác hết rồi
ư?
"Cha à,” cậu bạn thiếu niên bên cạnh lên tiếng, "còn dì Mẫn…”
"Cha
chỉ hi vọng Thị Mẫn đã trốn ra khỏi thành,” cụ ông, à nhầm, "cha” của
tôi trả lời khẽ, giọng không giấu vẻ lo lắng, "Thái hậu đang cho người
truy lùng ráo riết những phụ nữ có mang trong và ngoài Đông Kinh, ta chi
e…”
Câu nói bỏ lửng của ông làm căn ngục u ám nay trở nên lạnh
lẽo. Dù số phận của người phụ nữ ấy như thế nào, chắc chắn sẽ vô cùng
khó khăn trong thời gian tới. Cậu thiếu niên bên cạnh đổ sụm người
xuống, làm cái gông trên cổ như kéo lê luôn cả phần thân trên của cậu.
Tôi bất giác ý thức đến tình trạng không mấy khả quan hơn của mình.
Trời
đất ơi, định mệnh ơi, làm sao bây giờ, tôi không kiềm chế được mà khẽ
rên lên, Mình đã làm gì mà mắc phải tội chết thế này? Làm cách nào để
thoát khỏi đây trước khi...
Tiếng bước chân từ xa đi tới.
Huỳnh huỵch, huỳnh huỵch.
Lào xào, lạt xạt.
Bình bịch, bình bịch, bình bịch...
Theo
sau là tiếng đạp gót khoan thai của ủng vải lên cỏ rơm, kèm theo tiếng
khóc oà lên từ các buồng giam bên cạnh. Mọi người trong căn ngục đều
ngước nhìn lên, cảnh giác. Nhưng cũng có người dường như đã biết, rằng
thời gian của mình sắp kết thúc. "Cha" tôi nhắm nghiền đôi mắt, sỏi đời,
mệt mỏi và u buồn như chính tâm trạng của ông lúc này. Một giọt lệ rơi
xuống, lặng lẽ từ khoé mắt, như thể ông đang đứng trước bài vị của chính
mình và của cả gia tộc.
Ông nhìn thẳng vào mắt tôi. Biết bao
điều chưa thể nói, biết bao nhiêu việc chưa thể làm. Tất cả những giọt
nước mắt cay đắng nhất sẽ rơi xuống cho những người thân yêu vô tội này.
"Thánh chỉ đến!” giọng run rẩy của một viên quan phá tan bầu không khí ảm đạm. "Tất cả quỳ xuống!”
Tôi bất giác khịt mũi. Ông quan à, phải chăng ông có vấn đề về thần kinh? Trói gô người ta như thế này thì làm sao mà quỳ?
"Thừa
thiên hưng vận, hoàng thái hậu chế viết,” tên quan tiếp tục, giọng đã
lấy lại sự bình tĩnh, "Lễ nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ một thân gian xảo,
lựa chọn thời cơ, ngày 4 tháng 8 đợi tiên đế Thái Tông đến Lệ Chi Viên
rồi ám hại, đầu độc người đến tử vong. Là chủ mưu sự việc. Hành khiển
Nguyễn Trãi thân nhận ân đức như trời biển của tiên đế, được người tin
dùng, lại cùng thiếp âm mưu sát hại hoàng đế. Là đồng phạm sự việc. Nay
chứng cớ đã rõ, tội đã nhận, Nguyễn Thị Lộ và Nguyễn Trãi đã bị kết án,
tam tộc tru di...”
Tôi lặng người tiếp nhận thông tin từ thánh chỉ. Nguyễn Trãi? Nguyễn Thị Lộ? Lệ Chi Viên? Thái Tông đế?
"Hôm
nay, ngày 16 tháng 8 năm Nhâm Tuất, lập tức cho thi hành án! Khâm thử!”
Nói rồi giọng eo éo của hắn liền đanh lại. "Người đâu?”
Binh
lính bỗng từ đâu tràn vào căn ngục, lôi kéo từng người ra ngoài. Tôi bị
một tên to con thô bạo xốc lên, nhưng người vừa đứng dậy đã run rẩy, hai
chân không vững nên đã bị ngã nhào, trán đập vào song sắt, rên lên hai
tiếng thảm thuơng.
Quãng đường đi khỏi ngục, lướt nhìn thấy những
khuôn mặt khốn khổ của từng người, từng người tử tù bị lôi ra ngoài,
tâm trí tôi có cảm giác như muốn nổ tung bởi những thứ cảm xúc khó gọi
tên, những ý nghĩ nghuệch ngoạc và trừu tượng. Đúng, tôi biết mình sắp
chết. Tôi biết họ, những người đàn ông, phụ nữ và trẻ em vô tội cũng sắp
chết.
Lần đầu tiên trong đời, tôi cảm thấy hoàn toàn bất lực.
Cay cú, giận dữ và kinh tởm...
Buồn bã, đau đớn và xót thương...
Đời có bao giờ là công bằng?
Chết có phải là hết?
Tôi có sợ không? Có chứ! Sợ lắm!
Sợ cho ai? Sợ cho tôi, hay cho những tù nhân kia nữa.
Quá
nhiều ước mơ, quá nhiều hoài bão, tất cả đều sẽ bị chôn vùi cùng vị vua
Thái Tông kia. Sinh mạng một con người thật là rẻ rúng quá!
Xiềng
xích còn đó, bọn tôi bị nhốt vào một cái cũi bằng gỗ, được gắn vào một
chiếc xe ngựa. Xe bắt đầu chạy, chầm chậm. Chạy qua những ngôi nhà lát
ngói đỏ trong kinh thành. Chạy ngang những người dân đang hiếu kì đứng
hai bên đường, bàn tán, khóc lóc, và cả xỉ vả. Chạy dọc những con đường
đất thẳng tắp, rồi uốn lượn.
Chạy đến nơi bị hành hình.
Đến
khu vực gần bờ sông, xe ngựa chở phụ nữ và trẻ em bỗng nhiên dừng lại.
Trước sự kinh hoàng của tôi và mọi người, họ bị đẩy vào chiếc cũi bằng
sắt và bị dìm xuống dòng nước siết. Tiếng la hét thảm thiết lại vang
lên. Trẻ em khóc đến nức nở. Con khóc mẹ, cháu khóc dì. Tim tôi bị bóp
nghẹt.
"Không...KHÔNG! ĐỪNG MÀ! MAU DỪNG XE LẠI!”
Trong
đám người chỉ có tôi là vùng dậy, hai tay siết chặt thanh củi mà hét
lên, những tiếng hét mà tôi biết là hoàn toàn vô nghĩa.
"KHÔNG!!!”
Xe
tiếp tục chạy, đều đều. Nếu không có hai chiếc còng trên tay, chắc chắn
tôi sẽ đấm gãy cũi gỗ mà nhảy ra ngoài. Chưa kịp làm gì thì tên lính đã
đâm cây thương vào đùi tôi.
"Câm họng!”
Điều đó không hề
làm tôi e sợ, chỉ khiến cơn lửa giận bùng lên, phừng phực ngọn lửa của
công lý. Tôi nghiến răng chịu đau, gào lên thật to:
"Một lũ vô
nhân tính các ngươi,” sau đó đôi chân phản chủ liền sụm xuống. Bất lực,
tôi đành phải thì thầm với bản thân, "Nguyễn Bảng ta thề, thề với trời
đất, thề với tổ tiên, thề với các vị tiên đế, một ngày nào đó gia tộc họ
Nguyễn này sẽ được minh oan. Ta thề, chính mình sẽ là người đem lại
trong sạch cho dòng họ, để tiếng thơm cho cha ta, mẹ ta, anh em ta. Nếu
không, Nguyễn Bảng này sẽ chẳng bao giờ được yên giấc.”
Tôi đang nói cái gì thế? Cái đó là Nguyễn Bảng nói, hay là chính tôi đã nói? Phải chăng tôi chính là Nguyễn Bảng?
Không! Tôi không phải là Nguyễn Bảng! Nguyễn Trãi cũng không phải là cha tôi. Những chuyện này không có thật!
Sai
lầm! Cánh tay lôi tôi ra khỏi củi rất thật. Vết thương trên đùi đang
chảy máu đầm đìa cũng rất thật. Tên đao phủ bịt mặt đang đứng trên đài
cao lại càng rất thật.
Không! Không thể! Tôi không thể chết lúc này được!
Dù
chống cự quyết liệt, tôi vẫn bị lôi lên đài, ấn người quỳ xuống, đầu
gối đập lên sàn, cổ kề sát vào thanh thớt gỗ. Lúc này, cái chết đang cận
kề, thay vì đầu óc mụ đi vì kinh hãi, tôi lại tỉnh như sáo.
Và điều đó còn khiến tôi kinh hãi hơn gấp trăm ngàn lần.
Tôi
nhìn ra được vết rỉ sét trên thanh đao sáng loáng, nghe được tiếng gió
gửi về từ núi rừng, ngửi được mùi máu tanh tưởi, cảm nhận được sự thô
ráp của bộ đồ tù bằng vải lanh, và nếm được vị mặn chát của dòng nước
mắt đang chảy ra.
"Ta thề...”
Đó là câu nói cuối cùng của tôi, trước khi lưỡi đao kịp giáng xuống...