Tên
tôi, vào những ngày ấy, là Susan Trinder. Mọi người gọi tôi là Sue. Tôi
biết năm sinh của mình, nhưng trong suốt nhiều năm không được biết ngày
tháng, bèn chọn sinh nhật vào lễ Giáng sinh. Tôi tin mình là trẻ mồ
côi. Tôi biết mẹ của mình đã chết. Tôi chưa bao giờ thấy bà, nên bà
chẳng là gì với tôi cả. Nếu phải là ai đó, thì tôi là một đứa trẻ của bà
Suckby. Nói về cha, tôi có ông Ibbs – người thợ khoá có cửa hàng ở phố
Lant, Borough, gần sông Thames. Đây là lần đầu tiên tôi nhớ việc mình đã suy nghĩ về thế giới và vị trí của bản thân.
Một
con bé tên Flora trả bà Suckby một penny để dẫn tôi đi ăn xin tại một
vở kịch. Dạo đó người ta từng thích dẫn tôi đi ăn xin vì tôi có mái tóc
sáng màu. Flora cũng khá trắng trẻo, thế là con bé cho tôi vào vai em
gái. Rạp mà cô ấy dẫn tôi đến – vào cái đêm mà lúc này tôi đang nghĩ tới
– là Surrey, rạp xiếc của St George. Vở Oliver Twist. Tôi có ấn tượng
rất kinh khủng về nó. Tôi nhớ độ nghiêng của rạp diễn, dốc xuống tận
sàn. Một người phụ nữ say khướt tóm lấy các chiếc nơ trên váy tôi. Những
tia sáng rực rỡ khiến sàn diễn lung linh hào nhoáng, tiếng gầm của diễn
viên, tiếng rú rít của khán giả. Có cả một nhân vật đội tóc giả màu đỏ
và đeo râu quai nón, lúc đó tôi đoan chắc hắn ta là một con khỉ mặc áo
khoác, bởi hắn nhảy nhót hệt như thế. Nhưng tệ hơn là con chó mắt đỏ cứ
gầm gừ luôn miệng. Tệ hơn hết thảy nữa là chủ con chó – Bill Sykes, gã
ma cô. Khi ông ta đánh cô gái Nancy đáng thương bằng dùi cui, tất cả mọi
người từ hàng ghế của tôi trở xuống đều đứng dậy. Một chiếc giày bốt bị
ném lên sân khấu. Một người phụ nữ cạnh tôi thét lên,
"Ôi, đồ quái vật! Đồ du côn! Cô gái đáng giá bốn chục thằng côn đồ như ngươi!”
Không
biết do việc mọi người đứng dậy – khiến phòng diễn dường như nhấp nhô
nghiêng ngả, do tiếng la hét của người phụ nữ, hay do cảnh tượng Nancy
nằm xụi lơ, trắng xác dưới chân Bill Sykes, nhưng tôi bị tóm chặt bởi
cơn kinh hãi tột độ. Tôi tưởng tất cả sắp bị giết. Bèn bắt đầu hét lên.
Flora không thể bắt tôi im lặng được. Và khi người phụ nữ đã la lớn nọ
đặt cánh tay lên tôi, mỉm cười, tôi càng hét to hơn. Rồi Flora bắt đầu
khóc – con bé mới chỉ mười hai hay mười ba tuổi, tôi đoán vậy. Con bé
dẫn tôi về nhà, bị bà Sucksby tát vào mặt.
"Mày nghĩ cái gì vậy
hả, mà lại dẫn con bé đến đó?” Bà nói. "Lẽ ra mày nên ngồi với con bé
trên bậc. Tao không cho thuê đám nhóc để chúng bị dẫn về như thế này,
xanh cả mặt vì khóc. Mày đang chơi trò gì vậy hả?”
Bà đặt tôi lên
đùi, tôi lại khóc thút thít. "Ngoan nào, cừu con của ta,” bà nói. Flora
đứng trước mặt bà, không nói gì, kéo kéo một lọn tóc nơi chiếc má đỏ
hoe. Bà Sucksby khi giận dữ chẳng khác nào quỷ sa tăng. Bà nhìn Flora,
nhịp bàn chân xỏ dép lên thảm, cứ thế đung đưa trên ghế – một chiếc ghế
gỗ kêu cọt kẹt mà ngoài bà ra không còn ai khác ngồi – và vỗ bàn tay
dày, cứng lên chiếc lưng run rẩy của tôi. Rồi thì,
"Ta biết cái
mánh mung nho nhỏ của mày,” bà lẳng lặng nói. Bà biết tất tần tật mánh
mung của mọi người. "Mày lấy được gì hả? Hai cái khăn tay phải không?
Hai cái khăn tay, và túi xách của một quý bà?”
Flora kéo lọn tóc vào miệng, cắn. "Một túi xách,” chốc sau nó nói. "Và một chai nước thơm.”
"Lấy
ra coi,” bà Sucksby nói, chìa tay ra. Mặt Flora tối sầm. Nhưng nó đưa
ngón tay đến một vệt rách ở eo váy, thò vào trong. Bạn có thể hình dung
sự ngạc nhiên của tôi khi vệt rách hoá ra hoàn toàn không phải một vệt
rách, mà là miệng của một chiếc túi lụa nhỏ được đính vào bên trong váy.
Nó lấy ra một túi vải đen nhỏ, một cái chai với nút đậy trên một sợi
dây bạc. Trong túi vải có một đồng ba mươi xu và nửa hạt nhục đậu khấu.
Chắc nó lấy được từ người đàn bà say đã túm váy của tôi. Cái chai đã bị
mở nắp, có mùi hoa hồng. Bà Sucksby hít hít.
"Xoàng xĩnh quá,” bà nói, "phải không?”
Flora hất đầu. "Lẽ ra con còn lấy được nhiều hơn,” nó nói, liếc nhìn tôi, "nếu nó không mở mồm ré toáng lên.”
Bà Sucksby vươn tới đánh nó cái nữa.
"Ta
mà biết mày như thế,” bà nói, "thì mày sẽ chẳng có được gì đâu. Giờ để
ta nói cho mà biết: nếu muốn một đứa nhóc để lên mặt kẻ cả, thì chọn đứa
nào khác của tao đi. Đừng có chọn Sue. Có nghe không hả?”
Flora
sưng sỉa, nhưng bảo rằng nó sẽ làm vậy. Bà Sucksby nói, "Tốt. Giờ thì
biến đi. Và để mấy thứ thó được lại, không thì ta sẽ nói với mẹ mày là
mày đi với đàn ông đấy.”
Rồi bà đem tôi về giường của bà – trước
tiên, dùng tay cọ xát tấm trải để chúng ấm lên, cúi xuống thở vào ngón
tay tôi để tôi được ấm. Tôi là đứa duy nhất trong số tất cả bọn trẻ được
bà làm thế này. Bà nói, "Giờ con không sợ chứ, Sue?”
Nhưng tôi
còn sợ, bèn trả lời như thế. Tôi nói mình sợ bị lão ma cô tìm thấy, bị
lão dùng gậy đánh. Bà nói đã từng nghe nhắc đến chính cái lão ma cô ấy,
rằng hắn chỉ huênh hoang thôi.
"Là Bill Sykes đúng không? Biết
sao không, hắn là người vùng Clerkenwell. Hắn không gây sự với người
vùng Borough đâu. Những anh chàng ở Borough quá khó chơi đối với hắn.”
Tôi nói, "Ôi, nhưng, bà Sucksby! Bà đâu có thấy Nancy đáng thương và cách hắn đánh cô ấy quỵ xuống rồi giết chết cô ấy!”
"Giết
chết hả?” Bà nói. "Nancy ấy hả? Đâu có, mới một giờ trước cô gái còn ở
đây với ta mà. Chỉ bị đánh trên mặt một chút thôi. Bây giờ tóc của cô ta
được uốn khác đi rồi, con sẽ không còn nhận ra lão kia từng chạm tay
vào cô ấy đâu.”
Tôi nói, "Nhưng lão ta sẽ không đánh cô ấy nữa chứ?”
Bà
bèn nói với tôi rằng Nancy cuối cùng đã ngộ ra và rời bỏ hoàn toàn Bill
Sykes rồi, rằng cô ấy đã gặp một anh chàng tốt ở Wapping, anh chàng này
đã sắp đặt cho cô gái làm ở một cửa hàng nhỏ bán chuột đường và thuốc
lá.
Bà vén tóc quanh cổ tôi, vuốt thẳng dọc trên gối. Tóc của
tôi, như đã nói, bấy giờ rất sáng màu – mặc dù khi tôi lớn nó trở thành
màu nâu đơn giản – và bà Sucksby từng gội nó bằng giấm, chải đến khi nó
sáng bóng lên. Giờ khi đã vuốt phẳng tóc tôi, bà nhấc một sợi lên chạm
vào môi, và nói, "Nếu Flora định lên mặt với con lần nữa, nói cho ta
biết, được chứ?”
Tôi vâng dạ. "Ngoan lắm,” bà nói, rồi đi khỏi.
Bà đem cây nến đi luôn, nhưng để cửa mở hờ. Tấm vải nơi cửa sổ làm bằng
ren, đèn đường có thể chiếu qua. Ở đây không bao giờ quá tối, cũng không
bao giờ quá tĩnh. Tầng trên là hai căn phòng mà bọn trẻ ở, cả nam lẫn
nữ. Chúng cười, thụi nhau, đánh rớt những đồng xu, đôi khi nhảy múa nữa.
Bên trên bức tường là nơi em gái của ông Ibbs nằm, bà bị giữ trên
giường vì thường tỉnh giấc trong cơn hoảng loạn, la hét ầm ĩ. Và khắp
căn nhà – nằm xếp lớp trong các nôi như cá trích nằm trong hộp muối – là
bọn trẻ nhỏ của bà Sucksby. Bất cứ lúc nào trong đêm chúng cũng có thể
cất tiếng khóc, thút thít hoặc nức nở. Điều vặt vãnh gì cũng có thể kích
động chúng được. Rồi thì bà Sucksby sẽ đi ở giữa chúng, chuốc rượu cho
chúng từ một chai gin bằng chiếc thìa bạc nhỏ – có thể nghe được tiếng
lanh canh khi nó chạm vào thuỷ tinh.
Nhưng tối nay, tôi nghĩ
những phòng bên trên chắc không có ai, và em gái ông Ibbs rất yên lặng.
Có lẽ vì yên lặng nên bọn trẻ cứ thế mà ngủ. Đã quen với tiếng ồn, tôi
nằm đó thao thức. Tôi nằm, lại nghĩ về gã Bill Sykes tàn ác, về Nancy
chết dưới chân gã. Từ căn nhà nào đó gần bên có tiếng một người đàn ông
chửi rủa. Rồi chuông nhà thờ kêu báo giờ – tiếng hoà âm vọng một cách
khả nghi qua những con phố đầy gió. Tôi tự hỏi nơi má bị tát của Flora
còn đau hay không. Tự hỏi Borough gần Clerkenwell nhường nào, và quãng
đường đi có vẻ nhanh ra sao đối với một người đàn ông mang gậy.
Ngay
từ dạo đó tôi đã có trí tưởng tượng bay bổng. Khi trên phố Lant có
tiếng bước chân ngừng lại bên ngoài cửa sổ, theo sau là tiếng chó kêu ư
ử, tiếng cào móng của nó, tiếng xoay tay nắm đầy thận trọng nơi cửa quầy
hàng của chúng tôi, thì tôi bật dậy khỏi gối, thiếu điều hét toáng lên –
ngoại trừ việc trước khi tôi kịp làm vậy thì con chó sủa một tiếng,
tiếng sủa gây sự chú ý, tôi biết nó thì phải. Không phải con quái vật
mắt hồng từ rạp diễn, mà là con chó của chúng tôi, Jack. Nó có thể chiến
đấu rất quả cảm. Rồi một tiếng huýt sáo. Bill Sykes không bao giờ huýt
sáo được ngọt đến vậy. Là đôi môi của ông Ibss. Ông ấy đã ra ngoài mua
bánh put-đing thịt nóng cho bữa khuya của ông và bà Sucksby.
"Được rồi.” Tôi nghe giọng của ông. "Ngửi nước xốt thịt này…”
Rồi
giọng ông biến thành tiếng thì thào, tôi nằm trở xuống. Nên nói rằng
lúc bấy giờ tôi khoảng năm hay sáu tuổi. Nhưng tôi vẫn nhớ rất rõ. Tôi
nhớ những lần nói dối, những khi nghe tiếng dao nĩa, đồ sứ, tiếng thở
dài của bà Sucksby, âm thanh kẽo kẹt từ chiếc ghế của bà, tiếng bà nện
đôi dép đi trong nhà lên sàn. Tôi nhớ cả việc trông thấy – trước đó tôi
chưa từng được thấy – những gì tạo nên thế giới: có những gã Bill Sykes
xấu xa, những ông Ibbs tốt bụng, những cô Nancy, có thể ở trong tình
trạng tốt hoặc xấu. Tôi nghĩ đến việc đáng mừng nhường nào khi mình đã ở
hoàn cảnh mà cuối cùng Nancy đạt đến – ý tôi là, tình trạng tốt, nơi có
chuột đường.
Chỉ đến nhiều năm sau đó, khi được xem Oliver Twist
lần thứ hai, tôi mới hiểu rằng cuối cùng Nancy chắc chắn đã bị giết.
Vào bấy giờ, Flora đã là một đứa khua khoắng rất khá. Surrey chẳng là gì
với nó, nó hành sự ở các nhà hát tại West End, các hội trường – nó có
thể luồn lách như chạch xuyên qua đám đông. Nhưng nó không bao giờ đem
tôi đi cùng nữa. Nó cũng như mọi người, quá sợ bà Sucksby.
Cuối cùng nó cũng bị bắt, thật đáng thương, với hai tay ngay trên vòng xuyến của một quý bà. Nó bị đi đày vì tội ăn trộm.
Ở
phố Lant, tất cả mọi người đều ít nhiều là những kẻ trộm. Nhưng riêng
chúng tôi là kiểu trộm thà xuôi theo những trò tinh quái hơn là tạo ra
chúng. Nếu tôi đã từng trố mắt khi trông thấy Flora thò tay vào vết rách
trong váy và lấy ra một cái túi xách cùng nước hoa, thì kể từ đó tôi
không còn ngạc nhiên đến vậy nữa. Vì nếu một ngày không có ai đến cửa
hàng của ông Ibbs với túi xách hay một gói thuốc dưới viền áo khoác,
trong nón, trong tay áo hay bít tất, thì ngày đó sẽ cực kỳ tẻ nhạt.
"Ổn chứ, ông Ibbs?” Anh chàng sẽ nói.
"Ổn, con trai à,” ông Ibbs trả lời. Ông ấy dường nói bằng giọng mũi nhiều hơn, như thế đấy. "Cậu biết gì nào?”
"Không nhiều.”
"Có gì cho tôi không?”
Anh chàng nháy mắt. "Có mấy thứ, ông Ibbs à, rất nóng sốt và khác lạ…”
Họ
luôn nói như vậy, hoặc điều gì đó tương tự. Ông Ibbs sẽ gật đầu, rồi
kéo tấm màn che trên cửa của cửa hàng, xoay chìa khoá – ông là một người
cẩn trọng, không bao giờ xem các đồ thó được cạnh cửa sổ. Phía sau quầy
là một tấm rèm vải len xanh lục, đằng sau có một lối đi nối thẳng tới
bếp. Nếu tên trộm nằm trong số những người ông biết, ông sẽ dẫn lại bàn.
"Nào, con trai,” ông nói. "Không phải với ai ta cũng làm thế này đâu.
Nhưng con thì nhẵn mặt quá rồi – chà, ta coi con như người nhà ấy chứ.”
Rồi thì ông sẽ bảo người kia đặt các thứ ra giữa các cốc tách lẫn vỏ
bánh mì và muỗng trà.
Bà Sucksby có thể đang ở đó đút cháo cho một đứa bé. Tay trộm trông thấy bà, bèn bỏ mũ ra.
"Khoẻ chứ, bà Sucksby?”
"Tôi khoẻ, cậu trai à.”
"Khoẻ chứ, Sue? Lớn quá rồi!”
Tôi
đánh giá họ còn cao hơn mấy người làm ảo thuật. Bởi từ áo khoác và ống
tay áo, họ lấy ra nào sổ tay, khăn tay lụa, đồng hồ, thậm chí cả đồ
trang sức, đĩa bạc, đế nến bằng đồng, thỉnh thoảng cả váy lót – nguyên
bộ. "Chất lượng lắm đấy, thật đấy,” họ nói trong lúc đặt tất cả chúng
xuống, còn ông Ibbs thì xoa tay, vẻ đầy trông đợi. Nhưng rồi ông sẽ săm
soi chiến lợi phẩm của họ, mặt chảy dài. Ông là một người trông rất hoà
nhã, nhìn có vẻ rất thật thà – má rất trắng, môi rõ nét, có râu quai
nón. Mặt ông chảy dài xuống, có thể khiến bạn đau lòng vô cùng.
"Toàn
giẻ rách,” ông lắc đầu nói, chọc vào một tờ tiền giấy. "Rất khó tiêu
thụ.” Hoặc, "Đế nến. Mới tuần rồi ta có cả tá đế nến thượng hạng từ một
thằng trộm vặt ở Whitehall. Chẳng thể làm gì với chúng hết. Chẳng thể
đem cho đi đâu.”
Ông đứng dậy, vờ vịt so đo tính giá, nhưng trông
như thể không dám nói ra với anh chàng vì sợ xúc phạm cậu ta. Rồi ông
sẽ đưa giá đề nghị, và tay trộm tỏ ra phẫn nộ.
"Ông Ibbs,” cậu ta nói, "nhiêu đó không đủ để trả công tôi đi bộ từ cầu Luân Đôn đến đây đâu. Giờ thì, công bằng đi.”
Nhưng
vào lúc đó thì ông Ibbs đã đi lại chỗ chiếc hộp của mình, đếm những
đồng shi-ling trên bàn: một, hai, ba – ông có thể ngừng lại cùng đồng
thứ tư trên tay. Tay trộm sẽ trông thấy ánh sáng của bạc – ông Ibbs luôn
giữ những đồng xu của mình được cọ bóng loáng chỉ vì lý do này –thật
chẳng khác mỡ treo miệng mèo.
"Năm đồng luôn đi, được không ông Ibbs?”
Ông Ibbs sẽ ngước khuôn mặt thật thà lên, nhún vai.
"Ta
muốn lắm, con trai. Thật sự muốn vô cùng. Nếu con mang tới thứ gì tuyệt
hảo, ta sẽ để tiền của mình đáp lại. Nhưng mà, với thứ này–” Ông vẫy
tay phía trên đống lụa, giấy tờ hay chỗ đồ đồng phát ra dăm tia sáng,
"thứ này thật quá bèo bọt. Đưa thêm thì chẳng khác gì ta tự cướp của
mình. Chẳng khác gì ta cướp thức ăn trên miệng đám trẻ của bà Sucksby.”
Và ông sẽ đưa cho tay trộm những đồng shi-ling của hắn, hắn sẽ cho vào túi, cài nút áo khoác, ho và quệt mũi.
Tiếp
theo, ông Ibbs có vẻ đổi ý một chút. Ông lại bước về phía chiếc hộp của
mình, "Sáng này có ăn gì chưa, con trai?” Ông hỏi. Tên trộm luôn luôn
trả lời, "Chả có lấy một vụn bánh mì.” Ông Ibbs sẽ đưa hắn sáu xu, bắt
hắn cam đoan dùng để mua bữa sáng, đừng đem đi cá ngựa. Tên trộm sẽ nói
điều gì đó đại loại như,
"Ông thật hào phóng, ông Ibbs, lúc nào cũng vậy.”
Với
mỗi người như thế, ông Ibbs có được lợi nhuận mười đến mười hai
shi-ling. Tất cả, từ đầu tới cuối, đều có vẻ trung thực, công bằng. Bởi
vì, dĩ nhiên, những gì ông nói về đám giẻ rách hoặc đế nến toàn là bố
láo. Ông biết đá biết vàng, thế đấy. Khi tên trộm đã đi khỏi, ông bắt
gặp ánh nhìn của tôi, và nháy mắt. Ông xoa tay, trở nên linh hoạt.
"Nào,
Sue,” ông nói, "con có muốn mang một miếng vải lại đây để đánh ra vàng
không? Rồi con có thể – nếu con có thời gian, bé yêu, và bà Sucksby
không có việc cần đến con – con có thể thực hiện thử một công việc thú
vị với đám giẻ này. Một chút thôi, nhẹ nhàng, với kéo và đinh ghim của
con, đây là vải gai mịn đấy – con thấy không, bé yêu? Xé ra, nếu con
giằng mạnh quá…”
Tôi tin mình đã học được bảng chữ cái theo cách
đó: không phải bằng việc đặt các ký tự xuống, mà là tách chúng ra. Tôi
biết rằng đã học được hình dạng tên của mình từ một chiếc khăn tay có ký
hiệu Susan. Đối với việc đọc nói chung, chúng tôi không bao giờ màng
tới. Bà Sucksby sẽ đọc nếu cần thiết, bà biết đọc, cả viết nữa. Nhưng
với những người còn lại thì điều đó giống như là – chà, tôi sẽ nói là
giống như nói tiếng Do Thái cổ hay khai trương một cái nhà hàng. Bạn có
thể thấy được lợi ích của nó đối với người Do Thái hay kẻ diễn trò đu
bay. Nhưng dù việc đó có lợi cho họ, cũng có cớ gì lợi lộc cho chúng ta
đâu?
Dù sao thì đó là điều tôi nghĩ bấy giờ. Tuy vậy, tôi có học
cách tính từ việc quản những đồng xu. Chúng tôi giữ những đồng còn tốt,
tất nhiên. Những đồng xu xấu sẽ quá bóng sáng nên cần phải làm cho dơ đi
chút ít trước khi trao tay cho người khác. Tôi đã học được điều đó. Với
lụa và vải lanh, có những cách giặt giũ, là ủi để khiến chúng trông như
mới. Với đá quý, tôi đánh bóng với giấm nguyên chất. Với đĩa bạc đã ăn
sạch thức ăn bên trên – chỉ một lần như vậy, vì sẽ dính vụn bánh và vệt
thức ăn – thì khi đã ăn xong, ông Ibbs sẽ lấy những tách, chén để nung
chúng thành thỏi. Vàng và thiếc cũng vậy. Ông không bao giờ mạo hiểm,
chính vì vậy mà ông rất giỏi. Mọi thứ đi vào bếp của chúng tôi sẽ được
xử lý để khi ra khỏi đây, nó trông như một thứ khác. Và dù đi vào bằng
cửa trước – cửa vào cửa hàng, lối trên phố Lant – chúng sẽ rời khỏi đây
bằng đường khác. Cửa sau. Ở đó chẳng có con phố nào cả. Chỉ có một lối
đi nhỏ được nguỵ trang và một hàng hiên nhỏ, tối. Nếu đứng ở đó, bạn có
thể cảm thấy bị mắc kẹt, nhưng thực ra có đường, nếu bạn biết cách quan
sát. Nó dẫn vào một ngõ hẻm quanh co, tối om, chạy đến chỗ uốn cong của
làn đường sắt. Từ một trong những chỗ uốn đó – dù có thể, nhưng tôi sẽ
không nói rõ chỗ nào – dẫn đến một ngõ khác tối hơn dẫn ra sông, rất
nhanh và kín đáo. Ở đó chúng tôi quen hai, ba người giữ thuyền. Thực ra,
các chiến hữu của chúng tôi sống dọc theo con đường quanh co đó – các
cháu trai ông Ibbs, những người tôi xem như anh em họ. Chúng tôi có thể
gửi chiến lợi phẩm từ bếp của mình đến bất kỳ ai trong số họ để các thứ
đó đi tới mọi nơi ở Luân Đôn. Chúng tôi có thể chuyển đi mọi thứ, bất kỳ
cái gì, với tốc độ có thể làm bạn kinh ngạc. Chúng tôi có thể vận
chuyển băng đá, giữa tháng tám, trước khi một phần tư khối đó có cơ hội
tan thành nước. Chúng tôi có thể vận chuyển cả ánh mặt trời mùa hè – nếu
ông Ibbs tìm được người mua.
Nói ngắn gọn, không có nhiều thứ
được đem đến nhà chúng tôi mà lại không bị đem ra khỏi đó, khá nhanh
gọn. Thực ra chỉ có duy nhất một thứ được đem đến và kẹt lại – một thứ,
bằng cách nào đó, đã chống lại được sức kéo mãnh liệt của dòng cuốn
chiến lợi phẩm – một thứ mà ông Ibbs và bà Sucksby có vẻ không bao giờ
nghĩ đến chuyện đặt giá.
Hiển nhiên, đó là tôi.
Tôi phải
cảm ơn mẹ mình về việc đó. Câu chuyện của bà thật bi thảm. Bà đến phố
Lant vào một đêm năm 1844. Bà đã đến, "to lùm lùm, bé yêu, cùng với
con,” bà Sucksby nói – mãi cho đến khi biết nhiều hơn, tôi cứ cho rằng
bà có ý nói rằng mẹ đã mang tôi đến, hẳn là nhét trong chiếc túi phía
trong váy hoặc khâu vào mép áo khoác. Theo tầm hiểu biết của tôi, bà là
một tay trộm. "Một kẻ trộm đáng gờm!” Bà Sucksby nói. "Rất bạo dạn! Và
bảnh nữa!”
"Bà Sucksby, bà ấy, bà ấy có trắng không?”
"Trắng
hơn con, nhưng khuôn mặt, cũng như con, sắc sảo, và mảnh khảnh hệt một
tờ giấy. Chúng ta đưa bà ấy lên gác. Chẳng ai biết bà ấy ở đó, ngoại trừ
ta và ông Ibbs – vì bà ấy nói mình bị cảnh sát của bốn vùng truy nã.
Nếu họ bắt được, bà ấy sẽ tiêu tùng. Bà ấy đã làm cái gì chứ? Bà ấy nói
mình chỉ huênh hoang chút thôi. Ta thì cho là nó phải tệ hơn cơ. Ta biết
bà ấy rắn như thép, vì bà ấy có con, và ta dám thề, bà ấy không bao giờ
lầm rầm – cũng không bao giờ kêu la dù chỉ một lần. Bà ấy chỉ nhìn con,
đặt một chiếc hôn lên cái đầu nhỏ của con, rồi đưa ta sáu bảng để giữ
con – đều là những đồng vàng, đều chất lượng tốt. Bà ấy nói còn một việc
cuối cùng phải làm, điều đó sẽ đem lại cho bà một tài sản lớn. Bà định
sẽ trở lại tìm con khi mọi thứ đã dàn xếp xong…”
Bà Sucksby kể
chuyện, và mỗi lần như thế, dù ban đầu giọng bà đều đặn, đến cuối sẽ trở
thành run rẩy, mắt thì ngấn nước. Bà đã chờ mẹ tôi, nhưng bà ấy không
đến. Thay vào đó lại là tin dữ. Công việc lẽ ra đem lại cho bà ấy tài
sản lớn đã diễn biến xấu. Một người đàn ông bị giết trong lúc cố gắng
chống cự. Con dao của mẹ đã kết liễu ông ta. Chính bạn bè của bà ấy mách
lẻo. Cuối cùng cảnh sát cũng bắt được bà ấy. Bà ở trong tù một tháng.
Sau đó, người ta treo cổ bà.
Họ treo cổ bà ấy, như đối với những
kẻ sát nhân lúc bấy giờ, trên nóc của Horsemonger Lane Gaol. Bà Sucksby
đã đứng xem vụ đó từ ô cửa sổ căn phòng nơi tôi được sinh ra.
Từ
căn phòng đó sẽ có được tầm nhìn rất tráng lệ – phong cảnh đẹp nhất ở
phía bắc Luân Đôn, mọi người nói vậy. Người ta sẵn lòng trả hậu để có
được một chỗ tại cửa sổ đó vào ngày treo cổ. Dù vài cô gái thét lên khi
cửa sập lạch cạch mở, riêng tôi thì không. Tôi không hề rùng mình hay
chớp mắt.
"Susan Trinder đấy,” ai đó thì thào. "Mẹ cô ta bị treo cổ vì tội sát nhân. Cô ta dũng cảm không chứ?”
Tôi
thích nghe người ta nói như vậy. Ai lại không thích chứ? Nhưng sự thật
là – và bây giờ thì tôi không quan tâm việc những ai biết – sự thật là,
tôi không hề dũng cảm. Vì để dũng cảm về một việc như vậy, trước tiên
bạn phải cảm thấy thương tiếc. Làm thế nào tôi có thể thương tiếc một
người chưa bao giờ gặp gỡ? Tôi nghĩ việc mẹ rốt cuộc lại bị treo cổ thật
đáng tiếc, nhưng vì bà ấy đã bị treo cổ rồi, nên tôi mừng rằng đó là do
một việc hay ho, giết một người đàn ông khi ông ta chống cự, chứ không
phải việc gì đó quá tàn độc như là bóp cổ một đứa trẻ. Tôi nghĩ việc bà
tạo ra một trẻ mồ côi như tôi thật đáng tiếc – nhưng, vài cô gái tôi
biết có những bà mẹ là bợm rượu hoặc bị điên, những người mẹ mà các cô
ấy rất ghét, không bao giờ ở gần nhau yên ổn nổi. Tôi thà có một bà mẹ
đã chết còn hơn một người mẹ như thế!
Tôi thà có bà Sucksby. Bà
tốt hơn chán. Bà được trả tiền để giữ tôi một tháng, nhưng đã giữ tôi
mười bảy năm. Nếu đó không phải tình yêu thương thì còn là gì nữa chứ?
Bà
đã có thể đưa tôi vào nhà tế bần. Đã có thể bỏ tôi kêu khóc tại một cái
máng đầy gió thốc. Thay vào đó, bà chăm chút, không để tôi làm cái việc
xoáy thứ này thứ kia vì sợ cảnh sát có thể đến bắt tôi đi. Bà để tôi
ngủ bên cạnh, trong giường của chính bà. Bà làm bóng tóc của tôi bằng
giấm. Đó là cách người ta làm với đá quý.
Mà tôi thì không phải
đá quý, thậm chí chẳng phải một hạt ngọc trai. Về sau, tóc tôi trở nên
khá thường. Khuôn mặt tầm thường. Tôi có thể cạy một ổ khoá đơn giản,
cắt một chiếc chìa đơn giản. Tôi có thể búng một đồng xu và phân biệt nó
tốt hay xấu, chỉ dựa vào tiếng kêu. Nhưng ai cũng có thể làm những việc
đó, nếu họ được chỉ cách. Khắp xung quanh tôi, những đứa trẻ khác đến, ở
ít lâu, rồi được mẹ chúng nhận lại, hoặc tìm được mẹ mới, hoặc bỏ mạng,
và tất nhiên, chẳng có ai nhận tôi. Tôi cũng không chết, thay vào đó,
lại lớn lên, cho đến khi cuối cùng cũng đủ lớn để một mình đi giữa những
cái nôi cùng chai rượu gin và chiếc thìa bạc. Thỉnh thoảng dường như
tôi bắt gặp ông Ibbs nhìn mình chằm chằm với một thứ ánh sáng trong mắt –
như thể, tôi thầm nghĩ – ông đột nhiên xem tôi như món đồ thuổng được,
tự hỏi làm thế nào tôi lại ở đây lâu như vậy, và ông có thể trao tôi cho
ai. Nhưng khi người ta nói – bây giờ họ vẫn nói thế – về máu mủ, rằng
nó đậm hơn nước lã, bà Sucksby sẽ sa sầm mặt.
"Lại đây, con yêu,”
bà nói. "Để ta nhìn con nào.” Và bà đặt tay lên đầu tôi, vuốt má tôi
bằng ngón cái, nghiền ngẫm khuôn mặt tôi. "Ta thấy bà ấy trong con,” bà
nói. "Bà ấy đang nhìn ta, như cách bà ấy nhìn ta đêm đó. Bà ấy nghĩ mình
sẽ quay lại và trao cho con cái tài sản đó. Ai biết được chứ? Thật đáng
thương, bà ấy sẽ không bao giờ quay lại! Con vẫn sẽ có cái tài sản đó.
Của con, Sue à, và của chúng ta nữa…”
Bà nói như vậy, nhiều lần.
Bất cứ khi nào càu nhàu hay thở dài – bà luôn thế mỗi lần đứng dậy khỏi
một chiếc cũi, xoa cái lưng ê ẩm – thì mắt bà sẽ tìm đến tôi, ánh mắt bà
sẽ sáng lên, mãn nguyện.
Nhưng có Sue đây rồi. Bà cũng sẽ nói
vậy đấy, Bây giờ mọi thứ đều khó khăn với chúng ta. Nhưng có Sue đây
rồi. Con bé sẽ khiến mọi việc được ổn…
Tôi để bà ấy nghĩ thế,
nhưng tôi nghĩ mình biết rõ hơn. Tôi nghe nói bà từng có đứa con của
chính mình nhiều năm trước, nhưng khi sinh ra thì nó đã chết. Tôi nghĩ
khi nhìn chằm chằm vào mặt tôi, bà trông thấy mặt của cô bé. Ý tưởng đó
khiến tôi phát run, thật kỳ quặc khi nghĩ đến chuyện được yêu thương
không phải vì họ yêu thương mình mà vì tình cảm dành cho ai đó mình chưa
từng biết…
Những ngày ấy, tôi nghĩ mình biết tất cả về tình yêu.
Tôi nghĩ mình biết tất cả về mọi thứ. Nếu bạn hỏi tôi muốn làm gì khi
lớn lên, tôi dám nói mình sẽ mở trại trẻ. Có thể tôi sẽ muốn kết hôn,
với một tên trộm hoặc một gã buôn đồ trộm. Năm tôi mười lăm, có một cậu
chàng trộm một cái móc cho tôi, và bảo rằng cậu ta muốn hôn tôi. Ít lâu
sau có một cậu khác đứng ở cửa sau nhà chúng tôi, huýt sáo bài ‘Con gái
ông thợ khoá,’ rắp tâm muốn xem tôi đỏ mặt. Bà Sucksby đuổi cả hai cậu
đó đi. Bà thận trọng với tôi trong vấn đề đó, cũng như trong mọi vấn đề.
"Bà
ấy giữ cô để trao cho ai vậy hả?” Bọn con trai hỏi. "Hoàng tử Eddie
hả?” Tôi nghĩ những người đến phố Lant cho rằng tôi chậm chạp. Ngược lại
với nhanh nhạy. Có lẽ là vậy, so với tiêu chuẩn của Borough. Nhưng với
bản thân, tôi cho là mình đủ sắc bén. Không thể nào lớn lên trong một
ngôi nhà thế này, có những hoạt động mua bán thế này, mà không có ý
tưởng hay ho về việc cái gì là cái gì – cái gì có thể cho vào trong cái
gì, cái gì sẽ được tạo nên.
Bạn bắt kịp ý tôi chứ?
Bạn
đang chờ tôi bắt đầu câu chuyện của mình. Vậy thì có lẽ tôi đang chờ.
Nhưng câu chuyện của tôi đã bắt đầu rồi – tôi cũng giống như bạn thôi,
không biết đến việc đó.